Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế việt nam
- 59 trang
- file .doc
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ
TRONG NƯỚC VÀ NGUỒN VỐN ĐÂU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG VIỆC
THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
I.CÁC KHÁI NIỆM
1. Khái niệm vốn, nguồn vốn đầu tư phát triển
a. Vốn đầu tư phát triển
Trên phương diện nền kinh tế: vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ
những chi phí đã chi ra để tạo ra năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố dịnh và tài sản
lưu động) và các khoản đầu tư phát triển khác .
Đặc trưng của vốn đầu tư phát triển
- Vốn đại diện cho một lượng giá trị tài sản. Vốn được biểu hiện bằng giá
trị của những tài sản hữu hình và vô hình
-Vốn phải vận động sinh lời . Vốn được biểu hiện bằng tiền . Để biến tiền
thành vốn thì tiền phải thay đổi hình thái biểu hiện , vận động và có khả năng sinh lời
-Vốn cần được tích tụ và tập trung đến một mức nhất định mới có thể phát
huy tác dụng.
- Vốn phải gắn với chủ sở hữu . Khi xác định rõ chủ sở hữu , đồng vốn sẽ
được sử dụng hiệu quả
-Vốn có giá trị về mặt thời gian. Vốn luôn vận động sinh lời và giá trị của
vốn biến động theo thời gian
Trên phạm vi nền kinh tế , nội dung cơ bản của vốn đầu tư phát triển bao gồm :
-Vốn đầu tư xây dựng cơ bản : là những chi phí bằng tiền để xây dựng mới
, mở rộng , xây dựng lại hoặc khôi phục những năng lực sản xuất của tài sản cố định
trong nền kinh tế quốc dân
-Vốn lưu động bổ sung : bao gồm những khoản đầu tư dùng mua sắm
nguyên nhiên vật liệu , thuê mướn lao động … làm tăng thêm tài sản lưu động trong kì
của toàn bộ xã hội .
-Vốn đầu tư phát triển khác : là tất cả các khoản đầu tư của xã hội nhằm
gia tăng năng lực phát triển của xã hội , nâng cao trình độ dân trí , cải thiện chất lượng
môi trường .
1
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
Những bộ phận chính của vốn đầu tư phát triển khác bao gồm : vốn chi cho công
việc thăm dò , khảo sát ,thiết kế , qui hoạch ngành , qui hoạch lãnh thổ ; vốn chi cho việc
thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm tăng cường sức khỏe cộng đồng như
chương trình tiêm chủng mở rộng , chương trình nước sạch nông thôn , phòng bệnh , kế
hoạch hóa gia đình , phòng chống tệ nạn xã hội , vốn đầu tư cho lĩnh vực giáo dục …
b. Nguồn vốn đầu tư phát triển
Nguồn vốn đầu tư phát triển là thuật ngữ để chỉ các nguồn tích luỹ, tập trung và
phân phối cho đầu tư. Trên phương diện vĩ mô, nguồn vốn đầu tư phát triển bao gồm:
Nguồn vốn trong nước:
-Nguồn vốn nhà nước bao gồm: Vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn
tín dung đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp
nhà nước.
-Nguồn vốn của tư nhân và dân cư.
Nguồn vốn nước ngoài.
-Tài trợ phát triển chính thức (ODF), bao gồm: Viện trợ phát triển chính
thức(ODA)- chiếm tỷ trọng chủ yếu, và các hình thức tài trợ khác.
-Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
-Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
2. Khái niệm tăng trưởng và phát triển kinh tế
a.Tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế được xem là một trong những vấn đề hấp dẫn nhất trong
nghiên cứu kinh tế và cùng với thời gian, quan niệm về vấn đề này cũng ngày càng hoàn
thiện hơn.Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng
thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia ăng của nền kinh tế được thể hiện ở quy
mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sanh tương đối và phản
ánh sự gia tăng nhanh hay chậm của tờng thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu
hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu
GDP, GNI và được tính cho toàn bộ nền kinh tế hoặc được tính bình quân trên đầu người.
Như vậy bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Ngày
nay, yêu cầu tăng trưởng ngày càng cao.Theo khía cạnh này, điều được nhấn mạnh nhiều
2
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
hơn đó là sự gia ăng liên tục, có hiệu quả của chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập
bình quân đầu người. Hơn thế nữa, quá trình đó phải được tại nên bởi nhân tố đóng vai
trò quyết định đó là khoa học, công nghệ và vốn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu
kinh tế hợp lý.
b. Phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế.Phát
triển được xem như là quá trình biến đổi cả về mặt lượng và về chất của nền kinh tế, nó là
sợ kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề về kinh tế và xã hội của
mỗi quốc gia. Theo cách hiểu như vậy, phát triển phải là một quá trình lâu dài và do các
nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định. Nội dung của phát triển kinh tế được khái quát
theo 3 tiêu thức: Một là, sự gia tăng tổng mớc thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng
thu nhập trên một đầu người. Đây là tiêu thức phản ánh sự biến đổi về lượng của nền kinh
tế, là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của một quốc gia và thực hiện các mục
tiêu khác của phát triển. Hai là, sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế. Đây là
tiêu thức đánh giá sự biến đổi về chất của một quốc gia. Để phân biệt các giai đoạn phát
triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển kinh tế của các nước với nhau, ngườ ta dựa
vào dấu hiệu về dạng cơ cấu nghành mà quốc gia đó đạt được. Ba là, sự biến đổi ngày
càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế trong
các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà là việc xoá bỏ
nghèo đói, suy dinh dưỡng, sự tăng lên của tuổi thọ,khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y
tế của quảng đại quần chúng nhân dân… Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự thay đổi về
chất của xã hội.
II.NỘI DUNG CỦA NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ
1.Nguồn vốn đầu tư trong nước
Biểu hiện cụ thể của nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm nguồn vốn đầu tư nhà
nước và nguồn vốn của dân cư và tư nhân.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước:
Đây chính là khoản chi của ngân sách nhà nước (NSNN) cho đầu tư. Chi cho đầu tư
phát triển của NSNN là quá trình nhà nước sử dụng một phần vốn tiền tệ đã được tạo lập
thông qua hoạt động thu của NSNN. Nguồn vốn của NSNN là một nguồn vốn đầu tư
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này
3
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
thường được dùng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, đầu tư để dự trữ vật
tư hàng hóa nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu ổn định và tăng trưởng nền
kinh tế.
Chi đầu tư phát triển từ NSNN là những khoản chi để đầu tư xây dựng cơ bản (đầu
tư để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng , các công trình thuộc cơ sở vật chất của
các doanh nghiệp nhà nước …); thông qua phương thức cấp phát hoặc tín dụng của nhà
nước, cấp phát , bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp; dự trữ vật tư hàng hóa
chiến lược của nhà nước đề phòng khi nền kinh tế gặp những biến cố bất ngờ về thiên tai
địch họa đảm bảo cho nền sản xuất phát triển ổn định và đời sống nhân dân được bình
thường; chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
-xã hội vùng ,lãnh thổ ,quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn .
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
ngày càng đóng vai trò quan trọng đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế -xã hội.
Nguồn vốn nay được hình thành từ các nguồn sau đây:
-Vốn ngân sách nhà nước hàng năm dành cho tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản.
-Vốn huy động theo chủ trương chính sách của chính phủ .
-Vốn vay nước ngoài của chính phủ và các nguồn viện trợ quốc tế dành cho tín
dụng đầu tư phát triển .
-Vốn thu hồi nợ (gốc và một phần lãi vay) cho chương trình tín dụng ưu đãi của
nhà nước đầu tư đã đầu tư trước đây đến hạn trả nợ.
-Các nguồn vốn theo quy định của chính phủ.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc
giảm đáng kể sự bao cấp trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng , các đơn vị sử dụng
nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn
phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng phát triển của nhà
nước là một hình thức quá độ từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín
dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu
tư của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua
nguồn tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế-xã hội của
4
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
ngành vùng ,lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ
điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội.
Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước .
Được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh
nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn khá lớn. Các doanh nghiệp nhà nước là
những doanh nghiệp thường hoạt động trong nhưng lĩnh vực và ngành kinh té đóng vai
trò quan trọng của nền kinh tế và của đất nước nên lượng vốn đầu tư từ các doanh nghiệp
nhà nước thường khá lớn ,có ảnh hưởng lớn đối với toàn bộ nền kinh tế.
Nguồn vốn tư nhân.
Nguồn vốn khu vực tư nhân bao gồm phần tích luỹ của dân cư, của các doanh
nghiệp dân doanh ( công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần,
hợp tác xã…) được đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội thực hiện các hoạt động đầu tư
phát triển. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào :
Trình độ phát triển của đất nước ( ở những nước có trình độ phát triển thấp
thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp)
Tập quán tiêu dùng của dân cư
Chính sách động viên của nhà nứơc thông qua chính sách thuế thu nhập và
các khoản đóng góp đối với xã hội.
Thực hiện chính sách đổi mới, cơ chế cởi mở nhằm huy động mọi nguồn lực cho
đầu tư được thực hiện, trong những năm gần đây các loại hình doanh nghiệp dân doanh
có những bước phát triển mạnh mẽ. Trong tiến trình đổi mới 20 năm qua, và bài học cho
sự phát triển trong thời gian tới, có thể nhắc đến 3 nguồn lực mà hầu hết các nước “hoá
rồng” đã thực hiện. Đó là đầu tư nước ngoài, xuất khẩu và nguồn lực khu vực tư nhân
trong nước. Nếu thời gian tới, chúng ta khai thác cả 3 động lực này một cách cân bằng và
nhất là khu vực tư nhân trong nước, thì nền kinh tế phát triển đáng kể, chống đỡ được
những chấn động từ các nhân tố bên ngoài mà ta không chủ động được. Khi nền kinh tế
hội nhập cao, tính thích ứng càng đòi hỏi cao hơn và sức ép từ những biến động thị
trường đòi hỏi ngày càng lớn hơn.
Thị trường vốn
5
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
Thị trường vốn bao gồm : thị trường chứng khoán (TTCK), thị trường bất động sản,
thị trường thuê mua tài chính, và các định chế tài chính khác (NHTM, công ty bảo hiểm,
QTDND…).
Thị trưòng vốn là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ đầu tư
bao gồm cả nhà nước và các loại hình DN. Thị trường vốn mà cốt lõi là TTCK như một
trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn
nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ trung ương và chính
quyền địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Đây được coi là
một lợi thế mà không một phương thức huy động vốn nào có thể làm được.
Thông qua thị trường vốn, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương cũng
có thể huy động vốn cho ngân sách hoặc đầu tư vào các công trình của mình bằng việc
phát hành các chứng khoán nợ như trái phiếu, công trái… Nó góp phần vào việc kiềm chế
lạm phát do chính phủ không phát hành thêm tiền giấy vào lưu thông nhằm phục vụ cho
nhu cầu chi tiêu của mình.
Mặt khác, đứng trên góc độ hiệu qủa, thị trường vốn thực sự trở thành một cái van
điều tiết hữu hiệu các nguồn vốn từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang nơi có hiệu qủa
hơn.Trên thị trường vốn, bất cứ khoản vốn nào được sử dụng đều phải trả giá, do vậy
người sử dụng vốn phải quan tâm đến việc sinh lời của mỗi đồng vốn..
2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có thể được xem xét như là các dòng lưu chuyển
vốn quốc tế (international capital flows).Thực chất các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là
biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới.Trong
các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát
triển thường được các nước thuộc thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm.Dòng vốn này diễn ra
dưới nhiều hình thức như:
-Tài trợ phát triển chính thức (ODF-official development finance) trong đó
nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA-official development assistance) chiếm tỷ
trọng chủ yếu.
-Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
6
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
-Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
a.Nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA)
Khái niệm về ODA:
Theo Ủy Ban Viện Trợ Và Phát Triển thì: Viện trợ phát triển chính thức là nguồn
vốn hỗ trợ chính thức từ bên ngoài bao gồm các khoản viện trợ cho vay và với các điều
kiện ưu đãi; ODA được hiểu là nguồn vốn dành cho các nước đang và kém phát triển,
được các cơ quan chính thức của chính phủ trung ương và các cơ quan thừa hành của
chính phủ, các tổ chức liên chính phủ và các tổ chức phi chính phủ tài trợ. Hiệp định
quốc tế hỗ trợ này được chi phối bởi công pháp quốc tế.
Theo Nghị Định 87/CP của Chính Phủ Việt Nam, ODA là viện trợ không hoàn lại
hoặc là cho vay ưu đãi của các tổ chức nước ngoài, với phần viện trợ không hoàn lại
chiếm ít nhất 25% của khoản vốn vay.
Như vậy, ODA là nguồn vốn từ các cơ quan từ các cơ quan chính thức bên ngoài
cung cấp cho các nước đang và kém phát triển hoặc là các nước gặp khó khăn về tài
chính nhằm tạo điều kiện thuận lợ cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của các nước
này.
Đặc điểm của ODA:
Do chính phủ của một nước cấp hoặc các tổ chức quốc tế cấp cho các cơ quan chính
thức của một nước (Hỗ trợ song phương và hỗ trợ đa phương).
Không cấp cho những dự án mang tính chất thương mại mà chỉ nhằm mục đích
nhân đạo, thể hiện nghĩa vụ, đồng thời là sự quan tâm giúp đỡ của các nước đối với nhau,
tăng cường thúc đẩy mối quan hệ kinh tế đối ngoại tốt đẹp giữa các quốc gia hoặc là các
tổ chức quốc tế với các quốc gia.
7
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
Tính ưu đãi chiếm trên 25% giá trị của khoản vốn vay. Yếu tố này được xác định
dựa vào yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời hạn ân hạn, số lần trả nợ trong năm và tỷ
suất chiết khấu. Công thức tính tỷ lệ yếu tố không hoàn lại như sau:
GE=100% [1 – ][1 - ]
Trong đó: r - tỷ lệ lãi suất hàng năm
a - số lần trả nợ trong năm
d - tỷ suất chiết khấu
G - thời gian ân hạn
M - thời hạn cho vay
ODA đòi hỏi phải có vốn đối ứng từ bên tham gia nhận viện trợ để họ có trách
nhiệm hơn trong việc sử dụng ODA.
ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài
với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. Tài trợ ODA mang tính ưu đãi cao hơn
bất cứ nguồn ODF nào khác.Ngoài các yếu tố ưu đãi về lãi xuất, thời hạn cho vay, khối
lượng cho vay tương đối lớn, bao giờ ODA cũng có yếu tố vốn không hoàn lại ít nhất là
25%.Việc thu hút ODA phục vụ cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam diễn ra
trong bối cảnh trong nước và quốc tế có rất nhiều thuận lợi. Để sử dụng nguồn vốn ODA
đã cam kết, Chính phủ Việt Nam đã kí kết với các nhà tài trợ các điều ước quốc tế và
ODA.
b. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Khái niệm:
FDI là hình thức đầu tư quốc tế mà nhà đầu tư nước ngoài góp một lượng vốn đủ
lớn để thiết lập các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhờ đó cho phép họ trực tiếp tham gia
điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, cùng với các đối tác nước nhận đầu tư chia sẻ
rủi ro và thu lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư đó.
Nguồn vốn FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất
kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây là nguồn vốn lớn,có ý nghĩa
8
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
quan trọng trong đầu tư và phát triển kinh tế không chỉ đối với các nước nghèo mà kể cả
các nước công nghiệp phát triển.
Nguồn vốn đầu tư trực triếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn
nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho các nước tiếp
nhận.Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư,nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích
đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn
bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành
nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật,công nghệ hay cần nhiều
vốn.Vì thế,nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp
hoá,chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư.
Các hình thức tồn tại chủ yếu của FDI :
-Hợp đồng hợp tác kinh doanh CBC (Contractual-Business-Cooperation)
-Doanh nghiệp liên doanh (Joint Venture interprise).
-Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% Foreign Cantrerisce) là.
-BOT (Build , operate and transfer)
-Khu chế xuất: Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, khu chế xuất được
hiểu là “ khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và cho các hoạt động xuất
khẩu, trong đó bao gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp hoạt động, có ranh giới về mặt địa
lý xác định, do chính phủ quyết định thành lập. Đặc biệt, khu chế xuất cho phép các
doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản xuất hành xuất khẩu miễn thuế dựa trên
kho quá cảnh.
c. Nguồn vốn vay tín dụng từ ngân hàng thương mại
Khái niệm:Tín dụng thương mại là nguồn vốn mà các nước nhận vốn vay một thời
gian phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho nước cho vay.Các nước cho vay vốn thu lợi nhuận
qua lãi suất tiền vay
Đặc điểm:
9
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
Đối tượng vay vốn thường là các doanh nghiệp. Độ rủi ro cao đối với các chủ đầu
tư khi các doanh nghiệp vay vốn hoạt động không hiệu quả,làm ăn thua lỗ, phá sản.
Vốn vay dưới dạng tiền tệ,các doanh nghiệp vay vốn có toàn quyền sử dụng.
Chủ đầu tư nước ngoài thu lợi nhuận thông qua lãi suất ngân hàng cố định theo khế
ước vay, độc lập với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp vay,có quyền sử dụng những
tài sản đã thế chấp hoặc yêu cầu cơ quan bảo lãnh thanh toán khoản vay trong trường hợp
bên vay không có khả năng thanh toán.Các ngân hàng cung cấp vốn tuy không tham gia
vào hoạt động của doanh nghiệp, nhưng trước khi nguồn vốn được giải ngân thì họ đều
nghiên cứu tính khả thi của dự án đầu tư, có yêu cầu về bảo lãnh thế chấp các khoản vay
để giảm rủi ro.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh
doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay ,của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất
quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các NHTM thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng
nhu cầu xuất,nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể
được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng
trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là
sáng sủa.
Khi sử dụng nguồn vốn tín dụng TM, các nước tiếp nhận vốn không phải chịu bất
cứ một ràng buộc nào về chính trị, xã hội, có toàn quyền sử dụng. Mặc dù vậy, thủ tục
vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe,thời gian trả nợ nghiêm ngặt.Và
do đây là nguồn vốn cho vay với lãi suất TM nên nếu các nước tiếp nhận không sử dụng
hiệu quả nguồn vốn này thì có nguy cơ dẫn đến tình trạng mất khả năng chi trả, dẫn đến
nguy cơ vỡ nợ. Đây là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
d. Thị trường vốn quốc tế.
Ưu điểm
-Có thể huy động vốn với số lượng lớn trong thời gian dài để đáp ứng nhu cầu về
vốn cho nến kinh tế mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện về tín dụng quan hệ cho vay
để gây sức ép với nước huy động vốn trong các quan hệ khác.
10
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
-Tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp cận với thị trường vốn quốc tế .Với việc trực tiếp
tham gia thị trường vốn quốc tế, đây sẽ là cơ hội tốt để thúc đẩy TTCK Việt Nam phát
triển trong tương lai.
-Khả năng thanh toán cao do có thể mua bán,trao đổi trên thị trường thứ cấp,
chính vì vậy hình thức này tương đối hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
- Đối với hình thức huy động này, người đi vay có thể tăng thêm tính hẫp dẫn bằng
cách đưa ra một số yếu tố kích thích.
Nhược điểm
- Hệ số tín nhiệm của Việt Nam rất thấp. Chính vì vậy, nếu phát hành thì trái phiếu
của Việt Nam sẽ phải chịu lãi suất ở mức cao.
-Việt Nam vẫn còn quá ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, so với một
số hình thức huy động vốn khác thì thời gian chuẩn bị vẫn còn tương đối dài.
III. LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG
NƯỚC VÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.Nguồn vốn trong nước là quyết định
Một ngôi nhà muốn vững chắc thì cần có móng tốt. Đối với nền kinh tế một nước
cũng vậy. Nguồn vốn trong nước chính là nền móng cơ bản và bền vững cho sự phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước đó. Từ những năm cuối thế kỉ XX, vấn đề phát huy nội lực
được nói đến nhiều tại Việt Nam. Trước trào lưu toàn cầu hoá ngày càng mạnh, đặt vấn
đề tăng cường và phát huy nội lực để chủ động phát triển trong ổn định là cần thiết.
Nguồn vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh
tế và phát triển xã hội. Trong đó, nguồn vốn trong nước luôn giữ một vị trí quan trọng.
Thực trạng về việc huy động và sử dụng vốn trong những năm gần đây càng chứng tỏ
tầm quan trọng ấy. Giai đoạn 2001-2005 riêng vốn nhà nước hàng năm chiếm 52-53%
tổng đầu tư toàn xã hội. Đây là nguồn vốn quan trọng góp phần định hướng , tạo ra cơ
cấu kinh tế và thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế khác.
Nguồn vốn trong nước cũng thể hiện được nhiều ưu điểm so với nguồn vốn nước
ngoài.
11
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
Thứ nhất, nguồn vốn trong nước mang tính ổn định, bền vững và giảm thiểu được
những hậu quả xấu tác động đến nền kinh tế trong nước do sự tác động của thị trường
tiền tệ thế giới. Cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997 là một minh chứng cho sự
lệ thuộc quá nhiều vào đồng vốn nước ngoài dẫn đến sự sụp đổ dây chuyền giữa các quốc
gia. Một ví dụ nữa cho sự ổn định của nguồn vốn trong nước đó là nguồn vốn trong dân.
Đây là nguồn vốn có tiềm năng lớn. Cuộc khảo sát mức sống dân cư của Tổng cục Thống
kê cho thấy, chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu cho đời sống (tức là nguồn tích luỹ)
bình quân 1 nhân khẩu 1 tháng của hộ gia đình năm 2004 tính chung cả nước là 114,4
nghìn tỷ đồng. Nguồn thì như vậy, nhưng số vốn thực tế mới thu hút vào đầu tư phát triển
trong năm 2004 được 69,5 nghìn tỷ đồng, tức là vẫn còn khoảng 42 nghìn tỷ đồng (tương
đương với trên 2,6 tỷ USD) chưa được thu hút vào đầu tư tăng trưởng. Ưu thế của nguồn
vốn của dân là không phụ thuộc vào bên ngoài, cũng như không chịu ảnh hưởng của
những biến động khôn lường từ bên ngoài. Một ưu thế nữa của nguồn vốn trong dân là do
nguồn vốn này có chủ sở hữu thật sự và cụ thể, tỉ suất đầu tư thấp do vậy hiệu quả đầu tư
cao hơn, cùng một lượng vồn nhưng sẽ tạo ra tốc độ tăng trưởng cao hơn so với vốn nhà
nước. Về vốn bên ngoài, chúng ta đã nhận được rất nhiều cam kết, nhưng tốc độ giải
ngân còn quá thấp. Nếu để tình trạng này lâu, nguy cơ rõ ràng có thể xảy đến là việc các
nhà đầu tư ngần ngại trong việc đưa ra các cam kết mới, và cả trong thực hiện các cam
kết đã có. Thậm chí họ có quyền rút vốn như đã từng xảy ra. Việt Nam đã mất tới 10 năm
để khôi phục đà đầu tư từ những năm 1995, 1996. Vào thời điểm đó, mức cam kết đầu tư
vào Việt Nam đã lên tới 8 tỷ USD. Trên thế giới, nước nào cũng muốn thu hút đầu tư cho
phát triển. TÌnh trạng khát vốn diễn ra ở mọi nơi. Địa bàn chọn lựa đầu tư rất rộng. Nếu
Việt Nam khó khăn làn sóng đầu tư náy sẽ nhỏ dần, thậm chí mất hẳn. Mọi cố gắng lôi lại
đà đó không hề dễ dàng. Như vậy, nguồn vốn nước ngoài không phải bao giờ cũng ổn
định và bền vững. Chúng ta không thể mãi trông đợi vào nguồn tài trợ từ bên ngoài mà
phải đứng vững trên đôi chân của chính mình.
Đối với nguồn vốn ODA, Việt Nam chưa thực hiện tốt tất cả các công việc cho giải
ngân tốt hơn. Sau khi chọn được dự án ODA đã khó, việc chuẩn bị của Việt Nam khi có
vốn ODA còn chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt bằng và không có sẵn vốn đối ứng trong các
dự án. Điều kiện con người và kinh tế đã làm chậm quá trình giải ngân. ODA vẫn thường
được ví như “con dao hai lưỡi”. Việc sử dụng vốn ODA cũng đi kèm với những ràng
12
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
buộc về kinh tế hoặc chính trị đối với nước được tiếp nhận vốn. Mỗi nguồn ODA có thời
gian ân hạn nhất định. Nếu không làm việc, chúng ta đã tự tước bỏ thời gian ưu đãi ấy. Ví
dụ một dự án ODA quy định trong 10 năm được hưởng lãi suất thấp, hoặc không phải trả
lãi. Nhưng vì quá trình giải ngân chậm, khi dự án bắt đầu đi vào sử dụng chỉ còn 2-3
năm. Chúng ta đã tự đánh mất 7-8 năm quý giá. Và cái giá của ODA trở nên đắt đỏ hơn.
Chưa kể nó sẽ kìm hãm sự phát triển của khu vực, lĩnh vực đưa ODA vào. Đây là lãng
phí kép: tiền của, gánh nợ, thời gian cho phát triển. đặc biệt mất thời gian đồng nghĩa với
mất đi các cơ hội. Trong hội nghị tư vấn các nhà tài trợ 2007 , ông Donal Brown, trưởng
đại diện văn phòng cơ quan phát triển Anh (DFID) đã khẳng định: “ODA không phải là
nguồn vốn cho tăng trưởng duy nhất. Do đó Chính phủ nên tìm các nguồn vốn khác, vì
chỉ vài năm tới, khi Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, các nhà tài trợ
sẽ không giành cho Việt Nam những khoản vay như hiện nay”. Như vây, việc sử dụng tốt
nguồn vốn trong nước sẽ tạo điều kiện cho sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA, FDI
cũng như các nguồn tài trợ khác. Và nguồn vốn trong nước bao giờ cũng tạo ra sự chủ
động trong hoạt động đầu tư của nền kinh tế.
Thứ hai, nguồn vốn trong nước là nguồn quan trọng cho đầu tư vào các vùng còn
khó khăn, đói nghèo, vùng sâu, vùng xa nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các
vùng miền trong cả nước, tạo điều kiện khai thác các khả năng tiềm tàng của đất nước,
phát triển kinh tế - xã hội một cách đồng bộ và bền vững. Bởi lẽ, các nguồn vốn nước
ngoài sẽ chỉ chủ yếu tập trung đầu tư cho những vùng kinh tế trọng điểm, nổi trội của
nước ta như Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh...
Thứ ba, nguồn vốn trong nước đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước theo chiều
sâu, đổi mới công nghệ đã nâng cao năng lực cạnh tranh để thích ứng ngày càng tốt hơn
trước xu thế hội nhập ngày nay, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Sự
phát triển này cũng góp phần cho sự tăng trưởng, phát triển kinh tế nước ta, từ đó tạo cơ
hội cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, nguồn vốn trong nước đầu tư vào xây dựng cơ bản tạo các điều kiện, cơ sở
vật chất cho đất nước, vốn chi cho đầu tư phát triển được ưu tiên cho những công trình hạ
tầng kinh tế - xã hội trọng điểm để từ đó tạo dựng hình ảnh mới trong mắt các nhà đầu tư
nước ngoài, tạo cơ hội cho thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta. Minh
chứng cho điều đó là việc sử dụng vốn có hiệu quả vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
13
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
cho khu công nghiệp. Đầu những năm 2000, ngay từ khi thành lập các khu công nghiệp
tại các tỉnh Trung du, miền núi Bắc Bộ...việc xây dựng cơ sở hạ tầng và theo đó là việc
vận động, lựa chọn chủ đầu tư tham gia xây dựng khu công nghiệp cũng là vấn đề mang
nhiều trở ngại do đặc điểm địa hình kinh tế của vùng kém thuận lợi. Trước tình hình đó
cần có sự hỗ trợ của nhà nước. Đáp ứng yêu cầu cấp bách đó, thủ tướng đã cho phép hỗ
trợ vốn từ ngân sách trung ương và địa phương. Nhờ đó mà hầu hết các khu công nghiệp
này đã từng bước hoàn thành về cơ bản các công trình hạ tầng và thu hút nhiều dự án đầu
tư sản xuất.
Thứ năm, đầu tư trong nước cũng là một nguồn lực tốt, thậm chí năm 2006 đầu
tư trong nước còn lớn hơn FDI. Hầu hết đầu tư trong nước là các doanh nghiệp tư nhân,
các cá nhân, do đó họ có lợi ích thực, thúc đẩy nâng hiệu quả càng cao càng tốt.
Thứ sáu, nguồn vốn trong nước, đặc biệt là vốn từ ngân sách nhà nước là nguồn
quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề cấp thiết trước mắt mà chưa thể trông đợi vào
sự viện trợ của vốn nước ngoài. Cho đến nay, nhiều động thái cho thấy khu vực nông
nghiệp, nông thôn vẫn tiếp tục nằm “ngoài rìa làn sóng phát triển” của đất nước. Bởi lẽ
đầu tư cho nông nghiệp vừa nhỏ, vừa chắp vá, phân tán. Theo số liệu của Bộ Tài chính,
trong 5 năm qua, tổng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn chỉ đạt trên 113
nghìn tỷ đồng, chỉ chiếm 8,7% vốn đầu tư của cả nước và chỉ đáp ứng được 17% nhu cầu
của khu vực này. Trong khi đó, làn sóng FDI đang ồ ạt đổ vào nền kinh tế nước ta hiện
nay cũng “lãng quên” khu vực này: tính đến 6/2007, khu vực nông nghiệp chỉ chiếm
10,12% số dự án còn hiệu lực (758/7.490 dự án); số vốn đăng kí chỉ chiếm 5,62% (3,78
tỷ USD); vốn thực hiện cũng chỉ chiếm 6,33% (gần 1.9 tỷ USD). Vì vậy đầu tư mạnh và
đồng bộ vào nông nghiệp là yêu cầu sống còn bây giờ và cả trong tương lai xa. Bởi nó sẽ
đạt được cả 2 đích ngắm: giảm sốt giá và tạo nền tảng phát triển vững chắc.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan
trọng của nguồn vốn nước ngoài. Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là
phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái
sản xuất xã hội. Vấn đề này đã được các nhà kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học
Mác-Lênin, các nhà kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “lí thuyết
tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ”, J.M.Keynes đã chứng minh rằng:
ĐẦU TƯ = TIẾT KIỆM.
14
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
Nhưng theo ông thì điều kiện cân bằng trên chỉ đúng trong trường hợp nền kinh tế đóng,
còn trong nền kinh tế mở ngày nay thì không phải lúc nào đẳng thức trên cũng được thiết
lập. Khi phần tích luỹ của nền kinh tế bằng hay lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước thì
lượng vốn đầu tư nước ngoài sẽ không cần thiết, thậm chí phần tĩch luỹ dư thừa kia còn
được đem đi đầu tư ra nước ngoài để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
Ngược lại, khi nhu cầu đầu tư trong nước lớn hơn khả năng tích luỹ vốn thì cần có nguồn
vốn nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt cho nhu cầu đầu tư.
Rõ ràng trong giai đoạn đầu, nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước thì sẽ khó có thể,
thậm chí là không thể phá vỡ được “vòng luẩn quẩn” để đưa đất nước phát triển lên một
tầm mới. Nhưng trong dài hạn thì việc huy động nguồn vốn này cũng là để khai thác tối
đa lợi thế so sánh của đất nước, nhanh chóng tạo ra năng lực tích luỹ nội địa cao để đảm
bảo vai trò quyết định của nguồn vốn đầu tư trong nước đối với sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế - xã hội.
2.Nguồn vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng
Trước năm 1986, Việt Nam thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nguồn lực
kinh tế chủ yếu tập trung trong tay nhà nước. Các thành phần kinh tế ngoài hai thành
phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể không được phép phát triển, chính vì vậy nguồn
lực cho đầu tư là rất hạn chế với quy mô vốn đầu tư nhỏ. Từ năm 1986, khi các điều luật
về đổi mới trong lĩnh vực đầu tư được thông qua nền kinh tế Việt Nam đã “cởi mở” hơn,
xuất hiện nhiều thành phần kinh tế hơn, nhiều nguồn có thể huy động vốn ví như: khu
vực tư nhân và dân cư, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài… đặc biệt vốn đầu tư nước
ngoài đã đóng vai trò quan trọng trong quy mô vốn đầu tư toàn xã hội và sự tăng trưởng
và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Năm 2007 là năm thứ hai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2006-2010, có ý nghĩa quan trọng tạo đà cho việc hoàn thành các mục tiêu của kế hoạch
này. Trong năm 2007, nền kinh tế tiếp tục phát triển ổn định, đạt mức tăng trưởng cao
nhất trong vòng 10 năm qua. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm 2007 ước tăng khoảng
8.5% (kế hoạch là 8.2-8.5%) trong đó khu vực nông lâm, ngư nghiệp tăng 3.4%, công
nghiệp và xây dựng tăng 10.6%, dịch vụ tăng 8.7%.GDP theo giá hiện hành đạt 1144 tỷ
đồng (tương đương vớI 71.3 tỷ USD), bình quân đầu người tương đương vớI 835USD
(kế hoach là 820USD).Nguồn vốn đầu tư phát triển được huy động đạt mức cao, đặc biệt
15
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
là nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhờ cải thịên môi trường đầu tư, kinh doanh, nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (số vốn đăng ký cấp mới và vốn bổ sung ) cả năm 2007 đạt
khoảng 20.3 tỷ USD, mức cao kỷ lục từ trước đến nay. Như vậy, khi nền kinh tế tăng
trưởng ở mức độ cao như vậy thì nhu cầu đầu tư của nền kinh tế là rất lớn, nếu như chúng
ta chỉ sử dụng nguồn vốn đầu tư trong nước thì không đủ đáp ứng nhu cầu đó, điều đó tạo
nên sức hút mạnh mẽ với nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ nhất, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam ngày càng gia tăng, góp phần bổ sung
nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Xét trên góc độ vĩ mô, nguồn hình thành vốn
đầu tư phát triển bao gồm: nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước
ngoài. Như chúng ta đã biết, đặc điểm của các nước đang phát triển đó chính là tỷ lệ tích
luỹ thấp. Một điều hiển nhiên là để có nguồn vốn tích luỹ thì phải hy sinh tiêu dùng,
nhưng khó khăn là ở chỗ, đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói
riêng thì thu nhập thấp chỉ đáp ứng đủ cho cuộc sống tối thiểu, vì vậy giảm tiêu dùng là
rất khó khănNhững con số minh chứng rất rõ ràng cho điều này chính là: Ở các nước phát
triển thường để dành từ 20% đến năng tiết kiệm hơn 10% thu nhập, nhưng phần lớn thu
nhập này lại được dùng để cung cấp hơn 30% thu nhập để tích lũy. Trong khi đó ở các
nước nông nghiệp thì chỉ có khả nhà ở và trang thiết bị cần thiết cho số dân đang tăng
lên. Do vậy càng hạn chế quy mô tiết kiệm và tích luỹ cho nền kinh tế. Như vậy, để
nguồn vốn đầu tư phát triển tăng thì việc “góp mặt ” của nguồn vốn đầu tư nước ngoài là
rất quan trọng.
Thứ hai, nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nhân tố quan trọng góp phần rút ngắn
khoảng cách giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Những trở ngại đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển đó là: thu nhập thấp, tỷ lệ tích
luỹ thấp, trình độ kỹ thuật thấp, năng suất lao động thấp, chúng có liên quan chặt chẽ với
nhau tạo ra “vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ”, làm cho khoảng cách giữa các nước phát
triển và các nước đang phát triển ngày càng xa.
16
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
Thu nhập thấp
Năng suất thấp Tỷ lệ tích luỹ thấp
Trình độ kỹ thuật thấp
Vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ
Đứng trước tình hình trên đòi hỏi các nước đang phát triển phải có biện pháp để phá vỡ
“vòng luẩn quẩn”. Để vá vỡ vòng luẩn quẩn này chỉ có thể “cắt đứt” mắt xích: tỷ lệ tích
luỹ. Nâng cao tỷ lệ tích luỹ bằng cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng đầu tư trong
nước, thay đổi trình độ kỹ thuật ,nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập quốc dân.
Thứ ba, nguồn vốn đầu tư nước ngoài là đòn bẩy mạnh mẽ cho nền kinh tế Việt
Nam:Thực tế từ thời kỳ mở cửa đến nay cho thấy vai trò quan trọng của nguồn vốn nước
ngoài trong những thành quả nền kinh tế Việt Nam đã đạt được,chúng ta từ một nền king
tế bao cấp lạc hậu với tốc độ phát triển vào loại thấp nhất thế giớinay đã trở thành nước
có tốc độ phát triển đứng thứ hai thế giới,từ một nền kinh tế đang trong tình trạng khủng
hoảng đã thoát ra và có nhưng bước tiến vững chắc ;tốcđộ tăng GDP hàng năm từ 7-8.5%
có những thời kì đạt 9,4%,đời sống xã hội ổn định , việc làm và cơ hội tìm việc làm ngày
càng gia tăng ,thu nhập của người lao động ngày một tăng,tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ
thuần.Chúng ta có thể thấy rõ hơn điều này thông qua một số chỉ tiêu hiệu quả kinh tế
tuyệt đối FDI:
Thu ngân sách:
Thu ngân sách tính riêng cho FDI= ∑đóng góp ngân sách*(vốn đóng góp các bên nước
ngoài/ Tổng vốn đóng góp của các bên) (Các chỉ tiêu vốn được tính bình quân)
Việc làm gia tăng: Chỉ tiêu này phản ánh số lao động gia tăng do hoạt động FDI
tạo ra trong một thời gian nhất định (thường trong một năm hoặc cả đời dự án dự án). Để
xác định chính xác số lao động gia tăng từ FDI ta cần tính số lao động có việc làm tờ FDI
17
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
cộng vớI số lao động tăng thêm từ các dự án, nghành liên đới vớI FDI và sau đó trừ đi số
lao động mất việc do FDI. Hơn nữa, số việc làm với mốc thời gian khác nhau thì không
thể xem như nhau.Vì thế, để phản ánh khả năng tạo việc làm của FDI một các chính xác
thì cần tính yếu tố thờI gian của một việc làm được tạo ra.
Vịêc làm gia tăng từ FDI=Σ(số lao động có việc làm cho FDI* số năm làm việc+ số lao
động tăng thêm từ các dự án, ngành liên quan* số năm làm việc - số lao động mất việc
do FDI* số năm mất việc).
Thu nhập của lao động: Phản ánh tổng thu nhập của người lao động bao gồm tiền
lương, tiền thưởng, phụ cấp và các khoản chi phí khác dành cho người lao động như tiền
bảo hiểm. Để xác định được thu nhập của lao động nước tiếp nhận đầu tư do riêng vốn
FDI của các đối tác nước ngoài đóng góp, chúng ta cần:Tách thu nhập của người nước
ngoài ra khỏi chỉ tiêu tổng thu nhập của người lao động và Chỉ tính thu nhập của người
Việt Nam do vốn đầu tư FDI của các đối tác nước ngoài đóng góp.Khi đó ta có:
TN của lao động VN tính riêng cho FDI=∑((tổng TN của lao động- TN của lao động
nước ngoài)*(vốn đóng góp của các bên nước ngoài / tổng vốn đóng góp của các bên
Việt Nam và nước ngoài))
Tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ thuần: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ tiết kiệm
ngoại tệ nhờ sản xuất thay thế nhập khẩu và mức tăng thu ngoại tệ thuần từ FDI. Đây là
chỉ tiêu rất quan trọng đối với việc đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu và thanh toán
các khoản nợ quốc tế nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.
Tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ thuần tính riêng cho FDI=∑(tổng tiết kiệm và tăng thu
ngoại tệ thuần*(vốn đóng góp của các bên nước ngoài/vốn đóng góp của các bên)).
Trong ba tiêu thức đánh giá phát triển, cơ cấu kinh tế được xem như là tiêu thức
phản ánh sự thay đổi về chất , là dấu hiệu đánh giá, so sánh các giai đoạn phát triển của
nền kinh tế.Qua cơ cấu nghành kinh tế có thể thấy được trình độ phát triển của nền kinh
tế nước đó. Khoảng thời gian chúng ta chưa thu hút được vốn đầu tư nước ngoài(trước
năm 1988) thì cơ cấu nghành của nước ta: khu vực nông nghiệp chiếm trên 90%GDP,
10% còn lại là khu vực công nghiệp và dịch vụ. Khi nền kinh tế Việt Nam thực sự mở
cửa thu hút một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài, tăng lượng vốn đầu tư phát triển, điều
này đã làm cho nghành công nghiệpvà dịch vụ nước ta phát triển nhanh chóng. Sở dĩ có
điều này là vì: nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (chủ yếu FDI) thường tập trung vào
18
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
nhưng nghành thay thế nhập khẩu hay những nghành thuộc khu vực công nghiệp. Bốn
ngành có kim ngạch FDI nhiều nhất (luyện kim, thực phẩm và đồ uống, ô tô xe máy và
hoá chất) chiếm tới 53% tổng kim ngạch FDI (lũy kế từ năm 1988 đến 2002) . Năm 2007,
cơ cấu kinh tế đã thay đổi theo hướng tích cực:tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, dich vụ
tăng và tỷ trọng trong khu vực nông nghiệp giảm. Trong cơ cấu GDP 2007,khu vực nông
nghiệp chiếm 20,3% công nghiệp và xây dựng 41,6%, dịch vụ 38,1 %.
Thứ tư, đầu tư nước ngoài là một kênh quan trọng trong chuyển giao công nghệ
từ nước ngoài vào Việt Nam và là con đường ngắn nhất để đổi mới công nghệ góp phần
thực hiện công cuộc công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước .Như chúng ta đã phân tích
ở trên thì trình độ kỹ thuật của sản xuất thấp là một trong các đặc điểm của các nước đang
phát triển. Ở các nước đang phát triển, hoạt động kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất
nhỏ, nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn, kỹ thuật sản xuất thủ công lạc hậu. Trong điều kiện nền
kinh tế thị trường hiện nay, với sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp, đòi hỏi các
doanh nghiệp phải thay đổi và đổi mới rất nhiều vấn đề trong đó quan trong nhất đó là
nâng cao trình độ kỹ thuật bao gồm kỹ thuật sản xuất hiện đại và trình độ quản lý cao.
Nếu doanh nghiệp tự bản thân mình nghiên cứu để có được máy móc, thiết bị với trình độ
kỹ thuật cao hơn có thể ứng dụng được vào sản xuất thì phải mất rất nhiều thời gian và
chi phí nghiên cứu, cùng với đó là rủi ro trong quá trình nghiên cứu là rất lớn. Đến khi
doanh nghiệp nghiên cứu thành công thì công trình nghiên cứu đó cũng trở nên lạc hậu về
công nghệ so với công nghệ của các nước phát triển. Chính vì lý do này mà nhiều doanh
nghiệp trong nước , do sức ép của cạnh tranh bởi các sản phẩm của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài đã cố gắng đổi mới công nghệ bằng việc nhập khẩu các thiết bị và
công nghệ mới để sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt , mẫu mã đẹp , giá cả hợp lí.
Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta đã du nhập những công nghệ hiện đại
trong các lĩnh vực viễn thông, khai thác dầu khí, hoá chất, điện tử,... phát triển một số
ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Một số ngành sử dụng nhiều lao động,
nguyên liệu trong nước như dệt, may, sản xuất giầy dép cũng có công nghệ thuộc loại
trung bình tiên tiến ở khu vực.
Thứ năm, đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy hội nhập sâu hơn vào khu vực và
thế giới, tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu. Việt Nam tham gia vàocác tổ chức như:
khu vực tự do ASEAN(AFTA) ,khu vực đầu tư ASEAN, WTO… với mục đích tạo ra
19
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
môi trường thông thoáng hơn cho hoạt động của các nghành, lĩnh vực kinh tế. Khi tham
gia các tổ chức này Việt Nam phảI thực hiện các cam kết tuân thủ các quy định tối huệ
quốc, thực hiện nghĩa vụ của tổ chức ví như: quyền sở hữu trí tuệ , các biện pháp đầu tư
liên quan đến thương mại , thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu, quy tắc xuất xứ…Ngoài các
điều khoản mà Việt Nam cam kết thì chúng ta cũng nhận được các ưu đãi từ các tổ chức
đó, tạo ra các lợi thế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Khi thu hút vốn đầu tư nước ngoài
đặc biệt là vốn FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của
công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí
nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước
thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh
xuất khẩu.
Thứ sáu, để thực hiện mục tiêu ngày càng thu hút được nhiều vốn đầu tư nước
ngoài vào nền kinh tế, ngoài việc tận dụng các lợi thế sẵn có chúng ta còn phải cải thiện
và khắc phục những điểm còn yếu kém chưa hoàn thiện của nền kinh tế. Với những lợi
thế sẵn có của đất nước: có chính trị - xã hội ổn định và kinh tế tăng trưởng cao trong
nhiều năm liên tục. Đây chính là yêu cầu quan trọng trực tiếp đến thu hút vốn đầu tư
nước ngoài.Chính trị -xã hội càng ổn định thì càng thuận lợi cho các nhà đầu tư bởi mục
đích của các nhà đầu tư là đạt được lợi nhuận cao nhất và hạn chế được rủi ro thấp nhất.
Ổn định chính trị- xã hội cũng có nghĩa là bảo đảm an toàn sinh mạng và tài sản của
những nàh đầu tư nước ngoài; không những vậy Việt Nam còn có về lợi thế về lao động
rẻ; quy mô dân số đông. Đây chính là những điều kiện hấp dẫn với nhà đầu tư nước
ngoài, nhưng để giữ được nguồn vốn đầu tư nước ngoài luôn ổn định thì chúng ta phải
khắc phục những vấn đề còn hạn chế, nếu không làm tốt điều này thì nguồn vốn đầu tư
nước ngoài sẽ giảm sút rất nhanh chóng. Chính vì mục tiêu này, những điểm yếu của nền
kinh tế nước ta sẽ được khắc phục nhanh chóng. Trong thời gian qua để hoàn thiện các
thủ tục hành chính góp phần tạo sự thông thoáng trong cơ chế quản lý, thúc đẩy gia tăng
vốn từ nước ngoài vào trong nước, chính phủ Việt Nam đã liên tực cải tiến các thủ tục
hành chính thuận lợi cho các nhà đầu tư.Mặc dù nước ta có nguồn nhân lực dồi dào
nhưng chất lượng nguồn nhân lực chưa cao(12% lực lượng lao động được qua đào tạo),
do vậy nhiều lao động làm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa đáp ứng
yêu cầu chuyên môn và kỹ thuật. Khi có vốn đầu tư nước ngoài vào đầu tư cho các công
20
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ
TRONG NƯỚC VÀ NGUỒN VỐN ĐÂU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG VIỆC
THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
I.CÁC KHÁI NIỆM
1. Khái niệm vốn, nguồn vốn đầu tư phát triển
a. Vốn đầu tư phát triển
Trên phương diện nền kinh tế: vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ
những chi phí đã chi ra để tạo ra năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố dịnh và tài sản
lưu động) và các khoản đầu tư phát triển khác .
Đặc trưng của vốn đầu tư phát triển
- Vốn đại diện cho một lượng giá trị tài sản. Vốn được biểu hiện bằng giá
trị của những tài sản hữu hình và vô hình
-Vốn phải vận động sinh lời . Vốn được biểu hiện bằng tiền . Để biến tiền
thành vốn thì tiền phải thay đổi hình thái biểu hiện , vận động và có khả năng sinh lời
-Vốn cần được tích tụ và tập trung đến một mức nhất định mới có thể phát
huy tác dụng.
- Vốn phải gắn với chủ sở hữu . Khi xác định rõ chủ sở hữu , đồng vốn sẽ
được sử dụng hiệu quả
-Vốn có giá trị về mặt thời gian. Vốn luôn vận động sinh lời và giá trị của
vốn biến động theo thời gian
Trên phạm vi nền kinh tế , nội dung cơ bản của vốn đầu tư phát triển bao gồm :
-Vốn đầu tư xây dựng cơ bản : là những chi phí bằng tiền để xây dựng mới
, mở rộng , xây dựng lại hoặc khôi phục những năng lực sản xuất của tài sản cố định
trong nền kinh tế quốc dân
-Vốn lưu động bổ sung : bao gồm những khoản đầu tư dùng mua sắm
nguyên nhiên vật liệu , thuê mướn lao động … làm tăng thêm tài sản lưu động trong kì
của toàn bộ xã hội .
-Vốn đầu tư phát triển khác : là tất cả các khoản đầu tư của xã hội nhằm
gia tăng năng lực phát triển của xã hội , nâng cao trình độ dân trí , cải thiện chất lượng
môi trường .
1
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
Những bộ phận chính của vốn đầu tư phát triển khác bao gồm : vốn chi cho công
việc thăm dò , khảo sát ,thiết kế , qui hoạch ngành , qui hoạch lãnh thổ ; vốn chi cho việc
thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm tăng cường sức khỏe cộng đồng như
chương trình tiêm chủng mở rộng , chương trình nước sạch nông thôn , phòng bệnh , kế
hoạch hóa gia đình , phòng chống tệ nạn xã hội , vốn đầu tư cho lĩnh vực giáo dục …
b. Nguồn vốn đầu tư phát triển
Nguồn vốn đầu tư phát triển là thuật ngữ để chỉ các nguồn tích luỹ, tập trung và
phân phối cho đầu tư. Trên phương diện vĩ mô, nguồn vốn đầu tư phát triển bao gồm:
Nguồn vốn trong nước:
-Nguồn vốn nhà nước bao gồm: Vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn
tín dung đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp
nhà nước.
-Nguồn vốn của tư nhân và dân cư.
Nguồn vốn nước ngoài.
-Tài trợ phát triển chính thức (ODF), bao gồm: Viện trợ phát triển chính
thức(ODA)- chiếm tỷ trọng chủ yếu, và các hình thức tài trợ khác.
-Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
-Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
2. Khái niệm tăng trưởng và phát triển kinh tế
a.Tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế được xem là một trong những vấn đề hấp dẫn nhất trong
nghiên cứu kinh tế và cùng với thời gian, quan niệm về vấn đề này cũng ngày càng hoàn
thiện hơn.Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng
thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia ăng của nền kinh tế được thể hiện ở quy
mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sanh tương đối và phản
ánh sự gia tăng nhanh hay chậm của tờng thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu
hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu
GDP, GNI và được tính cho toàn bộ nền kinh tế hoặc được tính bình quân trên đầu người.
Như vậy bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Ngày
nay, yêu cầu tăng trưởng ngày càng cao.Theo khía cạnh này, điều được nhấn mạnh nhiều
2
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
hơn đó là sự gia ăng liên tục, có hiệu quả của chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập
bình quân đầu người. Hơn thế nữa, quá trình đó phải được tại nên bởi nhân tố đóng vai
trò quyết định đó là khoa học, công nghệ và vốn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu
kinh tế hợp lý.
b. Phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế.Phát
triển được xem như là quá trình biến đổi cả về mặt lượng và về chất của nền kinh tế, nó là
sợ kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề về kinh tế và xã hội của
mỗi quốc gia. Theo cách hiểu như vậy, phát triển phải là một quá trình lâu dài và do các
nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định. Nội dung của phát triển kinh tế được khái quát
theo 3 tiêu thức: Một là, sự gia tăng tổng mớc thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng
thu nhập trên một đầu người. Đây là tiêu thức phản ánh sự biến đổi về lượng của nền kinh
tế, là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của một quốc gia và thực hiện các mục
tiêu khác của phát triển. Hai là, sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế. Đây là
tiêu thức đánh giá sự biến đổi về chất của một quốc gia. Để phân biệt các giai đoạn phát
triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển kinh tế của các nước với nhau, ngườ ta dựa
vào dấu hiệu về dạng cơ cấu nghành mà quốc gia đó đạt được. Ba là, sự biến đổi ngày
càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế trong
các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà là việc xoá bỏ
nghèo đói, suy dinh dưỡng, sự tăng lên của tuổi thọ,khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y
tế của quảng đại quần chúng nhân dân… Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự thay đổi về
chất của xã hội.
II.NỘI DUNG CỦA NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ
1.Nguồn vốn đầu tư trong nước
Biểu hiện cụ thể của nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm nguồn vốn đầu tư nhà
nước và nguồn vốn của dân cư và tư nhân.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước:
Đây chính là khoản chi của ngân sách nhà nước (NSNN) cho đầu tư. Chi cho đầu tư
phát triển của NSNN là quá trình nhà nước sử dụng một phần vốn tiền tệ đã được tạo lập
thông qua hoạt động thu của NSNN. Nguồn vốn của NSNN là một nguồn vốn đầu tư
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này
3
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
thường được dùng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, đầu tư để dự trữ vật
tư hàng hóa nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu ổn định và tăng trưởng nền
kinh tế.
Chi đầu tư phát triển từ NSNN là những khoản chi để đầu tư xây dựng cơ bản (đầu
tư để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng , các công trình thuộc cơ sở vật chất của
các doanh nghiệp nhà nước …); thông qua phương thức cấp phát hoặc tín dụng của nhà
nước, cấp phát , bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp; dự trữ vật tư hàng hóa
chiến lược của nhà nước đề phòng khi nền kinh tế gặp những biến cố bất ngờ về thiên tai
địch họa đảm bảo cho nền sản xuất phát triển ổn định và đời sống nhân dân được bình
thường; chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
-xã hội vùng ,lãnh thổ ,quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn .
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
ngày càng đóng vai trò quan trọng đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế -xã hội.
Nguồn vốn nay được hình thành từ các nguồn sau đây:
-Vốn ngân sách nhà nước hàng năm dành cho tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản.
-Vốn huy động theo chủ trương chính sách của chính phủ .
-Vốn vay nước ngoài của chính phủ và các nguồn viện trợ quốc tế dành cho tín
dụng đầu tư phát triển .
-Vốn thu hồi nợ (gốc và một phần lãi vay) cho chương trình tín dụng ưu đãi của
nhà nước đầu tư đã đầu tư trước đây đến hạn trả nợ.
-Các nguồn vốn theo quy định của chính phủ.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc
giảm đáng kể sự bao cấp trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng , các đơn vị sử dụng
nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn
phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng phát triển của nhà
nước là một hình thức quá độ từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín
dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu
tư của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua
nguồn tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế-xã hội của
4
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
ngành vùng ,lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ
điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội.
Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước .
Được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh
nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn khá lớn. Các doanh nghiệp nhà nước là
những doanh nghiệp thường hoạt động trong nhưng lĩnh vực và ngành kinh té đóng vai
trò quan trọng của nền kinh tế và của đất nước nên lượng vốn đầu tư từ các doanh nghiệp
nhà nước thường khá lớn ,có ảnh hưởng lớn đối với toàn bộ nền kinh tế.
Nguồn vốn tư nhân.
Nguồn vốn khu vực tư nhân bao gồm phần tích luỹ của dân cư, của các doanh
nghiệp dân doanh ( công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần,
hợp tác xã…) được đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội thực hiện các hoạt động đầu tư
phát triển. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào :
Trình độ phát triển của đất nước ( ở những nước có trình độ phát triển thấp
thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp)
Tập quán tiêu dùng của dân cư
Chính sách động viên của nhà nứơc thông qua chính sách thuế thu nhập và
các khoản đóng góp đối với xã hội.
Thực hiện chính sách đổi mới, cơ chế cởi mở nhằm huy động mọi nguồn lực cho
đầu tư được thực hiện, trong những năm gần đây các loại hình doanh nghiệp dân doanh
có những bước phát triển mạnh mẽ. Trong tiến trình đổi mới 20 năm qua, và bài học cho
sự phát triển trong thời gian tới, có thể nhắc đến 3 nguồn lực mà hầu hết các nước “hoá
rồng” đã thực hiện. Đó là đầu tư nước ngoài, xuất khẩu và nguồn lực khu vực tư nhân
trong nước. Nếu thời gian tới, chúng ta khai thác cả 3 động lực này một cách cân bằng và
nhất là khu vực tư nhân trong nước, thì nền kinh tế phát triển đáng kể, chống đỡ được
những chấn động từ các nhân tố bên ngoài mà ta không chủ động được. Khi nền kinh tế
hội nhập cao, tính thích ứng càng đòi hỏi cao hơn và sức ép từ những biến động thị
trường đòi hỏi ngày càng lớn hơn.
Thị trường vốn
5
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
Thị trường vốn bao gồm : thị trường chứng khoán (TTCK), thị trường bất động sản,
thị trường thuê mua tài chính, và các định chế tài chính khác (NHTM, công ty bảo hiểm,
QTDND…).
Thị trưòng vốn là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ đầu tư
bao gồm cả nhà nước và các loại hình DN. Thị trường vốn mà cốt lõi là TTCK như một
trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn
nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ trung ương và chính
quyền địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Đây được coi là
một lợi thế mà không một phương thức huy động vốn nào có thể làm được.
Thông qua thị trường vốn, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương cũng
có thể huy động vốn cho ngân sách hoặc đầu tư vào các công trình của mình bằng việc
phát hành các chứng khoán nợ như trái phiếu, công trái… Nó góp phần vào việc kiềm chế
lạm phát do chính phủ không phát hành thêm tiền giấy vào lưu thông nhằm phục vụ cho
nhu cầu chi tiêu của mình.
Mặt khác, đứng trên góc độ hiệu qủa, thị trường vốn thực sự trở thành một cái van
điều tiết hữu hiệu các nguồn vốn từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang nơi có hiệu qủa
hơn.Trên thị trường vốn, bất cứ khoản vốn nào được sử dụng đều phải trả giá, do vậy
người sử dụng vốn phải quan tâm đến việc sinh lời của mỗi đồng vốn..
2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có thể được xem xét như là các dòng lưu chuyển
vốn quốc tế (international capital flows).Thực chất các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là
biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới.Trong
các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát
triển thường được các nước thuộc thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm.Dòng vốn này diễn ra
dưới nhiều hình thức như:
-Tài trợ phát triển chính thức (ODF-official development finance) trong đó
nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA-official development assistance) chiếm tỷ
trọng chủ yếu.
-Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
6
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
-Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
a.Nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA)
Khái niệm về ODA:
Theo Ủy Ban Viện Trợ Và Phát Triển thì: Viện trợ phát triển chính thức là nguồn
vốn hỗ trợ chính thức từ bên ngoài bao gồm các khoản viện trợ cho vay và với các điều
kiện ưu đãi; ODA được hiểu là nguồn vốn dành cho các nước đang và kém phát triển,
được các cơ quan chính thức của chính phủ trung ương và các cơ quan thừa hành của
chính phủ, các tổ chức liên chính phủ và các tổ chức phi chính phủ tài trợ. Hiệp định
quốc tế hỗ trợ này được chi phối bởi công pháp quốc tế.
Theo Nghị Định 87/CP của Chính Phủ Việt Nam, ODA là viện trợ không hoàn lại
hoặc là cho vay ưu đãi của các tổ chức nước ngoài, với phần viện trợ không hoàn lại
chiếm ít nhất 25% của khoản vốn vay.
Như vậy, ODA là nguồn vốn từ các cơ quan từ các cơ quan chính thức bên ngoài
cung cấp cho các nước đang và kém phát triển hoặc là các nước gặp khó khăn về tài
chính nhằm tạo điều kiện thuận lợ cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của các nước
này.
Đặc điểm của ODA:
Do chính phủ của một nước cấp hoặc các tổ chức quốc tế cấp cho các cơ quan chính
thức của một nước (Hỗ trợ song phương và hỗ trợ đa phương).
Không cấp cho những dự án mang tính chất thương mại mà chỉ nhằm mục đích
nhân đạo, thể hiện nghĩa vụ, đồng thời là sự quan tâm giúp đỡ của các nước đối với nhau,
tăng cường thúc đẩy mối quan hệ kinh tế đối ngoại tốt đẹp giữa các quốc gia hoặc là các
tổ chức quốc tế với các quốc gia.
7
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
Tính ưu đãi chiếm trên 25% giá trị của khoản vốn vay. Yếu tố này được xác định
dựa vào yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời hạn ân hạn, số lần trả nợ trong năm và tỷ
suất chiết khấu. Công thức tính tỷ lệ yếu tố không hoàn lại như sau:
GE=100% [1 – ][1 - ]
Trong đó: r - tỷ lệ lãi suất hàng năm
a - số lần trả nợ trong năm
d - tỷ suất chiết khấu
G - thời gian ân hạn
M - thời hạn cho vay
ODA đòi hỏi phải có vốn đối ứng từ bên tham gia nhận viện trợ để họ có trách
nhiệm hơn trong việc sử dụng ODA.
ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài
với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. Tài trợ ODA mang tính ưu đãi cao hơn
bất cứ nguồn ODF nào khác.Ngoài các yếu tố ưu đãi về lãi xuất, thời hạn cho vay, khối
lượng cho vay tương đối lớn, bao giờ ODA cũng có yếu tố vốn không hoàn lại ít nhất là
25%.Việc thu hút ODA phục vụ cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam diễn ra
trong bối cảnh trong nước và quốc tế có rất nhiều thuận lợi. Để sử dụng nguồn vốn ODA
đã cam kết, Chính phủ Việt Nam đã kí kết với các nhà tài trợ các điều ước quốc tế và
ODA.
b. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Khái niệm:
FDI là hình thức đầu tư quốc tế mà nhà đầu tư nước ngoài góp một lượng vốn đủ
lớn để thiết lập các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhờ đó cho phép họ trực tiếp tham gia
điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, cùng với các đối tác nước nhận đầu tư chia sẻ
rủi ro và thu lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư đó.
Nguồn vốn FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất
kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây là nguồn vốn lớn,có ý nghĩa
8
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
quan trọng trong đầu tư và phát triển kinh tế không chỉ đối với các nước nghèo mà kể cả
các nước công nghiệp phát triển.
Nguồn vốn đầu tư trực triếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn
nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho các nước tiếp
nhận.Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư,nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích
đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn
bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành
nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật,công nghệ hay cần nhiều
vốn.Vì thế,nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp
hoá,chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư.
Các hình thức tồn tại chủ yếu của FDI :
-Hợp đồng hợp tác kinh doanh CBC (Contractual-Business-Cooperation)
-Doanh nghiệp liên doanh (Joint Venture interprise).
-Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% Foreign Cantrerisce) là.
-BOT (Build , operate and transfer)
-Khu chế xuất: Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, khu chế xuất được
hiểu là “ khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và cho các hoạt động xuất
khẩu, trong đó bao gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp hoạt động, có ranh giới về mặt địa
lý xác định, do chính phủ quyết định thành lập. Đặc biệt, khu chế xuất cho phép các
doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản xuất hành xuất khẩu miễn thuế dựa trên
kho quá cảnh.
c. Nguồn vốn vay tín dụng từ ngân hàng thương mại
Khái niệm:Tín dụng thương mại là nguồn vốn mà các nước nhận vốn vay một thời
gian phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho nước cho vay.Các nước cho vay vốn thu lợi nhuận
qua lãi suất tiền vay
Đặc điểm:
9
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
Đối tượng vay vốn thường là các doanh nghiệp. Độ rủi ro cao đối với các chủ đầu
tư khi các doanh nghiệp vay vốn hoạt động không hiệu quả,làm ăn thua lỗ, phá sản.
Vốn vay dưới dạng tiền tệ,các doanh nghiệp vay vốn có toàn quyền sử dụng.
Chủ đầu tư nước ngoài thu lợi nhuận thông qua lãi suất ngân hàng cố định theo khế
ước vay, độc lập với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp vay,có quyền sử dụng những
tài sản đã thế chấp hoặc yêu cầu cơ quan bảo lãnh thanh toán khoản vay trong trường hợp
bên vay không có khả năng thanh toán.Các ngân hàng cung cấp vốn tuy không tham gia
vào hoạt động của doanh nghiệp, nhưng trước khi nguồn vốn được giải ngân thì họ đều
nghiên cứu tính khả thi của dự án đầu tư, có yêu cầu về bảo lãnh thế chấp các khoản vay
để giảm rủi ro.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh
doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay ,của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất
quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các NHTM thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng
nhu cầu xuất,nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể
được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng
trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là
sáng sủa.
Khi sử dụng nguồn vốn tín dụng TM, các nước tiếp nhận vốn không phải chịu bất
cứ một ràng buộc nào về chính trị, xã hội, có toàn quyền sử dụng. Mặc dù vậy, thủ tục
vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe,thời gian trả nợ nghiêm ngặt.Và
do đây là nguồn vốn cho vay với lãi suất TM nên nếu các nước tiếp nhận không sử dụng
hiệu quả nguồn vốn này thì có nguy cơ dẫn đến tình trạng mất khả năng chi trả, dẫn đến
nguy cơ vỡ nợ. Đây là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
d. Thị trường vốn quốc tế.
Ưu điểm
-Có thể huy động vốn với số lượng lớn trong thời gian dài để đáp ứng nhu cầu về
vốn cho nến kinh tế mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện về tín dụng quan hệ cho vay
để gây sức ép với nước huy động vốn trong các quan hệ khác.
10
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
-Tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp cận với thị trường vốn quốc tế .Với việc trực tiếp
tham gia thị trường vốn quốc tế, đây sẽ là cơ hội tốt để thúc đẩy TTCK Việt Nam phát
triển trong tương lai.
-Khả năng thanh toán cao do có thể mua bán,trao đổi trên thị trường thứ cấp,
chính vì vậy hình thức này tương đối hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
- Đối với hình thức huy động này, người đi vay có thể tăng thêm tính hẫp dẫn bằng
cách đưa ra một số yếu tố kích thích.
Nhược điểm
- Hệ số tín nhiệm của Việt Nam rất thấp. Chính vì vậy, nếu phát hành thì trái phiếu
của Việt Nam sẽ phải chịu lãi suất ở mức cao.
-Việt Nam vẫn còn quá ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, so với một
số hình thức huy động vốn khác thì thời gian chuẩn bị vẫn còn tương đối dài.
III. LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG
NƯỚC VÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.Nguồn vốn trong nước là quyết định
Một ngôi nhà muốn vững chắc thì cần có móng tốt. Đối với nền kinh tế một nước
cũng vậy. Nguồn vốn trong nước chính là nền móng cơ bản và bền vững cho sự phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước đó. Từ những năm cuối thế kỉ XX, vấn đề phát huy nội lực
được nói đến nhiều tại Việt Nam. Trước trào lưu toàn cầu hoá ngày càng mạnh, đặt vấn
đề tăng cường và phát huy nội lực để chủ động phát triển trong ổn định là cần thiết.
Nguồn vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh
tế và phát triển xã hội. Trong đó, nguồn vốn trong nước luôn giữ một vị trí quan trọng.
Thực trạng về việc huy động và sử dụng vốn trong những năm gần đây càng chứng tỏ
tầm quan trọng ấy. Giai đoạn 2001-2005 riêng vốn nhà nước hàng năm chiếm 52-53%
tổng đầu tư toàn xã hội. Đây là nguồn vốn quan trọng góp phần định hướng , tạo ra cơ
cấu kinh tế và thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế khác.
Nguồn vốn trong nước cũng thể hiện được nhiều ưu điểm so với nguồn vốn nước
ngoài.
11
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
Thứ nhất, nguồn vốn trong nước mang tính ổn định, bền vững và giảm thiểu được
những hậu quả xấu tác động đến nền kinh tế trong nước do sự tác động của thị trường
tiền tệ thế giới. Cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997 là một minh chứng cho sự
lệ thuộc quá nhiều vào đồng vốn nước ngoài dẫn đến sự sụp đổ dây chuyền giữa các quốc
gia. Một ví dụ nữa cho sự ổn định của nguồn vốn trong nước đó là nguồn vốn trong dân.
Đây là nguồn vốn có tiềm năng lớn. Cuộc khảo sát mức sống dân cư của Tổng cục Thống
kê cho thấy, chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu cho đời sống (tức là nguồn tích luỹ)
bình quân 1 nhân khẩu 1 tháng của hộ gia đình năm 2004 tính chung cả nước là 114,4
nghìn tỷ đồng. Nguồn thì như vậy, nhưng số vốn thực tế mới thu hút vào đầu tư phát triển
trong năm 2004 được 69,5 nghìn tỷ đồng, tức là vẫn còn khoảng 42 nghìn tỷ đồng (tương
đương với trên 2,6 tỷ USD) chưa được thu hút vào đầu tư tăng trưởng. Ưu thế của nguồn
vốn của dân là không phụ thuộc vào bên ngoài, cũng như không chịu ảnh hưởng của
những biến động khôn lường từ bên ngoài. Một ưu thế nữa của nguồn vốn trong dân là do
nguồn vốn này có chủ sở hữu thật sự và cụ thể, tỉ suất đầu tư thấp do vậy hiệu quả đầu tư
cao hơn, cùng một lượng vồn nhưng sẽ tạo ra tốc độ tăng trưởng cao hơn so với vốn nhà
nước. Về vốn bên ngoài, chúng ta đã nhận được rất nhiều cam kết, nhưng tốc độ giải
ngân còn quá thấp. Nếu để tình trạng này lâu, nguy cơ rõ ràng có thể xảy đến là việc các
nhà đầu tư ngần ngại trong việc đưa ra các cam kết mới, và cả trong thực hiện các cam
kết đã có. Thậm chí họ có quyền rút vốn như đã từng xảy ra. Việt Nam đã mất tới 10 năm
để khôi phục đà đầu tư từ những năm 1995, 1996. Vào thời điểm đó, mức cam kết đầu tư
vào Việt Nam đã lên tới 8 tỷ USD. Trên thế giới, nước nào cũng muốn thu hút đầu tư cho
phát triển. TÌnh trạng khát vốn diễn ra ở mọi nơi. Địa bàn chọn lựa đầu tư rất rộng. Nếu
Việt Nam khó khăn làn sóng đầu tư náy sẽ nhỏ dần, thậm chí mất hẳn. Mọi cố gắng lôi lại
đà đó không hề dễ dàng. Như vậy, nguồn vốn nước ngoài không phải bao giờ cũng ổn
định và bền vững. Chúng ta không thể mãi trông đợi vào nguồn tài trợ từ bên ngoài mà
phải đứng vững trên đôi chân của chính mình.
Đối với nguồn vốn ODA, Việt Nam chưa thực hiện tốt tất cả các công việc cho giải
ngân tốt hơn. Sau khi chọn được dự án ODA đã khó, việc chuẩn bị của Việt Nam khi có
vốn ODA còn chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt bằng và không có sẵn vốn đối ứng trong các
dự án. Điều kiện con người và kinh tế đã làm chậm quá trình giải ngân. ODA vẫn thường
được ví như “con dao hai lưỡi”. Việc sử dụng vốn ODA cũng đi kèm với những ràng
12
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
buộc về kinh tế hoặc chính trị đối với nước được tiếp nhận vốn. Mỗi nguồn ODA có thời
gian ân hạn nhất định. Nếu không làm việc, chúng ta đã tự tước bỏ thời gian ưu đãi ấy. Ví
dụ một dự án ODA quy định trong 10 năm được hưởng lãi suất thấp, hoặc không phải trả
lãi. Nhưng vì quá trình giải ngân chậm, khi dự án bắt đầu đi vào sử dụng chỉ còn 2-3
năm. Chúng ta đã tự đánh mất 7-8 năm quý giá. Và cái giá của ODA trở nên đắt đỏ hơn.
Chưa kể nó sẽ kìm hãm sự phát triển của khu vực, lĩnh vực đưa ODA vào. Đây là lãng
phí kép: tiền của, gánh nợ, thời gian cho phát triển. đặc biệt mất thời gian đồng nghĩa với
mất đi các cơ hội. Trong hội nghị tư vấn các nhà tài trợ 2007 , ông Donal Brown, trưởng
đại diện văn phòng cơ quan phát triển Anh (DFID) đã khẳng định: “ODA không phải là
nguồn vốn cho tăng trưởng duy nhất. Do đó Chính phủ nên tìm các nguồn vốn khác, vì
chỉ vài năm tới, khi Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, các nhà tài trợ
sẽ không giành cho Việt Nam những khoản vay như hiện nay”. Như vây, việc sử dụng tốt
nguồn vốn trong nước sẽ tạo điều kiện cho sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA, FDI
cũng như các nguồn tài trợ khác. Và nguồn vốn trong nước bao giờ cũng tạo ra sự chủ
động trong hoạt động đầu tư của nền kinh tế.
Thứ hai, nguồn vốn trong nước là nguồn quan trọng cho đầu tư vào các vùng còn
khó khăn, đói nghèo, vùng sâu, vùng xa nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các
vùng miền trong cả nước, tạo điều kiện khai thác các khả năng tiềm tàng của đất nước,
phát triển kinh tế - xã hội một cách đồng bộ và bền vững. Bởi lẽ, các nguồn vốn nước
ngoài sẽ chỉ chủ yếu tập trung đầu tư cho những vùng kinh tế trọng điểm, nổi trội của
nước ta như Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh...
Thứ ba, nguồn vốn trong nước đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước theo chiều
sâu, đổi mới công nghệ đã nâng cao năng lực cạnh tranh để thích ứng ngày càng tốt hơn
trước xu thế hội nhập ngày nay, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Sự
phát triển này cũng góp phần cho sự tăng trưởng, phát triển kinh tế nước ta, từ đó tạo cơ
hội cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, nguồn vốn trong nước đầu tư vào xây dựng cơ bản tạo các điều kiện, cơ sở
vật chất cho đất nước, vốn chi cho đầu tư phát triển được ưu tiên cho những công trình hạ
tầng kinh tế - xã hội trọng điểm để từ đó tạo dựng hình ảnh mới trong mắt các nhà đầu tư
nước ngoài, tạo cơ hội cho thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta. Minh
chứng cho điều đó là việc sử dụng vốn có hiệu quả vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
13
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
cho khu công nghiệp. Đầu những năm 2000, ngay từ khi thành lập các khu công nghiệp
tại các tỉnh Trung du, miền núi Bắc Bộ...việc xây dựng cơ sở hạ tầng và theo đó là việc
vận động, lựa chọn chủ đầu tư tham gia xây dựng khu công nghiệp cũng là vấn đề mang
nhiều trở ngại do đặc điểm địa hình kinh tế của vùng kém thuận lợi. Trước tình hình đó
cần có sự hỗ trợ của nhà nước. Đáp ứng yêu cầu cấp bách đó, thủ tướng đã cho phép hỗ
trợ vốn từ ngân sách trung ương và địa phương. Nhờ đó mà hầu hết các khu công nghiệp
này đã từng bước hoàn thành về cơ bản các công trình hạ tầng và thu hút nhiều dự án đầu
tư sản xuất.
Thứ năm, đầu tư trong nước cũng là một nguồn lực tốt, thậm chí năm 2006 đầu
tư trong nước còn lớn hơn FDI. Hầu hết đầu tư trong nước là các doanh nghiệp tư nhân,
các cá nhân, do đó họ có lợi ích thực, thúc đẩy nâng hiệu quả càng cao càng tốt.
Thứ sáu, nguồn vốn trong nước, đặc biệt là vốn từ ngân sách nhà nước là nguồn
quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề cấp thiết trước mắt mà chưa thể trông đợi vào
sự viện trợ của vốn nước ngoài. Cho đến nay, nhiều động thái cho thấy khu vực nông
nghiệp, nông thôn vẫn tiếp tục nằm “ngoài rìa làn sóng phát triển” của đất nước. Bởi lẽ
đầu tư cho nông nghiệp vừa nhỏ, vừa chắp vá, phân tán. Theo số liệu của Bộ Tài chính,
trong 5 năm qua, tổng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn chỉ đạt trên 113
nghìn tỷ đồng, chỉ chiếm 8,7% vốn đầu tư của cả nước và chỉ đáp ứng được 17% nhu cầu
của khu vực này. Trong khi đó, làn sóng FDI đang ồ ạt đổ vào nền kinh tế nước ta hiện
nay cũng “lãng quên” khu vực này: tính đến 6/2007, khu vực nông nghiệp chỉ chiếm
10,12% số dự án còn hiệu lực (758/7.490 dự án); số vốn đăng kí chỉ chiếm 5,62% (3,78
tỷ USD); vốn thực hiện cũng chỉ chiếm 6,33% (gần 1.9 tỷ USD). Vì vậy đầu tư mạnh và
đồng bộ vào nông nghiệp là yêu cầu sống còn bây giờ và cả trong tương lai xa. Bởi nó sẽ
đạt được cả 2 đích ngắm: giảm sốt giá và tạo nền tảng phát triển vững chắc.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan
trọng của nguồn vốn nước ngoài. Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là
phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái
sản xuất xã hội. Vấn đề này đã được các nhà kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học
Mác-Lênin, các nhà kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “lí thuyết
tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ”, J.M.Keynes đã chứng minh rằng:
ĐẦU TƯ = TIẾT KIỆM.
14
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
Nhưng theo ông thì điều kiện cân bằng trên chỉ đúng trong trường hợp nền kinh tế đóng,
còn trong nền kinh tế mở ngày nay thì không phải lúc nào đẳng thức trên cũng được thiết
lập. Khi phần tích luỹ của nền kinh tế bằng hay lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước thì
lượng vốn đầu tư nước ngoài sẽ không cần thiết, thậm chí phần tĩch luỹ dư thừa kia còn
được đem đi đầu tư ra nước ngoài để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
Ngược lại, khi nhu cầu đầu tư trong nước lớn hơn khả năng tích luỹ vốn thì cần có nguồn
vốn nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt cho nhu cầu đầu tư.
Rõ ràng trong giai đoạn đầu, nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước thì sẽ khó có thể,
thậm chí là không thể phá vỡ được “vòng luẩn quẩn” để đưa đất nước phát triển lên một
tầm mới. Nhưng trong dài hạn thì việc huy động nguồn vốn này cũng là để khai thác tối
đa lợi thế so sánh của đất nước, nhanh chóng tạo ra năng lực tích luỹ nội địa cao để đảm
bảo vai trò quyết định của nguồn vốn đầu tư trong nước đối với sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế - xã hội.
2.Nguồn vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng
Trước năm 1986, Việt Nam thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nguồn lực
kinh tế chủ yếu tập trung trong tay nhà nước. Các thành phần kinh tế ngoài hai thành
phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể không được phép phát triển, chính vì vậy nguồn
lực cho đầu tư là rất hạn chế với quy mô vốn đầu tư nhỏ. Từ năm 1986, khi các điều luật
về đổi mới trong lĩnh vực đầu tư được thông qua nền kinh tế Việt Nam đã “cởi mở” hơn,
xuất hiện nhiều thành phần kinh tế hơn, nhiều nguồn có thể huy động vốn ví như: khu
vực tư nhân và dân cư, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài… đặc biệt vốn đầu tư nước
ngoài đã đóng vai trò quan trọng trong quy mô vốn đầu tư toàn xã hội và sự tăng trưởng
và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Năm 2007 là năm thứ hai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2006-2010, có ý nghĩa quan trọng tạo đà cho việc hoàn thành các mục tiêu của kế hoạch
này. Trong năm 2007, nền kinh tế tiếp tục phát triển ổn định, đạt mức tăng trưởng cao
nhất trong vòng 10 năm qua. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm 2007 ước tăng khoảng
8.5% (kế hoạch là 8.2-8.5%) trong đó khu vực nông lâm, ngư nghiệp tăng 3.4%, công
nghiệp và xây dựng tăng 10.6%, dịch vụ tăng 8.7%.GDP theo giá hiện hành đạt 1144 tỷ
đồng (tương đương vớI 71.3 tỷ USD), bình quân đầu người tương đương vớI 835USD
(kế hoach là 820USD).Nguồn vốn đầu tư phát triển được huy động đạt mức cao, đặc biệt
15
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
là nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhờ cải thịên môi trường đầu tư, kinh doanh, nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (số vốn đăng ký cấp mới và vốn bổ sung ) cả năm 2007 đạt
khoảng 20.3 tỷ USD, mức cao kỷ lục từ trước đến nay. Như vậy, khi nền kinh tế tăng
trưởng ở mức độ cao như vậy thì nhu cầu đầu tư của nền kinh tế là rất lớn, nếu như chúng
ta chỉ sử dụng nguồn vốn đầu tư trong nước thì không đủ đáp ứng nhu cầu đó, điều đó tạo
nên sức hút mạnh mẽ với nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ nhất, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam ngày càng gia tăng, góp phần bổ sung
nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Xét trên góc độ vĩ mô, nguồn hình thành vốn
đầu tư phát triển bao gồm: nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước
ngoài. Như chúng ta đã biết, đặc điểm của các nước đang phát triển đó chính là tỷ lệ tích
luỹ thấp. Một điều hiển nhiên là để có nguồn vốn tích luỹ thì phải hy sinh tiêu dùng,
nhưng khó khăn là ở chỗ, đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói
riêng thì thu nhập thấp chỉ đáp ứng đủ cho cuộc sống tối thiểu, vì vậy giảm tiêu dùng là
rất khó khănNhững con số minh chứng rất rõ ràng cho điều này chính là: Ở các nước phát
triển thường để dành từ 20% đến năng tiết kiệm hơn 10% thu nhập, nhưng phần lớn thu
nhập này lại được dùng để cung cấp hơn 30% thu nhập để tích lũy. Trong khi đó ở các
nước nông nghiệp thì chỉ có khả nhà ở và trang thiết bị cần thiết cho số dân đang tăng
lên. Do vậy càng hạn chế quy mô tiết kiệm và tích luỹ cho nền kinh tế. Như vậy, để
nguồn vốn đầu tư phát triển tăng thì việc “góp mặt ” của nguồn vốn đầu tư nước ngoài là
rất quan trọng.
Thứ hai, nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nhân tố quan trọng góp phần rút ngắn
khoảng cách giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Những trở ngại đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển đó là: thu nhập thấp, tỷ lệ tích
luỹ thấp, trình độ kỹ thuật thấp, năng suất lao động thấp, chúng có liên quan chặt chẽ với
nhau tạo ra “vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ”, làm cho khoảng cách giữa các nước phát
triển và các nước đang phát triển ngày càng xa.
16
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
Thu nhập thấp
Năng suất thấp Tỷ lệ tích luỹ thấp
Trình độ kỹ thuật thấp
Vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ
Đứng trước tình hình trên đòi hỏi các nước đang phát triển phải có biện pháp để phá vỡ
“vòng luẩn quẩn”. Để vá vỡ vòng luẩn quẩn này chỉ có thể “cắt đứt” mắt xích: tỷ lệ tích
luỹ. Nâng cao tỷ lệ tích luỹ bằng cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng đầu tư trong
nước, thay đổi trình độ kỹ thuật ,nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập quốc dân.
Thứ ba, nguồn vốn đầu tư nước ngoài là đòn bẩy mạnh mẽ cho nền kinh tế Việt
Nam:Thực tế từ thời kỳ mở cửa đến nay cho thấy vai trò quan trọng của nguồn vốn nước
ngoài trong những thành quả nền kinh tế Việt Nam đã đạt được,chúng ta từ một nền king
tế bao cấp lạc hậu với tốc độ phát triển vào loại thấp nhất thế giớinay đã trở thành nước
có tốc độ phát triển đứng thứ hai thế giới,từ một nền kinh tế đang trong tình trạng khủng
hoảng đã thoát ra và có nhưng bước tiến vững chắc ;tốcđộ tăng GDP hàng năm từ 7-8.5%
có những thời kì đạt 9,4%,đời sống xã hội ổn định , việc làm và cơ hội tìm việc làm ngày
càng gia tăng ,thu nhập của người lao động ngày một tăng,tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ
thuần.Chúng ta có thể thấy rõ hơn điều này thông qua một số chỉ tiêu hiệu quả kinh tế
tuyệt đối FDI:
Thu ngân sách:
Thu ngân sách tính riêng cho FDI= ∑đóng góp ngân sách*(vốn đóng góp các bên nước
ngoài/ Tổng vốn đóng góp của các bên) (Các chỉ tiêu vốn được tính bình quân)
Việc làm gia tăng: Chỉ tiêu này phản ánh số lao động gia tăng do hoạt động FDI
tạo ra trong một thời gian nhất định (thường trong một năm hoặc cả đời dự án dự án). Để
xác định chính xác số lao động gia tăng từ FDI ta cần tính số lao động có việc làm tờ FDI
17
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
cộng vớI số lao động tăng thêm từ các dự án, nghành liên đới vớI FDI và sau đó trừ đi số
lao động mất việc do FDI. Hơn nữa, số việc làm với mốc thời gian khác nhau thì không
thể xem như nhau.Vì thế, để phản ánh khả năng tạo việc làm của FDI một các chính xác
thì cần tính yếu tố thờI gian của một việc làm được tạo ra.
Vịêc làm gia tăng từ FDI=Σ(số lao động có việc làm cho FDI* số năm làm việc+ số lao
động tăng thêm từ các dự án, ngành liên quan* số năm làm việc - số lao động mất việc
do FDI* số năm mất việc).
Thu nhập của lao động: Phản ánh tổng thu nhập của người lao động bao gồm tiền
lương, tiền thưởng, phụ cấp và các khoản chi phí khác dành cho người lao động như tiền
bảo hiểm. Để xác định được thu nhập của lao động nước tiếp nhận đầu tư do riêng vốn
FDI của các đối tác nước ngoài đóng góp, chúng ta cần:Tách thu nhập của người nước
ngoài ra khỏi chỉ tiêu tổng thu nhập của người lao động và Chỉ tính thu nhập của người
Việt Nam do vốn đầu tư FDI của các đối tác nước ngoài đóng góp.Khi đó ta có:
TN của lao động VN tính riêng cho FDI=∑((tổng TN của lao động- TN của lao động
nước ngoài)*(vốn đóng góp của các bên nước ngoài / tổng vốn đóng góp của các bên
Việt Nam và nước ngoài))
Tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ thuần: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ tiết kiệm
ngoại tệ nhờ sản xuất thay thế nhập khẩu và mức tăng thu ngoại tệ thuần từ FDI. Đây là
chỉ tiêu rất quan trọng đối với việc đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu và thanh toán
các khoản nợ quốc tế nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.
Tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ thuần tính riêng cho FDI=∑(tổng tiết kiệm và tăng thu
ngoại tệ thuần*(vốn đóng góp của các bên nước ngoài/vốn đóng góp của các bên)).
Trong ba tiêu thức đánh giá phát triển, cơ cấu kinh tế được xem như là tiêu thức
phản ánh sự thay đổi về chất , là dấu hiệu đánh giá, so sánh các giai đoạn phát triển của
nền kinh tế.Qua cơ cấu nghành kinh tế có thể thấy được trình độ phát triển của nền kinh
tế nước đó. Khoảng thời gian chúng ta chưa thu hút được vốn đầu tư nước ngoài(trước
năm 1988) thì cơ cấu nghành của nước ta: khu vực nông nghiệp chiếm trên 90%GDP,
10% còn lại là khu vực công nghiệp và dịch vụ. Khi nền kinh tế Việt Nam thực sự mở
cửa thu hút một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài, tăng lượng vốn đầu tư phát triển, điều
này đã làm cho nghành công nghiệpvà dịch vụ nước ta phát triển nhanh chóng. Sở dĩ có
điều này là vì: nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (chủ yếu FDI) thường tập trung vào
18
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
nhưng nghành thay thế nhập khẩu hay những nghành thuộc khu vực công nghiệp. Bốn
ngành có kim ngạch FDI nhiều nhất (luyện kim, thực phẩm và đồ uống, ô tô xe máy và
hoá chất) chiếm tới 53% tổng kim ngạch FDI (lũy kế từ năm 1988 đến 2002) . Năm 2007,
cơ cấu kinh tế đã thay đổi theo hướng tích cực:tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, dich vụ
tăng và tỷ trọng trong khu vực nông nghiệp giảm. Trong cơ cấu GDP 2007,khu vực nông
nghiệp chiếm 20,3% công nghiệp và xây dựng 41,6%, dịch vụ 38,1 %.
Thứ tư, đầu tư nước ngoài là một kênh quan trọng trong chuyển giao công nghệ
từ nước ngoài vào Việt Nam và là con đường ngắn nhất để đổi mới công nghệ góp phần
thực hiện công cuộc công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước .Như chúng ta đã phân tích
ở trên thì trình độ kỹ thuật của sản xuất thấp là một trong các đặc điểm của các nước đang
phát triển. Ở các nước đang phát triển, hoạt động kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất
nhỏ, nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn, kỹ thuật sản xuất thủ công lạc hậu. Trong điều kiện nền
kinh tế thị trường hiện nay, với sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp, đòi hỏi các
doanh nghiệp phải thay đổi và đổi mới rất nhiều vấn đề trong đó quan trong nhất đó là
nâng cao trình độ kỹ thuật bao gồm kỹ thuật sản xuất hiện đại và trình độ quản lý cao.
Nếu doanh nghiệp tự bản thân mình nghiên cứu để có được máy móc, thiết bị với trình độ
kỹ thuật cao hơn có thể ứng dụng được vào sản xuất thì phải mất rất nhiều thời gian và
chi phí nghiên cứu, cùng với đó là rủi ro trong quá trình nghiên cứu là rất lớn. Đến khi
doanh nghiệp nghiên cứu thành công thì công trình nghiên cứu đó cũng trở nên lạc hậu về
công nghệ so với công nghệ của các nước phát triển. Chính vì lý do này mà nhiều doanh
nghiệp trong nước , do sức ép của cạnh tranh bởi các sản phẩm của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài đã cố gắng đổi mới công nghệ bằng việc nhập khẩu các thiết bị và
công nghệ mới để sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt , mẫu mã đẹp , giá cả hợp lí.
Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta đã du nhập những công nghệ hiện đại
trong các lĩnh vực viễn thông, khai thác dầu khí, hoá chất, điện tử,... phát triển một số
ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Một số ngành sử dụng nhiều lao động,
nguyên liệu trong nước như dệt, may, sản xuất giầy dép cũng có công nghệ thuộc loại
trung bình tiên tiến ở khu vực.
Thứ năm, đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy hội nhập sâu hơn vào khu vực và
thế giới, tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu. Việt Nam tham gia vàocác tổ chức như:
khu vực tự do ASEAN(AFTA) ,khu vực đầu tư ASEAN, WTO… với mục đích tạo ra
19
Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế Việt Nam
môi trường thông thoáng hơn cho hoạt động của các nghành, lĩnh vực kinh tế. Khi tham
gia các tổ chức này Việt Nam phảI thực hiện các cam kết tuân thủ các quy định tối huệ
quốc, thực hiện nghĩa vụ của tổ chức ví như: quyền sở hữu trí tuệ , các biện pháp đầu tư
liên quan đến thương mại , thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu, quy tắc xuất xứ…Ngoài các
điều khoản mà Việt Nam cam kết thì chúng ta cũng nhận được các ưu đãi từ các tổ chức
đó, tạo ra các lợi thế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Khi thu hút vốn đầu tư nước ngoài
đặc biệt là vốn FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của
công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí
nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước
thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh
xuất khẩu.
Thứ sáu, để thực hiện mục tiêu ngày càng thu hút được nhiều vốn đầu tư nước
ngoài vào nền kinh tế, ngoài việc tận dụng các lợi thế sẵn có chúng ta còn phải cải thiện
và khắc phục những điểm còn yếu kém chưa hoàn thiện của nền kinh tế. Với những lợi
thế sẵn có của đất nước: có chính trị - xã hội ổn định và kinh tế tăng trưởng cao trong
nhiều năm liên tục. Đây chính là yêu cầu quan trọng trực tiếp đến thu hút vốn đầu tư
nước ngoài.Chính trị -xã hội càng ổn định thì càng thuận lợi cho các nhà đầu tư bởi mục
đích của các nhà đầu tư là đạt được lợi nhuận cao nhất và hạn chế được rủi ro thấp nhất.
Ổn định chính trị- xã hội cũng có nghĩa là bảo đảm an toàn sinh mạng và tài sản của
những nàh đầu tư nước ngoài; không những vậy Việt Nam còn có về lợi thế về lao động
rẻ; quy mô dân số đông. Đây chính là những điều kiện hấp dẫn với nhà đầu tư nước
ngoài, nhưng để giữ được nguồn vốn đầu tư nước ngoài luôn ổn định thì chúng ta phải
khắc phục những vấn đề còn hạn chế, nếu không làm tốt điều này thì nguồn vốn đầu tư
nước ngoài sẽ giảm sút rất nhanh chóng. Chính vì mục tiêu này, những điểm yếu của nền
kinh tế nước ta sẽ được khắc phục nhanh chóng. Trong thời gian qua để hoàn thiện các
thủ tục hành chính góp phần tạo sự thông thoáng trong cơ chế quản lý, thúc đẩy gia tăng
vốn từ nước ngoài vào trong nước, chính phủ Việt Nam đã liên tực cải tiến các thủ tục
hành chính thuận lợi cho các nhà đầu tư.Mặc dù nước ta có nguồn nhân lực dồi dào
nhưng chất lượng nguồn nhân lực chưa cao(12% lực lượng lao động được qua đào tạo),
do vậy nhiều lao động làm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa đáp ứng
yêu cầu chuyên môn và kỹ thuật. Khi có vốn đầu tư nước ngoài vào đầu tư cho các công
20