Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở công ty tnhh minh nam
- 71 trang
- file .pdf
LUẬN VĂN:
Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty
TNHH Minh Nam
lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường, để có thể tiến hành được các hoạt động sản xuất kinh
doanh thì điều kiện đầu tiên với mỗi doanh nghiệp là phải có vốn kinh doanh.
Dựa trên số vốn đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm các yếu tố của quá trình sản
xuất kinh doanh như sức lao động đối tượng lao động và tư liệu lao động để tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất. Muốn vậy
doanh nghiệp phải tìm cách thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu
về vốn của doanh nghiệp nó không chỉ đảm bảo sản xuất mà còn mở rộng sản xuất, đầu tư
phát triển công nghệ nhằm cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nước ta thuộc nhiều
thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và quy mô tuy nhiên do vẫn có ảnh
hưởng của quy chế bao cấp trước đây, năng lực và trình độ quản lý yếu kém, hiệu quả khai
thác và sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp còn thấp không đủ cạnh tranh dẫn đến
nhiều doanh nghiệp thua lỗ phá sản. Trước thực trạng đó, vấn đề sự hiệu quả sử dụng vốn là
vấn đề được nhiều doanh nghiệp quan tâm. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà
nước ta rất quan tâm đến việc thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí và phát huy nội lực để thực
hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Qua thời gian học tập, nghiên cứu tại trường và thực tập tại Công ty TNHH Minh
Nam ,em mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Vốn kinh doanh và những biện pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty TNHH Minh Nam”.
Nội dung đề tài chia làm 3 phần sau :
Chương I : Lí luận chung về vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả
vốn kinh doanh ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Chương II : Thực trạng về tình hình tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh ở Công ty TNHH Minh Nam.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh tổ chức và nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh ở Công ty TNHH Minh Nam.
Chương I
Lý luận chung về vốn kinh doanh và những biện pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường
1. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường:
1.1. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh:
Theo Điều 3 luật doanh nghiệp năm 1999, doanh nghiệp là tổ kinh tế có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Như vậy, một chủ thể muốn trở thành DN phải hội tụ đủ các đặc trưng sau:
- Có đầy đủ các đặc điểm của chủ thể kinh doanh (có VKD, có hành vi kinh doanh, được
đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật và chịu sự quản lý của Nhà nước)
- Phải là một tổ chức, nghĩa là một thực thể pháp lý được kết hợp bởi các yếu tố trên nhiều
phương diện (có tên riêng, có tài sản, trụ ổn định, con dấu riêng...)
- Doanh nghiệp không phải là một tổ chức chính trị hay xã hội mà là một tổ chức kinh tế,
nghĩa là tổ chức đó phải lấy hoạt động sản xuất kinh doanh làm chủ yếu và hoạt động này
phải có tính liên tục.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, nước ta đã thực hiện chính sách đa dạng hoá
các thành phần kinh tế. Tương ứng với mỗi thành phần kinh tế có một loại hình doanh
nghiệp nhất định. Các DN đều phải tiến hành hạch toán kinh doanh là lấy thu bù chi đảm
bảo có lãi, các doanh nghiệp có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trước pháp luật.
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh ở các doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường:
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay thành công hay thất
bại phần lớn phụ thuộc vào tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mô hình tổ
chức doanh nghiệp không nên xem xét ở trạng thái tĩnh mà nó luôn luôn ở trạng thái vận
động. Tuỳ những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà có những mô hình tổ chức khác nhau.
Tuy nhiên, các mô hình tổ chức doanh nghiệp đều chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ yếu
sau đây:
1.2.1. Hình thức pháp lý tổ chức của các doanh nghiệp:
Theo hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp hiện hành, ở nước ta hiện có các loại
hình doanh nghiệp chủ yếu sau đây:
- Doanh nghiệp Nhà nước
- Công ty cổ phần
- Công ty trách nhiệm hữu hạn
- Doanh nghiệp tư nhân
Những đặc điểm riêng về mặt hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp giữa các
doanh nghiệp trên có ảnh hưởng rất lớn đến việc tổ chức tài chính của DN như:
- Tổ chức và huy động vốn
- Phân phối lợi nhuận
Dưới đây xem xét việc tổ chức quản lý của một số doanh nghiệp phổ biến:
1.2.1.1. Doanh nghiệp Nhà nước:
Doanh nghiệp nhà nước là một tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước
đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh, hoặc hoạt động công ích,
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội do Nhà nước giao.
Doanh nghiệp nhà nước mới thành lập được ngân sách nhà nước đầu tư toàn bộ hoặc
một phần vốn điều lệ ban đầu nhưng không thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các
ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh.
Ngoài số vốn Nhà nước đầu tư, DNNN được quyền huy động vốn dưới hình thức
như phát hành trái phiếu, vay vốn, nhận vốn góp liên kết liên doanh và các hình thức sở
hữu của DN và phải tuân theo các quy định của pháp luật hiện hành.
Việc phân phối lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận sau khi nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp) được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số
vốn doanh nghiệp quản lý. Như vậy, có thể thấy doanh nghiệp nhà nước chỉ chịu trách
nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp.
1.2.1.2. Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là một công ty trong đó:
- Các thành viên cùng góp vốn dưới hình thức cổ phần để hoạt động.
- Số vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
- Cổ đông có quyền tự do chuyện nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ
trường hợp có quy định của pháp luật.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ động tối thiểu là 3 và không hạn
chế số lượng tối đa.
Hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần các đặc điểm:
+ Công ty cổ phần là một thực thể pháp lý có tư cách pháp nhân, các thành viên góp
vốn vào công ty dưới hình thức mua cổ phiếu. Trong quá trình hoạt động, công ty có thể
phát hành thêm cổ phiếu mới để huy động thêm vốn (nếu có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện
theo luật định) điều đó tạo cho công ty có thể dễ dàng tăng thêm vốn chủ sở hữu trong kinh
doanh.
+ Các chủ sở hữu có thể chuyển quyền sở hữu về tài sản của mình cho người khác
mà không làm gián đoạn các hoạt động kinh doanh của công ty và có quyền hưởng lợi tức
cổ phần, quyền biểu quyết, quyền tham dự và bầu Hội đồng quản trị.
+ Quyền phân chia lợi tức sau thuế thuộc các thành viên của công ty quyết định.
+ Chủ sở hữu của công ty chỉ chịu TNHH trên phần vốn mà họ góp vào công ty.
1.2.1.3.Công ty trách nhiệm hữu hạn:
Theo Luật doanh nghiệp hiện hành ở nước ta, có hai dạng công ty trách nhiệm hữu
hạn: Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên.
- Công ty TNHH (có hai thành viên trở lên) là doanh nghiệp trong đó:
+ Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vốn vào doanh nghiệp.
+ Phần vốn góp của các thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định của pháp
luật (theo quy định tại điều 32 – Luật doanh nghiệp).
+ Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên theo quy định của pháp
luật.
Thành viên phải góp vốn đầy đủ và đúng hạn như đã cam kết. Ngoài phần vốn góp
vốn của thành viên, công ty có quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn theo
quy định của pháp luật nhưng không được quyền phát hành cổ phiếu.
Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn có quyền chuyển nhượng một phần hoặc
toàn bộ phần vốn góp, nhưng trước hết phải chào bán phần vốn đó cho tất cả các thành
viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty. Chỉ được chuyển
nhượng có người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không
mua hoặc không mua hết.
Thành viên có quyền yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp của mình, nếu thành viên
đó bỏ phiếu chống hoặc phản đối bằng văn bản đối với quyết định của Hội đồng thành viên
về các vấn đề:
Tổ chức lại công ty
Các trường hợp khác quy định tại điều lệ công ty.
Trong quá trình hoạt động, theo quyết định của Hội đồng thành viên,công ty có thể
tăng hoặc giảm vốn theo qui định của pháp luật.
Hội đồng thành viên của công ty quyết định phương án sử dụng và phân chia lợi
nhuận hoặc phương án xử lý lỗ của công ty.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: Là doanh nghiệp do một tổ chức làm
chủ sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ về tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Công ty có quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn, tuy nhiên công ty
không được quyền phát hành cổ phiếu.
Chủ sở hữu công ty không trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ số vốn đã góp vào
công ty, chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn
cho tổ chức hoặc cá nhân khác.
Chủ sở hữu công ty là người quyết định sử dụng lợi nhuận sau thuế.
1.2.1.4. Doanh nghiệp tư nhân:
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Như vậy, chủ doanh nghiệp tư nhân là người bỏ vốn đầu tư của mình và cũng có thể
huy động thêm vốn từ bên ngoài dưới hình thức đi vay. Trong khuôn khổ của luật pháp,
chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động
kinh doanh. Tuy nhiên loại hình doanh nghiệp này không được phép phát hành bất kỳ loại
chứng khoán nào để huy động vốn trên thị trường. Qua đó cho thấy nguồn vốn của doanh
nghiệp tư nhân là hạn hẹp, loại hình doanh nghiệp này thường thích hợp với kinh doanh
quy mô nhỏ.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền quyết định đối với tất cả các hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình, có quyền bán
doanh nghiệp của mình cho người khác hoặc có quyền tạm ngừng hoạt động kinh doanh.
Việc thực hiện cho thuê hay bán doanh nghiệp hoặc tạm ngừng hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp phải tuân thủ các yêu cầu của của pháp luật hiện hành.
Phần thu nhập sau thuế thuộc quyền sở hữu và sử dụng của chủ doanh nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình. Điều đó cũng có nghĩa là về mặt tài chính chủ doanh nghiệp phải
chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp. Đây cũng là một điều
bất lợi của loại hình doanh nghiệp này.
1.2.1.5. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định các hình thức đầu tư trực tiếp
từ nước ngoài vào Việt Nam gồm có doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn
nhằm thực hiện các mục tiêu chung là tìm kiếm lợi nhuận, có tư cách pháp nhân, tổ chức
và hoạt động theo quy chế của công ty trách nhiệm hữu hạn và tuân theo quy định của pháp
luật Việt Nam.
Doanh nghiệp liên doanh có đặc điểm: Phần vốn góp của bên ngoài vào vốn pháp
định không hạn chế ở mức tối đa nhưng lại hạn chế ở mức tối thiểu, tức là không được thấp
hơn 30% của vốn pháp định, trừ những trường hợp do Chính phủ quy định. Việc góp vốn
của các bên tham gia có thể bằng tiền nước ngoài, tiền Việt Nam, tài sản hiện vật, giá trị
quyền sở hữu công nghiệp, giá trị quyền sử dụng đất, các nguồn tài nguyên thiên
nhiên...theo quy định của pháp luật tại Việt Nam (có quy định cụ thể cho mỗi bên nước
ngoài và Việt Nam).
Các bên trong doanh nghiệp liên doanh có quyền chuyển nhượng giá trị phần vốn
của mình, nhưng phải ưu tiên chuyển nhượng cho các bên trong liên doanh.
Lợi nhuận sau thuế thu nhập của doanh nghiệp liên doanh được trích lập quỹ dự
phòng tài chính, quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng.
Việc các nhà đầu tư nước ngoài có lợi nhuận và muốn chuyển số lợi nhuận đó về
nước họ thì phải nộp một khoản thuế về việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài tuỳ thuộc vào
mức vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài: là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư 100% vốn thành lập tại Việt Nam. Tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp
100% vốn đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài quy định trên cơ sở quy chế pháp lý
về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
1.2.2. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh:
Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh có ảnh hưởng không nhỏ tới doanh
nghiệp. Mỗi ngành kinh doanh có những đặc điểm về mặt kinh tế và kỹ thuật khác nhau.
Những ảnh hưởng đó thể hiện:
1.2.2.1. ảnh hưởng của tính chất ngành kinh doanh:
ảnh hưởng này thể hiện trong thành phần cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp,
ảnh hưởng tới quy mô của vốn sản xuất – kinh doanh, cũng như tỷ lệ thích ứng để hình
thành và sử dụng chúng, do đó có ảnh hưởng tới tốc độ luân chuyển vốn (vốn cố định và
vốn lưu động), ảnh hưởng tới phương pháp đầu tư, thể thức thanh toán chi trả.
1.2.2.2. ảnh hưởng của tính thời vụ và chu kỳ sản xuất - kinh doanh:
Tính thời vụ và chu kỳ sản xuất có ảnh hưởng trước hết đến nhu cầu vốn sử dụng và
doanh thu tiêu thu sản phẩm. Những doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ ngắn thì nhu cầu vốn
lưu động giữa các thời kỳ trong năm thường không có biến động lớn, doanh nghiệp cũng
thường xuyên thu được tiền bán hàng, điều đó giúp cho doanh nghiệp dễ đàng đảm bảo sự
cân đối giữa thu và chi bằng tiền, cũng như trong việc tổ chức và đảm bảo nguồn vốn cho
nhu cầu kinh doanh. Những doanh nghiệp sản xuất ra những loại sản phẩm có chu kỳ sản
xuất dài phải ứng ra một lượng vốn lưu động giữa các quý trong năm thường có sự biến
động lớn, tiền thu về bán hàng cũng không được đều, tình hình thanh toán, chi trả cũng
thường gặp những khó khăn. Cho nên việc tổ chức đảm bảo nguồn vốn cũng như đảm bảo
sự cân đối giữa thu và chi bằng tiền của doanh nghiệp cũng khó khăn hơn.
1.2.2.3. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp:
Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong một môi trường kinh doanh nhất
định. Môi trường kinh doanh bao gồm tất cả những điều kiện bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt
động của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh có tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt động
của doanh nghiệp trong đó có hoạt động tài chính.
Dưới đây chủ yếu xem xét tác động của môi trường kinh doanh đến hoạt động tài
chính doanh nghiệp.
- Sự ổn định của nền kinh tế:
Sự ổn định hay không ổn định của nền kinh tế, của thị trường có ảnh hưởng trực tiếp
tới mức doanh thu của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến nhu cầu về vốn kinh doanh.
Những tác động của nền kinh tế có thể gây nên những rủi ro trong kinh doanh mà các nhà
tài chính doanh nghiệp phải lường trước, những rủi ro đó ảnh hưởng tới các khoản chi phí
về đầu tư, chi phí trả lãi hay tiền thuê nhà xưởng, máy móc thiết bị hay việc tìm nguồn vốn
tài trợ.
Nền kinh tế ổn định và tăng trưởng tới một tốc độ nào đó thì doanh nghiệp muốn duy
trì và giữ vững vị trí của mình, cũng phải phấn đấu để phát triển với nhịp độ tương đương.
Khi doanh thu tăng lên, sẽ đưa đến việc gia tăng tài sản, các nguồn doanh nghiệp và các
loại tài sản khác. Khi đó, các nhà tài chính doanh nghiệp phải tìm nguồn tài trợ cho sự mở
rộng sản xuất, sự tăng tài sản đó.
- ảnh hưởng của giá cả thị trường, lãi suất và tiền thuế:
Giá cả thị trường, giá cả sản phẩm mà doanh nghiệp tiêu thu có ảnh hưởng lớn tới
doanh thu do đó ảnh hưởng lớn tới khả năng tìm kiếm lợi nhuận. Cơ cấu tài chính của
doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng nếu có sự thay đổi về giá cả. Sự tăng, giảm lãi suất và giá
cổ phiếu cũng ảnh tới sự tăng giảm về chi phí tài chính và sự hấp dẫn của các hình thức tài
trợ khác nhau. Mức lãi suất cũng là một yếu tố đo lường khả năng huy động vốn vay. Sự
tăng hay giảm thuế cũng ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình kinh doanh, tới khả năng tiếp tục
đầu tư hay rút khỏi đầu tư.
Tất cả các yếu tốt trên có thể được các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp sử dụng để
phân tích các hình thức tài trợ và xác định thời gian tìm kiếm các nguồn vốn trên thị trường
tài chính.
- Sự cạnh tranh trên thị trường và sự tiến bộ kỹ thuật, công nghệ:
Sự cạnh tranh về sản phẩm đang sản xuất và các sản phẩm tương lai giữa các doanh
nghiệp có ảnh hưởng lớn tới kinh tế, tài chính của doanh nghiệp và có liên quanh chặt chẽ
đến khả năng tài trợ để doanh nghiệp tồn taị và tăng trưởng trong một nền kinh tế luôn luôn
biến đổi và người giám đốc tài chính phải chịu trách nhiệm về việc cho doanh nghiệp hoạt
động khi cần thiết.
Cũng tương tự như vậy, sự tiến bộ kỹ thuật và công nghệ đòi hỏi doanh nghiệp phải
ra sức cải tiến kỹ thuật, quản lý, xem xét và đánh giá lại toàn bộ tình hình tài chính, khả
năng thích ứng với thị trường, từ đó đề ra những chính sách thích hợp cho doanh nghiệp.
- Chính sách kinh tế và tài chính của Nhà nước đối với doanh nghiệp:
Như chính sách khuiyến khích đầu tư, chính sách thuế, chính sách xuất khẩu, nhập
khẩu, chế độ khấu hao tài sản cố định... Đây là những yếu tố tác động lớn đến các vấn đề
tài chính của doanh nghiệp.
- Sự hoạt động của thị trường tài chính và hệ thống các tổ chức tài chính trung
gian:
Hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với thị trường tài chính, nơi mà doanh nghiệp
có thể huy động vốn hay đầu tư những khoản tài chính tạm thời nhàn rỗi. Sự phát triển của
thị trường tài chính làm nảy sinh các công cụ tài chính mới, doanh nghiệp có thể sư dụng
để huy động vốn đầu tư. Chẳng hạn, khi xuất hiện hình thức thuê tài chính, doanh nghiệp
có thể nhờ đó giảm bớt được số vốn cần đầu tư hoặc khi hình thành thị trường chứng
khoán, doanh nghiệp có thêm phương tiện để huy động vốn hay đầu tư vốn...Sự phát phát
triển và hoạt động có hiệu quả của các tổ chức tài chính trung gian như ngân hàng thương
mại, công ty tài chính, quỹ tín dụng...cũng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp huy
động vốn.
Khi xem xét tác động của môi trường kinh doanh, không chỉ xem xét ở phạm vi trong
nước mà cần phân tích đánh giá cả môi trường khu vực và thế giới, vì biến động về kinh tế
- tài chính trong khu vực và trên thế giới tác động không nhỏ đến hoạt động kinh doanh
của một nước.
2. Vốn kinh doanh và nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp:
2.1. Vốn kinh doanh:
2.1.1. Khái niệm về vốn kinh doanh:
Để tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, doanh nghiệp cũng cần phải
có vốn. Vốn kinh doanh là điều kiện tiên quyết có ý nghĩa quyết định đến quá trình sản
xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là số tiền ứng trước về toàn bộ tài sản
hữu hình và tài sản vô hình phục vụ cho sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục
đích kiếm lời.
Khi phân tích hình thái biểu hiện và sự vận động của vốn kinh doanh, cho thấy
những đặc điểm nổi bật sau:
- Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp là một loại quỹ tiền tệ đặc biệt. Mục tiêu
của quỹ là để phục vụ cho sản xuất - kinh doanh tức là mục đích tích luỹ, không phải là
mục đích tiêu dùng như một vài quỹ khác trong doanh nghiệp.
- Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có trước khi diễn ra hoạt động sản xuất - kinh
doanh.
- Vốn kinh doanh của doanh nghiệp sau khi ứng ra, được sử dụng vào kinh doanh và
sau mỗi chu kỳ hoạt động phải được thu về để ứng tiếp cho kỳ hoạt động sau.
- Vốn kinh doanh không thể mất đi. Mất vốn đối với doanh nghiệp đồng nghĩa với
nguy cơ phá sản.
Cần thấy rằng có sự phân biệt giữa tiền và vốn. Thông thường có tiền sẽ làm nên
vốn, nhưng tiền chưa hẳn là vốn. Tiền được gọi là vốn phải đồng thời thoả mãn những điều
kiện sau:
- Một là: Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định. Hay nói cách khác,
tiền phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực.
- Hai là: Tiền phải được tích tụ và tập trung ở một lượng nhất định. Sự tích tụ và tập
trung lượng tiền đến hạn độ nào đó mới làm cho nó đủ sức để đầu tư vào một dự án kinh
doanh nhất định.
- Ba là: Khi tiền đủ lượng phải được vận động nhằm mục đích kiếm lời. Cách thức
vận động của tiền là doanh nghiệp phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Phương
thức đầu tư của một doanh nghiệp, có thể bao gồm:
+ Đối với đầu tư cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, công thức vận động của vốn
như sau:
TLSX
T-H ...SX...H’ - T’
SLĐ
+ Đối với đầu tư cho lĩnh vực thương mại, công thức đơn giản hơn:
T - H - T’
+ Đối với đầu tư mua trái phiếu hoặc cổ phiếu, góp vốn liên doanh thì công thức vận
động là: T - T’
2.1.2. Đặc trưng của vốn kinh doanh:
- Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là số tiền ứng trước cho hoạt động sản xuất -
kinh doanh của doanh nghiệp. Tất nhiên muốn có được lượng vốn đó, các doanh nghiệp
phải chủ động khai thác, thu hút vốn trên thị trường.
- Mục đích vận động của tiền vốn là sinh lời. Nghĩa là vốn ứng trước cho hoạt động
sản xuất - kinh doanh phải được thu hồi về sau mỗi chu kỳ sản xuất, tiền vốn thu hồi về
phải lớn hơn số vốn đã bỏ ra.
2.2. Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp:
2.2.1.Căn cứ vào mối quan hệ sở hữu về vốn:
2.2.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu:
Là phần vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền
chiếm hữu, sử dụng và định đoạn, bao gồm: vốn điều lệ, vốn tự bổ sung, vốn doanh nghiệp
nhà nước tài trợ (nếu có). Trong đó:
- Nguồn vốn điều lệ: Trong các doanh nghiệp tư nhân vốn đầu tư ban đầu do chủ sở
hữu đầu tư. Trong các doanh nghiệp Nhà nước vốn đầu tư ban đầu do Nhà nước cấp một
phần (hoặc toàn bộ)
- Nguồn vốn tự bổ sung: bao gồm tất cả các nguồn vốn mà doanh nghiệp tự bổ sung
từ nội bộ doanh nghiệp như từ lợi nhuận để lại, quỹ khấu hao, các quỹ dự phòng tài chính
và quỹ đầu tư phát triển.
Nguồn vốn chủ sở hữu là một nguồn vốn quan trọng và có tính ổn định cao, thể hiện
quyền tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Tỷ trọng của nguồn vốn này trong cơ cấu
nguồn vốn càng lớn, sự độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
Vốn cSH tổng nợ
Tại một = nguồn - phải
thời điểm vốn trả
2.2.1.2. Nợ phải trả:
Là tất cả các khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh mà doanh nghiệp có
trách nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế, bao gồm:
- Nguồn vốn chiếm dụng hợp pháp: Trong quá trình SXKD của doanh nghiệp
đương nhiên phát sinh các quan hệ thanh toán giữa doanh nghiệp với các tác nhân kinh tế
khác như với Nhà nước, với CBCNV, với khách hàng, với người bán từ đó mà phát sinh
vốn chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng. Thuộc về vốn chiếm dụng hợp pháp có các khoản
vốn sau:
+ Các khoản nợ khách hàng chưa đến hạn trả.
+ Các khoản phải nộp Ngân sách Nhà nước chưa đến hạn nộp.
+ Các khoản phải thanh toán với CBCNV chưa đến hạn thanh toán.
Nguồn vốn chiếm dụng chỉ mang tính chất tạm thời, doanh nghiệp chỉ có thể sử
dụng trong thời gian ngắn nhưng vì nó có ưu điểm nổi bật là doanh nghiệp không phải trả
chi phí sử dụng vốn, đòn bẩy tài chính luôn dương, nên trong thực tế doanh nghiệp nên
triệt để tận dụng nguồn vốn này trong giới hạn cho phép nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn mà vẫn đảm bảo kỷ luật thanh toán.
- Các khoản nợ vay: bao gồm toàn bộ vốn vay ngắn - trung - dài hạn ngân hàng, nợ
trái phiếu và các khoản nợ khác.
Thông thường, một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn vốn chủ sở hữu và nợ
phải trả để đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động SXKD. Sự kết hợp giữa hai nguồn này phụ
thuộc vào đặc điểm của ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động cũng như quyết định tài
chính của người quản lý trên cơ sở điều kiện thực tế của doanh nghiệp. Làm thế nào để lựa
chọn được một cơ cấu tài chính tối ưu? Đó là câu hỏi luôn làm trăn trở các nhà quản lý tài
chính doanh nghiệp bởi sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn
vào sự khôn ngoan hay khờ dại của doanh nghiệp đó khi lựa chọn cơ cấu tài chính.
2.2.2. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn:
2.2.2.1. Nguồn vốn thường xuyên:
Đây là nguồn vốn có tính chất ổn định mà doanh nghiệp có thể sử dụng trong thời
gian dài, bao gồm: Nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản nợ dài hạn. Nguồn vốn này thường
được sử dụng để đầu tư TSCĐ và một bộ phận TSLĐ thường xuyên, cần thiết.
2.2.2.2. Nguồn vốn tạm thời:
Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp
ứng các nhu cầu về vốn có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động SXKD
của doanh nghiệp. Cách phân loại này giúp cho người quản lý doanh nghiệp xem xét huy
động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, lập kế hoạch tài chính và
hình thành những dự định về tổ chức vốn một trong tương lai.
2.2.3. Căn cứ vào phạm vi huy động vốn:
2.2.3.1. Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp:
Là nguồn vốn có thể huy động được từ bản thân doanh nghiệp bao gồm: tiền khấu
hao TSCĐ, lợi nhuận để lại, các khoản dự phòng, thu từ thanh lý, nhượng bán TSCĐ.
2.2.3.2. Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp:
Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động từ bên ngoài gồm: vốn vay ngân
hàng và các tổ chức kinh tế khác, vốn liên doanh liên kết, vốn huy động từ phát hành trái
phiếu, nợ người cung cấp và các khoản nợ khác.
2.3. Quản lý và sử dụng vốn kinh doanh:
2.3.1. Vốn cố định:
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư bên trong ứng trước
về tài sản cố định của doanh nghiệp. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất
- kinh doanh được cũng phải có đủ 3 yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao
động.
Tư liệu lao động: là điều kiện vật chất không thể thiếu được trong quá trình hoạt
động sản xuất - kinh doanh, nó góp phần quyết định đến năng suất lao động. Tư liệu lao
động trong các doanh nghiệp bao gồm những công cụ lao động mà thông qua chúng người
lao động sử dụng lao động của mình tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm
(máy móc thiết bị, công cụ làm việc...) và những phương tiện làm việc cần thiết cho quá
trình hoạt động sản xuất – kinh doanh bình thường (như nhà xưởng, công trình kiến trúc...)
Để thuận tiện cho việc quản lý tài sản người ta chia tư liệu lao động thành 2 bộ
phận: tài sản cố định và công cụ lao động nhỏ.
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị đơn vị lớn và thời hạn
sử dụng lâu. Về mặt thời gian sử dụng thì hầu hết các quốc gia đều áp dụng là trên một
năm, về mặt giá trị đơn vị thì tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia vận dụng cho phù hợp trong từng
giai đoạn nhất định.
Ví dụ: ở nước ta giai đoạn 1990 đến 1996 giá trị đơn vị được quy định là 500.000
VNĐ trở lên, từ năm 1997 đến nay được điều chỉnh thành 5.000.000 VNĐ trở lên.
Ngoài ra những tư liệu lao động nào mà không hội đủ 2 điều kiện nói trên được gọi
là công cụ lao động nhỏ và do doanh nghiệp nguồn vốn lưu động tài trợ.
Tài sản cố định là một bộ phận của tư liệu lao động cho nên đặc điểm vật chất của tài sản
cố định cũng chính là đặc điểm của tư liệu lao động. Tài sản cố định tham gia vào nhiều
chu kỳ sản xuất - kinh doanh, bị hao mòn dần nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban
đầu và giá trị của nó cũng giảm dần tương ứng với mức độ hao mòn của tài sản cố định.
Từ những phân tích trên đây có thể thấy: tài sản cố định là những tư liệu lao động
chủ yếu, có thời gian sử dụng lâu và có giá trị đơn vị lớn. Đặc điểm chung nhất của chúng
là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và không thay đổi hình thái vật chất ban đầu. Trong
quá trình đó tài sản cố định bị hao mòn dần và giá trị của nó giảm dần tương ứng, phần giá
trị này được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm mới mà nó tham gia sản xuất ra.
Mặc dù tài sản cố định không bị thay đổi hình thái hiện vật trong suốt thời gian sử
dụng, song năng lực sản xuất cũng giảm sút dần do chúng bị hao mòn trong quá trình tham
gia vào hoạt động sản xuất. Hao mòn tài sản cố định được phân thành 2 loại: hao mòn hữu
hình và hao mòn vô hình.
+ Hao mòn hữu hình của tài sản cố định: là sự hao mòn về mặt vật chất làm giảm
dần giá trị và giá trị sử dụng của tài sản cố định, doanh nghiệp tác động của các yếu tố tự
nhiên gây ra hoặc khi tài sản cố định tham gia vào hoạt động sản xuất thì bị cọ xát, mài
mòn dần. Trong trường hợp do quá trình sử dụng, mức độ hao mòn của tài sản cố định tỷ lệ
thuận với thời gian và cường độ sử dụng chúng vào sản xuất - kinh doanh. Mặt khác cho
dù tài sản cố định không sử dụng chúng cũng bị hao mòn do tác động của các yếu tố tự
nhiên: độ ẩm, khí hậu, thời tiết...làm cho tài sản cố định bị han rỉ, mục nát dần. Trong
trường hợp này, mức độ hao mòn của tài sản cố định nhiều hay ít phụ thuộc vào công tác
bảo dưỡng, bảo quản tài sản cố định của doanh nghiệp.
+ Hao mòn vô hình: là loại hao mòn về mặt giá trị, làm giảm thuần tuý về mặt giá trị
của tài sản cố định (còn gọi là sự mất giá của tài sản cố định). Nguyên nhân dẫn đến hao
mòn vô hình của tài sản cố định không phải do chúng sử dụng ít hay nhiều trong sản xuất,
mà là do những tài sản cố định cùng loại mới được sản xuất ra có giá rẻ hơn hay hiện đại
hơn hoặc doanh nghiệp chấm dứt chu kỳ sống của sản phẩm làm cho tài sản cố định trở
nên không cần dùng hoặc giảm giá.
Để có nguồn vốn đầu tư cho tài sản cố định mới, yêu cầu phải có phương thức thu
hồi vốn khi tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sản xuất. Phương thức này goi là
khấu hao tài sản cố định.
Khấu hao tài sản cố định là một phương thức thu hồi vốn cố định bằng cách bù đắp
phần giá trị tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sản xuất - kinh doanh nhằm tái tạo
lại vốn cố định đảm bảo quá trình sản xuất - kinh doanh được tiến hành liên tục và có hiệu
quả.
Như vậy vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về
TSCĐ. Đặc điểm của vốn cố định là luân chuyển dần dần từng bộ phận tương ứng với giá
trị hao mòn của TSCĐ, khi TSCĐ hết thời hạn sử dụng vốn cố định mới được thu hồi đầy
đủ và kết thúc một lần tuần hoàn vốn.
Quản lý vốn cố định là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý
tài chính doanh nghiệp. Từ những nghiên cứu về tài sản cố định trên đây, cho thấy việc bảo
toàn và phát triển vốn cố định là nội dung cần quan tâm của người làm công tác tài chính.
Bảo toàn vốn cố định là việc duy trì lượng vốn cố định thực chất ở các thời điểm sau ngang
bằng với thời điểm ban đầu. Phát triển vốn cố định là làm cho vốn cố định thực chất ở các
thời kỳ càng về sau càng lớn hơn thời kỳ trước.
Để bảo toàn và phát triển vốn cố định của doanh nghiệp cần thiết phải sử dụng các
biện pháp chủ yếu sau đây:
- Phải đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định một cách thường xuyên và chính xác.
- Phải lựa chọn các phương pháp khấu hao mức khấu hao thích hợp.
- Phải áp dụng biện pháp nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định như: tận dụng
hết công suất máy móc thiết bị, giảm thời gian ngừng hoạt động, có chế độ sửa chữa
thường xuyên, định kỳ.
- Dự phòng giảm giá TSCĐ: để dự phòng giảm giá TSCĐ, doanh nghiệp được trích
khoản dự phòng này vào giá thành. Nếu cuối năm không sử dụng đến thì khoản dự phòng
này được hoàn nhập trở lại.
2.3.2. Vốn lưu động:
Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận vốn đầu tư được ứng trước về tài
sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp thực hiện được
thường xuyên và liên tục.
Như đã phân tích phần trên, vốn kinh doanh của doanh nghiệp là số tiền ứng trước
cho các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp. Song mỗi yếu tố sản xuất có những đặc điểm
hoạt động khác nhau, có công dụng kinh tế khác nhau đối với quá trình sản xuất - kinh
doanh của doanh nghiệp. Vốn lưu động là bộ phận của vốn nhằm tài trợ cho các yếu tố sản
xuất ngoại trừ tài sản cố định.
Nếu cắt quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp ra từng chu kỳ sản xuất
chúng ta có thể mô tả theo mô hình sau:
____ Khâu dự trữ Khâu sản xuất Khâu lưu thông
- Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất: vốn lưu động được dùng để
mua sắm các đối tượng lao động như: nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế... ở
giai đoạn này vốn đã thay đổi từ hình thái tiền tệ sang vật tư.
- Vốn lưu động nằm trong quá trình sản xuất: là quá trình sử dụng các yếu tố sản
xuất để chế tạo ra sản phẩm. Khi quá trình sản xuất chưa hoàn thành, vốn lưu động biểu
hiện ở các loại sản phẩm dở dang hoặc bán thành phẩm và khi kết thúc quá trình sản xuất
vốn biểu hiện ở số thành phẩm của doanh nghiệp.
- Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông: lúc này hình thái hàng hoá được
chuyển thành hình thái tiền tệ.
Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu của tài sản lưu động cũng khác
nhau. Tuy nhiên, đối với những doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh thì tài sản lưu động
thường được cấu tạo bởi hai phần là tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông.
- Tài sản lưu động sản xuất bao gồm những tài sản ở khâu dự trữ sản xuất như
nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu... và tài sản ở khâu sản xuất như sản phẩm
dở dang đang chế tạo, bán thành phẩm tự chế, chi phí đợi phân bổ.
- Tài sản lưu thông của doanh nghiệp bao gồm sản phẩm hàng hoá chờ tiêu thụ
(hàng tồn kho), vốn bằng tiền và các khoản phải thu.
Dù là ở khâu nào, tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông đều thể hiện các yếu tố:
đối tượng lao động, công cụ lao động nhỏ và sức lao động. Đặc điểm vận động của chúng
do đặc điểm của đối tượng lao động quyết định, vì đây là bộ phận chính chiếm tỷ trọng ưu
thế. Khác với tài sản cố định, tài sản lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra
sản phẩm, theo đó giá trị của nó cũng được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá thành sản
phẩm tiêu thụ và hoàn thành một vòng tuần hoàn vốn khi kết thúc một chu kỳ tái sản xuất.
Cũng cần thấy rằng, các chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp là nối tiếp và xen kẽ
nhau chứ không phải là độc lập và rời rạc. Trong khi một bộ phận của vốn lưu động được
chuyển hoá thành vật tư dự trữ, sản phẩm dở dang thì một bộ phận khác của vốn lại chuyển
từ sản phẩm hàng hoá sang vốn tiền tệ do quá trình sản xuất của doanh nghiệp là thường
xuyên, liên tục. Điều này nhắc nhở những nhà quản lý tài chính cần xây dựng những biện
pháp thích hợp cho quản lý sử dụng và bảo toàn vốn lưu động. Sau đây là những nội dung
cần chú ý trong quản lý sử dụng vốn lưu động.
Một là: Xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Việc ước lượng chính
xác số vốn lưu động cần dùng cho doanh nghiệp sẽ có tác dụng đảm bảo đủ vốn lưu động
cần thiết, tối thiểu cho quá trình sản xuất - kinh doanh được tiến hành liên tục, đồng thời
tránh ứ đọng vốn không cần thiết, thúc đẩy tốc độ luân cguyển vốn nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn.
Hai là: Tổ chức khai thác nguồn tài trợ vốn lưu động. Trước hết doanh nghiệp cần
khai thác triệt để các nguồn vốn nội bộ và các khoản vốn có thể chiếm dụng một cách
thường xuyên trong hoạt động kinh doanh. Nếu số vốn lưu động còn thiếu, doanh nghiệp
phải tiếp tục khai thác các nguồn vốn bên ngoài như: vốn liên doanh, vốn vay của các ngân
hàng hoặc các công ty tài chính, vốn do phát hành cổ phiếu, trái phiếu... Khi khai thác các
nguồn vốn bên ngoài, điều đáng chú ý nhất là cân nhắc các yếu tố lãi suất tiền vay. Về
Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty
TNHH Minh Nam
lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường, để có thể tiến hành được các hoạt động sản xuất kinh
doanh thì điều kiện đầu tiên với mỗi doanh nghiệp là phải có vốn kinh doanh.
Dựa trên số vốn đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm các yếu tố của quá trình sản
xuất kinh doanh như sức lao động đối tượng lao động và tư liệu lao động để tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất. Muốn vậy
doanh nghiệp phải tìm cách thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu
về vốn của doanh nghiệp nó không chỉ đảm bảo sản xuất mà còn mở rộng sản xuất, đầu tư
phát triển công nghệ nhằm cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nước ta thuộc nhiều
thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và quy mô tuy nhiên do vẫn có ảnh
hưởng của quy chế bao cấp trước đây, năng lực và trình độ quản lý yếu kém, hiệu quả khai
thác và sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp còn thấp không đủ cạnh tranh dẫn đến
nhiều doanh nghiệp thua lỗ phá sản. Trước thực trạng đó, vấn đề sự hiệu quả sử dụng vốn là
vấn đề được nhiều doanh nghiệp quan tâm. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà
nước ta rất quan tâm đến việc thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí và phát huy nội lực để thực
hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Qua thời gian học tập, nghiên cứu tại trường và thực tập tại Công ty TNHH Minh
Nam ,em mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Vốn kinh doanh và những biện pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty TNHH Minh Nam”.
Nội dung đề tài chia làm 3 phần sau :
Chương I : Lí luận chung về vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả
vốn kinh doanh ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Chương II : Thực trạng về tình hình tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh ở Công ty TNHH Minh Nam.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh tổ chức và nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh ở Công ty TNHH Minh Nam.
Chương I
Lý luận chung về vốn kinh doanh và những biện pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường
1. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường:
1.1. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh:
Theo Điều 3 luật doanh nghiệp năm 1999, doanh nghiệp là tổ kinh tế có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Như vậy, một chủ thể muốn trở thành DN phải hội tụ đủ các đặc trưng sau:
- Có đầy đủ các đặc điểm của chủ thể kinh doanh (có VKD, có hành vi kinh doanh, được
đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật và chịu sự quản lý của Nhà nước)
- Phải là một tổ chức, nghĩa là một thực thể pháp lý được kết hợp bởi các yếu tố trên nhiều
phương diện (có tên riêng, có tài sản, trụ ổn định, con dấu riêng...)
- Doanh nghiệp không phải là một tổ chức chính trị hay xã hội mà là một tổ chức kinh tế,
nghĩa là tổ chức đó phải lấy hoạt động sản xuất kinh doanh làm chủ yếu và hoạt động này
phải có tính liên tục.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, nước ta đã thực hiện chính sách đa dạng hoá
các thành phần kinh tế. Tương ứng với mỗi thành phần kinh tế có một loại hình doanh
nghiệp nhất định. Các DN đều phải tiến hành hạch toán kinh doanh là lấy thu bù chi đảm
bảo có lãi, các doanh nghiệp có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trước pháp luật.
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh ở các doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường:
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay thành công hay thất
bại phần lớn phụ thuộc vào tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mô hình tổ
chức doanh nghiệp không nên xem xét ở trạng thái tĩnh mà nó luôn luôn ở trạng thái vận
động. Tuỳ những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà có những mô hình tổ chức khác nhau.
Tuy nhiên, các mô hình tổ chức doanh nghiệp đều chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ yếu
sau đây:
1.2.1. Hình thức pháp lý tổ chức của các doanh nghiệp:
Theo hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp hiện hành, ở nước ta hiện có các loại
hình doanh nghiệp chủ yếu sau đây:
- Doanh nghiệp Nhà nước
- Công ty cổ phần
- Công ty trách nhiệm hữu hạn
- Doanh nghiệp tư nhân
Những đặc điểm riêng về mặt hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp giữa các
doanh nghiệp trên có ảnh hưởng rất lớn đến việc tổ chức tài chính của DN như:
- Tổ chức và huy động vốn
- Phân phối lợi nhuận
Dưới đây xem xét việc tổ chức quản lý của một số doanh nghiệp phổ biến:
1.2.1.1. Doanh nghiệp Nhà nước:
Doanh nghiệp nhà nước là một tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước
đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh, hoặc hoạt động công ích,
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội do Nhà nước giao.
Doanh nghiệp nhà nước mới thành lập được ngân sách nhà nước đầu tư toàn bộ hoặc
một phần vốn điều lệ ban đầu nhưng không thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các
ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh.
Ngoài số vốn Nhà nước đầu tư, DNNN được quyền huy động vốn dưới hình thức
như phát hành trái phiếu, vay vốn, nhận vốn góp liên kết liên doanh và các hình thức sở
hữu của DN và phải tuân theo các quy định của pháp luật hiện hành.
Việc phân phối lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận sau khi nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp) được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số
vốn doanh nghiệp quản lý. Như vậy, có thể thấy doanh nghiệp nhà nước chỉ chịu trách
nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp.
1.2.1.2. Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là một công ty trong đó:
- Các thành viên cùng góp vốn dưới hình thức cổ phần để hoạt động.
- Số vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
- Cổ đông có quyền tự do chuyện nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ
trường hợp có quy định của pháp luật.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ động tối thiểu là 3 và không hạn
chế số lượng tối đa.
Hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần các đặc điểm:
+ Công ty cổ phần là một thực thể pháp lý có tư cách pháp nhân, các thành viên góp
vốn vào công ty dưới hình thức mua cổ phiếu. Trong quá trình hoạt động, công ty có thể
phát hành thêm cổ phiếu mới để huy động thêm vốn (nếu có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện
theo luật định) điều đó tạo cho công ty có thể dễ dàng tăng thêm vốn chủ sở hữu trong kinh
doanh.
+ Các chủ sở hữu có thể chuyển quyền sở hữu về tài sản của mình cho người khác
mà không làm gián đoạn các hoạt động kinh doanh của công ty và có quyền hưởng lợi tức
cổ phần, quyền biểu quyết, quyền tham dự và bầu Hội đồng quản trị.
+ Quyền phân chia lợi tức sau thuế thuộc các thành viên của công ty quyết định.
+ Chủ sở hữu của công ty chỉ chịu TNHH trên phần vốn mà họ góp vào công ty.
1.2.1.3.Công ty trách nhiệm hữu hạn:
Theo Luật doanh nghiệp hiện hành ở nước ta, có hai dạng công ty trách nhiệm hữu
hạn: Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên.
- Công ty TNHH (có hai thành viên trở lên) là doanh nghiệp trong đó:
+ Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vốn vào doanh nghiệp.
+ Phần vốn góp của các thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định của pháp
luật (theo quy định tại điều 32 – Luật doanh nghiệp).
+ Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên theo quy định của pháp
luật.
Thành viên phải góp vốn đầy đủ và đúng hạn như đã cam kết. Ngoài phần vốn góp
vốn của thành viên, công ty có quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn theo
quy định của pháp luật nhưng không được quyền phát hành cổ phiếu.
Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn có quyền chuyển nhượng một phần hoặc
toàn bộ phần vốn góp, nhưng trước hết phải chào bán phần vốn đó cho tất cả các thành
viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty. Chỉ được chuyển
nhượng có người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không
mua hoặc không mua hết.
Thành viên có quyền yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp của mình, nếu thành viên
đó bỏ phiếu chống hoặc phản đối bằng văn bản đối với quyết định của Hội đồng thành viên
về các vấn đề:
Tổ chức lại công ty
Các trường hợp khác quy định tại điều lệ công ty.
Trong quá trình hoạt động, theo quyết định của Hội đồng thành viên,công ty có thể
tăng hoặc giảm vốn theo qui định của pháp luật.
Hội đồng thành viên của công ty quyết định phương án sử dụng và phân chia lợi
nhuận hoặc phương án xử lý lỗ của công ty.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: Là doanh nghiệp do một tổ chức làm
chủ sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ về tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Công ty có quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn, tuy nhiên công ty
không được quyền phát hành cổ phiếu.
Chủ sở hữu công ty không trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ số vốn đã góp vào
công ty, chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn
cho tổ chức hoặc cá nhân khác.
Chủ sở hữu công ty là người quyết định sử dụng lợi nhuận sau thuế.
1.2.1.4. Doanh nghiệp tư nhân:
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Như vậy, chủ doanh nghiệp tư nhân là người bỏ vốn đầu tư của mình và cũng có thể
huy động thêm vốn từ bên ngoài dưới hình thức đi vay. Trong khuôn khổ của luật pháp,
chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động
kinh doanh. Tuy nhiên loại hình doanh nghiệp này không được phép phát hành bất kỳ loại
chứng khoán nào để huy động vốn trên thị trường. Qua đó cho thấy nguồn vốn của doanh
nghiệp tư nhân là hạn hẹp, loại hình doanh nghiệp này thường thích hợp với kinh doanh
quy mô nhỏ.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền quyết định đối với tất cả các hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình, có quyền bán
doanh nghiệp của mình cho người khác hoặc có quyền tạm ngừng hoạt động kinh doanh.
Việc thực hiện cho thuê hay bán doanh nghiệp hoặc tạm ngừng hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp phải tuân thủ các yêu cầu của của pháp luật hiện hành.
Phần thu nhập sau thuế thuộc quyền sở hữu và sử dụng của chủ doanh nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình. Điều đó cũng có nghĩa là về mặt tài chính chủ doanh nghiệp phải
chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp. Đây cũng là một điều
bất lợi của loại hình doanh nghiệp này.
1.2.1.5. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định các hình thức đầu tư trực tiếp
từ nước ngoài vào Việt Nam gồm có doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn
nhằm thực hiện các mục tiêu chung là tìm kiếm lợi nhuận, có tư cách pháp nhân, tổ chức
và hoạt động theo quy chế của công ty trách nhiệm hữu hạn và tuân theo quy định của pháp
luật Việt Nam.
Doanh nghiệp liên doanh có đặc điểm: Phần vốn góp của bên ngoài vào vốn pháp
định không hạn chế ở mức tối đa nhưng lại hạn chế ở mức tối thiểu, tức là không được thấp
hơn 30% của vốn pháp định, trừ những trường hợp do Chính phủ quy định. Việc góp vốn
của các bên tham gia có thể bằng tiền nước ngoài, tiền Việt Nam, tài sản hiện vật, giá trị
quyền sở hữu công nghiệp, giá trị quyền sử dụng đất, các nguồn tài nguyên thiên
nhiên...theo quy định của pháp luật tại Việt Nam (có quy định cụ thể cho mỗi bên nước
ngoài và Việt Nam).
Các bên trong doanh nghiệp liên doanh có quyền chuyển nhượng giá trị phần vốn
của mình, nhưng phải ưu tiên chuyển nhượng cho các bên trong liên doanh.
Lợi nhuận sau thuế thu nhập của doanh nghiệp liên doanh được trích lập quỹ dự
phòng tài chính, quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng.
Việc các nhà đầu tư nước ngoài có lợi nhuận và muốn chuyển số lợi nhuận đó về
nước họ thì phải nộp một khoản thuế về việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài tuỳ thuộc vào
mức vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài: là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư 100% vốn thành lập tại Việt Nam. Tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp
100% vốn đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài quy định trên cơ sở quy chế pháp lý
về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
1.2.2. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh:
Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh có ảnh hưởng không nhỏ tới doanh
nghiệp. Mỗi ngành kinh doanh có những đặc điểm về mặt kinh tế và kỹ thuật khác nhau.
Những ảnh hưởng đó thể hiện:
1.2.2.1. ảnh hưởng của tính chất ngành kinh doanh:
ảnh hưởng này thể hiện trong thành phần cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp,
ảnh hưởng tới quy mô của vốn sản xuất – kinh doanh, cũng như tỷ lệ thích ứng để hình
thành và sử dụng chúng, do đó có ảnh hưởng tới tốc độ luân chuyển vốn (vốn cố định và
vốn lưu động), ảnh hưởng tới phương pháp đầu tư, thể thức thanh toán chi trả.
1.2.2.2. ảnh hưởng của tính thời vụ và chu kỳ sản xuất - kinh doanh:
Tính thời vụ và chu kỳ sản xuất có ảnh hưởng trước hết đến nhu cầu vốn sử dụng và
doanh thu tiêu thu sản phẩm. Những doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ ngắn thì nhu cầu vốn
lưu động giữa các thời kỳ trong năm thường không có biến động lớn, doanh nghiệp cũng
thường xuyên thu được tiền bán hàng, điều đó giúp cho doanh nghiệp dễ đàng đảm bảo sự
cân đối giữa thu và chi bằng tiền, cũng như trong việc tổ chức và đảm bảo nguồn vốn cho
nhu cầu kinh doanh. Những doanh nghiệp sản xuất ra những loại sản phẩm có chu kỳ sản
xuất dài phải ứng ra một lượng vốn lưu động giữa các quý trong năm thường có sự biến
động lớn, tiền thu về bán hàng cũng không được đều, tình hình thanh toán, chi trả cũng
thường gặp những khó khăn. Cho nên việc tổ chức đảm bảo nguồn vốn cũng như đảm bảo
sự cân đối giữa thu và chi bằng tiền của doanh nghiệp cũng khó khăn hơn.
1.2.2.3. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp:
Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong một môi trường kinh doanh nhất
định. Môi trường kinh doanh bao gồm tất cả những điều kiện bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt
động của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh có tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt động
của doanh nghiệp trong đó có hoạt động tài chính.
Dưới đây chủ yếu xem xét tác động của môi trường kinh doanh đến hoạt động tài
chính doanh nghiệp.
- Sự ổn định của nền kinh tế:
Sự ổn định hay không ổn định của nền kinh tế, của thị trường có ảnh hưởng trực tiếp
tới mức doanh thu của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến nhu cầu về vốn kinh doanh.
Những tác động của nền kinh tế có thể gây nên những rủi ro trong kinh doanh mà các nhà
tài chính doanh nghiệp phải lường trước, những rủi ro đó ảnh hưởng tới các khoản chi phí
về đầu tư, chi phí trả lãi hay tiền thuê nhà xưởng, máy móc thiết bị hay việc tìm nguồn vốn
tài trợ.
Nền kinh tế ổn định và tăng trưởng tới một tốc độ nào đó thì doanh nghiệp muốn duy
trì và giữ vững vị trí của mình, cũng phải phấn đấu để phát triển với nhịp độ tương đương.
Khi doanh thu tăng lên, sẽ đưa đến việc gia tăng tài sản, các nguồn doanh nghiệp và các
loại tài sản khác. Khi đó, các nhà tài chính doanh nghiệp phải tìm nguồn tài trợ cho sự mở
rộng sản xuất, sự tăng tài sản đó.
- ảnh hưởng của giá cả thị trường, lãi suất và tiền thuế:
Giá cả thị trường, giá cả sản phẩm mà doanh nghiệp tiêu thu có ảnh hưởng lớn tới
doanh thu do đó ảnh hưởng lớn tới khả năng tìm kiếm lợi nhuận. Cơ cấu tài chính của
doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng nếu có sự thay đổi về giá cả. Sự tăng, giảm lãi suất và giá
cổ phiếu cũng ảnh tới sự tăng giảm về chi phí tài chính và sự hấp dẫn của các hình thức tài
trợ khác nhau. Mức lãi suất cũng là một yếu tố đo lường khả năng huy động vốn vay. Sự
tăng hay giảm thuế cũng ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình kinh doanh, tới khả năng tiếp tục
đầu tư hay rút khỏi đầu tư.
Tất cả các yếu tốt trên có thể được các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp sử dụng để
phân tích các hình thức tài trợ và xác định thời gian tìm kiếm các nguồn vốn trên thị trường
tài chính.
- Sự cạnh tranh trên thị trường và sự tiến bộ kỹ thuật, công nghệ:
Sự cạnh tranh về sản phẩm đang sản xuất và các sản phẩm tương lai giữa các doanh
nghiệp có ảnh hưởng lớn tới kinh tế, tài chính của doanh nghiệp và có liên quanh chặt chẽ
đến khả năng tài trợ để doanh nghiệp tồn taị và tăng trưởng trong một nền kinh tế luôn luôn
biến đổi và người giám đốc tài chính phải chịu trách nhiệm về việc cho doanh nghiệp hoạt
động khi cần thiết.
Cũng tương tự như vậy, sự tiến bộ kỹ thuật và công nghệ đòi hỏi doanh nghiệp phải
ra sức cải tiến kỹ thuật, quản lý, xem xét và đánh giá lại toàn bộ tình hình tài chính, khả
năng thích ứng với thị trường, từ đó đề ra những chính sách thích hợp cho doanh nghiệp.
- Chính sách kinh tế và tài chính của Nhà nước đối với doanh nghiệp:
Như chính sách khuiyến khích đầu tư, chính sách thuế, chính sách xuất khẩu, nhập
khẩu, chế độ khấu hao tài sản cố định... Đây là những yếu tố tác động lớn đến các vấn đề
tài chính của doanh nghiệp.
- Sự hoạt động của thị trường tài chính và hệ thống các tổ chức tài chính trung
gian:
Hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với thị trường tài chính, nơi mà doanh nghiệp
có thể huy động vốn hay đầu tư những khoản tài chính tạm thời nhàn rỗi. Sự phát triển của
thị trường tài chính làm nảy sinh các công cụ tài chính mới, doanh nghiệp có thể sư dụng
để huy động vốn đầu tư. Chẳng hạn, khi xuất hiện hình thức thuê tài chính, doanh nghiệp
có thể nhờ đó giảm bớt được số vốn cần đầu tư hoặc khi hình thành thị trường chứng
khoán, doanh nghiệp có thêm phương tiện để huy động vốn hay đầu tư vốn...Sự phát phát
triển và hoạt động có hiệu quả của các tổ chức tài chính trung gian như ngân hàng thương
mại, công ty tài chính, quỹ tín dụng...cũng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp huy
động vốn.
Khi xem xét tác động của môi trường kinh doanh, không chỉ xem xét ở phạm vi trong
nước mà cần phân tích đánh giá cả môi trường khu vực và thế giới, vì biến động về kinh tế
- tài chính trong khu vực và trên thế giới tác động không nhỏ đến hoạt động kinh doanh
của một nước.
2. Vốn kinh doanh và nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp:
2.1. Vốn kinh doanh:
2.1.1. Khái niệm về vốn kinh doanh:
Để tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, doanh nghiệp cũng cần phải
có vốn. Vốn kinh doanh là điều kiện tiên quyết có ý nghĩa quyết định đến quá trình sản
xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là số tiền ứng trước về toàn bộ tài sản
hữu hình và tài sản vô hình phục vụ cho sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục
đích kiếm lời.
Khi phân tích hình thái biểu hiện và sự vận động của vốn kinh doanh, cho thấy
những đặc điểm nổi bật sau:
- Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp là một loại quỹ tiền tệ đặc biệt. Mục tiêu
của quỹ là để phục vụ cho sản xuất - kinh doanh tức là mục đích tích luỹ, không phải là
mục đích tiêu dùng như một vài quỹ khác trong doanh nghiệp.
- Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có trước khi diễn ra hoạt động sản xuất - kinh
doanh.
- Vốn kinh doanh của doanh nghiệp sau khi ứng ra, được sử dụng vào kinh doanh và
sau mỗi chu kỳ hoạt động phải được thu về để ứng tiếp cho kỳ hoạt động sau.
- Vốn kinh doanh không thể mất đi. Mất vốn đối với doanh nghiệp đồng nghĩa với
nguy cơ phá sản.
Cần thấy rằng có sự phân biệt giữa tiền và vốn. Thông thường có tiền sẽ làm nên
vốn, nhưng tiền chưa hẳn là vốn. Tiền được gọi là vốn phải đồng thời thoả mãn những điều
kiện sau:
- Một là: Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định. Hay nói cách khác,
tiền phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực.
- Hai là: Tiền phải được tích tụ và tập trung ở một lượng nhất định. Sự tích tụ và tập
trung lượng tiền đến hạn độ nào đó mới làm cho nó đủ sức để đầu tư vào một dự án kinh
doanh nhất định.
- Ba là: Khi tiền đủ lượng phải được vận động nhằm mục đích kiếm lời. Cách thức
vận động của tiền là doanh nghiệp phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Phương
thức đầu tư của một doanh nghiệp, có thể bao gồm:
+ Đối với đầu tư cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, công thức vận động của vốn
như sau:
TLSX
T-H ...SX...H’ - T’
SLĐ
+ Đối với đầu tư cho lĩnh vực thương mại, công thức đơn giản hơn:
T - H - T’
+ Đối với đầu tư mua trái phiếu hoặc cổ phiếu, góp vốn liên doanh thì công thức vận
động là: T - T’
2.1.2. Đặc trưng của vốn kinh doanh:
- Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là số tiền ứng trước cho hoạt động sản xuất -
kinh doanh của doanh nghiệp. Tất nhiên muốn có được lượng vốn đó, các doanh nghiệp
phải chủ động khai thác, thu hút vốn trên thị trường.
- Mục đích vận động của tiền vốn là sinh lời. Nghĩa là vốn ứng trước cho hoạt động
sản xuất - kinh doanh phải được thu hồi về sau mỗi chu kỳ sản xuất, tiền vốn thu hồi về
phải lớn hơn số vốn đã bỏ ra.
2.2. Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp:
2.2.1.Căn cứ vào mối quan hệ sở hữu về vốn:
2.2.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu:
Là phần vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền
chiếm hữu, sử dụng và định đoạn, bao gồm: vốn điều lệ, vốn tự bổ sung, vốn doanh nghiệp
nhà nước tài trợ (nếu có). Trong đó:
- Nguồn vốn điều lệ: Trong các doanh nghiệp tư nhân vốn đầu tư ban đầu do chủ sở
hữu đầu tư. Trong các doanh nghiệp Nhà nước vốn đầu tư ban đầu do Nhà nước cấp một
phần (hoặc toàn bộ)
- Nguồn vốn tự bổ sung: bao gồm tất cả các nguồn vốn mà doanh nghiệp tự bổ sung
từ nội bộ doanh nghiệp như từ lợi nhuận để lại, quỹ khấu hao, các quỹ dự phòng tài chính
và quỹ đầu tư phát triển.
Nguồn vốn chủ sở hữu là một nguồn vốn quan trọng và có tính ổn định cao, thể hiện
quyền tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Tỷ trọng của nguồn vốn này trong cơ cấu
nguồn vốn càng lớn, sự độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
Vốn cSH tổng nợ
Tại một = nguồn - phải
thời điểm vốn trả
2.2.1.2. Nợ phải trả:
Là tất cả các khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh mà doanh nghiệp có
trách nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế, bao gồm:
- Nguồn vốn chiếm dụng hợp pháp: Trong quá trình SXKD của doanh nghiệp
đương nhiên phát sinh các quan hệ thanh toán giữa doanh nghiệp với các tác nhân kinh tế
khác như với Nhà nước, với CBCNV, với khách hàng, với người bán từ đó mà phát sinh
vốn chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng. Thuộc về vốn chiếm dụng hợp pháp có các khoản
vốn sau:
+ Các khoản nợ khách hàng chưa đến hạn trả.
+ Các khoản phải nộp Ngân sách Nhà nước chưa đến hạn nộp.
+ Các khoản phải thanh toán với CBCNV chưa đến hạn thanh toán.
Nguồn vốn chiếm dụng chỉ mang tính chất tạm thời, doanh nghiệp chỉ có thể sử
dụng trong thời gian ngắn nhưng vì nó có ưu điểm nổi bật là doanh nghiệp không phải trả
chi phí sử dụng vốn, đòn bẩy tài chính luôn dương, nên trong thực tế doanh nghiệp nên
triệt để tận dụng nguồn vốn này trong giới hạn cho phép nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn mà vẫn đảm bảo kỷ luật thanh toán.
- Các khoản nợ vay: bao gồm toàn bộ vốn vay ngắn - trung - dài hạn ngân hàng, nợ
trái phiếu và các khoản nợ khác.
Thông thường, một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn vốn chủ sở hữu và nợ
phải trả để đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động SXKD. Sự kết hợp giữa hai nguồn này phụ
thuộc vào đặc điểm của ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động cũng như quyết định tài
chính của người quản lý trên cơ sở điều kiện thực tế của doanh nghiệp. Làm thế nào để lựa
chọn được một cơ cấu tài chính tối ưu? Đó là câu hỏi luôn làm trăn trở các nhà quản lý tài
chính doanh nghiệp bởi sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn
vào sự khôn ngoan hay khờ dại của doanh nghiệp đó khi lựa chọn cơ cấu tài chính.
2.2.2. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn:
2.2.2.1. Nguồn vốn thường xuyên:
Đây là nguồn vốn có tính chất ổn định mà doanh nghiệp có thể sử dụng trong thời
gian dài, bao gồm: Nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản nợ dài hạn. Nguồn vốn này thường
được sử dụng để đầu tư TSCĐ và một bộ phận TSLĐ thường xuyên, cần thiết.
2.2.2.2. Nguồn vốn tạm thời:
Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp
ứng các nhu cầu về vốn có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động SXKD
của doanh nghiệp. Cách phân loại này giúp cho người quản lý doanh nghiệp xem xét huy
động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, lập kế hoạch tài chính và
hình thành những dự định về tổ chức vốn một trong tương lai.
2.2.3. Căn cứ vào phạm vi huy động vốn:
2.2.3.1. Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp:
Là nguồn vốn có thể huy động được từ bản thân doanh nghiệp bao gồm: tiền khấu
hao TSCĐ, lợi nhuận để lại, các khoản dự phòng, thu từ thanh lý, nhượng bán TSCĐ.
2.2.3.2. Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp:
Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động từ bên ngoài gồm: vốn vay ngân
hàng và các tổ chức kinh tế khác, vốn liên doanh liên kết, vốn huy động từ phát hành trái
phiếu, nợ người cung cấp và các khoản nợ khác.
2.3. Quản lý và sử dụng vốn kinh doanh:
2.3.1. Vốn cố định:
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư bên trong ứng trước
về tài sản cố định của doanh nghiệp. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất
- kinh doanh được cũng phải có đủ 3 yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao
động.
Tư liệu lao động: là điều kiện vật chất không thể thiếu được trong quá trình hoạt
động sản xuất - kinh doanh, nó góp phần quyết định đến năng suất lao động. Tư liệu lao
động trong các doanh nghiệp bao gồm những công cụ lao động mà thông qua chúng người
lao động sử dụng lao động của mình tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm
(máy móc thiết bị, công cụ làm việc...) và những phương tiện làm việc cần thiết cho quá
trình hoạt động sản xuất – kinh doanh bình thường (như nhà xưởng, công trình kiến trúc...)
Để thuận tiện cho việc quản lý tài sản người ta chia tư liệu lao động thành 2 bộ
phận: tài sản cố định và công cụ lao động nhỏ.
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị đơn vị lớn và thời hạn
sử dụng lâu. Về mặt thời gian sử dụng thì hầu hết các quốc gia đều áp dụng là trên một
năm, về mặt giá trị đơn vị thì tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia vận dụng cho phù hợp trong từng
giai đoạn nhất định.
Ví dụ: ở nước ta giai đoạn 1990 đến 1996 giá trị đơn vị được quy định là 500.000
VNĐ trở lên, từ năm 1997 đến nay được điều chỉnh thành 5.000.000 VNĐ trở lên.
Ngoài ra những tư liệu lao động nào mà không hội đủ 2 điều kiện nói trên được gọi
là công cụ lao động nhỏ và do doanh nghiệp nguồn vốn lưu động tài trợ.
Tài sản cố định là một bộ phận của tư liệu lao động cho nên đặc điểm vật chất của tài sản
cố định cũng chính là đặc điểm của tư liệu lao động. Tài sản cố định tham gia vào nhiều
chu kỳ sản xuất - kinh doanh, bị hao mòn dần nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban
đầu và giá trị của nó cũng giảm dần tương ứng với mức độ hao mòn của tài sản cố định.
Từ những phân tích trên đây có thể thấy: tài sản cố định là những tư liệu lao động
chủ yếu, có thời gian sử dụng lâu và có giá trị đơn vị lớn. Đặc điểm chung nhất của chúng
là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và không thay đổi hình thái vật chất ban đầu. Trong
quá trình đó tài sản cố định bị hao mòn dần và giá trị của nó giảm dần tương ứng, phần giá
trị này được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm mới mà nó tham gia sản xuất ra.
Mặc dù tài sản cố định không bị thay đổi hình thái hiện vật trong suốt thời gian sử
dụng, song năng lực sản xuất cũng giảm sút dần do chúng bị hao mòn trong quá trình tham
gia vào hoạt động sản xuất. Hao mòn tài sản cố định được phân thành 2 loại: hao mòn hữu
hình và hao mòn vô hình.
+ Hao mòn hữu hình của tài sản cố định: là sự hao mòn về mặt vật chất làm giảm
dần giá trị và giá trị sử dụng của tài sản cố định, doanh nghiệp tác động của các yếu tố tự
nhiên gây ra hoặc khi tài sản cố định tham gia vào hoạt động sản xuất thì bị cọ xát, mài
mòn dần. Trong trường hợp do quá trình sử dụng, mức độ hao mòn của tài sản cố định tỷ lệ
thuận với thời gian và cường độ sử dụng chúng vào sản xuất - kinh doanh. Mặt khác cho
dù tài sản cố định không sử dụng chúng cũng bị hao mòn do tác động của các yếu tố tự
nhiên: độ ẩm, khí hậu, thời tiết...làm cho tài sản cố định bị han rỉ, mục nát dần. Trong
trường hợp này, mức độ hao mòn của tài sản cố định nhiều hay ít phụ thuộc vào công tác
bảo dưỡng, bảo quản tài sản cố định của doanh nghiệp.
+ Hao mòn vô hình: là loại hao mòn về mặt giá trị, làm giảm thuần tuý về mặt giá trị
của tài sản cố định (còn gọi là sự mất giá của tài sản cố định). Nguyên nhân dẫn đến hao
mòn vô hình của tài sản cố định không phải do chúng sử dụng ít hay nhiều trong sản xuất,
mà là do những tài sản cố định cùng loại mới được sản xuất ra có giá rẻ hơn hay hiện đại
hơn hoặc doanh nghiệp chấm dứt chu kỳ sống của sản phẩm làm cho tài sản cố định trở
nên không cần dùng hoặc giảm giá.
Để có nguồn vốn đầu tư cho tài sản cố định mới, yêu cầu phải có phương thức thu
hồi vốn khi tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sản xuất. Phương thức này goi là
khấu hao tài sản cố định.
Khấu hao tài sản cố định là một phương thức thu hồi vốn cố định bằng cách bù đắp
phần giá trị tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sản xuất - kinh doanh nhằm tái tạo
lại vốn cố định đảm bảo quá trình sản xuất - kinh doanh được tiến hành liên tục và có hiệu
quả.
Như vậy vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về
TSCĐ. Đặc điểm của vốn cố định là luân chuyển dần dần từng bộ phận tương ứng với giá
trị hao mòn của TSCĐ, khi TSCĐ hết thời hạn sử dụng vốn cố định mới được thu hồi đầy
đủ và kết thúc một lần tuần hoàn vốn.
Quản lý vốn cố định là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý
tài chính doanh nghiệp. Từ những nghiên cứu về tài sản cố định trên đây, cho thấy việc bảo
toàn và phát triển vốn cố định là nội dung cần quan tâm của người làm công tác tài chính.
Bảo toàn vốn cố định là việc duy trì lượng vốn cố định thực chất ở các thời điểm sau ngang
bằng với thời điểm ban đầu. Phát triển vốn cố định là làm cho vốn cố định thực chất ở các
thời kỳ càng về sau càng lớn hơn thời kỳ trước.
Để bảo toàn và phát triển vốn cố định của doanh nghiệp cần thiết phải sử dụng các
biện pháp chủ yếu sau đây:
- Phải đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định một cách thường xuyên và chính xác.
- Phải lựa chọn các phương pháp khấu hao mức khấu hao thích hợp.
- Phải áp dụng biện pháp nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định như: tận dụng
hết công suất máy móc thiết bị, giảm thời gian ngừng hoạt động, có chế độ sửa chữa
thường xuyên, định kỳ.
- Dự phòng giảm giá TSCĐ: để dự phòng giảm giá TSCĐ, doanh nghiệp được trích
khoản dự phòng này vào giá thành. Nếu cuối năm không sử dụng đến thì khoản dự phòng
này được hoàn nhập trở lại.
2.3.2. Vốn lưu động:
Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận vốn đầu tư được ứng trước về tài
sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp thực hiện được
thường xuyên và liên tục.
Như đã phân tích phần trên, vốn kinh doanh của doanh nghiệp là số tiền ứng trước
cho các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp. Song mỗi yếu tố sản xuất có những đặc điểm
hoạt động khác nhau, có công dụng kinh tế khác nhau đối với quá trình sản xuất - kinh
doanh của doanh nghiệp. Vốn lưu động là bộ phận của vốn nhằm tài trợ cho các yếu tố sản
xuất ngoại trừ tài sản cố định.
Nếu cắt quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp ra từng chu kỳ sản xuất
chúng ta có thể mô tả theo mô hình sau:
____ Khâu dự trữ Khâu sản xuất Khâu lưu thông
- Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất: vốn lưu động được dùng để
mua sắm các đối tượng lao động như: nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế... ở
giai đoạn này vốn đã thay đổi từ hình thái tiền tệ sang vật tư.
- Vốn lưu động nằm trong quá trình sản xuất: là quá trình sử dụng các yếu tố sản
xuất để chế tạo ra sản phẩm. Khi quá trình sản xuất chưa hoàn thành, vốn lưu động biểu
hiện ở các loại sản phẩm dở dang hoặc bán thành phẩm và khi kết thúc quá trình sản xuất
vốn biểu hiện ở số thành phẩm của doanh nghiệp.
- Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông: lúc này hình thái hàng hoá được
chuyển thành hình thái tiền tệ.
Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu của tài sản lưu động cũng khác
nhau. Tuy nhiên, đối với những doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh thì tài sản lưu động
thường được cấu tạo bởi hai phần là tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông.
- Tài sản lưu động sản xuất bao gồm những tài sản ở khâu dự trữ sản xuất như
nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu... và tài sản ở khâu sản xuất như sản phẩm
dở dang đang chế tạo, bán thành phẩm tự chế, chi phí đợi phân bổ.
- Tài sản lưu thông của doanh nghiệp bao gồm sản phẩm hàng hoá chờ tiêu thụ
(hàng tồn kho), vốn bằng tiền và các khoản phải thu.
Dù là ở khâu nào, tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông đều thể hiện các yếu tố:
đối tượng lao động, công cụ lao động nhỏ và sức lao động. Đặc điểm vận động của chúng
do đặc điểm của đối tượng lao động quyết định, vì đây là bộ phận chính chiếm tỷ trọng ưu
thế. Khác với tài sản cố định, tài sản lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra
sản phẩm, theo đó giá trị của nó cũng được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá thành sản
phẩm tiêu thụ và hoàn thành một vòng tuần hoàn vốn khi kết thúc một chu kỳ tái sản xuất.
Cũng cần thấy rằng, các chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp là nối tiếp và xen kẽ
nhau chứ không phải là độc lập và rời rạc. Trong khi một bộ phận của vốn lưu động được
chuyển hoá thành vật tư dự trữ, sản phẩm dở dang thì một bộ phận khác của vốn lại chuyển
từ sản phẩm hàng hoá sang vốn tiền tệ do quá trình sản xuất của doanh nghiệp là thường
xuyên, liên tục. Điều này nhắc nhở những nhà quản lý tài chính cần xây dựng những biện
pháp thích hợp cho quản lý sử dụng và bảo toàn vốn lưu động. Sau đây là những nội dung
cần chú ý trong quản lý sử dụng vốn lưu động.
Một là: Xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Việc ước lượng chính
xác số vốn lưu động cần dùng cho doanh nghiệp sẽ có tác dụng đảm bảo đủ vốn lưu động
cần thiết, tối thiểu cho quá trình sản xuất - kinh doanh được tiến hành liên tục, đồng thời
tránh ứ đọng vốn không cần thiết, thúc đẩy tốc độ luân cguyển vốn nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn.
Hai là: Tổ chức khai thác nguồn tài trợ vốn lưu động. Trước hết doanh nghiệp cần
khai thác triệt để các nguồn vốn nội bộ và các khoản vốn có thể chiếm dụng một cách
thường xuyên trong hoạt động kinh doanh. Nếu số vốn lưu động còn thiếu, doanh nghiệp
phải tiếp tục khai thác các nguồn vốn bên ngoài như: vốn liên doanh, vốn vay của các ngân
hàng hoặc các công ty tài chính, vốn do phát hành cổ phiếu, trái phiếu... Khi khai thác các
nguồn vốn bên ngoài, điều đáng chú ý nhất là cân nhắc các yếu tố lãi suất tiền vay. Về