Ứng dụng hiệp ước basel vào quản trị rủi ro tín dụng tại một số ngân hàng thương mại việt nam
- 103 trang
- file .pdf
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
TÔ QUỐC THÁI
ỨNG DỤNG HIỆP ƯỚC BASEL VÀO QUẢN
TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI MỘT SỐ NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 60.31.12
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS LẠI TIẾN DĨNH
TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2012
LỜI MỞ ĐẦU
Hệ thống ngân hàng thương mại ngày càng giữ vai trò quan trọng trong việc
điều hoà nguồn vốn cho nền kinh tế, đồng thời cũng là công cụ quan trọng trong
việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Sự tăng trưởng và phát triển ổn định của
hệ thống này có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến sự tăng trưởng của nền kinh tế
quốc dân.
Đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay thì hoạt động tín
dụng là hoạt động kinh doanh chính, tạo ra nguồn lợi nhuận chính cho các ngân
hàng thương mại (theo thống kê chiếm từ 70% - 80%/tổng lợi nhuận). Tuy nhiên
hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, do vậy công tác quản trị, giám sát
không hiệu quả thì hệ quả xấu nhất có thể là làm sụp đổ cả hệ thống tài chính – tiền
tệ quốc gia.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế các ngân hàng thương mại ngày
càng phải nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao hiệu quả quản trị điều hành đặc
biệt là nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng thì mới có thể tồn tại và phát triển
trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, không những từ các ngân hàng
thương mại trong nước mà còn phải cạnh tranh với các ngân hàng thương mại đến
từ nước ngoài. Khi chúng ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) chúng
ta phải thực hiện các cam kết với các tổ chức quốc tế và các quốc gia khác, trong đó
có lĩnh vực tài chính – ngân hàng.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao hiệu quả quản trị điều hành các
ngân hàng thương mại Việt Nam cần phải tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm từ các ngân
hàng thương mại trên thế giới mà hiện nay Hiệp ước Basel được xem là kim chỉ
nam cho các ngân hàng thương mại hàng đầu trên thế giới đang triển khai áp dụng
và đã áp dụng trong công tác quản trị ngân hàng nói chung và quản trị rủi ro tín
dụng nói riêng. Với quy mô, nguồn lực, trình độ kỹ thuật, công nghệ quản trị điều
hành của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế so với
các nước trong khu vực và thế giới thì việc triển khai áp dụng các chuẩn mực, thông
lệ quốc tế là một quá trình đầy thách thức nhưng là xu thế tất yếu buộc hệ thống các
1
ngân hàng thương mại Việt Nam phải thực hiện thì mới có thể tồn tại và phát triển
bền vững.
Nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng,
Uỷ ban Basel đã đưa ra những yêu cầu về an toàn vốn, ban hành lần đầu vào năm
1988 gọi là Basel I, lần thứ hai vào năm 2004 gọi là Basel II. Tuy nhiên, những tiêu
chuẩn về vốn này vẫn chưa đủ để bảo vệ hệ thống ngân hàng thoát khỏi những thiệt
hại nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Trước những diễn
biến phức tạp của khủng hoảng và những hệ lụy lâu dài của chúng đối với hệ thống
tài chính – ngân hàng toàn cầu, Uỷ ban Basel lại một lần nữa dự thảo và thông qua
phiên bản thứ ba - Basel III về các tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
Sắp tới không chỉ có những nước phát triển áp dụng Basel III, mà ngay cả
các thị trường mới nổi, trong đó có Việt Nam. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu các
nội dung cơ bản của Hiệp ước Basel để có thể vận dụng đơn giản hơn nhưng vẫn
hiệu quả cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Vì lý do đó, tác giả đã
chọn thực hiện đề tài:
“ Ứng dụng Hiệp ƣớc Basel vào quản trị rủi ro tín dụng tại một số ngân hàng
thƣơng mại Việt Nam”, với mong muốn góp phần vào sự phát triển bền vững của
hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Đề tài nghiên cứu này dựa trên các cơ sở
khoa học và thực tiễn sau:
1. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu các qui định, các chuẩn mực của Basel, tham
khảo kinh nghiệm ứng dụng Basel từ các nước, từ đó đối chiếu với thực trạng của
các NHTM Việt Nam về qui mô, công nghệ, năng lực quản trị, hiệu quả hoạt động,
thực trạng giám sát ngân hàng… để có cái nhìn khái quát nhất về nguyên nhân, tồn
tại của các NHTM Việt Nam hiện nay từ đó đưa ra các giải pháp để ứng dụng Hiệp
ước Basel trong công tác quản trị rủi ro tín dụng. Với mong muốn đề xuất chương
trình hành động và lộ trình ứng dụng Hiệp ước Basel vào hệ thống ngân hàng Việt
Nam trong công tác quản trị rủi ro tín dụng nhằm bảo đảm cho các NHTM Việt
2
Nam phát triển bền vững khi hội nhập sâu vào hệ thống ngân hàng khu vực và thế
giới.
2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu các qui định, các chuẩn mực của Basel về quản trị rủi ro
và các chuẩn mực liên quan đến qui trình thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động
ngân hàng. Trong đó, tập trung vào qui định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, các
phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường và việc
thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên qui trình rất phức tạp, phương pháp tính toán đa dạng, trong phạm vi
nghiên cứu của mình, đề tài chỉ giới hạn trong việc nêu ra các nội dung, các chuẩn
mực mang tính khái quát, đơn giản về Hiệp ước Basel, như tỷ lệ an toàn vốn và các
phương pháp đo lường rủi ro, cũng như tóm lược một cách chung nhất về thực trạng
quản trị rủi ro của các NHTM Việt Nam để từ đó đề xuất chương trình hành động
và xây dựng lộ trình ứng dụng Hiệp ước Basel vào việc quản trị rủi ro tín dụng cho
các NHTM Việt Nam.
3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các nội dung chung nhất từ các phiên bản
của Hiệp ước Basel trên phương pháp suy luận logic, thống kê, so sánh, phân tích
hoạt động kinh tế trong thực tiễn, từ nguồn thông tin thu nhận và từ nhận định của
các chuyên gia và từ kinh nghiệm của các nhà quản trị, điều hành hoạt động ngân
hàng.
Ngoài ra tác giả còn chọn lọc thông tin từ các bài viết chuyên đề trên các tạp chí
chuyên ngành tài chính - ngân hàng, báo cáo thường niên của các NHTM, NHNN
và tham khảo các bài viết của những người đi trước… để làm cơ sở dữ liệu tổng
hợp, phân tích để có những đánh giá khách quan về nội dung của đề tài.
3
4. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn được chia thành ba chương:
Chương I: Những vấn đề chung về Hiệp ước Basel và quản trị rủi ro tín dụng ngân
hàng.
Chương II: Thực trạng ứng dụng Hiệp ước Basel trong quản trị rủi ro tín dụng của
một số NHTM Việt Nam.
Chương III: Giải pháp thúc đẩy ứng dụng Hiệp ước Basel vào hoạt động quản trị rủi
ro tín dụng của các NHTM Việt Nam
4
CHƢƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HIỆP ƢỚC BASEL VÀ
QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1 Tổng quan về Hiệp ƣớc Basel
1.1.1. Sự hình thành và hoạt động của Ủy ban Basel
Ủy ban về giám sát Ngân hàng (Basel Committee on Banking Supervision –
BCBS) là Ủy ban của các cơ quan giám sát ngân hàng được các thống đốc ngân
hàng Trung ương của nhóm 10 nước phát triển (G10) thành lập vào cuối năm 1974
tại Thành phố Basel – Thụy Sỹ, xuất phát từ cuộc khủng hoảng thị trường tiền tệ
quốc tế và thị trường ngân hàng (đặc biệt là sự sụp đổ của ngân hàng Bankhaus
Herstatt ở Tây Đức). Cuộc họp diễn ra vào tháng 2/1975 và về sau được tổ chức đều
đặn 3 hoặc 4 lần/năm. Ủy ban thường họp tại Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS)
tại Thành phố Basel, nơi Ban thư ký thường trực đóng trụ sở.
Ủy ban này hiện có 27 nước thành viên, gồm: Argentina, Úc, Bỉ, Brazil, Canada,
Trung Quốc, Pháp, Đức, Hồng Kông, Ấn Độ, Indonexia, Ý, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Luxemburg, Mexico, Hà Lan, Nga, Saudi Arapbia, Singapor, Nam Phi, Tây Ban
Nha, Anh, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Sỹ, Thụy Điển. Trong Ủy ban còn có 25 nhóm
kỹ thuật và một số bộ phận khác được nhóm họp thường xuyên để thực hiện các
nội dung công việc của Ủy ban. Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel gồm 15 thành
viên là những nhà giám sát hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp được biệt phái tạm
thời từ các TCTD tài chính thành viên. Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa
ra những vấn đề cho các cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước.
Ủy ban Basel không có bất kỳ cơ quan giám sát nào và những kết luận không có
tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân hàng. Thay
vào đó, Ủy ban này chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn
giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất với kỳ vọng các
tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng thông qua những điều chỉnh phù hợp cho hệ thống quốc
5
gia của họ. Ủy ban khuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn
chung mà không can thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên.
Vào tháng 7 năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà
nó được đề cập như là Hiệp ước vốn Basel (The Basel Capital Accord hay Basel I,
còn gọi là Basel I), có hiệu lực từ năm 1992. Hệ thống này cung cấp khung đo
lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu là 8%. Đến năm 1996, Basel I
được sửa đổi với rất nhiều điểm mới. Tuy vậy, Hiệp ước vẫn còn khá nhiều điểm
hạn chế.
Vào năm 1997, Ủy ban Basel đã xây dựng “Các nguyên tắc nòng cốt cho việc giám
sát hoạt động ngân hàng hiệu quả”. Tháng 10/1999, Ủy ban đã phát triển “Phương
pháp luận các nguyên lý nòng cốt” – một sự tổng kết các nguyên lý nòng cốt và
phương pháp luận còn gọi là bộ 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng.
Để khắc phục những hạn chế của Basel I, vào tháng 06/1999, Ủy ban Basel đã ban
hành đề xuất khung đo lường mới với 3 trụ cột chính: (1) yêu cầu vốn tối thiểu; (2)
giám sát; và (3) kỷ luật thị trường để nâng cao tính ổn định trong hệ thống tài chính.
Sau những thử nghiệm rộng rãi, Basel II đã được ban hành vào ngày 26/06/2004,
làm cơ sở cho việc xây dựng quy chế về giám sát hoạt động ngân hàng và các ngân
hàng chuẩn bị cho việc thực hiện các tiêu chuẩn mới. Tháng 01/2007, Hiệp ước
Basel II có hiệu lực và đến năm 2010 chấm dứt quá trình chuyển đổi.
Nhằm ngăn chặn sự tái diễn khủng hoảng tài chính, ngày 12/09/2010, Ủy ban Basel
đã nhóm họp tại Basel và đã chính thức đồng ý về chuẩn Basel III với những quy
định nghiêm ngặt hơn về vốn và ấn định thời hạn để các ngân hàng thực hiện những
quy định này. Basel III được đề xuất tháng 12/2009, và sửa đổi tháng 7/2010.
* Lịch sử ngắn gọn của Hiệp ƣớc vốn Basel
Năm 1974, BCBS được thành lập từ nhóm G10 Ngân hàng Trung ương.
Năm 1988, Hiệp ước vốn Basel đầu tiên (Basel I) ra đời và có hiệu lực từ
1992.
Năm 1996, được sửa đổi bổ sung thêm rủi ro thị trường (có hiệu lực từ
1997).
6
Tháng 6/1999, đề xuất một khung mới – chương trình tư vấn lần thứ nhất
(First Consultative Package CP1).
Tháng 1/2001, chương trình tư vấn lần thứ hai (CP2).
Tháng 4/2003, chương trình tư vấn lần ba (CP3).
Quý 4/2003, phiên bản hoàn thiện của Hiệp ước Basel mới.
Tháng 1/2007, Hiệp ước vốn Basel mời (Basel II) có hiệu lực.
Năm 2010, chấm dứt quá trình chuyển đổi
Tháng 9/2010, ban hành Hiệp ước Basel III, thời gian chuyển đổi từ năm
2013.
1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của Hiệp ƣớc Basel I
Sau một thời gian hoạt động, Ủy ban đã nghiên cứu và đưa ra các yêu cầu về
an toàn vốn, được ban hành lần đầu vào năm 1988 và gọi là Basel I. Hiệp ước Basel
I năm 1988 mang tính chất thỏa thuận quốc tế và các tiêu chuẩn về vốn đã trở thành
chuẩn mực quốc tế về vốn tự có. Nó quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và quản
lý rủi ro tín dụng đối với ngân hàng, là một trong những căn cứ, tiêu chuẩn để các
ngân hàng của các quốc gia trên thế giới áp dụng quản lý, bảo đảm an toàn trong
hoạt động. Tuy nhiên, Basel I mới chỉ đề cập đến những rủi ro về tín dụng chứ chưa
đề cập đến những rủi ro khác như rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất...
Nội dung cơ bản của hiệp ước Basel I chủ yếu về yêu cầu vốn tối thiểu.
Tiêu chuẩn 1: Tỉ lệ vốn dựa trên rủi ro – “Tỉ lệ Cook”
Tỉ lệ này được phát triển bởi Ủy ban Basel với mục đích củng cố hệ thống
ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt động quốc tế, nhưng
sau này đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia.
Theo tiêu chuẩn này, ngân hàng phải giữ lại lượng vốn bằng ít nhất 8% tài
sản có trọng số rủi ro, được tính toán theo nhiều phương pháp khác nhau và phụ
thuộc vào độ rủi ro của chúng.
Vốn bắt buộc >= 8% x Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền
Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) = Vốn bắt buộc / Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền
7
Tiêu chuẩn này quy định 05 định mức về vốn nhƣ sau:
Mức vốn tốt : CAR > 10%
Mức vốn thích hợp : CAR > 8%
Thiếu vốn : CAR < 8%
Thiếu vốn rõ rệt : CAR < 6%
Thiếu vốn trầm trọng: CAR < 2%
Tiêu chuẩn 2: Vốn cấp 1, cấp 2 và cấp 3
Vốn cấp 1 >= Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3
Bảng 1.1 : Các loại vốn cấp 1, cấp 2, cấp 3 theo quy định của hiệp ƣớc Basel I
Vốn tự có Nguồn vốn
- Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn.
- Dự trữ công bố (Lợi nhuận giữ lại).
Cấp 1- Vốn nòng cốt
- Lợi ích thiểu số (Minority interest) tại các công ty con,
có hợp nhất báo cáo tài chính.
- Lợi thế kinh doanh (goodwill).
- Lợi nhuận giữ lại không công bố.
- Dự phòng đánh giá lại tài sản.
Cấp 2- Vốn bổ sung
- Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung.
- Các công cụ nợ có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu.
- Nợ thứ cấp có kỳ hạn.
Cấp 3 (Dành cho rủi - Vay ngắn hạn
ro thị trƣờng)
Tổng vốn cấp 1 và cấp 2 chính là vốn tự có hay vốn cơ bản của TCTD.
* Giới hạn về vốn: Tổng vốn cấp 2 không được quá 100% vốn cấp 1; Nợ thứ cấp
có kỳ hạn tối đa bằng 50% vốn cấp 1; Dự phòng chung tối đa bằng 1,25% tài sản có
rủi ro; Dự trữ đánh giá lại tài sản được chiết khấu 55%.
Tiêu chuẩn 3: Vốn tính theo rủi ro gia quyền
8
Tài sản tính theo rủi ro gia quyền (RWA) = Tổng (Tài sản x Mức rủi ro phân
định cho từng tài sản trong bảng CĐKT) + Tổng (Nợ tương đương x Mức rủi ro
ngoại bảng)
Tùy theo mỗi loại tài sản sẽ được gắn cho một trọng số rủi ro. Theo Basel I, trọng
số rủi ro của tài sản được chia thành 4 mức là 0%, 20%, 50%, và 100% theo mức độ
rủi ro của từng loại tài sản. Ví dụ tiền mặt tại quỹ hay trái phiếu chính phủ có trọng
số rủi ro là 0%.... Trọng số rủi ro không phản ánh độ nhạy cảm rủi ro trong mỗi loại
này1 (phụ lục 1)
Những thiếu sót của Basel I
- Không phân biệt theo loại rủi ro.
+ Một khoản nợ đối với tổ chức xếp hạng AA được coi như một khoản nợ đối
với tổ chức xếp hạng B
+ Một khoản nợ cho một ngân hàng nhỏ chỉ cần một lượng vốn bằng một phần
nhỏ so với khoản nợ cho một công ty lớn (xếp hạng AA+). Việc giữ các tài sản
có độ rủi ro thấp ít sinh lợi hơn tài sản có độ rủi ro cao.
- Không có lợi ích từ việc đa dạng hóa.
+ Một khoản nợ riêng lẻ yêu cầu một lượng vốn giống như một danh mục đầu
tư được đa dạng hóa, với cùng một giá trị.
+ Không có sự khác biệt nào giữa một khoản vay 100 USD và 100 khoản vay
1 USD.
- Không có yêu cầu vốn dự phòng rủi ro vận hành. Một trong những điểm hạn
chế cơ bản của Basel I là không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng
trở nên phức tạp với mức độ ngày càng tăng lên, đó là rủi ro vận hành.
1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của Hiệp ƣớc Basel II
Trước đòi hỏi của sự phát triển, về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân
hàng của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là đối với những tập đoàn ngân hàng lớn có
phạm vi hoạt động quốc tế và nhằm bổ sung cải thiện những thiếu sót của hiệp ước
1
Phụ lục 1: Hệ số rủi ro cho các khoản mục trên bảng và ngoài bảng cân đối tài sản theo Basel I
9
Basel I đáp ứng nhu cầu thực tiễn hoạt động của hệ thống ngân hàng thì Hiệp ước
Basel II đã ra đời. Hiệp ước Basel II là hiệp ước quốc tế về tiêu chuẩn an toàn vốn,
tăng cường quản trị toàn cầu hóa tài chính cũng như việc khai thác tối đa tiềm năng
lợi nhuận và hạn chế rủi ro. Hiệp ước Basel II đề cập tới các vấn đề chính gồm
những quy định liên quan tới tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu, quá trình xem xét giám sát
của cơ quan quản lý và cuối cùng là các quy tắc thị trường. Basel II bao gồm những
khuyến nghị về luật và quy định ngành ngân hàng, được ban hành bởi Uỷ ban Basel
về giám sát ngân hàng. Về bản chất, hiệp ước Basel II đơn thuần làm tinh xảo hơn,
hoàn thiện hơn cách thức đo lường và tính toán những rủi ro nhằm giúp các ngân
hàng quản lý rủi ro.
Ngoài rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường đã được qui định tại Basel I, Basel
II bổ sung thêm một loại rủi ro nữa là rủi ro hoạt động (rủi ro hoạt động là rủi ro
xảy ra tổn thất do các qui trình, hệ thống hay nhân viên trong nội bộ ngân hàng vận
hành không tốt hoặc do các nguyên nhân khách quan bên ngoài. Đây là một trong
những rủi ro trầm trọng mà ngân hàng thường phải đối mặt trong quá trình hoạt
động). Basel II vẫn qui định mức vốn an toàn tối thiểu là 8% và chỉ thay đổi cách
tính ở mẫu số trong công thức tính tỷ lệ đủ vốn. Theo đó, mẫu số phải bao gồm cả
ba loại rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động. Basel II đã bãi bỏ
cách tiếp cận rủi ro của Basel I và thay bằng cách phân định các mức rủi ro trên cơ
sở xếp hạng chính xác hơn mức độ rủi ro, các ngân hàng sẽ phải phụ thuộc chủ yếu
vào kết quả xếp hạng và đánh giá độ tín nhiệm của các tổ chức độc lập như
Moody’s, S&P. Hệ thống đo lường theo Basel II phức tạp hơn, nhưng có khả năng
đánh giá chính xác mức độ an toàn vốn.
Về mặt định lượng công tác đo lường rủi ro tín dụng, Hiệp ước này đưa ra
một chọn lựa giữa các phương pháp “ được tiêu chuẩn hóa”, “cơ bản” và “nâng
cao”. Nó khắc phục những hạn chế của các “tỷ số Cook”, bằng một số nâng cao hạn
chế các trọng số và một trọng số duy nhất cho mọi đối tác rủi ro 100%. Không có
thay đổi nào đối với định nghĩa về vốn và vốn cấp 1/cấp 2 lẫn hệ số 8%.
Basel II sử dụng khái niệm “ba trụ cột”:
10
Yêu cầu về vốn tối thiểu.
Giám sát.
Quy luật thị trường - để nâng cao tính ổn định trong hệ thống tài chính.
Trụ cột thứ I: Yêu cầu về vốn tối thiểu
Trụ cột thứ I liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Lượng vốn duy trì được
tính toán theo ba yếu tố rủi ro chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi
ro vận hành và rủi ro thị trường. Những loại rủi ro khác không được coi là có thể
lượng hoá hoàn toàn ở bước này. Phần này là tiêu chí cốt lõi của Hiệp ước Basel II,
tính toán tổng yêu cầu vốn tối thiểu đối với rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành, rủi ro
thị trường. Tỷ lệ vốn được tính dựa trên vốn điều chỉnh và các tài sản có trọng số
rủi ro. Tổng tỷ lệ vốn phải >= 8%. Vốn cấp 2 được giới hạn đến 100% vốn cấp 1;
Vốn cấp 3 được giới hạn 250% vốn cấp 1. Tổng các tài sản có trọng số rủi ro được
xác định bằng cách nhân các yêu cầu vốn đối với rủi ro thị trường và rủi ro hoạt
động với 12,5 (nghịch đảo của tỷ lệ vốn tối thiểu 8%) và cộng kết quả với tổng các
tài sản có trọng số rủi ro đối với rủi ro tín dụng. Mức độ an toàn vốn được xác định:
Tổng vốn (giống Basel I)
CAR = >= 8%
RWA rủi ro tín dụng + 12,5 x (Tổng K rủi ro hoạt động + Tổng K rủi ro thị trường)
Trong đó:
RWA rủi ro tín dụng: Tổng các tài sản có trọng số rủi ro đối với rủi ro tín
dụng
K rủi ro hoạt động: Mức độ an toàn vốn đối với rủi ro hoạt động
K rủi ro thị trường: Mức độ an toàn vốn đối với rủi ro thị trường
Đối với các ngân hàng sử dụng cách tiếp cận IRB đối với rủi ro tín dụng
hoặc cách tiếp cận đo lường nâng cao (AMA) đối với rủi ro hoạt động, sẽ thực hiện
mức vốn sàn (capital floor). Các ngân hàng phải tính mức chênh lệch giữa mức vốn
sàn dựa trên cơ sở áp dụng Basel I với mức vốn sàn tính toán theo Basel II. Nếu số
dư sàn lớn hơn, các ngân hàng được yêu cầu bổ sung 12,5 lần chênh lệch cho các tài
sản có trọng số rủi ro. Mức vốn sàn tính theo Basel II: (1) 8% tổng các tài sản có
11
trọng số rủi ro, (2) trừ đi mức chênh lệch giữa tổng dự phòng và số dư tổn thất kỳ
vọng, và (3) cộng các khấu trừ vốn Cấp 1 và Cấp 2 khác.
* Các trọng số rủi ro theo Trụ cột 1
- Phương pháp đo lường rủi ro tín dụng:
+ Phương pháp chuẩn đánh giá rủi ro tín dụng – Standarised Approach (SA)
+ Phương pháp dựa trên xếp hạng nội bộ cơ bản – Fundation Internal Rating
Based Approach (IRBF)
+ Phương pháp dựa trên xếp hạng nâng cao – Advanced Internal Rating Based
Approach (IRBA)
- Phương pháp đo lường rủi ro hoạt động:
+ Phương pháp chỉ số cơ bản – Basic Indicator Approach (BIA)
+ Phương pháp chuẩn – Standarddised Approach (TSA)
+ Phương pháp đo lường nâng cao – Advanced Measurement Approaches (AMA)
- Phương pháp đo lường rủi ro thị trường:
+ Phương pháp chuẩn – Standardised Approach (SA)
+ Phương pháp mô hình nội bộ - Internal Models Approach (IMA)
Trụ cột thứ II: Giám sát
Trụ cột thứ II liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, cung cấp
cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I. Trụ cột
này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như
rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro
pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk).
Các ngân hàng cần phải đánh giá một cách đúng đắn về những loại rủi ro mà
họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng những giám sát viên sẽ có thể đánh giá được
tính đầy đủ của những biện pháp đánh giá này. Với trụ cột này, Basel II nhấn mạnh
4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:
Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn của
họ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì
mức vốn đó.
12
Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức vốn nội
bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng. Họ cũng phải có khả năng giám
sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Theo đó, giám sát viên nên thực hiện
một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy
trình này.
Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu
theo quy định.
Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng
không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập
tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
Trụ cột thứ III: Quy luật thị trường
Trụ cột thứ III làm gia tăng một cách đáng kể các thông tin mà một ngân
hàng phải công bố. Phần này được thiết kế để cho phép thị trường có một bức tranh
hoàn thiện hơn về vị thế rủi ro tổng thể của ngân hàng và cho phép các đối tác của
ngân hàng định giá và tham gia chuyển giao một cách hợp lý. Với cột trụ này, Basel
II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin,
từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan
đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác
nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, với quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức
này đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một
cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy,
hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.
Một loạt các tỷ số mới (các tỷ số MCDonough) được đưa ra nhằm khắc phục
sự thiếu sót này. Các trọng số về rủi ro xác định tỷ lệ vốn quy định đối với rủi ro tín
dụng. Các ngân hàng đã dựa vào các trọng số quy định và tiền phạt không gắn với
rủi ro, dẫn tới sự bóp méo trong đánh giá rủi ro, giá cả và các chỉ tiêu đo lường hiệu
quả hoạt động đã điều chỉnh với rủi ro v.v… Hiệp ước Basel II cung cấp một khung
“nhạy cảm với rủi ro” hơn và sẽ tạo ra một động cơ lớn giải quyết “ sự không đầy
13
đủ” của dữ liệu rủi ro tín dụng. Từ quan điểm kinh tế, hiệp ước này gặp phải những
hạn chế về sự chính xác của các chỉ tiêu đo lường dựa trên tiền phạt, một hạn chế
được làm giảm nhẹ bởi nhu cầu làm cân đối giữa tính chính xác và thực tiễn.
Basel II cho phép tổ chức tín dụng sử dụng các phương pháp nội bộ để tính
toán các yêu cầu về vốn đối với rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động, nhưng cũng qui
định các tổ chức tín dụng phải công bố thông tin đầy đủ cho các thành viên tham gia
thị trường, giúp các thành viên tham gia thị trường hiểu biết về mối quan hệ giữa
danh mục rủi ro và vốn của một ngân hàng cũng như sự lành mạnh của nó so với
các thành viên tham gia thị trường. Công bố thông tin phải phản ánh được tình hình
tài chính của ngân hàng, trong đó yêu cầu đầu tiên là đủ vốn và sau đó là các danh
mục rủi ro tương ứng nhằm đảm bảo tính minh bạch và bình đẳng trong cạnh tranh
và giảm thiểu rủi ro hệ thống, góp phần củng cố sự lành mạnh và an toàn cho hệ
thống ngân hàng và thị trường tài chính.
Các phương pháp đo lường và qui chuẩn của Basel II cũng khuyến khích các
ngân hàng tự quản lý bằng việc áp dụng những phương pháp đánh giá nội bộ về nhu
cầu sử dụng vốn, chú ý đến tình trạng rủi ro của ngân hàng, đưa nhiều hơn yếu tố
thị trường vào hệ thống ngân hàng thông qua yêu cầu công bố thông tin, cho phép
các bên tham gia đánh giá được rủi ro và mức vốn hóa thực sự của những chủ thể
khác nhau.
Trụ cột thứ 2 và thứ 3 liên quan đến quy trình đánh giá hoạt động thanh tra,
giám sát và công bố thông tin. Tuy không trực tiếp tác động đến việc tuân thủ tỷ lệ
an toàn vốn tối thiểu song những quy định này đòi hỏi sự công khai, minh bạch,
nhất quán và phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì vậy, các quy định này có ảnh hưởng
gián tiếp đến việc phân loại tài sản, phân loại vốn, tỷ lệ rủi ro và đặc biệt là các
chuẩn mực kế toán liên quan đến các khoản mục vốn và tài sản trên bảng cân đối
cũng như các tài khoản ngoại bảng. Theo đó, các quy định này trước hết sẽ ảnh
hưởng đến việc xác định các khoản mục và cách tính hệ số an toàn vốn của các
ngân hàng thuộc các quốc gia là thành viên của WTO. Vì thế, việc đáp ứng các tiêu
chuẩn của Basel II về an toàn vốn tối thiểu cũng hoàn toàn không đơn giản.
14
1.1.4. Hiệp ƣớc Basel III
Trước những diễn biến phức tạp của khủng hoảng tài chính toàn cầu và
những hệ lụy lâu dài của chúng đối với hệ thống tài chính – ngân hàng toàn thế giới,
Ủy ban Basel lại một lần nữa dự thảo và thông qua phiên bản thứ 3 (Basel III) về
các tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu.
Basel III quy định 4 nội dung chính liên quan đến tỷ lệ an toàn vốn (CAR)
như sau:
Nội dung thứ I: Yêu cầu về vốn tối thiểu
Ở điều chỉnh mới, hệ số CAR theo Basel III vẫn được giữ nguyên ở mức 8%,
nhưng yêu cầu vốn chủ sở hữu (vốn cấp 1) được nâng từ 4% lên 6%; và trong 6%
vốn cấp 1 đó, 4,5% phải là vốn của các cổ phần thường. Sự thiếu hụt so với yêu cầu
tổng vốn tối thiểu 8% và yêu cầu vốn cấp 1 có thể đươc bù đắp bằng nguồn vốn cấp
2 hoặc các hình thức vốn đáng tin cậy.
Nội dung thứ II: Yêu cầu về vốn đệm dự phòng rủi ro tài chính (Capital
Conservation Buffer)
Theo quy định của Basel III, từ sau năm 2015 các ngân hàng phải xây dựng
cho mình phần vốn đệm dự phòng tài chính được đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu
(phần đệm bảo toàn vốn chủ sở hữu) nhằm đối phó với những căng thẳng đe dọa
vốn chủ sở hữu trong tương lai. Tỷ lệ này được xây dựng theo lộ trình bắt đầu từ
đầu năm 2016 là 0.625%, năm 2017 là 1.25%, năm 2018 là 1.875%, và đến ngày 1
tháng 1 năm 2019 phải xây dựng được quỹ dự phòng là 2.5%, nâng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc tối thiểu đối với vốn chủ sỡ hữu là 7%.
Mục đích của phần vốn đệm dự phòng tài chính để đảm bảo rằng các ngân
hàng duy trì một quỹ dự trữ có thể được sử dụng để bù đắp cho các thiệt hại trong
những giai đoạn căng thẳng tài chính và kinh tế. Các ngân hàng có thể rút phần vốn
này để sử dụng, tuy nhiên, khi rút (giảm tỷ lệ an toàn vốn xuống), tỷ lệ an toàn vốn
còn lại càng gần mức tối thiểu theo quy định ở trên thì ngân hàng đó càng bị hạn
chế trong việc phân bổ lợi nhuận.
15
Ngân hàng nào không xây dựng quỹ dự phòng hoặc tỷ lệ dự trữ không đạt
mức tối thiểu mà Basel III quy định, cơ quan quản lý sẽ bắt buộc họ phải trích lợi
nhuận để gia tăng vốn, giảm nguồn tiền dùng để chia cổ tức, mua lại cổ phần, hay
hạn chế những khoản tiền thưởng cho các nhà quản trị. Quy định mới có thể buộc
nhiều ngân hàng phải thu hẹp dư nợ tín dụng hoặc bán bớt tài sản để cải thiện tình
trạng vốn.
Nội dung thứ III: Yêu cầu về vốn đệm phòng ngừa sự suy giảm theo chu kỳ
kinh tế (Countercyclical Capital Buffer)
Tùy theo bối cảnh của mỗi quốc gia, một tỷ lệ vốn đệm phòng ngừa sự suy
giảm theo chu kỳ kinh tế có thể được thiết lập với tỷ lệ từ 0 - 2,5% và phải được
đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu phổ thông.
Mục đích của vốn đệm phòng ngừa sự suy giảm theo chu kỳ kinh tế là để đạt
được những mục tiêu rộng lớn hơn trong việc đảm bảo an toàn kinh tế vĩ mô, bảo vệ
khu vực ngân hàng trong thời kỳ tăng trưởng tín dụng dư thừa vượt mức. Phần vốn
dự phòng này chỉ đòi hỏi trong trường hợp có sự tăng trưởng tín dụng nóng, nguy
cơ dẫn đến rủi ro cao trong hoạt động tín dụng một cách có hệ thống.
Phần vốn đệm phòng ngừa sự suy giảm theo chu kỳ kinh tế, khi có hiệu lực,
nó được xem như là một phần mở rộng phạm vi bảo toàn vùng vốn đệm dự phòng
tài chính, và cả hai phần vốn này chỉ bắt buộc thực hiện bắt đầu từ năm 2016 đến
2019.
Nội dung thứ IV: Nguồn vốn bổ sung thêm đối với các ngân hàng có tầm
ảnh hƣởng quan trọng đến toàn hệ thống (Capital for Systemically
Important Banks)
Trong các hiệp ước Basel trước đây chưa từng có quy định này. Tuy nhiên,
loại vốn này đang được Ủy ban Basel nghiên cứu và đề xuất áp dụng thêm đối với
các ngân hàng lớn, có tầm ảnh hưởng quan trọng đến toàn hệ thống ngân hàng, mà
rủi ro của các ngân hàng này liên quan đến sự an nguy của toàn hệ thống tài chính.
16
Loại vốn này hiện vẫn còn đang được nghiên cứu và có thể bao gồm cả
những khoản phí rủi ro phải trả cho sự đảm bảo an toàn (bảo hiểm), phí chuẩn bị
vốn, chuẩn bị cho các khoản chi tiêu (vốn) đột xuất và tham gia các gói cứu trợ.
Tỷ lệ tổng vốn tối thiểu = [Tỷ lệ vốn cấp 1] + [vốn đệm dự phòng tài chính] + [vốn
dự phòng suy giảm theo chu kỳ kinh tế] + [vốn bổ sung thêm đối với các ngân hàng
có tầm ảnh hưởng hệ thống]
Như vậy, có thể thấy rằng, nếu loại trừ khoản vốn đệm dự phòng rủi ro tài
chính 2,5%, thì tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu không thay đổi vẫn là 8%. Tuy
nhiên, kết cấu của các loại vốn có sự thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng vốn cấp 1,
đồng thời tăng tỷ trọng vốn chủ sở hữu phổ thông trong vốn cấp 1. Nếu tính đầy đủ
khoản vốn đệm dự phòng rủi ro tài chính và dự phòng chống hiệu ứng chu kỳ kinh
tế thì tỷ lệ vốn chủ sở hữu được điều chỉnh phải tăng lên từ 2% (Basel II) tăng lên
thành 9,5% (Basel III). Nếu loại trừ phần vốn đệm chống chu kỳ kinh tế 2,5%
(không bắt buộc trong điều kiện bình thường) thì mức tối thiểu cũng phải đạt mức
7%. Bên cạnh đó, có thể một số khoản trước đây được tính vào vốn chủ sở hữu, nay
phải loại bỏ ra vì không đủ điều kiện coi là vốn chủ sở hữu.
Như vậy, mức tổng cộng yêu cầu tối thiểu sẽ từ 10,5% - 13% (tương ứng với
phần vốn đệm dự phòng hiệu ứng suy giảm theo chu kỳ kinh tế từ 0-2,5%), chưa
tính đến phần vốn bổ sung thêm đối với các ngân hàng có tầm ảnh hưởng lớn. Vì
thế, yêu cầu nâng cao tỷ lệ vốn chủ sở hữu là bài toán không đơn giản đối với nhiều
ngân hàng xét trong bối cảnh kinh tế xã hội đang có nhiều biến động. Bảng sau cho
thấy khung hiệu chỉnh các yêu cầu về vốn và phần vốn đệm theo quy định của hiệp
ước Basel III.
Bảng 1.2: Khung điều chỉnh các tiêu chuẩn vốn theo Hiệp ƣớc Basel III- Yêu
cầu về vốn và vùng đệm (%)
Vốn chủ sở hữu
Tiêu chí (sau khi đã Vốn cấp 1 Vốn cấp 2
khấu trừ)
Tối thiểu 4.5 6.0 8.0
Vùng đệm dự phòng rủi ro tài chính 2.5
17
Tối thiểu cộng phần vốn đệm dự phòng
7.0 8.5 10.5
rủi ro tài chính
Vùng vốn đệm phòng ngừa suy giảm
0 - 2.5
theo chu kỳ kinh tế
(Nguồn: http://www.basel-iii-accord.com)
Các tiêu chuẩn của Basel III không có hiệu lực ngay lập tức. Chúng bắt đầu
có hiệu lực từ năm 2013, được thực hiện theo một lộ trình chuyển tiếp đến hết năm
2018 và sẽ thực hiện đầy đủ vào ngày 01 tháng 01 năm 2019.
Việc sắp xếp chuyển đổi bao gồm các nội dung sau:
1. Ngân hàng các nước thành viên sẽ bắt đầu thực hiện các khuôn khổ của hiệp ước
từ ngày 01 tháng 01 năm 2013. Các nước thành viên phải dịch các quy định vào luật
pháp quốc gia và các quy định trước thời điểm này.
Các ngân hàng sẽ được yêu cầu phải đáp ứng các quy định mới về vốn tối
thiểu liên quan đến tài sản tính theo rủi ro gia quyền - RWAs (Risk-Weighted
Assets) như sau:
Tỷ lệ vốn chủ sỡ hữu chung tối thiểu: 3,5% trên tổng số vốn tính theo rủi ro
gia quyền (RWAs);
Tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu: 4,5% trên tổng số vốn tính theo rủi ro gia quyền
(RWAs);
Tỷ lệ tổng vốn tối thiểu: 8,0% tổng số vốn tính theo rủi ro gia quyền
(RWAs).
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu chung tối thiểu và vốn cấp 1 tối thiểu theo quy định sẽ
được phân đoạn nâng dần từng bước trong khoảng từ ngày 01 tháng 01 năm 2013
và ngày 01 tháng 01 năm 2015.
Năm 2013, tỷ lệ vốn chủ sở hữu chung tối thiểu sẽ tăng từ mức 2% hiện nay
lên 3,5%. Các nguồn vốn cấp 1 theo yêu cầu cũng sẽ tăng từ 4% đến 4,5%. Năm
2014, các ngân hàng sẽ phải đáp ứng một yêu cầu mới là 4% vốn chủ sở hữu chung
tối thiểu và yêu cầu vốn cấp 1 là 5,5%. Năm 2015, các ngân hàng sẽ phải đáp ứng
4,5% vốn chủ sở hữu chung tối thiểu và 6% vốn cấp 1 theo yêu cầu.
18
Yêu cầu tổng vốn đầu tư vẫn còn ở mức 8,0% như mức duy trì hiện có của
các ngân hàng và do đó không cần phải được loại bỏ hay thay thế dần tiêu chí này.
Sự khác biệt giữa các yêu cầu tổng số vốn 8,0% và các yêu cầu cấp 1 có thể được
đáp ứng với cấp 2 và các hình thức cao hơn về vốn.
2. Việc điều chỉnh quy định (các khoản phải khấu trừ và bóc tách ra để bảo đảm an
toàn), bao gồm các khoản tiền vượt quá giới hạn 15% đầu tư vào các tổ chức tài
chính khác, các khoản cầm cố chứng quyền2 (MSRs - Mortgage Servicing Rights),
và khoản lợi thuế tài sản3 (DTAs - Deferred Tax Assets) . Những khoản này sẽ bắt
đầu được khấu trừ ở mức 20% từ năm 2014, và khấu trừ hoàn toàn ra khỏi vốn cổ
phần kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018.
3. Trong đó, điều chỉnh quy định bắt đầu khấu trừ 20% các khoản vốn không đủ
tiêu ra khỏi vốn cổ phần phổ thông kể từ năm 2014, 40% từ năm 2015, 60% từ
năm 2016, 80% từ năm 2017, và loại bỏ hoàn toàn 100% vào ngày 01 tháng 01 năm
2018.
Trong giai đoạn chuyển tiếp, phần còn lại không được khấu trừ khỏi vốn cổ
phần phổ thông sẽ tiếp tục là đối tượng bị giám sát và điều chỉnh của các quốc gia.
4. Các bộ đệm bảo tồn vốn sẽ được phân đoạn ở giữa ngày 01 tháng 01 năm 2016
và cuối năm 2018, bắt đầu trở nên có hiệu quả hoàn toàn từ ngày 01 tháng 01 năm
2019.
Nó sẽ bắt đầu bằng 0,625% của RWAs từ năm 2016 và gia tăng 0.615%
trong mỗi năm tiếp theo, để đạt đến mức độ cuối cùng là 2,5% của RWAs vào ngày
01 tháng 01 năm 2019.
Các nước tăng trưởng tín dụng quá nhiều, nên xem xét đẩy nhanh việc xây
dựng các phần vốn đệm dự phòng tài chính và vốn đệm dự phòng suy giảm theo
2
Các khoản thế chấp chứng quyền (MSRs - Mortgage Servicing Rights) là quyền quản lý một thế chấp
nhà ở. Trong các hoạt động, người giữ quyền MSR thu thập các khoản thanh toán từ bên thế chấp và chuyển
chúng cho người có thế chấp. Trong khi các quyền này đang được giao dịch phổ biến, chúng được xem như
là tài sản vô hình trong các mục đích kế toán. Basel 3 loại trừ chúng khỏi việc tính toán vốn. Tuy nhiên,
những nhà làm luật Hoa Kỳ và ngành ngân hàng tiếp tục thảo luận về công việc có nên bao gồm MSRs trong
tính toán vốn hay không, và nguyên tắc có thể được sửa đổi bởi Ủy ban Basel hoặc thay đổi trong việc thi
hành Basel 3 của từng quốc gia.
3
DTAs - Deferred Tax Assets: khoản lợi thuế tài sản, còn gọi là tài sản thuế thu nhập hoãn lại
19
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
TÔ QUỐC THÁI
ỨNG DỤNG HIỆP ƯỚC BASEL VÀO QUẢN
TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI MỘT SỐ NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 60.31.12
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS LẠI TIẾN DĨNH
TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2012
LỜI MỞ ĐẦU
Hệ thống ngân hàng thương mại ngày càng giữ vai trò quan trọng trong việc
điều hoà nguồn vốn cho nền kinh tế, đồng thời cũng là công cụ quan trọng trong
việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Sự tăng trưởng và phát triển ổn định của
hệ thống này có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến sự tăng trưởng của nền kinh tế
quốc dân.
Đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay thì hoạt động tín
dụng là hoạt động kinh doanh chính, tạo ra nguồn lợi nhuận chính cho các ngân
hàng thương mại (theo thống kê chiếm từ 70% - 80%/tổng lợi nhuận). Tuy nhiên
hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, do vậy công tác quản trị, giám sát
không hiệu quả thì hệ quả xấu nhất có thể là làm sụp đổ cả hệ thống tài chính – tiền
tệ quốc gia.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế các ngân hàng thương mại ngày
càng phải nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao hiệu quả quản trị điều hành đặc
biệt là nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng thì mới có thể tồn tại và phát triển
trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, không những từ các ngân hàng
thương mại trong nước mà còn phải cạnh tranh với các ngân hàng thương mại đến
từ nước ngoài. Khi chúng ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) chúng
ta phải thực hiện các cam kết với các tổ chức quốc tế và các quốc gia khác, trong đó
có lĩnh vực tài chính – ngân hàng.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao hiệu quả quản trị điều hành các
ngân hàng thương mại Việt Nam cần phải tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm từ các ngân
hàng thương mại trên thế giới mà hiện nay Hiệp ước Basel được xem là kim chỉ
nam cho các ngân hàng thương mại hàng đầu trên thế giới đang triển khai áp dụng
và đã áp dụng trong công tác quản trị ngân hàng nói chung và quản trị rủi ro tín
dụng nói riêng. Với quy mô, nguồn lực, trình độ kỹ thuật, công nghệ quản trị điều
hành của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế so với
các nước trong khu vực và thế giới thì việc triển khai áp dụng các chuẩn mực, thông
lệ quốc tế là một quá trình đầy thách thức nhưng là xu thế tất yếu buộc hệ thống các
1
ngân hàng thương mại Việt Nam phải thực hiện thì mới có thể tồn tại và phát triển
bền vững.
Nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng,
Uỷ ban Basel đã đưa ra những yêu cầu về an toàn vốn, ban hành lần đầu vào năm
1988 gọi là Basel I, lần thứ hai vào năm 2004 gọi là Basel II. Tuy nhiên, những tiêu
chuẩn về vốn này vẫn chưa đủ để bảo vệ hệ thống ngân hàng thoát khỏi những thiệt
hại nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Trước những diễn
biến phức tạp của khủng hoảng và những hệ lụy lâu dài của chúng đối với hệ thống
tài chính – ngân hàng toàn cầu, Uỷ ban Basel lại một lần nữa dự thảo và thông qua
phiên bản thứ ba - Basel III về các tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
Sắp tới không chỉ có những nước phát triển áp dụng Basel III, mà ngay cả
các thị trường mới nổi, trong đó có Việt Nam. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu các
nội dung cơ bản của Hiệp ước Basel để có thể vận dụng đơn giản hơn nhưng vẫn
hiệu quả cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Vì lý do đó, tác giả đã
chọn thực hiện đề tài:
“ Ứng dụng Hiệp ƣớc Basel vào quản trị rủi ro tín dụng tại một số ngân hàng
thƣơng mại Việt Nam”, với mong muốn góp phần vào sự phát triển bền vững của
hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Đề tài nghiên cứu này dựa trên các cơ sở
khoa học và thực tiễn sau:
1. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu các qui định, các chuẩn mực của Basel, tham
khảo kinh nghiệm ứng dụng Basel từ các nước, từ đó đối chiếu với thực trạng của
các NHTM Việt Nam về qui mô, công nghệ, năng lực quản trị, hiệu quả hoạt động,
thực trạng giám sát ngân hàng… để có cái nhìn khái quát nhất về nguyên nhân, tồn
tại của các NHTM Việt Nam hiện nay từ đó đưa ra các giải pháp để ứng dụng Hiệp
ước Basel trong công tác quản trị rủi ro tín dụng. Với mong muốn đề xuất chương
trình hành động và lộ trình ứng dụng Hiệp ước Basel vào hệ thống ngân hàng Việt
Nam trong công tác quản trị rủi ro tín dụng nhằm bảo đảm cho các NHTM Việt
2
Nam phát triển bền vững khi hội nhập sâu vào hệ thống ngân hàng khu vực và thế
giới.
2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu các qui định, các chuẩn mực của Basel về quản trị rủi ro
và các chuẩn mực liên quan đến qui trình thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động
ngân hàng. Trong đó, tập trung vào qui định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, các
phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường và việc
thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên qui trình rất phức tạp, phương pháp tính toán đa dạng, trong phạm vi
nghiên cứu của mình, đề tài chỉ giới hạn trong việc nêu ra các nội dung, các chuẩn
mực mang tính khái quát, đơn giản về Hiệp ước Basel, như tỷ lệ an toàn vốn và các
phương pháp đo lường rủi ro, cũng như tóm lược một cách chung nhất về thực trạng
quản trị rủi ro của các NHTM Việt Nam để từ đó đề xuất chương trình hành động
và xây dựng lộ trình ứng dụng Hiệp ước Basel vào việc quản trị rủi ro tín dụng cho
các NHTM Việt Nam.
3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các nội dung chung nhất từ các phiên bản
của Hiệp ước Basel trên phương pháp suy luận logic, thống kê, so sánh, phân tích
hoạt động kinh tế trong thực tiễn, từ nguồn thông tin thu nhận và từ nhận định của
các chuyên gia và từ kinh nghiệm của các nhà quản trị, điều hành hoạt động ngân
hàng.
Ngoài ra tác giả còn chọn lọc thông tin từ các bài viết chuyên đề trên các tạp chí
chuyên ngành tài chính - ngân hàng, báo cáo thường niên của các NHTM, NHNN
và tham khảo các bài viết của những người đi trước… để làm cơ sở dữ liệu tổng
hợp, phân tích để có những đánh giá khách quan về nội dung của đề tài.
3
4. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn được chia thành ba chương:
Chương I: Những vấn đề chung về Hiệp ước Basel và quản trị rủi ro tín dụng ngân
hàng.
Chương II: Thực trạng ứng dụng Hiệp ước Basel trong quản trị rủi ro tín dụng của
một số NHTM Việt Nam.
Chương III: Giải pháp thúc đẩy ứng dụng Hiệp ước Basel vào hoạt động quản trị rủi
ro tín dụng của các NHTM Việt Nam
4
CHƢƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HIỆP ƢỚC BASEL VÀ
QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1 Tổng quan về Hiệp ƣớc Basel
1.1.1. Sự hình thành và hoạt động của Ủy ban Basel
Ủy ban về giám sát Ngân hàng (Basel Committee on Banking Supervision –
BCBS) là Ủy ban của các cơ quan giám sát ngân hàng được các thống đốc ngân
hàng Trung ương của nhóm 10 nước phát triển (G10) thành lập vào cuối năm 1974
tại Thành phố Basel – Thụy Sỹ, xuất phát từ cuộc khủng hoảng thị trường tiền tệ
quốc tế và thị trường ngân hàng (đặc biệt là sự sụp đổ của ngân hàng Bankhaus
Herstatt ở Tây Đức). Cuộc họp diễn ra vào tháng 2/1975 và về sau được tổ chức đều
đặn 3 hoặc 4 lần/năm. Ủy ban thường họp tại Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS)
tại Thành phố Basel, nơi Ban thư ký thường trực đóng trụ sở.
Ủy ban này hiện có 27 nước thành viên, gồm: Argentina, Úc, Bỉ, Brazil, Canada,
Trung Quốc, Pháp, Đức, Hồng Kông, Ấn Độ, Indonexia, Ý, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Luxemburg, Mexico, Hà Lan, Nga, Saudi Arapbia, Singapor, Nam Phi, Tây Ban
Nha, Anh, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Sỹ, Thụy Điển. Trong Ủy ban còn có 25 nhóm
kỹ thuật và một số bộ phận khác được nhóm họp thường xuyên để thực hiện các
nội dung công việc của Ủy ban. Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel gồm 15 thành
viên là những nhà giám sát hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp được biệt phái tạm
thời từ các TCTD tài chính thành viên. Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa
ra những vấn đề cho các cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước.
Ủy ban Basel không có bất kỳ cơ quan giám sát nào và những kết luận không có
tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân hàng. Thay
vào đó, Ủy ban này chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn
giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất với kỳ vọng các
tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng thông qua những điều chỉnh phù hợp cho hệ thống quốc
5
gia của họ. Ủy ban khuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn
chung mà không can thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên.
Vào tháng 7 năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà
nó được đề cập như là Hiệp ước vốn Basel (The Basel Capital Accord hay Basel I,
còn gọi là Basel I), có hiệu lực từ năm 1992. Hệ thống này cung cấp khung đo
lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu là 8%. Đến năm 1996, Basel I
được sửa đổi với rất nhiều điểm mới. Tuy vậy, Hiệp ước vẫn còn khá nhiều điểm
hạn chế.
Vào năm 1997, Ủy ban Basel đã xây dựng “Các nguyên tắc nòng cốt cho việc giám
sát hoạt động ngân hàng hiệu quả”. Tháng 10/1999, Ủy ban đã phát triển “Phương
pháp luận các nguyên lý nòng cốt” – một sự tổng kết các nguyên lý nòng cốt và
phương pháp luận còn gọi là bộ 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng.
Để khắc phục những hạn chế của Basel I, vào tháng 06/1999, Ủy ban Basel đã ban
hành đề xuất khung đo lường mới với 3 trụ cột chính: (1) yêu cầu vốn tối thiểu; (2)
giám sát; và (3) kỷ luật thị trường để nâng cao tính ổn định trong hệ thống tài chính.
Sau những thử nghiệm rộng rãi, Basel II đã được ban hành vào ngày 26/06/2004,
làm cơ sở cho việc xây dựng quy chế về giám sát hoạt động ngân hàng và các ngân
hàng chuẩn bị cho việc thực hiện các tiêu chuẩn mới. Tháng 01/2007, Hiệp ước
Basel II có hiệu lực và đến năm 2010 chấm dứt quá trình chuyển đổi.
Nhằm ngăn chặn sự tái diễn khủng hoảng tài chính, ngày 12/09/2010, Ủy ban Basel
đã nhóm họp tại Basel và đã chính thức đồng ý về chuẩn Basel III với những quy
định nghiêm ngặt hơn về vốn và ấn định thời hạn để các ngân hàng thực hiện những
quy định này. Basel III được đề xuất tháng 12/2009, và sửa đổi tháng 7/2010.
* Lịch sử ngắn gọn của Hiệp ƣớc vốn Basel
Năm 1974, BCBS được thành lập từ nhóm G10 Ngân hàng Trung ương.
Năm 1988, Hiệp ước vốn Basel đầu tiên (Basel I) ra đời và có hiệu lực từ
1992.
Năm 1996, được sửa đổi bổ sung thêm rủi ro thị trường (có hiệu lực từ
1997).
6
Tháng 6/1999, đề xuất một khung mới – chương trình tư vấn lần thứ nhất
(First Consultative Package CP1).
Tháng 1/2001, chương trình tư vấn lần thứ hai (CP2).
Tháng 4/2003, chương trình tư vấn lần ba (CP3).
Quý 4/2003, phiên bản hoàn thiện của Hiệp ước Basel mới.
Tháng 1/2007, Hiệp ước vốn Basel mời (Basel II) có hiệu lực.
Năm 2010, chấm dứt quá trình chuyển đổi
Tháng 9/2010, ban hành Hiệp ước Basel III, thời gian chuyển đổi từ năm
2013.
1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của Hiệp ƣớc Basel I
Sau một thời gian hoạt động, Ủy ban đã nghiên cứu và đưa ra các yêu cầu về
an toàn vốn, được ban hành lần đầu vào năm 1988 và gọi là Basel I. Hiệp ước Basel
I năm 1988 mang tính chất thỏa thuận quốc tế và các tiêu chuẩn về vốn đã trở thành
chuẩn mực quốc tế về vốn tự có. Nó quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và quản
lý rủi ro tín dụng đối với ngân hàng, là một trong những căn cứ, tiêu chuẩn để các
ngân hàng của các quốc gia trên thế giới áp dụng quản lý, bảo đảm an toàn trong
hoạt động. Tuy nhiên, Basel I mới chỉ đề cập đến những rủi ro về tín dụng chứ chưa
đề cập đến những rủi ro khác như rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất...
Nội dung cơ bản của hiệp ước Basel I chủ yếu về yêu cầu vốn tối thiểu.
Tiêu chuẩn 1: Tỉ lệ vốn dựa trên rủi ro – “Tỉ lệ Cook”
Tỉ lệ này được phát triển bởi Ủy ban Basel với mục đích củng cố hệ thống
ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt động quốc tế, nhưng
sau này đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia.
Theo tiêu chuẩn này, ngân hàng phải giữ lại lượng vốn bằng ít nhất 8% tài
sản có trọng số rủi ro, được tính toán theo nhiều phương pháp khác nhau và phụ
thuộc vào độ rủi ro của chúng.
Vốn bắt buộc >= 8% x Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền
Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) = Vốn bắt buộc / Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền
7
Tiêu chuẩn này quy định 05 định mức về vốn nhƣ sau:
Mức vốn tốt : CAR > 10%
Mức vốn thích hợp : CAR > 8%
Thiếu vốn : CAR < 8%
Thiếu vốn rõ rệt : CAR < 6%
Thiếu vốn trầm trọng: CAR < 2%
Tiêu chuẩn 2: Vốn cấp 1, cấp 2 và cấp 3
Vốn cấp 1 >= Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3
Bảng 1.1 : Các loại vốn cấp 1, cấp 2, cấp 3 theo quy định của hiệp ƣớc Basel I
Vốn tự có Nguồn vốn
- Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn.
- Dự trữ công bố (Lợi nhuận giữ lại).
Cấp 1- Vốn nòng cốt
- Lợi ích thiểu số (Minority interest) tại các công ty con,
có hợp nhất báo cáo tài chính.
- Lợi thế kinh doanh (goodwill).
- Lợi nhuận giữ lại không công bố.
- Dự phòng đánh giá lại tài sản.
Cấp 2- Vốn bổ sung
- Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung.
- Các công cụ nợ có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu.
- Nợ thứ cấp có kỳ hạn.
Cấp 3 (Dành cho rủi - Vay ngắn hạn
ro thị trƣờng)
Tổng vốn cấp 1 và cấp 2 chính là vốn tự có hay vốn cơ bản của TCTD.
* Giới hạn về vốn: Tổng vốn cấp 2 không được quá 100% vốn cấp 1; Nợ thứ cấp
có kỳ hạn tối đa bằng 50% vốn cấp 1; Dự phòng chung tối đa bằng 1,25% tài sản có
rủi ro; Dự trữ đánh giá lại tài sản được chiết khấu 55%.
Tiêu chuẩn 3: Vốn tính theo rủi ro gia quyền
8
Tài sản tính theo rủi ro gia quyền (RWA) = Tổng (Tài sản x Mức rủi ro phân
định cho từng tài sản trong bảng CĐKT) + Tổng (Nợ tương đương x Mức rủi ro
ngoại bảng)
Tùy theo mỗi loại tài sản sẽ được gắn cho một trọng số rủi ro. Theo Basel I, trọng
số rủi ro của tài sản được chia thành 4 mức là 0%, 20%, 50%, và 100% theo mức độ
rủi ro của từng loại tài sản. Ví dụ tiền mặt tại quỹ hay trái phiếu chính phủ có trọng
số rủi ro là 0%.... Trọng số rủi ro không phản ánh độ nhạy cảm rủi ro trong mỗi loại
này1 (phụ lục 1)
Những thiếu sót của Basel I
- Không phân biệt theo loại rủi ro.
+ Một khoản nợ đối với tổ chức xếp hạng AA được coi như một khoản nợ đối
với tổ chức xếp hạng B
+ Một khoản nợ cho một ngân hàng nhỏ chỉ cần một lượng vốn bằng một phần
nhỏ so với khoản nợ cho một công ty lớn (xếp hạng AA+). Việc giữ các tài sản
có độ rủi ro thấp ít sinh lợi hơn tài sản có độ rủi ro cao.
- Không có lợi ích từ việc đa dạng hóa.
+ Một khoản nợ riêng lẻ yêu cầu một lượng vốn giống như một danh mục đầu
tư được đa dạng hóa, với cùng một giá trị.
+ Không có sự khác biệt nào giữa một khoản vay 100 USD và 100 khoản vay
1 USD.
- Không có yêu cầu vốn dự phòng rủi ro vận hành. Một trong những điểm hạn
chế cơ bản của Basel I là không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng
trở nên phức tạp với mức độ ngày càng tăng lên, đó là rủi ro vận hành.
1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của Hiệp ƣớc Basel II
Trước đòi hỏi của sự phát triển, về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân
hàng của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là đối với những tập đoàn ngân hàng lớn có
phạm vi hoạt động quốc tế và nhằm bổ sung cải thiện những thiếu sót của hiệp ước
1
Phụ lục 1: Hệ số rủi ro cho các khoản mục trên bảng và ngoài bảng cân đối tài sản theo Basel I
9
Basel I đáp ứng nhu cầu thực tiễn hoạt động của hệ thống ngân hàng thì Hiệp ước
Basel II đã ra đời. Hiệp ước Basel II là hiệp ước quốc tế về tiêu chuẩn an toàn vốn,
tăng cường quản trị toàn cầu hóa tài chính cũng như việc khai thác tối đa tiềm năng
lợi nhuận và hạn chế rủi ro. Hiệp ước Basel II đề cập tới các vấn đề chính gồm
những quy định liên quan tới tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu, quá trình xem xét giám sát
của cơ quan quản lý và cuối cùng là các quy tắc thị trường. Basel II bao gồm những
khuyến nghị về luật và quy định ngành ngân hàng, được ban hành bởi Uỷ ban Basel
về giám sát ngân hàng. Về bản chất, hiệp ước Basel II đơn thuần làm tinh xảo hơn,
hoàn thiện hơn cách thức đo lường và tính toán những rủi ro nhằm giúp các ngân
hàng quản lý rủi ro.
Ngoài rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường đã được qui định tại Basel I, Basel
II bổ sung thêm một loại rủi ro nữa là rủi ro hoạt động (rủi ro hoạt động là rủi ro
xảy ra tổn thất do các qui trình, hệ thống hay nhân viên trong nội bộ ngân hàng vận
hành không tốt hoặc do các nguyên nhân khách quan bên ngoài. Đây là một trong
những rủi ro trầm trọng mà ngân hàng thường phải đối mặt trong quá trình hoạt
động). Basel II vẫn qui định mức vốn an toàn tối thiểu là 8% và chỉ thay đổi cách
tính ở mẫu số trong công thức tính tỷ lệ đủ vốn. Theo đó, mẫu số phải bao gồm cả
ba loại rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động. Basel II đã bãi bỏ
cách tiếp cận rủi ro của Basel I và thay bằng cách phân định các mức rủi ro trên cơ
sở xếp hạng chính xác hơn mức độ rủi ro, các ngân hàng sẽ phải phụ thuộc chủ yếu
vào kết quả xếp hạng và đánh giá độ tín nhiệm của các tổ chức độc lập như
Moody’s, S&P. Hệ thống đo lường theo Basel II phức tạp hơn, nhưng có khả năng
đánh giá chính xác mức độ an toàn vốn.
Về mặt định lượng công tác đo lường rủi ro tín dụng, Hiệp ước này đưa ra
một chọn lựa giữa các phương pháp “ được tiêu chuẩn hóa”, “cơ bản” và “nâng
cao”. Nó khắc phục những hạn chế của các “tỷ số Cook”, bằng một số nâng cao hạn
chế các trọng số và một trọng số duy nhất cho mọi đối tác rủi ro 100%. Không có
thay đổi nào đối với định nghĩa về vốn và vốn cấp 1/cấp 2 lẫn hệ số 8%.
Basel II sử dụng khái niệm “ba trụ cột”:
10
Yêu cầu về vốn tối thiểu.
Giám sát.
Quy luật thị trường - để nâng cao tính ổn định trong hệ thống tài chính.
Trụ cột thứ I: Yêu cầu về vốn tối thiểu
Trụ cột thứ I liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Lượng vốn duy trì được
tính toán theo ba yếu tố rủi ro chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi
ro vận hành và rủi ro thị trường. Những loại rủi ro khác không được coi là có thể
lượng hoá hoàn toàn ở bước này. Phần này là tiêu chí cốt lõi của Hiệp ước Basel II,
tính toán tổng yêu cầu vốn tối thiểu đối với rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành, rủi ro
thị trường. Tỷ lệ vốn được tính dựa trên vốn điều chỉnh và các tài sản có trọng số
rủi ro. Tổng tỷ lệ vốn phải >= 8%. Vốn cấp 2 được giới hạn đến 100% vốn cấp 1;
Vốn cấp 3 được giới hạn 250% vốn cấp 1. Tổng các tài sản có trọng số rủi ro được
xác định bằng cách nhân các yêu cầu vốn đối với rủi ro thị trường và rủi ro hoạt
động với 12,5 (nghịch đảo của tỷ lệ vốn tối thiểu 8%) và cộng kết quả với tổng các
tài sản có trọng số rủi ro đối với rủi ro tín dụng. Mức độ an toàn vốn được xác định:
Tổng vốn (giống Basel I)
CAR = >= 8%
RWA rủi ro tín dụng + 12,5 x (Tổng K rủi ro hoạt động + Tổng K rủi ro thị trường)
Trong đó:
RWA rủi ro tín dụng: Tổng các tài sản có trọng số rủi ro đối với rủi ro tín
dụng
K rủi ro hoạt động: Mức độ an toàn vốn đối với rủi ro hoạt động
K rủi ro thị trường: Mức độ an toàn vốn đối với rủi ro thị trường
Đối với các ngân hàng sử dụng cách tiếp cận IRB đối với rủi ro tín dụng
hoặc cách tiếp cận đo lường nâng cao (AMA) đối với rủi ro hoạt động, sẽ thực hiện
mức vốn sàn (capital floor). Các ngân hàng phải tính mức chênh lệch giữa mức vốn
sàn dựa trên cơ sở áp dụng Basel I với mức vốn sàn tính toán theo Basel II. Nếu số
dư sàn lớn hơn, các ngân hàng được yêu cầu bổ sung 12,5 lần chênh lệch cho các tài
sản có trọng số rủi ro. Mức vốn sàn tính theo Basel II: (1) 8% tổng các tài sản có
11
trọng số rủi ro, (2) trừ đi mức chênh lệch giữa tổng dự phòng và số dư tổn thất kỳ
vọng, và (3) cộng các khấu trừ vốn Cấp 1 và Cấp 2 khác.
* Các trọng số rủi ro theo Trụ cột 1
- Phương pháp đo lường rủi ro tín dụng:
+ Phương pháp chuẩn đánh giá rủi ro tín dụng – Standarised Approach (SA)
+ Phương pháp dựa trên xếp hạng nội bộ cơ bản – Fundation Internal Rating
Based Approach (IRBF)
+ Phương pháp dựa trên xếp hạng nâng cao – Advanced Internal Rating Based
Approach (IRBA)
- Phương pháp đo lường rủi ro hoạt động:
+ Phương pháp chỉ số cơ bản – Basic Indicator Approach (BIA)
+ Phương pháp chuẩn – Standarddised Approach (TSA)
+ Phương pháp đo lường nâng cao – Advanced Measurement Approaches (AMA)
- Phương pháp đo lường rủi ro thị trường:
+ Phương pháp chuẩn – Standardised Approach (SA)
+ Phương pháp mô hình nội bộ - Internal Models Approach (IMA)
Trụ cột thứ II: Giám sát
Trụ cột thứ II liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, cung cấp
cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I. Trụ cột
này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như
rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro
pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk).
Các ngân hàng cần phải đánh giá một cách đúng đắn về những loại rủi ro mà
họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng những giám sát viên sẽ có thể đánh giá được
tính đầy đủ của những biện pháp đánh giá này. Với trụ cột này, Basel II nhấn mạnh
4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:
Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn của
họ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì
mức vốn đó.
12
Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức vốn nội
bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng. Họ cũng phải có khả năng giám
sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Theo đó, giám sát viên nên thực hiện
một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy
trình này.
Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu
theo quy định.
Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng
không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập
tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
Trụ cột thứ III: Quy luật thị trường
Trụ cột thứ III làm gia tăng một cách đáng kể các thông tin mà một ngân
hàng phải công bố. Phần này được thiết kế để cho phép thị trường có một bức tranh
hoàn thiện hơn về vị thế rủi ro tổng thể của ngân hàng và cho phép các đối tác của
ngân hàng định giá và tham gia chuyển giao một cách hợp lý. Với cột trụ này, Basel
II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin,
từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan
đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác
nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, với quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức
này đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một
cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy,
hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.
Một loạt các tỷ số mới (các tỷ số MCDonough) được đưa ra nhằm khắc phục
sự thiếu sót này. Các trọng số về rủi ro xác định tỷ lệ vốn quy định đối với rủi ro tín
dụng. Các ngân hàng đã dựa vào các trọng số quy định và tiền phạt không gắn với
rủi ro, dẫn tới sự bóp méo trong đánh giá rủi ro, giá cả và các chỉ tiêu đo lường hiệu
quả hoạt động đã điều chỉnh với rủi ro v.v… Hiệp ước Basel II cung cấp một khung
“nhạy cảm với rủi ro” hơn và sẽ tạo ra một động cơ lớn giải quyết “ sự không đầy
13
đủ” của dữ liệu rủi ro tín dụng. Từ quan điểm kinh tế, hiệp ước này gặp phải những
hạn chế về sự chính xác của các chỉ tiêu đo lường dựa trên tiền phạt, một hạn chế
được làm giảm nhẹ bởi nhu cầu làm cân đối giữa tính chính xác và thực tiễn.
Basel II cho phép tổ chức tín dụng sử dụng các phương pháp nội bộ để tính
toán các yêu cầu về vốn đối với rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động, nhưng cũng qui
định các tổ chức tín dụng phải công bố thông tin đầy đủ cho các thành viên tham gia
thị trường, giúp các thành viên tham gia thị trường hiểu biết về mối quan hệ giữa
danh mục rủi ro và vốn của một ngân hàng cũng như sự lành mạnh của nó so với
các thành viên tham gia thị trường. Công bố thông tin phải phản ánh được tình hình
tài chính của ngân hàng, trong đó yêu cầu đầu tiên là đủ vốn và sau đó là các danh
mục rủi ro tương ứng nhằm đảm bảo tính minh bạch và bình đẳng trong cạnh tranh
và giảm thiểu rủi ro hệ thống, góp phần củng cố sự lành mạnh và an toàn cho hệ
thống ngân hàng và thị trường tài chính.
Các phương pháp đo lường và qui chuẩn của Basel II cũng khuyến khích các
ngân hàng tự quản lý bằng việc áp dụng những phương pháp đánh giá nội bộ về nhu
cầu sử dụng vốn, chú ý đến tình trạng rủi ro của ngân hàng, đưa nhiều hơn yếu tố
thị trường vào hệ thống ngân hàng thông qua yêu cầu công bố thông tin, cho phép
các bên tham gia đánh giá được rủi ro và mức vốn hóa thực sự của những chủ thể
khác nhau.
Trụ cột thứ 2 và thứ 3 liên quan đến quy trình đánh giá hoạt động thanh tra,
giám sát và công bố thông tin. Tuy không trực tiếp tác động đến việc tuân thủ tỷ lệ
an toàn vốn tối thiểu song những quy định này đòi hỏi sự công khai, minh bạch,
nhất quán và phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì vậy, các quy định này có ảnh hưởng
gián tiếp đến việc phân loại tài sản, phân loại vốn, tỷ lệ rủi ro và đặc biệt là các
chuẩn mực kế toán liên quan đến các khoản mục vốn và tài sản trên bảng cân đối
cũng như các tài khoản ngoại bảng. Theo đó, các quy định này trước hết sẽ ảnh
hưởng đến việc xác định các khoản mục và cách tính hệ số an toàn vốn của các
ngân hàng thuộc các quốc gia là thành viên của WTO. Vì thế, việc đáp ứng các tiêu
chuẩn của Basel II về an toàn vốn tối thiểu cũng hoàn toàn không đơn giản.
14
1.1.4. Hiệp ƣớc Basel III
Trước những diễn biến phức tạp của khủng hoảng tài chính toàn cầu và
những hệ lụy lâu dài của chúng đối với hệ thống tài chính – ngân hàng toàn thế giới,
Ủy ban Basel lại một lần nữa dự thảo và thông qua phiên bản thứ 3 (Basel III) về
các tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu.
Basel III quy định 4 nội dung chính liên quan đến tỷ lệ an toàn vốn (CAR)
như sau:
Nội dung thứ I: Yêu cầu về vốn tối thiểu
Ở điều chỉnh mới, hệ số CAR theo Basel III vẫn được giữ nguyên ở mức 8%,
nhưng yêu cầu vốn chủ sở hữu (vốn cấp 1) được nâng từ 4% lên 6%; và trong 6%
vốn cấp 1 đó, 4,5% phải là vốn của các cổ phần thường. Sự thiếu hụt so với yêu cầu
tổng vốn tối thiểu 8% và yêu cầu vốn cấp 1 có thể đươc bù đắp bằng nguồn vốn cấp
2 hoặc các hình thức vốn đáng tin cậy.
Nội dung thứ II: Yêu cầu về vốn đệm dự phòng rủi ro tài chính (Capital
Conservation Buffer)
Theo quy định của Basel III, từ sau năm 2015 các ngân hàng phải xây dựng
cho mình phần vốn đệm dự phòng tài chính được đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu
(phần đệm bảo toàn vốn chủ sở hữu) nhằm đối phó với những căng thẳng đe dọa
vốn chủ sở hữu trong tương lai. Tỷ lệ này được xây dựng theo lộ trình bắt đầu từ
đầu năm 2016 là 0.625%, năm 2017 là 1.25%, năm 2018 là 1.875%, và đến ngày 1
tháng 1 năm 2019 phải xây dựng được quỹ dự phòng là 2.5%, nâng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc tối thiểu đối với vốn chủ sỡ hữu là 7%.
Mục đích của phần vốn đệm dự phòng tài chính để đảm bảo rằng các ngân
hàng duy trì một quỹ dự trữ có thể được sử dụng để bù đắp cho các thiệt hại trong
những giai đoạn căng thẳng tài chính và kinh tế. Các ngân hàng có thể rút phần vốn
này để sử dụng, tuy nhiên, khi rút (giảm tỷ lệ an toàn vốn xuống), tỷ lệ an toàn vốn
còn lại càng gần mức tối thiểu theo quy định ở trên thì ngân hàng đó càng bị hạn
chế trong việc phân bổ lợi nhuận.
15
Ngân hàng nào không xây dựng quỹ dự phòng hoặc tỷ lệ dự trữ không đạt
mức tối thiểu mà Basel III quy định, cơ quan quản lý sẽ bắt buộc họ phải trích lợi
nhuận để gia tăng vốn, giảm nguồn tiền dùng để chia cổ tức, mua lại cổ phần, hay
hạn chế những khoản tiền thưởng cho các nhà quản trị. Quy định mới có thể buộc
nhiều ngân hàng phải thu hẹp dư nợ tín dụng hoặc bán bớt tài sản để cải thiện tình
trạng vốn.
Nội dung thứ III: Yêu cầu về vốn đệm phòng ngừa sự suy giảm theo chu kỳ
kinh tế (Countercyclical Capital Buffer)
Tùy theo bối cảnh của mỗi quốc gia, một tỷ lệ vốn đệm phòng ngừa sự suy
giảm theo chu kỳ kinh tế có thể được thiết lập với tỷ lệ từ 0 - 2,5% và phải được
đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu phổ thông.
Mục đích của vốn đệm phòng ngừa sự suy giảm theo chu kỳ kinh tế là để đạt
được những mục tiêu rộng lớn hơn trong việc đảm bảo an toàn kinh tế vĩ mô, bảo vệ
khu vực ngân hàng trong thời kỳ tăng trưởng tín dụng dư thừa vượt mức. Phần vốn
dự phòng này chỉ đòi hỏi trong trường hợp có sự tăng trưởng tín dụng nóng, nguy
cơ dẫn đến rủi ro cao trong hoạt động tín dụng một cách có hệ thống.
Phần vốn đệm phòng ngừa sự suy giảm theo chu kỳ kinh tế, khi có hiệu lực,
nó được xem như là một phần mở rộng phạm vi bảo toàn vùng vốn đệm dự phòng
tài chính, và cả hai phần vốn này chỉ bắt buộc thực hiện bắt đầu từ năm 2016 đến
2019.
Nội dung thứ IV: Nguồn vốn bổ sung thêm đối với các ngân hàng có tầm
ảnh hƣởng quan trọng đến toàn hệ thống (Capital for Systemically
Important Banks)
Trong các hiệp ước Basel trước đây chưa từng có quy định này. Tuy nhiên,
loại vốn này đang được Ủy ban Basel nghiên cứu và đề xuất áp dụng thêm đối với
các ngân hàng lớn, có tầm ảnh hưởng quan trọng đến toàn hệ thống ngân hàng, mà
rủi ro của các ngân hàng này liên quan đến sự an nguy của toàn hệ thống tài chính.
16
Loại vốn này hiện vẫn còn đang được nghiên cứu và có thể bao gồm cả
những khoản phí rủi ro phải trả cho sự đảm bảo an toàn (bảo hiểm), phí chuẩn bị
vốn, chuẩn bị cho các khoản chi tiêu (vốn) đột xuất và tham gia các gói cứu trợ.
Tỷ lệ tổng vốn tối thiểu = [Tỷ lệ vốn cấp 1] + [vốn đệm dự phòng tài chính] + [vốn
dự phòng suy giảm theo chu kỳ kinh tế] + [vốn bổ sung thêm đối với các ngân hàng
có tầm ảnh hưởng hệ thống]
Như vậy, có thể thấy rằng, nếu loại trừ khoản vốn đệm dự phòng rủi ro tài
chính 2,5%, thì tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu không thay đổi vẫn là 8%. Tuy
nhiên, kết cấu của các loại vốn có sự thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng vốn cấp 1,
đồng thời tăng tỷ trọng vốn chủ sở hữu phổ thông trong vốn cấp 1. Nếu tính đầy đủ
khoản vốn đệm dự phòng rủi ro tài chính và dự phòng chống hiệu ứng chu kỳ kinh
tế thì tỷ lệ vốn chủ sở hữu được điều chỉnh phải tăng lên từ 2% (Basel II) tăng lên
thành 9,5% (Basel III). Nếu loại trừ phần vốn đệm chống chu kỳ kinh tế 2,5%
(không bắt buộc trong điều kiện bình thường) thì mức tối thiểu cũng phải đạt mức
7%. Bên cạnh đó, có thể một số khoản trước đây được tính vào vốn chủ sở hữu, nay
phải loại bỏ ra vì không đủ điều kiện coi là vốn chủ sở hữu.
Như vậy, mức tổng cộng yêu cầu tối thiểu sẽ từ 10,5% - 13% (tương ứng với
phần vốn đệm dự phòng hiệu ứng suy giảm theo chu kỳ kinh tế từ 0-2,5%), chưa
tính đến phần vốn bổ sung thêm đối với các ngân hàng có tầm ảnh hưởng lớn. Vì
thế, yêu cầu nâng cao tỷ lệ vốn chủ sở hữu là bài toán không đơn giản đối với nhiều
ngân hàng xét trong bối cảnh kinh tế xã hội đang có nhiều biến động. Bảng sau cho
thấy khung hiệu chỉnh các yêu cầu về vốn và phần vốn đệm theo quy định của hiệp
ước Basel III.
Bảng 1.2: Khung điều chỉnh các tiêu chuẩn vốn theo Hiệp ƣớc Basel III- Yêu
cầu về vốn và vùng đệm (%)
Vốn chủ sở hữu
Tiêu chí (sau khi đã Vốn cấp 1 Vốn cấp 2
khấu trừ)
Tối thiểu 4.5 6.0 8.0
Vùng đệm dự phòng rủi ro tài chính 2.5
17
Tối thiểu cộng phần vốn đệm dự phòng
7.0 8.5 10.5
rủi ro tài chính
Vùng vốn đệm phòng ngừa suy giảm
0 - 2.5
theo chu kỳ kinh tế
(Nguồn: http://www.basel-iii-accord.com)
Các tiêu chuẩn của Basel III không có hiệu lực ngay lập tức. Chúng bắt đầu
có hiệu lực từ năm 2013, được thực hiện theo một lộ trình chuyển tiếp đến hết năm
2018 và sẽ thực hiện đầy đủ vào ngày 01 tháng 01 năm 2019.
Việc sắp xếp chuyển đổi bao gồm các nội dung sau:
1. Ngân hàng các nước thành viên sẽ bắt đầu thực hiện các khuôn khổ của hiệp ước
từ ngày 01 tháng 01 năm 2013. Các nước thành viên phải dịch các quy định vào luật
pháp quốc gia và các quy định trước thời điểm này.
Các ngân hàng sẽ được yêu cầu phải đáp ứng các quy định mới về vốn tối
thiểu liên quan đến tài sản tính theo rủi ro gia quyền - RWAs (Risk-Weighted
Assets) như sau:
Tỷ lệ vốn chủ sỡ hữu chung tối thiểu: 3,5% trên tổng số vốn tính theo rủi ro
gia quyền (RWAs);
Tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu: 4,5% trên tổng số vốn tính theo rủi ro gia quyền
(RWAs);
Tỷ lệ tổng vốn tối thiểu: 8,0% tổng số vốn tính theo rủi ro gia quyền
(RWAs).
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu chung tối thiểu và vốn cấp 1 tối thiểu theo quy định sẽ
được phân đoạn nâng dần từng bước trong khoảng từ ngày 01 tháng 01 năm 2013
và ngày 01 tháng 01 năm 2015.
Năm 2013, tỷ lệ vốn chủ sở hữu chung tối thiểu sẽ tăng từ mức 2% hiện nay
lên 3,5%. Các nguồn vốn cấp 1 theo yêu cầu cũng sẽ tăng từ 4% đến 4,5%. Năm
2014, các ngân hàng sẽ phải đáp ứng một yêu cầu mới là 4% vốn chủ sở hữu chung
tối thiểu và yêu cầu vốn cấp 1 là 5,5%. Năm 2015, các ngân hàng sẽ phải đáp ứng
4,5% vốn chủ sở hữu chung tối thiểu và 6% vốn cấp 1 theo yêu cầu.
18
Yêu cầu tổng vốn đầu tư vẫn còn ở mức 8,0% như mức duy trì hiện có của
các ngân hàng và do đó không cần phải được loại bỏ hay thay thế dần tiêu chí này.
Sự khác biệt giữa các yêu cầu tổng số vốn 8,0% và các yêu cầu cấp 1 có thể được
đáp ứng với cấp 2 và các hình thức cao hơn về vốn.
2. Việc điều chỉnh quy định (các khoản phải khấu trừ và bóc tách ra để bảo đảm an
toàn), bao gồm các khoản tiền vượt quá giới hạn 15% đầu tư vào các tổ chức tài
chính khác, các khoản cầm cố chứng quyền2 (MSRs - Mortgage Servicing Rights),
và khoản lợi thuế tài sản3 (DTAs - Deferred Tax Assets) . Những khoản này sẽ bắt
đầu được khấu trừ ở mức 20% từ năm 2014, và khấu trừ hoàn toàn ra khỏi vốn cổ
phần kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018.
3. Trong đó, điều chỉnh quy định bắt đầu khấu trừ 20% các khoản vốn không đủ
tiêu ra khỏi vốn cổ phần phổ thông kể từ năm 2014, 40% từ năm 2015, 60% từ
năm 2016, 80% từ năm 2017, và loại bỏ hoàn toàn 100% vào ngày 01 tháng 01 năm
2018.
Trong giai đoạn chuyển tiếp, phần còn lại không được khấu trừ khỏi vốn cổ
phần phổ thông sẽ tiếp tục là đối tượng bị giám sát và điều chỉnh của các quốc gia.
4. Các bộ đệm bảo tồn vốn sẽ được phân đoạn ở giữa ngày 01 tháng 01 năm 2016
và cuối năm 2018, bắt đầu trở nên có hiệu quả hoàn toàn từ ngày 01 tháng 01 năm
2019.
Nó sẽ bắt đầu bằng 0,625% của RWAs từ năm 2016 và gia tăng 0.615%
trong mỗi năm tiếp theo, để đạt đến mức độ cuối cùng là 2,5% của RWAs vào ngày
01 tháng 01 năm 2019.
Các nước tăng trưởng tín dụng quá nhiều, nên xem xét đẩy nhanh việc xây
dựng các phần vốn đệm dự phòng tài chính và vốn đệm dự phòng suy giảm theo
2
Các khoản thế chấp chứng quyền (MSRs - Mortgage Servicing Rights) là quyền quản lý một thế chấp
nhà ở. Trong các hoạt động, người giữ quyền MSR thu thập các khoản thanh toán từ bên thế chấp và chuyển
chúng cho người có thế chấp. Trong khi các quyền này đang được giao dịch phổ biến, chúng được xem như
là tài sản vô hình trong các mục đích kế toán. Basel 3 loại trừ chúng khỏi việc tính toán vốn. Tuy nhiên,
những nhà làm luật Hoa Kỳ và ngành ngân hàng tiếp tục thảo luận về công việc có nên bao gồm MSRs trong
tính toán vốn hay không, và nguyên tắc có thể được sửa đổi bởi Ủy ban Basel hoặc thay đổi trong việc thi
hành Basel 3 của từng quốc gia.
3
DTAs - Deferred Tax Assets: khoản lợi thuế tài sản, còn gọi là tài sản thuế thu nhập hoãn lại
19