Vai trò của nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam

  • 23 trang
  • file .doc
Mở đầu
Nhìn lại hơn 20 năm đổi mới cũng là đánh giá một quá trình, một giai
đoạn hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Sự hội nhập đó là một bộ phận cấu
thành, một trong những điều kiện và nhân tố cho sự thành công của sự nghiệp
đổi mới. Chúng ta hiểu hội nhập kinh tế quốc tế như thế nào? Thiết nghĩ đó
trước hết là nhận thức rằng nền kinh tế thế giới và các nền kinh tế quốc gia là
một thể thống nhất, trong đó sự tương tác giữa các nền kinh tế quốc gia, cũng
như với từng nền kinh tế quốc gia với tổng thể quy luật, cơ chế , tập quán vận
hành của kinh tế toàn cầu sẽ quy định một cách cơ bản sự phát triển và hưng
thịnh của mỗi nền kinh tế quốc gia và của cả kinh tế thế giới. Nói cách khác,
trong thời đại quốc tế hóa, không một nền kinh tế nào có thể phát triển trong
sự khép kín độc lập. Thực ra dân tộc Việt Nam trong lịch sử của mình đặc biệt
từ khi có đảng lãnh đạo đã khẳng định giá trị của hội nhập khi kết hợp cộng
hưởng tài tình nội lực với ngoại lực trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống
nhất nước nhà và lập lại hòa bình. Đương nhiên phương thức, quá trình hiệu
quả hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia sẽ tạo nên mức độ phát triển
khác nhau của từng nền kinh tế quốc gia. Điều này càng đúng khi thế giới đi
vào toàn cầu hóa.
Toàn cầu hóa đặt mỗi nước xã hội trước những thực tế và những bài toán
hết sức phức tạp, đòi hỏi vừa có tầm nhìn tổng thể, biện chứng vừa có hiểu
biết rất cụ thể, vừa có thể thích nghi nhanh chóng và linh hoạt. Để có thể làm
được điều đó, chúng ta Việt Nam nói chung và từng chủ thể kinh tế Việt Nam
nói riêng cần nghiên cứu suy ngẫm và tự xác định chúng ta đứng ở vị thế nào
trong “ thế giới phẳng”, trong “dây chuyền cung toàn cầu”. Thiếu điều đó
không thể hội nhập kinh tế quốc tế thành công, không thể phát huy đầy đủ lợi
thế so sánh và tối ưu hoá các điều kiện phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan dang lôi kéo tất cả các quốc gia
1
vào vòng vận động của nó. Tuy nhiên sân chơi quốc tế là một sự đọ sức
không cân bằng và việc hội nhập mang lại cả những thời cơ vận hội và những
thách thức to lớn mà những quốc gia nghèo và hội nhập phải vượt qua. Việt
Nam là một nước đang phát triển và hội nhập muộn, quy mô và năng lực cạnh
tranh còn hết sức nhỏ bé. Việt Nam ra nhập và trở thành thành viên của các tổ
chức kinh tế và các tổ chức tài chính thế giới đã cho thấy sự hội nhập của
chúng ta không chỉ còn dừng lại ở những phần chính sách hoặc trong một số
khuôn khổ riêng biệt nào nữa. Đó là sự hội nhập mang tính chủ động và có
tầm nhìn dài hạn và đang được thực hiện theo đúng lộ trình của chúng ta, như
chúng ta mong muốn. Thông qua việc hội nhập này Việt Nam từng bước
khẳng định vị thế, vai trò đang càng ngày nổi lên như một thành viên rất tích
cực và có trách nhiệm trong cộng đồng kinh tế quốc tế. Rõ ràng đường lối chủ
động hội nhập kinh tế thế giới của chúng ta mang lại những đóng góp tích cực
cho nền kinh tế đất nước trong quá trình phát triển. Chủ động hội nhập kinh tế
và khu vực là một chính sách lớn của Đảng cộng sản Việt Nam và nhà nước
Việt Nam. Và trong quá trình hội nhập ấy nhà nước đóng vai trò rất quan
trọng. Sau đây là một số lĩnh vực quan trọng mà thể hiện được rõ nét nhất
những vai trò của nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.
1) Vai trò của nhà nước đối với thương mại quốc tế trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một phạm trù rộng bao quát nhiều lĩnh vực,
nội dung trong đó ta phai kể đến đầu tiên và có lẽ là quan trọng nhất là thương
mại quốc tế. Đặc biệt là trước những biến động phức tạp trong quan hệ
thương mại quốc tế, trước sự bảo hộ và tự vệ của các nước phát triển đối với
các sản phẩm sản xuất trong nước vẫn được coi là các sản phẩm có lợi thế thì
vai trò của nhà nước càng trở nên quan trọng.
Vai trò của nhà nước trong thương mại quốc tế thể hiện trước hết ở việc
tạo lập môi trường pháp lý, chính sách kích thích sản xuất, nâng cao sức cạnh
2
tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế theo hướng vừa phù hợp với điều
kiện thực tế của đất nước, vừa phù hợp với luật chơi quốc tế, với các hiệp
ước, định chế quốc tế. Một môi trường pháp lý và chính sách thuận lợi sẽ tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng thị trường ra nước ngoài
nhằm tăng qui mô xuất khẩu và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới,
đồng thời bảo hộ hợp lý thị trường trong nước trước sự xâm nhập ngày càng
mạnh mẽ của hàng hoá và dịch vụ nước ngoài. Một chính sách kích thích sản
xuất tốt không chỉ đóng vai trò thúc đẩy năng lực sản xuất, bảo đảm đầu vào,
đầu ra cho quá trình sản xuất mở rộng, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về
hàng hoá của xã hội mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc khai thác tiềm
năng, thế mạnh và lợi thế so sánh của đất nước, dẫn dắt sản xuất đi theo tín
hiệu của thị trường để từ đó phân bổ nguồn lực một cách hợp lý và hiệu quả,
thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam trong những năm qua đạt
được rất nhiều thành tựu do sự nỗ lực của các chủ thể trong nền kinh tế, đặc
biệt không thể không kể đến vai trò của nhà nước trong việc tạo lập môi
trường, xây dựng được chính sách phù hợp có tác dụng hỗ trợ thực sự các
doanh nghiệp đẩy mạnh xuất nhập khẩu, thông qua đó tác động đến phát triển
kinh tế. Tuy nhiên, những thách thức to lớn nhất cũng đang đặt ra đòi hỏi nhà
nước phải vượt qua. Sau đây là ba mảng nội dung quan trọng nhất thể hiện cụ
thể vai trò của nhà nước Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Vai trò của nhà nước trong xây dựng thể chế thương mại và chính
sách tự do hoá thương mại theo các cam kết quốc tế
Trong việc tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi cho doanh nghiệp và
hàng hoá Việt Nam, nhà nước đã và đang tiếp tục đẩy nhanh việc đàm phán,
ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương để tận dụng được
lợi thế của tự do hoá thương mại, hạn chế các rào cản thuế quan và phi thuế
3
quan đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu vào các thị trường, Trong điều kiện
quốc tế hiện nay, khi các rào cản thương mại về hình thức đang được cởi bỏ
theo khuyến cáo của WTO và các tổ chức quốc tế khác, nhưng về thực chất
dường như chúng lại được dựng lên ngày càng nhiều, dưới nhiều hình thức
phi thuế quan mà phổ biến là các rào cản kỹ thuật, tiêu chuẩn xã hội nhân văn
thì việc đàm phán ký kết các hiệp định thương mại theo hướng phá bỏ các rào
cản đối với thương mại và tăng khả năng tiếp cận thị trường giữa các quốc
gia là vô cùng quan trọng. ở đây nhà nước ta lại gặp một thách thức to lớn –
thách thức của một chủ thể còn bỡ ngỡ, chưa quen với môi trường kinh doanh
và luật pháp quốc tế trong khi phải làm ăn, phải cạnh tranh với các đối tác đã
già dặn kinh nghiệm trong cả năng lực sản xuất, buôn bán và biết bảo vệ
quyền lợi của họ. Hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách trong nước phải
được hoàn thiện theo hướng minh bạch, rõ ràng và mang tính có thể dự báo
được. Nhà nước cần tiếp tục xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống
pháp luật kinh tế- thương mại trong nước cho sát hợp với các định chế của tổ
chức thương mại thế giới, các cam kết quốc tế và bắt kịp với xu hướng vận
động của thương mại quốc tế. Yêu cầu này xem qua có vẻ dễ dàng nhưng khi
động đến những điều khoản luật pháp cụ thể (mà số lượng các văn bản pháp
qui phải sửa đổi quả là không nhỏ – khoảng trên dưới 200 ), vấn đề không hề
dễ dàng đi đến thống nhất và giải quyết.
Tự do hoá thương mại là xu thế chung của thương mại quốc tế. Tuy
nhiên, tuỳ theo mức độ phát triển kinh tế cũng như sức cạnh tranh của hàng
hoá và dịch vụ trên thị trường quốc tế mà các nước đề ra lộ trình hội nhập
cũng như mức độ tự do hoá khác nhau. Để tiến tới tự do hoá thương mại, Việt
Nam một mặt cần phải cụ thể hoá hơn nữa các nguyên tắc tối huệ quốc, đối
xử quốc gia, xây dựng các trình tự, điều kiện, thủ tục áp dụng các chế độ này
trong quan hệ thương mại; mặt khác có chiến lược và sách lược bảo hộ bộ
phận trong thời kỳ hội nhập để dành lợi thế cạnh tranh khi không còn điều
kiện bảo hộ sau này. Đối với hội nhập AFTA, bên cạnh việc từng bước thực
4
hiện tự do hoá thương mại theo các cam kết trong CEPT/ AFTA, Việt Nam
cần tiếp tục điều chỉnh chính sách bảo hộ. Nhà nước cần tích cực chuẩn bị để
sẵn sàng sử dụng các biện pháp tự vệ như thuế chống bán phá giá, thuế đối
kháng, thuế tuyệt đối, thuế thời vụ để ổn định chính sách bảo hộ, đồng thời
tăng cường công tác chống buôn lậu có hiệu quả trên các tuyến biên giới,
vùng biển và thị trường nội địa.
Vai trò của nhà nước trong hoạch định Chính sách xuất nhập khẩu
Nhà nước cần chỉ đạo các cơ quan nhà nước có liên quan điều tra, phân
loại, đánh giá khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm, từng ngành hàng, từng
loại dịch vụ, từng doanh nghiệp, từng địa phương để xây dựng kế hoạch, biện
pháp thiết thực nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp
và cho hàng hoá, dịch vụ Việt Nam. Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn cho công
tác nghiên cứu, phân tích, đánh giá và khai thác lợi thế so sánh của Việt Nam
để tạo cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, chính sách và ra các quyết định
thích hợp trong tiến trình hội nhập. Từ việc xác định ưu thế cạnh tranh và lợi
thế so sánh của các mặt hàng để xây dựng phương án đầu tư, đổi mới công
nghệ vào từng mặt hàng theo thứ tự ưu tiên, kết hợp đa dạng hoá các nguồn
hàng và thị trường xuất khẩu để giảm thiểu thiệt hại khi thị trường thế giới
biến động. Lợi thế so sánh không phải là yếu tố “nhất thành, bất biến” cũng
không phải chỉ là các yếu tố nội sinh mà luôn luôn thay đổi và do nhiều yếu tố
tác động như: cách ứng xử của các chủ thể trong thương mại quốc tế, sự phát
triển của khoa học công nghệ, sự thay đổi chu kỳ sống của sản phẩm và sự
thay đổi của các chính sách và các cam kết quốc tế. Do đó việc nghiên cứu để
nhận dạng lợi thế so sánh của Việt Nam nhất là lợi thế so sánh động có vai trò
quyết định đến sự thành bại khi tham gia thương mại quốc tế.
Cần chuyển đổi cơ cấu hàng xuất khẩu, tăng cường tỷ trọng hàng chế
biến sâu, có giá trị gia tăng, hàm lượng kỹ thuật cao, đầu tư để tạo ra một số
mặt hàng xuất khẩu chủ lực với kim ngạch lớn. Ngoài ra nhà nước cần loại bỏ
5
cơ chế xin- cho trong việc cấp hạn ngạch, chuyển sang đấu thầu hạn ngạch, sử
dụng hạn ngạch thuế quan. Chính sách nhập khẩu phải phù hợp, vừa bảo hộ
hợp lý sản xuất trong nước, vừa phục vụ yêu cầu phát triển sản xuất và tiêu
dùng thiết yếu trong nước.
Để đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, các cơ quan ngoại giao và
thương vụ Việt Nam ở nước ngoài cần đóng vai trò tích cực hơn nữa trong
việc cung cấp thông tin về pháp luật, thị trường, thị hiếu, yêu cầu về chất
lượng sản phẩm, các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm nhập khẩu
của các nước để giúp các doanh nghiệp trong nước thu thập được đầy đủ
thông tin, từ đó xây dựng chiến lược thâm nhập thị trường. Các cơ quan đại
diện của Việt Nam ở nước ngoài cần đẩy mạnh hoạt động phối hợp với các
doanh nghiệp, tổ chức các chiến dịch quảng cáo, triển lãm hàng Việt Nam ở
nước ngoài. Nhà nước cần hỗ trợ mạnh hơn nữa để nâng cao năng lực của
mạng lưới xúc tiến thương mại, đặc biệt là năng lực cung cấp thông tin,
marketing thông qua việc hướng dẫn, tư vấn kỹ thuật nghiệp vụ, chuyên môn
miễn phí, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực và các hỗ trợ cần thiết khác. Nhà
nước nên tăng thêm biên chế thương vụ, tăng kinh phí cho họ, thiết lập thêm
đại diện thương vụ tại các nước và khu vực có đặt tổng lãnh sự quán nhằm
tăng cường năng lực cho các tổ chức xúc tiến thương mại trong hoạt động
phát triển thị trường. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích và tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thành lập và phát triển các tổ chức xúc tiến thương
mại phi chính phủ và các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh.
Nhà nước cũng cần hỗ trợ tăng cường năng lực cho các tổ chức đóng góp, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại quốc tế như các thể chế tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm, giao nhận, vận tải, hải quan, cảng vụ. Đặc biệt,
cần cải cách các thủ tục thẩm định tín dụng, các dịch vụ của các ngân hàng
thương mại để tạo điều kiện thuận lợi cho thanh toán quốc tế. Nhà nước cũng
cần hỗ trợ các doanh nghiệp thành lập các hiệp hội ngành hàng xuất khẩu để
hỗ trợ lẫn nhau trong xuất khẩu và tăng sức cạnh tranh. Nhà nước nên xem
6
xét qui định khống chế tỷ lệ chi phí cho hoạt động quảng cáo của các doanh
nghiệp vì với tỷ lệ chi phí dành cho quảng cáo thấp như hiện nay (5%), hoạt
động xúc tiến thương mại quốc tế của các doanh nghiệp bị hạn chế rất nhiều.
Ngoài ra, nhà nước cần tiếp tục và bổ sung thêm các chính sách hỗ trợ
các doanh nghiệp trong nước hoạt động xuất khẩu như thưởng xuất khẩu, trợ
cấp xuất khẩu, xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của quĩ hỗ trợ xuất
khẩu từ nguồn ngân sách và nguồn đóng góp của các doanh nghiệp, trước hết
là các ngành hàng có kim ngạch lớn.
Vai trò của nhà nước trong xây dựng và hoàn thiện các chính sách
kinh tế liên quan
Tăng cường vai trò của nhà nước trong việc sử dụng linh hoạt các công
cụ kinh tế vĩ mô để thúc đẩy thương mại quốc tế như xác định tỷ giá hối đoái
hợp lý, sát với sức mua của đồng Việt Nam và kích thích xuất khẩu, hỗ trợ lãi
suất cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, tiếp tục hoàn thiện chính sách
thuế, cơ cấu nguồn thu và tỷ suất thuế phải được điều chỉnh để vừa đáp ứng
được yêu cầu, thông lệ quốc tế vừa đảm bảo ổn định nguồn thu ngân sách.
Trên cơ sở nguyên tắc “không phân biệt đối xử” và “tự do hoá từng bước”,
Nhà nước phải xoá bỏ dần nhưng triệt để các loại giá, phí, sắc thuế có tính
chất phân biệt đối xử, giảm dần thuế nhập khẩu, miễn thuế hoàn toàn cho
hàng hoá xuất khẩu, cải tiến thủ tục hành chính, hải quan để tránh gây phiền
hà cho hoạt động xuất khẩu. Nhà nước cũng cần phải thiết lập chính sách lãi
suất mềm dẻo, linh hoạt theo hướng giảm chi phí vốn cho các doanh nghiệp
và kích cầu cho nền kinh tế, đảm bảo theo kịp và làm chủ được những biến
động của thị trường.
Nhà nước cần bảo vệ và hỗ trợ cho doanh nghiệp xây dựng thương hiệu
để hàng Việt Nam có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc
tế, rút ngắn thời gian và thủ tục đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu
7
thương hiệu, bằng phát minh, sáng chế, hỗ trợ doanh nghiệp đăng ký, quản lý
và bảo hộ thương hiệu Việt Nam ở thị trường nước ngoài.
Để hàng hoá Việt Nam có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và thu
hút được các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đầu tư sản xuất hàng xuất
khẩu, cần giảm giảm giá thành sản phẩm, mà trước hết, cần giảm các loại chi
phí giao dịch, chi phí trung gian, chi phí độc quyền. Muốn vậy nhà nước cần
can thiệp để có mức giá phù hợp đối với các hàng hoá, dịch vụ vốn đang được
độc quyền cung ứng như nước, điện, viễn thông, phí cảng vụ, cước vận tải nội
địa…
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ hiện nay làm xuất hiện
hình thức mua bán mới là thương mại điện tử. Hình thức thương mại này rất
phù hợp với việc mua bán các hàng hoá vô hình và dịch vụ – những sản phẩm
mà nhu cầu đang ngày càng gia tăng. Thương mại điện tử khiến nền kinh tế
thế giới càng trở nên năng động hơn, nó góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập
của tất cả các nước, trong đó có nước ta. Vì vậy, nhà nước cần đầu tư mạnh
cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông,
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật, kinh tế, quản lý; xây dựng
chính sách phát triển khoa học công nghệ, thiết lập thị trường khoa học công
nghệ, hiện đại hoá hệ thống thanh toán, ban hành pháp luật về thương mại
điện tử phù hợp với Luật thương mại điện tử quốc tế và các cam kết thương
mại điện tử mà Việt Nam tham gia. Tham gia mạnh mẽ vào thương mại điện
tử là điều kiện để Việt Nam tham gia sâu rộng hơn và nhanh hơn vào thị
trường thế giới.
2) Vai trò của nhà nước đối với thương mại và dịch vụ (TMDV) trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Những năm gần đây, quy mô của TMDV ngày càng mở rộng: Giá trị các
ngành dịch vụ mỗi năm đều tăng, trung bình từ năm 1991-2000 tăng 7,18%.
Du lịch phát triển đa dạng, phong phú, chất lượng dịch vụ được nâng lên.
8
Dịch vụ vận tải về cơ bản đáp ứng được nhu cầu giao lưu hàng hoá và đi lại
của nhân dân; khối lượng luân chuyển hàng hoá tăng 12%/năm và luân
chuyển hành khách tăng 5,5%/năm. Dịch vụ bưu chính - viễn thông có bước
phát triển và hiện đại hoá nhanh, tăng trung bình 18-20%/năm. Các dịch vụ
tài chính, kiểm toán, ngân hàng, bảo hiểm... được mở rộng và có những đổi
mới quan trọng, tăng bình quân 7,0%/năm; thị trường dịch vụ bảo hiểm được
hình thành với sự tham gia của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước.
Các loại dịch vụ khác như tư vấn pháp luật, khoa học và công nghệ... bắt đầu
phát triển. Không chỉ đáp ứng được nhu cầu trong nước, các ngành dịch vụ
nước ta đã bắt đầu xâm nhập vào thị trường thế giới.
Cần phải tránh nhận thức sai lầm là tự do hóa TMDV đồng nghĩa với
việc thả nổi khu vực dịch vụ. Bởi vì, sự điều tiết chặt chẽ của Nhà nước và
Chính phủ đối với khu vực dịch vụ sẽ đóng vai trò then chốt đối với việc tăng
cường năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì
vậy, quản lý nhà nước (QLNN) đối với các hoạt động TMDV tại Việt Nam
trong bối cảnh hiện nay là điều vô cùng cần thiết.
Quá trình mở cửa và từng bước tự do hoá thị trường dịch vụ luôn đi cùng
với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh doanh. Từ khi đổi
mới mô hình quản lý kinh tế, khuôn khổ pháp lý cho khu vực dịch vụ của Việt
Nam được phát triển nhanh chóng. Nhiều văn bản pháp lý quan trọng điều
chỉnh các ngành dịch vụ đã và đang được Nhà nước ban hành như Luật Xây
dựng, Luật Kế toán, Luật Hàng không dân dụng, Luật Ngân hàng nhà nước,
Luật Hàng hải..., và các văn bản pháp luật có tính liên ngành như Luật
Thương mại, Luật Đất đai, Bộ luật Lao động và Luật Đầu tư... Tuy nhiên,
khuôn khổ pháp luật cho lĩnh vực TMDV vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh, môi
trường chính sách còn phức tạp và phần nào mâu thuẫn, cần được sửa đổi và
hoàn thiện.
9
Cơ quan QLNN là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép cung ứng dịch
vụ và quyết định việc gia nhập thị trường dịch vụ đối với doanh nghiệp, điều
tiết các hoạt động của thị trường dịch vụ như định hướng phát triển và độ lớn
của thị trường, chính sách giá cả, tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ, giải quyết
tranh chấp, bảo vệ lợi ích khách hàng.... Không giống như các khu vực khác,
dịch vụ có đặc thù là có nhiều mối quan hệ liên ngành và trong nội bộ ngành
ở mức độ cao nên sự phát triển của nó phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp giữa
các bộ và các cơ quan. Tuy nhiên, hiện nay, mỗi ngành dịch vụ thường chịu sự
quản lý của một bộ hoặc một ngành; ngoài ra, UBND tỉnh và các sở cũng chịu
trách nhiệm về hoạt động của ngành dịch vụ đó trong phạm vi tỉnh. Kết quả là
thị trường dịch vụ tại Việt Nam bị chia cắt do hệ thống quản lý hành chính
phức tạp với các mối liên kết chằng chịt, cả theo hàng dọc và hàng ngang.
Hiện nay, thể chế quản lý kinh tế trong TMDV còn thiếu sự tách bạch
giữa công tác quản lý và hoạt động kinh doanh. Các bộ chủ quản có trách
nhiệm QLNN trong các ngành của mình đồng thời cũng là đại diện chủ sở
hữu của Nhà nước trong công tác quản lý các doanh nghiệp quốc doanh cung
cấp dịch vụ. Mâu thuẫn lợi ích xuất phát từ tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi
còi” này khiến công tác quản lý về mặt chính sách gặp không ít khó khăn, dẫn
đến sự độc quyền trong cung cấp dịch vụ.
Việc tổ chức QLNN chồng chéo kéo theo nhiều hạn chế trong phát triển
TMDV. Có thể nói, tổ chức bộ máy QLNN về TMDV ở nước ta còn lỏng lẻo,
thiếu sự quản lý thống nhất có hệ thống và chưa đáp ứng được yêu cầu chung.
Đến nay, vẫn chưa có một cơ quan QLNN nào được Chính phủ giao nhiệm vụ
đầu mối chuyên trách về quản lý TMDV, dẫn đến nhiều hậu quả không tích
cực: tăng chi phí giao dịch cho các doanh nghiệp dịch vụ trong và ngoài nước,
giảm lợi nhuận và sức cạnh tranh của khu vực dịch vụ, từ đó làm gia tăng chi
phí kinh doanh của các ngành sản xuất, giảm sức cạnh tranh của các ngành
kinh tế. Đặc biệt là ngành tài chính, ngân hàng với vai trò quan trọng trong
10
việc đảm bảo phân bổ các nguồn lực, nếu không được quản lý tốt sẽ làm giảm
đáng kể lượng đầu tư và hiệu quả đầu tư, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng
kinh tế.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò của nhà nước trong
quản lý hoạt động TMDV tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:
a) Thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh:
Cạnh tranh luôn là yếu tố động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh của giao
lưu kinh tế thương mại toàn cầu. Trong kinh doanh dịch vụ ở nước ta, vấn đề
cản trở nhất hiện nay là đa số các ngành dịch vụ đều thuộc độc quyền khai
thác của một hay một vài doanh nghiệp do Nhà nước quản lý. Hệ quả tất yếu
của độc quyền và tập trung kinh tế là hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không
lành mạnh. Theo Luật Cạnh tranh, một doanh nghiệp được coi là có vị trí
thống lĩnh thị trường khi chiếm từ 30% thị phần trở lên. Việc một công ty có
nguồn tài chính và sức mạnh có thể mua lại bất kỳ doanh nghiệp nào để trở
thành độc tôn trên thị trường mà không phải cạnh tranh là mối nguy hại
nghiêm trọng cho môi trường cạnh tranh và sự phát triển kinh tế. Vì vậy, tạo
ra cạnh tranh luôn song hành cùng vấn đề xử lý độc quyền qua việc cho phép
nhiều doanh nghiệp mới cùng tham gia thị trường dịch vụ.
Nhưng cạnh tranh hiệu quả đạt được bằng cách nào? Kinh nghiệm cho
thấy sự hiện diện của một doanh nghiệp chủ đạo thuộc sở hữu nhà nước có
thể ngăn chặn việc hình thành các lực lượng cạnh tranh. Chính phủ thường
bảo vệ các doanh nghiệp nhà nước bằng cách chỉ cho phép cạnh tranh ở
những phân đoạn thị trường nhỏ hoặc những khu vực địa lý nhất định. Những
nhà cung cấp mới gia nhập thị trường dịch vụ sẽ khó có thể cạnh tranh nổi
nếu các công ty nhà nước duy trì giá dịch vụ ưu đãi hơn nhiều hoặc vẫn có
các biện pháp bảo hộ trợ giá khác của Chính phủ. Các kết quả nghiên cứu cho
thấy, việc tự do hoá thành công lĩnh vực TMDV phụ thuộc vào sự kết hợp của
tư nhân hoá, cạnh tranh và quản lý có hiệu quả.
11
Xử lý vấn đề độc quyền là một trong những thách thức về mặt pháp luật
đối với các nước trong quá trình tạo lập môi trường kinh doanh dịch vụ lành
mạnh, bình đẳng và đáp ứng các yêu cầu của GATS. Các quy định của WTO
nói chung đều nhằm đảm bảo cho việc tiếp cận thị trường hiệu quả cho các
thương nhân mới khi gia nhập thị trường. Tuy nhiên, xử lý vấn đề độc quyền
không thể bằng các biện pháp hành chính đơn thuần mà phải thông qua các
quy định luật pháp cụ thể, các định chế của Luật Cạnh tranh và các chế định
pháp luật chuyên ngành trong từng lĩnh vực.
Đến nay, khung khổ pháp lý về cạnh tranh ở Việt Nam đã trải qua một
chặng đường dài cải cách và phát triển. Luật Cạnh tranh được Quốc hội thông
qua và có hiệu lực từ 1/7/2005 đã tạo khung khổ pháp lý tương đối hoàn chỉnh
và môi trường kinh doanh bình đẳng cho các chủ thể kinh tế. Thúc đẩy cạnh
tranh lành mạnh trong các lĩnh vực dịch vụ vừa là chính sách của Chính phủ
Việt Nam, vừa là yêu cầu của những hiệp định quốc tế mà Việt Nam đã tham
gia để hội nhập với thị trường thế giới.
b. Bảo đảm nghĩa vụ phổ cập dịch vụ
Dịch vụ là lĩnh vực nhạy cảm có liên quan đến các nhu cầu thiết yếu của
xã hội, cộng đồng và từng cá nhân như y tế, giáo dục, viễn thông, giao thông
vận tải... Bảo đảm nghĩa vụ phổ cập dịch vụ được hiểu là việc Nhà nước
thông qua các quy định pháp luật yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ phải đảm bảo
cung ứng một hoặc một số loại dịch vụ thiết yếu cho xã hội trong phạm vi
lãnh thổ nhất định. Trong kinh doanh dịch vụ, mục tiêu lợi nhuận sẽ đẩy các
nhà cung cấp xa rời các mục tiêu công ích, các vùng xa xôi, khó khăn, ít hoặc
không có lợi nhuận. Trong thời kỳ độc quyền, các công ty độc quyền thực
hiện trách nhiệm phổ cập dịch vụ, nhưng khi mở cửa thị trường cạnh tranh,
các doanh nghiệp mới thường tập trung vào vùng có lợi nhuận cao, xa rời các
nghĩa vụ phổ cập dịch vụ. Vì thế, tất cả các nước đều áp dụng nghĩa vụ đáp
ứng các mục tiêu xã hội đối với nhà cung cấp để phổ cập các các dịch vụ phổ
12
thông, công ích. Chính phủ các nước thường đưa ra nhiều biện pháp để đạt
được các mục tiêu phổ cập dịch vụ, như:
- Dựa vào các công ty độc quyền nhà nước để thực hiện mục tiêu cung
cấp các dịch vụ phổ thông, công ích, hoặc thông qua trợ cấp chéo giữa các
đoạn thị trường bằng các khoản tiền chuyển từ ngân sách nhà nước, từ các
ngân hàng do Nhà nước kiểm soát. Đây cũng là cách mà Chính phủ Việt Nam
đang áp dụng trong lĩnh vực viễn thông.
- Ràng buộc trách nhiệm đóng góp tài chính cho các doanh nghiệp khi
muốn tham gia thị trường cung cấp dịch vụ. Theo đó, một số nước trong đó có
Việt Nam, quy định nghĩa vụ đóng góp tài chính vào các quỹ phổ cập dịch vụ
công ích là một phần trong điều kiện cấp phép cho những thương nhân mới
tham gia thị trường.
- Tài trợ cho người tiêu dùng thay vì cho người cung cấp dịch vụ. Biện
pháp này có những lợi thế như có thể nhằm trực tiếp hơn vào những người
cần dịch vụ và không đủ trả cho dịch vụ đó nhằm đảm bảo khả năng tiếp cận
của người sử dụng và không phân biệt đối xử giữa các nhà cung cấp. Đến nay,
ở nước ta, các quy định về nghĩa vụ phổ cập mới xuất hiện trong một số văn
bản luật chuyên ngành về giáo dục, viễn thông, điện...
Như vậy, cùng với quá trình mở cửa thị trường, khuyến khích cạnh tranh
lành mạnh, vai trò của Nhà nước là không thể thiếu trong việc điều tiết để
đảm bảo các mục tiêu phổ cập dịch vụ công ích. Bởi vậy, các chế định về vấn
đề này cần được quy định cả trong các văn bản pháp luật thương mại chung
và các văn bản luật chuyên ngành làm cơ sở để Nhà nước điều tiết thị trường
dịch vụ, đáp ứng các mục tiêu xã hội và lợi ích của các tầng lớp nhân dân.
c. Bảo vệ lợi ích khách hàng
Trong TMDV, việc các nhà cung cấp áp dụng hình thức hợp đồng mẫu
và các điều kiện thương mại chung cho tất cả các khách hàng là hiện tượng
13
phổ biến. Khi giao kết các hợp đồng dịch vụ với các nhà cung cấp, khách
hàng hầu như không nhìn thấy tinh thần “tự do khế ước” của hợp đồng, phải
chấp nhận những quy tắc thương mại do chính nhà cung cấp dịch vụ đặt ra và
thường đứng ở thế yếu. Chính vì vậy, Nhà nước cần phải bảo vệ khách hàng
trước những hợp đồng mẫu với các điều kiện trái với pháp luật do nhà cung
cấp đưa ra. Trên tinh thần đó, để bảo vệ khách hàng trước những hợp đồng
mẫu và các điều kiện thương mại trái với pháp luật, những nhà làm luật
thường đi theo hướng ghi nhận thêm nhiều điều khoản mang tính bắt buộc
trong các văn bản pháp luật về những ngành nghề có liên quan để hạn chế khả
năng hình thành và áp dụng những điều khoản thương mại chung từ phía nhà
cung cấp sản phẩm, dịch vụ.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay, nhà nước
ta cần duy trì sự kiểm soát cần thiết để đảm bảo vẫn đạt được các mục tiêu xã
hội (như xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm...), đồng thời với việc đưa vào thực
hiện một khuôn khổ điểu tiết nhằm bảo vệ khách hàng khi mở cửa thị trường.
Khu vực dịch vụ là lĩnh vực có tầm ảnh hưởng quan trọng đối với nền
kinh tế đất nước. QLNN về TMDV ở Việt Nam được đặt ra với yêu cầu cao
hơn so với các khu vực kinh tế khác do yêu cầu xuất phát từ định hướng phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trọng tâm của QLNN về
TMDV là tạo ra và cải thiện khuôn khổ thể chế cho quá trình mở cửa, cạnh
tranh trên thị trường cung ứng dịch vụ, đảm bảo các điều kiện cạnh tranh, tạo
sự minh bạch, loại bỏ các rào cản gia nhập thị trường, đảm bảo kết hợp các
nhóm lợi ích trong xã hội, bảo vệ quyền lợi người sử dụng.
3) Vai trò của nhà nước trong quá trình hỗ trợ doanh nghiệp trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh thế giới với sự tham gia vào các tổ chức thương mại toàn
cầu, khu vực mậu dịch tự do, hiệp ước song phương và đa phương… tham gia
cạnh tranh trên thị trường quốc tế và chấp nhận cạnh tranh ngay trên thị
14
trường nội địa không còn những bảo hộ thương mại của nhà nước. Hội nhập
kinh tế thế giới cũng là giai đoạn mà doanh nghiệp phải đối mặt mạnh hơn với
những rào cản kỹ thuật của khu vực và từng quốc gia riêng biệt. Muốn hội
nhập kinh tế thế giới nhất thiết phải ra nhập WTO vì đây là thị trường chiếm
đến 97% thị trường xuất nhập khẩu thế giới. Việt Nam vào tổ chức này chính
là xâm nhập vào thị trường rộng lớn nhất thế giới. Vào WTO Việt Nam dược
hưởng những ưu đãi của tổ chức đồng thời cũng phải cam kết hoạt động bình
đẳng và minh bạch. Vậy nhà nước phải thực hiện hỗ trợ những gì cho doanh
nghiệp nhưng không vi phạm quy định chung của các tổ chức và thị trường?
Trước hết phải điều chỉnh hệ thống luật pháp cho phù hợp với thông lệ
quốc tế. Song song với cải thiện khuôn khổ luật pháp, cần đẩy mạnh cải cách
trong lĩnh vực quản lý như tăng cường năng lực quản lý kinh tế vĩ moo, nâng
cao năng lực chính quyền địa phương, tăng cường đối thoại giữa các chính
quyền và các thành phần kinh tế, tạo thông thoáng hơn trong hành sử pháp
luật..v..v…
Thứ 2: Tăng cường tính hiệu quả của các dịch vụ cơ bản như viễn
thông, giao thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm..vv… làm nền tảng cho sự
vaaj hành thông thoáng của các hoạt động kinh doanh, bên cạnh đó tiếp tục
hiện đại hóa phương thức quản lý, chuyên môn hóa nhân viên, hợp lý hóa kỹ
thuật, đồng thời phát huy tính năng động các nghiệp vụ thương mại, xúc tiến
đầu tư.
Thứ 3: Mở rộng mạng lưới thông tin, cung cấp nhiều thông tin hơn cho
doanh nghiệp về cạnh tranh thị trường và những thay đổi về các chính sách
trong nước, cũng như của WTO. Thông tin phân tích và dự báo đúng thức
trạng trong môi trường kinh doanh hiện nay của Việt Nam.
Thứ 4: Tiếp tục cải tổ doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp tư nhân phát triển, thự hiện chế độ đa sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, chú trọng duy trì vốn nhà nước vào những công ty lớn, đa dngj hóa các thị
15
trường xuất khẩu, không chỉ tập trung vào thị trường tiêu thụ mạnh như châu
Âu và Hoa Kỳ. Song song đó thúc đẩy hình thành và phát huy tác dụng của
các hiệp hội ngành nghề, xem đây là một công cụ chiến lược để hỗ trợ cho
họat động của doanh nghiệp.
Thứ 5: Những giải pháp tổng hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh của
các ngành và doanh nghiệp trong nền kinh tế, những vấn đề mấu chốt cần
thực hiện như định hướng thị trường, xác định ngành chủ lực cần phát triển,
xá định thị trường mục tiêu, xây dựng thương hiệu quốc gia và thương hiệu
sản phẩm, xây dựng các chuẩn mực quốc tếtrong sản xuất và quản lý, minh
bạch hóa các tài liệu hạch toán, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực phù hợp
với tri thức kinh doanh toàn cầu…v..v…Đây là một thách thức không nhỏ vì
nền kinh tế nước ta còn nhỏ bé, sưc cạnh tranh còn rất yếu.Việt Nam lại ở
nhóm40 quốc gia nghèo nhất thế giới(bình quân 400USD/người/năm) Các
doanh nghiệp của Việt Nam có tiềm lực cũng còn rất nhỏ. Tuy nhiên có một
thuận lợi là người Việt Nam rất thông minh, cần cù sẽ tiếp thu nhanh những
tiến bộ kỹ thuật trong sản suất và quản lý.
4) Mở rộng quan hệ đối ngoại, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo định
hướng của nhà nước:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp
tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời
mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình
hợp tác quốc tế và khu vực.
Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo
các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ
16
Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân
thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền
vững. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới
và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không
dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp
thông qua thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có
lợi.
Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng
cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm "chủ động,
linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả". Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động
của nhân dân thế giới. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả
hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã
hội.
Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng
đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề
nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi
dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" hòng can
thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ,
an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam.
Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn
với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích
đất nước làm mục tiêu cao nhất.
17
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với
chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm
2020. Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do
song phương và đa phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu
quả với các nước ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương... Củng cố và
phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược;
khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi
nước ta là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa
đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán,
ổn định và minh bạch. Cải thiện môi trường đầu tư; thu hút các nguồn vốn
FDI, ODA, đầu tư gián tiếp, tín dụng thương mại và các nguồn vốn khác. Xác
định đúng mục tiêu sử dụng và đẩy nhanh việc giải ngân nguồn vốn ODA, cải
tiến phương thức quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng và có kế hoạch trả nợ
đúng hạn; duy trì tỉ lệ vay nợ nước ngoài hợp lý, an toàn.
Phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến mạnh thương mại
và đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương hiệu mới.
Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh
nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài.
Đẩy mạnh công tác văn hoá - thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường
sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước.
Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối
ngoại vững vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ
cao, có đạo đức và phẩm chất tốt.
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự
tham gia và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.
18