Tri thức bản địa của người mnông ở huyện lắk trong việc quản lý và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên

  • 217 trang
  • file .doc
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ THANH XUÂN
TRI THỨC BẢN ĐỊA CỦA NGƯỜI MNÔNG Ở HUYỆN LẮK
TRONG VIỆC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG CÁC NGUỒN TÀI
NGUYÊN THIÊN NHIÊN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA DÂN GIAN
Hà Nội - 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ THANH XUÂN
TRI THỨC BẢN ĐỊA CỦA NGƯỜI MNÔNG Ở HUYỆN LẮK
TRONG VIỆC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG CÁC NGUỒN TÀI
NGUYÊN THIÊN NHIÊN
Ngành: Văn hóa dân gian
Mã số: 9 22 9041
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA DÂN GIAN
Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Ngô Đức Thịnh
2. PGS.TS. Phạm Quỳnh Phương
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trinh nghiên cứu cua riêng
tôi. Cac số liê ̣u đã sư dung trong luận an là trung thưc. Những
kết luận nêu trong luận an chưa được công bố ở bất kỳ công
trinh khoa học nào.
Tác giả luận án
Lê Thị Thanh Xuân
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận an “Tri thức bản địa của người Mnông ở huyện Lắk
trong việc quản lý và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên” là một hành
trinh dài cua sư tim tòi, nghiên cứu và học hỏi không ngừng. Tôi xin bày tỏ sư biết
ơn đến cac ca nhân và tập thể sau:
Trước tiên, tôi xin tri ân sâu sắc đến hai giao viên hướng dẫn cua tôi là
GS.TS. Ngô Đức Thịnh và PGS.TS. Phạm Quỳnh Phương. GS.TS Ngô Đức Thịnh
là người đã hướng dẫn tôi thưc hiê ̣n Luận văn thạc sỹ, sau đó không quản ngại tiếp
tuc nhận hướng dẫn tôi làm Luận an tiến sỹ. Hai giao viên hướng dẫn đã đóng góp
những ý kiến quan trọng trong lúc thưc hiê ̣n và hoàn thành luận an.
Cảm ơn tập thể cac nhà khoa học đã và đang công tac tại Viê ̣n Nghiên cứu
Văn hóa thuộc Viê ̣n hàn lâm Khoa học Xã hội Viê ̣t Nam, Khoa Văn hóa họccHọc
viê ̣n Khoa học Xã hội luôn tận tinh hỗ trợ tôi về mặt học thuật, phương phap nghiên
cứu trong suốt thời gian tôi theo học Thạc sỹ và làm nghiên cứu sinh.
Cac nhà khoa học ở cac viê ̣n nghiên cứu, cac cơ quan đã có những ý kiến
đóng góp xac đang cho cho bản dư thảo luận an để tôi có thể bổ sung, hoàn thiê ̣n
luận an.
Lãnh đạo Sở Giao duc và Đào tạo Đắk Lắk, trường Trung cấp sư phạm Mầm
non Đắk Lắk đã tạo mọi điều kiê ̣n để tôi có thể theo đuổi và hoàn thành chương
trinh nghiên cứu sinh.
Đặc biê ̣t, tôi không thể hoàn thành luận an nếu thiếu sư cộng tac, giúp đỡ cua
cac già làng, bà con, họ hàng ở cac bon làng cua người Mnông; can bộ cua cac thôn,
cac xã và lãnh đạo BN huyê ̣n Lắk, cac sở ban ngành cua tỉnnh Đắk Lắk.
Cuối cùng, tôi xin gưi lời cảm ơn tới những người bạn, những người đồng
nghiê ̣p đã luôn động viên, hỗ trợ để tôi có thêm động lưc tiếp tuc nghiên cứu. Và
đặc biê ̣t, tôi cảm ơn sâu sắc đến gia đinh tôi, nhất là bố mẹ tôi đã luôn ở bên, tạo
điều kiê ̣n về thời gian, là chỗ dưa về mặt tinh thần và vật chất để tôi có thể đi trọn
con đường nghiên cứu cua minh.
Tôi vô cùng cảm kích và một lần nữa bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc nhất đối với
tất cả!
Hà Nội, tháng 2 năm 2019
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU........................................................................10
1.1. Tổng quan tinh hinh nghiên cứu..............................................................................................10
1.2. Cơ sở lý thuyết................................................................................................................................23
1.3. Khai quat địa bàn nghiên cứu...................................................................................................37
Chương 2: TRI THỨC BẢN ĐỊA CỦA NGƯỜI MNÔNG Ở HUYỆN LẮK,
TỈNH ĐẮK LẮK TRONG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG......................50
2.1. Nhận thức luận/Thế giới quan cua người Mnông về tư nhiên...................................50
2.2. Luật tuc với viê ̣c quản lý xã hội và bảo vê ̣ đất rừng......................................................55
2.3. Kỹ thuật canh tac phù hợp với môi trường sinh thai......................................................80
2.4. Nghi lễ cung cố niềm tin, sư tôn trọng đối với tư nhiên...............................................85
Chương 3: TRI THỨC BẢN ĐỊA CỦA NGƯỜI MNÔNG Ở HUYỆN LẮK,
TỈNH ĐẮK LẮK TRONG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG NƯỚC...................................96
3.1. Vai trò cua nước trong đời sống cua người Mnông........................................................96
3.2. Xac lập quyền sở hữu nguồn nước.......................................................................................100
3.3. Vai trò chỉn huy cua “Rnoh Rnut” trong viê ̣c hướng dẫn dân làng chặn dòng
bắt ca tập thể............................................................................................................................................101
3.4. Tri thức bản địa trong bảo vê ̣ nguồn nước.......................................................................102
3.5. Một số nghi lễ liên quan đến nguồn nước........................................................................108
Chương 4: NGUYÊN NHÂN SỰ BIẾN ĐỔI, CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI TRI THỨC BẢN ĐỊA CỦA
NGƯỜI MNÔNG Ở HUYỆN LẮK, TỈNH ĐẮK LẮK................................................112
4.1. Sư biến đổi cua tri thức bản địa về quản lý, sư dung đất rừng và nước..............112
4.2. Cac nhân tố tac động đến sư biến đổi cua tri thức bản địa cua người Mnông . 130
4.3. Những thach thức trong viê ̣c bảo tồn và phat huy gia trị cua tri thức bản địa
trong bối cảnh hiê ̣n nay......................................................................................................................137
KẾT LUẬN............................................................................................................................................142
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN................................................................................................145
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................146
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CP: Chính phu
L: ương lịch
TTS: ân tộc thiểu số
Ha: Hecta
Kg: Kilô gram
KH: Kế hoạch
KHKT: Khoa học kỹ thuật
NCS: Nghiên cứu sinh
NQ: Nghị quyết
PCCR: Phòng chống chay rừng
PL: Phật lịch
Pl: Phu luc
PTBV: Phat triển bền vững
QLBVR: Quản lý bảo vê ̣ rừng
Sđd: Sach đã dẫn
TW: Trung ương
BN : Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1: Phân loại đất trong canh tac lúa rẫy...................................................................65
Bảng 2.2: Một số loại cây, la chữa bê ̣nh (nhóm Gar ở xã Krông Nô)..................72
Bảng 2.3: Một số loại cây, la chữa bê ̣nh (nhóm Rlâm ở buôn Lê).........................72
Bảng 2.4: Một số loại cây, la chữa bê ̣nh (nhóm Gar ở bon Ji Yôk)......................73
Bảng 4.1: Muc đích khai thac lâm sản cua người Mnông........................................124
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Huyê ̣n Lắk tọa lạc phía Đông Nam cua tỉnnh Đắk Lắk, vốn là vùng đất được
thiên nhiên ưu đãi khi ban tặng dãy núi Chư Yang Sin, rừng Nam Ka hùng vĩ, hồ
Lắk thơ mộng như tấm gương lớn cho những ngọn núi duyên dang nghiêng minh
soi bóng. Từ chính không gian hiền hòa và thơ mộng ấy, người Mnông đã tích lũy
cho minh tri thức về môi trường sinh thai mang đặc trưng văn hóa tộc người. Chính
nhờ tri thức ấy mà rừng đầu nguồn được bảo vê ̣, quan hê ̣ cộng đồng được cố kết,
cac thưc hành văn hóa luôn hướng đến viê ̣c đảm bảo cho sư phat triển bền vững cua
cộng đồng “chỉ lấy từ rừng đủ dùng, không hề lãng phí” [45].
Người Mnông là một trong những dân tộc sinh sống lâu đời trên Cao nguyên
Đắk Lắk. “Chúng tôi ăn rừng” là cach mà người Mnông nói về hoạt động canh tac
lúa rẫy cua minh. Không phải ngẫu nhiên mà người Mnông chọn động từ “ăn” để
nói về cach mà họ canh tac trên cac khoảnh rừng, cach mà họ lấy cac sản vật từ
rừng để duy tri sư sống. Vi rừng chính là nơi họ sinh ra, là nơi họ kiếm sống, rừng
cũng là nơi chở che mọi tai họa và đưa họ về với tổ tiên. Đất và làng cũng được cắt
ra từ rừng. Sư linh thiêng, huyền bí, dồi dào về nguồn sống cua rừng đã tạo nên
“văn hóa rừng”. Hay nói đúng hơn, rừng chính là môi trường góp phần tạo nên tri
thức bản địa và văn hóa cua người Mnông.
Tuy nhiên, hiê ̣n nay, trong bối cảnh xã hội chuyển đổi, đời sống cua người
Mnông đang hàng ngày, hàng giờ đối diê ̣n với rất nhiều thach thức như: sư tac động
cua nền kinh tế thị trường; ảnh hưởng cua biến đổi khí hậu; suy giảm nguồn tài
nguyên rừng và sư thay đổi quyền quản lý, sư dung cac nguồn tài nguyên; ap lưc về
tăng dân số cơ học dẫn đến nhu cầu đất ở, đất sản xuất trở thành vấn đề cấp thiết đối
chính quyền địa phương và người dân địa phương; sư giao lưu, tiếp biến về văn hóa,
sư thâm nhập cua tôn giao mớiđđã làm cho kho tàng tri thức bản địa và văn hóa tộc
người dần mai một và nhiều tri thức đã ra đi mãi mãi; điều này đã tac động sâu sắc
đến mối quan hê ̣ sinh thai hài hòa giữa con người và tư nhiên, tổn hại đến môi
trường.
Bên cạnh những vấn đề thưc tiễn đặt ra đối với tri thức bản địa được đề cập ở
trên, dưới góc độ lý luận về tri thức bản địa, cho thấy, ở Viê ̣t Nam, nghiên cứu về tri
thức bản địa đã được chú ý từ thập kỷ 90 cua thế kỷ XX và ngày càng có nhiều
nghiên cứu quan tâm đề cập đến vai trò cua tri thức này, nhất là trong khía cạnh
1
quản lý môi trường. Tuy nhiên, phần lớn cac nghiên cứu về tri thức bản địa ở Viê ̣t
Nam bị ảnh hưởng bởi muc đích nghiên cứu phuc vu cho điều tra, sưu tầm, tim hiểu
văn hóa cac dân tộc thiểu số dưới góc độ dân tộc học, hoặc chỉn lưa chọn những vấn
đề phù hợp với muc đích cua cac dư an bảo tồn đa dạng sinh học, dư an phat triển
kinh tế, xã hội, phuc vu cho viê ̣c xây dưng chính sach về quản lý và bảo vê ̣ tài
nguyênđnên tiếp cận khai niê ̣m tri thức bản địa như một bản chất ít thay đổi, tập
trung trên một số khía cạnh như: gọi tên và phân loại động thưc vật, quản lý tài
nguyên thiên nhiên qua luật tuc, sưu tầm, tim hiểu phong tuc tập quan, sưu tầm luật
tuc, văn học dân gianđThế giới nhận thức luận chưa được quan tâm đúng mức,
trong khi chính thế giới quan là yếu tố có sư ảnh hưởng, chi phối toàn bộ cac thưc
hành văn hóa cua cộng đồng. Chính vi cach tiếp cận tri thức bản địa như trên, cac
nhà nghiên cứu ở Viê ̣t Nam ít quan tâm đến mối tương tac giữa yếu tố kỹ thuật và
phi kỹ thuật hay nói cach khac ít quan tâm mối quan hê ̣ giữa tri thức bản địa và cac
thành tố khac cua văn hóa. Thậm chí, vẫn còn những nghiên cứu xem tri thức bản
địa là những phong tuc tập quan lạc hậu cần loại bỏđchính cach hiểu về tri thức
bản địa như trên đã bỏ qua viê ̣c nhin nhận tri thức này trong mối quan hê ̣ qua lại với
thế giới quan, vũ tru quan, với vấn đề tâm linh, tín ngưỡng, dẫn đến viê ̣c xây dưng
một số chính sach về văn hóa, về phat triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc
thiểu số chưa chú ý đến vai trò cua tri thức bản địa trong đời sống văn hóa cua cộng
đồng. Trong khi cac nhà nhân học hiê ̣n nay xem “tri thức bản địa cần phải được
hiểu như một hê ̣ thống hoặc thế giới quan hoàn chỉnnh gồm cả hiểu biết về tôn giao,
tín ngưỡng, lễ nghi và cac khía cạnh cua tri thức bản địa” [70, tr.1].
Qua nghiên cứu tri thức bản địa cua người Mnông về quản lý cac nguồn tài
nguyên đất, rừng và nguồn nước, luận an sẽ tim hiểu cach mà người Mnông sư dung
vũ tru quan cua sư hòa hợp nhằm thể hiê ̣n sư tôn trọng tư nhiên, tôn trọng thần linh
như thế nào? Trong luận an này, tri thức bản địa sẽ được nhin nhận trong mối liên
hê ̣ với bối cảnh văn hóa cua người Mnông nói chung và trong sư mai một cua hê ̣
thống tri thức này nói riêng; bổ khuyết cach hiểu, cach tiếp cận tri thức bản địa còn
nhiều khoảng trống ở Viê ̣t Nam. Trên cơ sở nhin nhận tri thức bản địa là một chỉnnh
thể nguyên hợp, không tach rời cac thành tố cấu thành tri thức này, không tach rời
yếu tố kỹ thuật và phi kỹ thuật, quan tâm đến cơ sở hinh thành cua tri thức bản địa,
tim hiểu tac động cua nhận thức luận đến sinh kế bền vững cua tộc người Mnông.
Tim hiểu hê ̣ thống tri thức bản địa cua người Mnông ở huyê ̣n Lắk, tỉnnh Đắk Lắk
2
giúp chúng ta hiểu biết hơn về kho tàng văn hóa cua đồng bào Mnông, hiểu biết hơn
về cach mà họ ứng xư với môi trường tư nhiên để bàn luận về vai trò cua tri thức
bản địa trong đời sống văn hóa tộc người và những vấn đề đặt ra khi kho tàng tri
thức này bị mai một và dần biến mất.
Trên cơ sở nhận thức tầm quan trọng cua tri thức bản địa đối với văn hóa một
tộc người và sư phat triển bền vững nên tôi chọn đề tài “Tri thức bản địa của người
Mnông ở huyện Lắk trong việc quản lý và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên
nhiên” để làm Luận an Tiến sĩ, chuyên ngành Văn hóa dân gian.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Muc đích nghiên cứu cua luận an là thông qua viê ̣c giới thiê ̣u một cach hê ̣
thống và toàn diê ̣n về tri thức bản địa cua người Mnông góp phần làm sang tỏ đặc
trưng văn hoa cua người Mnông ở huyê ̣n Lắk, tỉnnh Đắk Lắk; đồng thời nhin ra qua
trinh vận động cua kho tàng tri thức bản địa cua người Mnông trong bối cảnh xã hội
chuyển đổi hiê ̣n nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhận diê ̣n một cach hê ̣ thống kho tàng tri thức bản địa Mnông ở huyê ̣n Lắk,
tỉnnh Đắk Lắk về quản lý và sư dung tài nguyên.
Chỉn ra qua trinh biến đổi và cac nhân tố gây biến đổi tri thức bản địa cua
người Mnông ở huyê ̣n Lắk, tỉnnh Đắk Lắk từ sau 1975 đến nay.
Bàn luận về những vấn đề đặt ra liên quan đến tri thức bản địa và sư biến đổi
tri thức bản địa cua người Mnông ở huyê ̣n Lắk, tỉnnh Đắk Lắk trong bối cảnh xã hội
chuyển đổi hiê ̣n nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu cua đề tài là kho tàng tri thức bản địa liên quan tới
quản lý và sư dung tài nguyên thiên nhiên cua người Mnông tại huyê ̣n Lắk, tỉnnh
Đắk Lắk.
3.2. Phạm vi vấn đề nghiên cứu
Tri thức bản địa là một vấn đề rất rộng song, trong luận an này chúng tôi chỉn
tập trung nghiên cứu sâu tri thức bản địa trong quản lý và sư dung tài nguyên thiên
nhiên bao gồm đất rừng, nguồn nước trên cac khía cạnh: xem xét sư phù hợp cua kỹ
thuật canh tac với môi trường sinh thai; tập trung nhin nhận cach quản lý, phân phối
3
tài nguyên qua cac thiết chế (luật tuc, kiêng kị) với vai trò là bà đỡ cho viê ̣c bảo vê ̣
tài nguyên. Đề tài đặc biê ̣t quan tâm đến nhận thức luận cua người Mnông đối với
tài nguyên thiên nhiên thông qua thế giới quan, tín ngưỡng và nghi lễ. Trên cơ sở
đó, chúng tôi xem xét những nguyên nhân, cac chiều tac động làm biến đổi tri thức
bản địa. Đặc biê ̣t quan tâm đến chiều tac động cua chính sach nhà nước đối với
truyền thống quản lý tài nguyên đất rừng và nguồn nước, nên cac văn bản cua nhà
nước cũng được tiếp cận giới hạn trong phạm vi những nội dung liên quan đến
quyền sở hữu và quản lý tài nguyên.
3.3. Phạm vi địa bàn nghiên cứu
Huyê ̣n Lắk cua tỉnnh Đắk Lắk là địa bàn khảo sat chính cua chúng tôi vi đây
là nơi sinh sống lâu đời cua người Mnông với dân số chiếm 63 % dân số toàn
huyê ̣n. Nơi đây có địa hinh cảnh quan đồi núi xen lẫn cac vùng trũng tạo nên sư đa
dạng về địa hinh, do đó tri thức bản địa cua cac nhóm Mnông cũng chịu ảnh hưởng
cua môi trường sinh thai nên có những đặc trưng khac nhau. Nhóm Gar cư trú trên
núi cao nổi tiếng với viê ̣c “ăn rừng”, nhóm Rlâm cư trú tại cac vùng trũng lại thuần
thuc với viê ̣c sư dung đàn trâu vào canh tac lúa nước. Hiê ̣n nay, không gian xã hội
cua người Mnông đã bị tac động, thay đổi kha nhiều, rừng không còn là không gian
bao chiếm, diê ̣n tích ruộng lúa bị thu hẹp do tăng dân số và bố trí dân cư xen cài, sư
tiếp nhận kỹ thuật canh tac mới, cac thiết chế văn hóa, xã hội thay đổi, du lịch trở
thành nguồn thu nhập cho một bộ phận người dân, sư tac động cua chính sach đối
với tài nguyên, sư thâm nhập sâu cua cac tôn giao mớiđđã làm thay đổi tập quan
ứng xư cua người Mnông đối với tài nguyên cũng như viê ̣c bảo lưu cac yếu tố văn
hóa truyền thống. Trước bối cảnh không ngừng thay đổi và nhiều chiều tac động đối
với cac làng cua người Mnông, chúng tôi chọn 11 làng để khảo sat gồm:
Buôn Lê (uôn Dlei), buôn Jun (uôn Jun) (Thị trấn Liên Sơn) là làng cua
nhóm Rlâm, cư trú ở vùng trũng ven hồ Lắk, canh tac lúa nước, hiê ̣n nay có một bộ
phận cư dân tham gia làm du lịch.
Bon Yuk La (xã Đắk Liêng) là làng cư trú trên núi cao, canh tac lúa rẫy, chịu
tac động cua chính sach định canh định cư cua Nhà nước đã chuyển cư xuống vùng
đất thấp ven thị trấn Lắk, chuyển sang canh tac lúa nước và trồng cac cây công
nghiê ̣p.
Bon Ba Yang, R’chai A, Phi ih Ja (xã Krông Nô); bon Liêng Ké, bon
Tlông, bon Ji Yôk (xã Đắk Phơi), là cac làng thuộc nhóm Gar, cư trú trên núi cao,
4
nổi bật với truyền thống quản lý đất rừng, canh tac lúa rẫy. Nhưng hiê ̣n nay, cac
làng này cũng được sắp xếp xuống vùng đất bằng phẳng, cac tôn giao mới xâm
nhập, tac động kha mạnh đến đời sống tinh thần cua một bộ phận người dân. Nhưng
về cơ bản, cac làng này vẫn còn duy tri nhiều yếu tố văn hóa truyền thống.
Uôn iêu (xã Bông Krang), uôn âng Băc (xã Yang Tao) là 02 làng cua
nhóm Rlâm, canh tac lúa nước, chịu sư tac động mạnh cua tôn giao mới (Tin Lành,
Công giao), phần lớn văn hóa truyền thống được chuyển đổi sang đức tin và làm
theo lời chúa, nghi thức tôn giao thay cho cac nghi lễ truyền thống. Sư chuyển đổi
diễn ra mạnh mẽ ở cac làng có cư dân tin theo đạo Tin Lành.
Để nghiên cứu có thêm tính thuyết phuc, chúng tôi còn tiến hành điền dã tại
xã Đắk Rung, huyê ̣n Đắk Song (tỉnnh Đắk Nông); xã Đăm Rông, huyê ̣n Đăm Rông
(tỉnnh Lâm Đồng), qua đó, có sư so sanh những tương đồng và dị biê ̣t về tri thức bản
địa giữa cac nhóm Mnông ở những địa phương khac nhau.
3.3. Phạm vi thời gian nghiên cứu
Luận an nghiên cứu tri thức bản địa cua người Mnông ở huyê ̣n Lắk, tỉnnh Đắk
Lắk trong viê ̣c quản lý và sư dung cac nguồn tài nguyên thiên nhiên trong tiến trinh
phat triển xã hội tộc người; nghĩa là cac tri thức bản địa đã và đang tồn tại trong
nhận thức cua cộng đồng người Mnông ở huyê ̣n Lắk, tỉnnh Đắk Lắk.
Phạm vi thời gian được trinh bày làm hai giai đoạn, từ 1945 đến 1985 và từ
1986 đến nay. Vi từ 1945, ngoài sư ảnh hưởng trưc tiếp từ cuộc chiến tranh chống
thưc dân Phap và đế quốc Mỹ (chất độc hóa học làm ô nhiễm nguồn nước, tàn pha
rừng, dồn dân lập đồn điền, lập ấp chiến lượcđ) thi về cơ bản, quyền sở hữu tài
nguyên vẫn thuộc về cộng đồng, nhóm họ, cac ca nhân tiến hành khai thac, sư dung
tài nguyên theo sư phân phối cua những người được cộng đồng tôn phong trong
làng, trong rừng. Người Mnông vẫn duy tri tập quan canh tac lúa rẫy và lúa nước
theo đúng truyền thống. iê ̣n tích rừng và độ che phu rừng đảm bảo cho cộng đồng
thưc hiê ̣n quyền sở hữu và canh tac theo lối luân khoảnh khép kín. Ở giai đoạn này,
chúng tôi tập trung vào viê ̣c nhận diê ̣n những đặc trưng cua tri thức bản địa cua
người Mnông trong quản lý và sư dung tài nguyên đất rừng và nguồn nước theo
truyền thống. Giai đoạn từ 1986 đến nay, Đảng, Nhà nước đã triển khai cac chương
trinh phat triển kinh tếcxã hội miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên. Ở huyê ̣n Lắk, cac nông lâm trường, hợp tac xã nông nghiê ̣p được thành
lập, diê ̣n tích đất khai hoang được mở rộng đã hinh thành nên canh đồng lúa buôn
5
Tría, buôn Triết rộng lớn; chu trương di dân từ cac tỉnnh đồng bằng và duyên hải
miền Trung lên phat triển kinh tế đã đặt ra yêu cầu phân bố lại địa bàn cư trú cua
người Mnông trên cơ sở vận động bà con bỏ tập quan du canh du cư, hinh thành cac
bon làng định canh, định cư dọc cac con đường quốc lộ và nội huyê ̣n. Bên cạnh đó,
sư tac động cua nền kinh tế thị trường và nhiều yếu tố khac (tôn giao, giao lưu văn
hóa, phương tiê ̣n truyền thông, khoa học kỹ thuậtđ) đã tac động trưc tiếp và mạnh
mẽ đến nguồn tài nguyên, đây có thể xem là giai đoạn đanh dấu nhiều sư thay đổi
trong quản lý và sư dung tài nguyên thiên nhiên cua người Mnông.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận an được thưc hiê ̣n dưa trên hai nguồn tư liê ̣u cơ bản: thứ nhất là nguồn
tài liê ̣u đã được công bố, thứ hai là nguồn tư liê ̣u do chính NCS thu thập từ thưc tế
điền dã tại cac địa bàn đã nêu.
Đối với nguồn dữ liê ̣u thứ nhất, NCS thu thập nguồn tư liê ̣u thứ cấp, đọc, xư
lý, phân tích và hê ̣ thống lại những kết quả nghiên cứu đã có liên quan đến nội dung
đề tài, bao gồm cac sach, cac đề tài, dư an viết về chu đề tri thức bản địa, về người
Mnông, về huyê ̣n Lắkđ Nghiên cứu cua chúng tôi tập trung tiếp cận vấn đề trên
tính chỉnnh thể nguyên hợp trong nghiên cứu văn hóa dân gian, kế thừa sâu sắc quan
điểm tiếp cận “không gian xã hội” cua người Mnông và cac thông tin được mô tả
trong công trinh nghiên cứu về người Mnông cua Georges Condominas (Chúng tôi
ăn rừng, Không gian xã hội vùng Đông Nam Á, Kỳ lạ mỗi ngày). Cùng với đó là
viê ̣c thu thập cac tài liê ̣u thống kê, bao cao liên quan từ cơ quan trung ương đến địa
phương tỉnnh, huyê ̣n, xã. Có thể nói, đây là những tài liê ̣u hết sức quan trọng, cấu
thành nền tảng cơ sở lý luận cua luận an.
Nguồn dữ liê ̣u thứ hai được triển khai bởi cac phương phap nghiên cứu trên
thưc địa, đây là phương phap chu đạo để thu thập nguồn tư liê ̣u chính và quan trọng
nhất cua luận an. Cu thể là:
Phỏng vấn sâu can bộ địa phương cấp huyê ̣n, xã (lãnh đạo Ủy ban nhân dân,
lãnh đạo và chuyên viên cua Phòng Tài nguyêncMôi trường, Chi cuc Kiểm lâm,
Phòng Nông nghiê ̣p, Phòng ân tộc, Phòng Văn hóa thông tin, cac can bộ đoàn thể
như Đoàn Thanh niên, Hội nông dân, Hội phu nữđ), người dân địa phương nhằm
thu thập ý kiến về chính sach phat triển kinh tếcxã hội, chính sach bảo tồn và phat
huy cac gia trị văn hoa.
6
Phỏng vấn hồi cố, phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm đối với đối tượng là cac già
làng, trưởng buôn, trưởng thôn, những người am hiểu (trên 60 tuổi), đại diê ̣n cac hộ gia
đinh người Mnông (nhất là cac hộ gia đinh trẻ,, thanh niên Mnông có độ tuổi từ 18 đến
40 tuổi) để thu thập thông tin về văn hóa truyền thống, về tri thức bản địa, về lịch sư và
qua trinh phat triển cua cộng đồng làng. Trên cơ sở cach tiếp cận lịch đại, tac giả sẽ liê ̣t
kê, mô tả qua trinh hinh thành huyê ̣n Lắk, nguồn gốc về người Mnông, điều kiê ̣n tư
nhiên, bối cảnh văn hóa xã hội (cac quy định về quản lý và sư dung tài nguyên đất rừng
và nguồn nước, sinh kế truyền thống, tổ chức kinh tế xã hội, sư thay đổi về quan niê ̣m,
cach thưc hành văn hóa cũng như cac chiều tac động đối với văn hóa và tri thức bản địa
về quản lý và sư dung đất rừng và nguồn nước)đ
Tri thức bản địa là một thưc thể sống, nảy sinh, tồn tại và phat triển gắn liền
với văn hóa cua cộng đồng, do vậy, nhận thức, lý giải tri thức bản địa phải gắn liền
với môi trường hinh thành tri thức ấy. Áp dung phương phap “chân trần trong bùn”
cua Jacques ournes trong nghiên cứu văn hóa cac dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên,
tac giả luận an sư dung triê ̣t để phương phap quan sat, chup ảnh cộng đồng làng,
cùng tham dư cac sinh hoạt, cac nghi lễ, thưc hành canh tacđ nhằm tai hiê ̣n cac dữ
liê ̣u trong phần trinh bày nội dung chương 2 và chương 3 cua luận an. Với lợi thế,
tac giả luận an là người Mnông nên trong qua trinh sinh sống cũng như trong qua
trinh điền dã đã có dịp quan sat, tham dư, chup ảnh nhiều hoạt động trong phạm vi
gia đinh và cộng đồng làng. Đây là những tư liê ̣u sinh động, giúp cho tư liê ̣u cua
luận an có độ tin cậy cao, hạn chế tối đa ảnh hưởng bởi sư có mặt cua người ngoài
cộng đồng trong qua trinh thu thập dữ liê ̣u.
Phương phap phân tích, đối chiếu, so sanh đồng đại và lịch đại trong khoa học
xã hội cũng được thưc hiê ̣n để nhin nhận cac số liê ̣u, sư kiê ̣n trong mối quan hê ̣ vốn
có với nhau theo thời gian và không gian để đảm bảo những phân tích đanh gia
trong luận an là khach quan và trung thưc.
Phương phap so sanh và phương phap tổng hợp nhằm làm rõ đặc trưng cua tri
thức bản địa cua người Mnông với tri thức bản địa cac tộc người khac trong khu vưc.
Phương phap liên ngành là sư kết hợp giữa nghiên cứu dân tộc học, văn hoa
học với phương phap cua ngành lịch sư, tôn giao học và xã hội học. Bởi vi, văn hóa
dân gian Viê ̣t Nam nói chung là tổng thể mọi sang tạo nên không có cach nào hiê ̣u
quả hơn là cach tiếp cận liên ngành, từ ngả đường lịch đại và đồng đạicnghĩa là cả
về diễn trinh lịch sư và cấu trúc [142, tr.575c577].
7
Phương phap chuyên gia được thưc hiê ̣n nhằm tranh thu ý kiến tham vấn cua
cac chuyên gia ở địa phương và ở Hà Nội đối với chu đề nghiên cứu. Những hiểu
biết, kinh nghiê ̣m cua cac chuyên gia thật sư hữu ích đối với qua trinh thưc hiê ̣n
luận an: giúp định hướng cach tiếp cận vấn đề nghiên cứu; góp ý cho viê ̣c xây dưng
cấu trúc luận an đảm bảo tính logic; cung cấp, bổ sung tư liê ̣uđgiúp nghiên cứu
được toàn diê ̣n và sâu sắc hơn.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý thuyết và khai niê ̣m liên quan
đến tri thức bản địa cua người Mnông nói riêng và cư dân nói ngôn ngữ MôncKhơ
me nói chung.
Nhận diê ̣n kho tàng tri thức bản địa cua người Mnông ở huyê ̣n Lắk để từ đó
làm sang tỏ một số đặc trưng và gia trị văn hoa xã hội cua tri thức bản địa người
Mnông, những sư biến đổi, những chiều tương tac cũng như những nhân tố tac động
đến hê ̣ thống tri thức bản địa cua người Mnông và những vấn đề đặt ra từ đó.
Cung cấp nguồn tư liê ̣u tham khảo hữu ích cho chu đề nghiên cứu về tri thức
bản địa, về người Mnông, về Tây Nguyên, giúp ích cho công tac nghiên cứu, giảng
dạy và cả hoạch định chính sach.
Chỉn ra những vấn đề cấp bach, những thach thức đặt ra từ sư biến đổi nhanh
chóng theo chiều hướng thiếu tích cưc cua tri thức bản địa cua người Mnông hiê ̣n
nay và kết nối với vấn đề phat triển bền vững Tây Nguyên.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
ưới góc độ văn hóa dân gian, luận an góp phần nhin nhận tri thức bản địa
cua người Mnông trong viê ̣c quản lý và sư dung cac nguồn tài nguyên đất rừng và
nguồn nước dưa trên tính chỉnnh thể nguyên hợp, không tach rời cac thành tố cấu
thành tri thức bản địa, không tach rời giữa yếu tố kỹ thuật và phi kỹ thuật, xac định
nhận thức luận đóng vai trò quyết định, chi phối hành vi ứng xư giữa con người với
tư nhiên.
Bổ sung cac luận điểm khẳng định vai trò, gia trị cua tri thức bản địa trong
quản lý và sư dung đất rừng và nguồn nước, là cơ sở để cộng đồng và cac cơ quan
quản lý nhà nước quản lý và bảo vê ̣ tài nguyên một cach bền vững, góp phần bảo
tồn và phat huy cac gia trị cua văn hóa dân gian. Nghiên cứu còn góp phần khẳng
định sư phù hợp cua cach tiếp cận tài nguyên thiên nhiên dưa trên nguyên tắc có sư
8
tham gia cua cộng đồng, kết hợp giữa tri thức bản địa và tri thức khoa học trong
phat triển bền vững.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận an chỉn ra những vấn đề cần tập trung chú ý đối với tri thức bản địa như:
những biểu hiê ̣n cua tri thức bản địa về quản lý và sư dung đất rừng và nguồn nước
thông qua cac nguyên tắc xac định ranh giới đất rừng và nguồn nước, cư người phân
phối tài nguyên, viê ̣c điều hòa nhu cầu sư dung tài nguyên, quan niê ̣m, tín ngưỡng,
nghi lễ, luật tuc, kiêng kị, sang tạo văn nghê ̣ dân gian...
Cung cấp cơ sở cho viê ̣c phân tích, đanh gia hê ̣ thống chính sach liên quan
đến viê ̣c quản lý và bảo vê ̣ tài nguyên, qua đó chỉn ra hạn chế cua viê ̣c xây dưng một
số chính sach đã bỏ qua sư tham vấn ý kiến cua người dân địa phương, chưa xem
xét, tôn trọng và vận dung hợp lý cac khía cạnh cua tri thức bản địa vào viê ̣c quản
trị tài nguyên ở cấp cộng đồng. Chính điều này đã dẫn tới sư xung đột giữa chính
sach cua nhà nước với truyền thống quản lý tài nguyên cua cộng đồng, giữa cơ quan
quản lý nhà nước ở địa phương và người dân; giữa người dân thuộc cac cộng đồng
khac nhau.
Luận an cũng góp phần làm giàu cac nghiên cứu vận dung tri thức tộc người
vào viê ̣c xây dưng chuẩn mưc hành vi cua cộng đồng và cả xã hội trước thưc trạng ô
nhiễm môi trường và suy thoai tài nguyên nghiêm trọng như hiê ̣n nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liê ̣u tham khảo, phu luc, luận an được chia
làm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tinh hinh nghiên cứu, cơ sở lý luận và khai quat địa
bàn nghiên cứu.
Chương 2: Tri thức bản địa cua người Mnông ở huyê ̣n Lắk, tỉnnh Đắk Lắk
trong quản lý, sư dung đất rừng.
Chương 3: Tri thức bản địa cua người Mnông ở huyê ̣n Lắk, tỉnnh Đắk Lắk
trong quản lý, sư dung nguồn nước.
Chương 4: Nguyên nhân sư biến đổi, cac chiều tương tac và những vấn đề
đặt ra đối với tri thức bản địa cua người Mnông ở huyê ̣n Lắk, tỉnnh Đắk Lắk
9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu về tri thức bản địa trên thế giới
Ở phương Tây, thường cho rằng không có cai gọi là tri thức bản địa theo
nghĩa tri thức “dân gian” đã từng tồn tại và biến mất, và theo một cach nào đó khoa
học và công nghê ̣ trở thành tri thức bản địa. Tuy nhiên, cac nhà nghiên cứu cho
chúng ta thấy ngay từ thời trung cổ và giai đoạn đầu cua thời hiê ̣n đại, cac kinh
nghiê ̣m cộng đồng, truyền thống truyền miê ̣ng, kinh nghiê ̣m ca nhân và quyền hạn
có được thông qua học hỏi hinh thành nên tri thức “cô đọng” hay “sư thông thai
được truyền giao” được sắp xếp thành những tri thức chuyên biê ̣t, đặc biê ̣t là tri thức
y học [82, tr.8]. Từ thế kỷ 16 trở đi, tri thức dân gian Châu Âu kết hợp với y học có
nguồn gốc Châu Á và Châu Mỹ. Chính sư vô danh này đã giúp xac định được
những hoạt động mang tính khoa học mới nổi, đối nghịch với tri thức dân gian. Về
mặt phương phap luận, tri thức khoa học vẫn tiếp tuc tận dung những tri thức dân
gian có tính thưc tiễn [Sđd, tr.9]. Trong suốt thế kỷ 17, 18, tri thức khoa học cua thế
giới tư nhiên được tạo ra, tiếp tuc tiếp thu những tri thức dân gian địa phương tồn tại
trước đó. Một phần tri thức dân gian còn sót lại vào cuối thế kỷ 20 trở thành đối
tượng cua viê ̣c phuc hưng hóa. Phần còn lại tiếp tuc tồn tại như những tri thức ẩn
cần thiết cho viê ̣c tạo ra những cuốn sach và lý thuyết và tiếp tuc thể hiê ̣n sư gắn kết
thưc tiễn cua những người thợ thường dân, “tri thức dân gian đã bị hê ̣ thống hóa
thành tri thức khoa học” [Sđd, tr.10].
Những năm1960c1970 cua thế kỷ XX, tri thức bản địa bị xem nhẹ, bị bỏ qua
và đanh gia thấp. Tri thức bản địa không chỉn bị đanh gia thấp bởi những nhà quản lý
có trinh độ được đào tạo theo phương Tây về những tiềm năng ứng dung thưc tiễn
cua nó. Thậm chí, khi tri thức bản địa được dùng hiển nhiên, thi công lao cua những
người đưa nó đến với khoa học vẫn bị lờ đi [Sđd, tr.16]. Mặc dù tri thức bản địa bị
ngoài lề hóa như trên nhưng ngay từ giữa thế kỷ 19, qua trinh này bị xem xét lại.
Nguyên nhân tri thức bản địa được xem xét lại là do sư bất lưc cua khoa học và
công nghê ̣ phương Tây trong giải thích thế giới tư nhiên, trong khi người dân bản
địa lại sống hài hòa với thế giới tư nhiên, họ được xem như những nhà sinh thai học
10
thưc sư với những hiểu biết sâu sắc về môi trường, những quan niê ̣m, niềm tin và
cach bảo vê ̣ nguồn tài nguyên [Sđd, tr.17]. Tuy nhiên, sư nóng lòng cua cac nhà
nhân học và cac chuyên gia phat triển muốn giúp tri thức bản địa được chấp nhận đã
đẩy tri thức bản địa đến chỗ giải bối cảnh mà ở đó tri thức được hinh thành và gắn
chặt, bị biến thành “giải phap hóa toàn cầu và khai quat hóa”, tri thức bản địa bị mã
hóa và lưu giữ, phổ biến như tri thức khoa học; bị đẩy xa hơn, tri thức bản địa trở
thành một khai niê ̣m vu lợi và phi ca nhân, cu thể và bối cảnh [Sđd, tr.26c28].
Ở Châu Âu và Bắc Mỹ, trong những năm gần đây có rất nhiều bài viết mang
tính học thuật về tri thức bản địa. Những nghiên cứu này tập trung vào cac khía
cạnh khac nhau cua tri thức bản địa, từ tri thức về sinh thai ap dung cho bảo tồn tài
nguyên, cho đến cac hê ̣ thống phân loại đất, tri thức về thiên văn học và vũ tru học,
cho đến lập bản đồ địa lý và đặt tên cho vùng đất. anh sach cac chu đề có thể dành
cho cac nghiên cứu về tri thức bản địa là vô tận [71, tr.2].
Aru Agrawal đặt vấn đề mức độ thích hợp cua một thuật ngữ mang tính bao
trùm “tri thức bản địa” bằng cach nêu bật một điểm tương đồng chính mà có vẻ, ứng
với nhiều tri thức bản địa khac nhau. Scott tranh luận rằng khai niê ̣m “tri thức bản
địa” được thay thế tốt hơn với cac khai niê ̣m như “tri thức địa phương”. Roy Ellen
nỗ lưc đưa ra 10 đặc tính chung cua tri thức bản địa trong đó nhấn mạnh tính địa
phương, tính chỉnnh thể không thể tach rời giữa yếu tố kỹ thuật và phi kỹ thuật, giữa
lý trí và phi lý trí và những tri thức này thường nằm trong cac truyền thống văn hóa
rộng lớn hơn. Trong khi đó cac nhà nhân học như Posey cũng tham gia tranh luận
làm thế nào để phân loại, bảo tồn tri thức bản địa, làm thế nào để tích hợp tri thức
này vào cac dư an và chính sach phat triển. Trong khi đó, Strang thi cho rằng “nhân
học về bản chất là đối thoại và cac lý thuyết và thưc hành cua nhân học cần được coi
là sản phẩm nhận thức luận cua sư trao đổi đa văn hóa lâu dài và một sư tổng hợp
cua cac lý thuyết và cac tri thức [dẫn theo 71, tr.4].
Năm 1997, một cuộc hội thảo với chu đề “Tri thức bản địa về môi trường và
những biến đổi” đã được tổ chức tại trường Đại học Kent (Canterbury, Hoa Kỳ) với
muc đích nhằm thảo luận chuyên sâu về khai niê ̣m “tri thức bản địa” bao gồm cac
vấn đề: sư hinh thành tri thức, cach thức vận hành nó trong thưc tiễn xã hội và cac
bước phat triển thăng trầm cua nó. Từ đó, cac nhà khoa học đanh gia một cach
khach quan và nghiêm túc về thưc trạng nghiên cứu tri thức bản địa trong những
ngành khoa học khac nhau cả về phương diê ̣n thưc tiễn và lý luận. Đồng thời đanh
11
gia lại vai trò cua tri thức bản địa trong bối cảnh cu thể [82, tr. 8]. Cac ý kiến phê
binh “cac nghiên cứu tri thức bản địa chỉn quan tâm đến phương phap tiếp cận phân
loại và dân tộc học thưc vật” đã góp phần nhin nhận tri thức bản địa là một hê ̣ thống
tri thức quy mô, tổng thể, có thể kể đến cac nghiên cứu cua Mokuku, Berkes và cac
cộng sư, Stave và cac cộng sư, Bollig và Schulte [dẫn theo 71, tr.6].
Qua cac nghiên cứu trên, tinh hinh nghiên cứu tri thức bản địa ở nước ngoài
có nhiều quan điểm tiếp cận trai chiều, thậm chí có cả viê ̣c lạm dung tri thức bản địa
cho muc đích chính trị hoặc phuc vu cho muc đích cua cac dư an phat triển kinh tế,
bảo tồn tài nguyên. Tuy nhiên, về cơ bản, hầu hết cac nghiên cứu đều thừa nhận vai
trò cua tri thức bản địa trong viê ̣c hinh thành bản sắc văn hóa và sinh kế cua cộng
đồng và đem đến cach tiếp cận mới với tri thức bản địa và đặt tri thức này trong
tổng thể, quan tâm đến vai trò cua thế giới quan đối với hê ̣ thống tri thức này.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu tri thức bản địa ở Việt Nam
1.1.2.1. Các nghiên cứu về tri thức bản địa nói chung và tri thức bản địa qua
các khía cạnh cụ thể
Ở Viê ̣t Nam, mối quan tâm, thiê ̣n cảm dành cho tri thức bản địa qua cac
nghiên cứu ngày càng nhiều lên, hàng loạt hội thảo được tổ chức để khẳng định vai
trò, nêu lên tầm quan trọng cua tri thức địa phương đối với vấn đề phat triển bền
vững miền núi. Trong đó, nhiều nghiên cứu nhấn mạnh tri thức bản địa như là một
nhân tố cốt lõi để đưa vấn đề phat triển bền vững tộc người đến sư thành công.
Về chu đề này, cac tac giả Nguyễn Ngọc Thanh, Đỗ Đinh Sâm, Trần Hồng
Hạnh, Nguyễn Trường Giang, Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng tập trung nghiên cứu tri
thức dân gian cua cac dân tộc thiểu số ao, Mông, Thai, Mường. Ngô Văn Lê ̣ và
cac tac giả [53] đề cập đến tri thức bản địa trên cac khía cạnh: hoạt động kinh tế,
sinh hoạt văn hóacxã hội và vai trò cua tri thức bản địa trong đời sống tộc người
thiểu số Đông Nam Bộ. Nguyễn iê ̣p Mai [61] tập trung vào hê ̣ thống tri thức bản
địa cua người Viê ̣t rừng Minh Thượng trong ứng xư với môi trường tạo sư thích
ứng tối ưu trong cuộc sống cua họ.
Trần Hồng Hạnh [33] đã tiến hành hê ̣ thống, đanh gia khai niê ̣m tri thức địa
phương cua cac nhà nghiên cứu trong ngoài nước để cho thấy bức tranh cua tinh
trạng sư dung chồng chéo cac khai niê ̣m tri thức “bản địa”, “truyền thống” hay “địa
phương” là kha phổ biến, nỗ lưc xac định quan niê ̣m về tri thức bản địa cua cac nhà
nghiên cứu vẫn chưa có sư thống nhất và chưa có một định nghĩa nào được toàn cầu
12
chấp nhận. Ngoài ra bài viết cũng đề cập đến vấn đề về mối quan hê ̣ cua tri thức địa
phương và cư dân địa phương, bối cảnh và sư phân loại tri thức bản địa. Không nên
đề cao hay đanh gia thấp tri thức hiê ̣n đại hay tri thức địa phươngđViê ̣c kết hợp
cac kiến thức địa phương với cac kiến thức kỹ thuật hiê ̣n đại là một giải phap tốt,
cần thiết và thích đang để đưa lại tính hiê ̣u quả cao cho cac dư an phat triển ở vùng
nông thôn và miền núi.
ưới góc độ lý thuyết cấu trúc, Lê Sỹ Giao [25] đề cập đến mối quan hê ̣ hết
sức chặt chẽ và biê ̣n chứng giữa rừng và quyền kinh tế cua người dân: Rừng còn thi
nguồn nước dồi dào, rừng mất thi nguồn nước cạn kiê ̣t. Không có rừng, không có
nước thi cũng có nghĩa là không gian sinh tồn bị đe dọa. “Rừng không phải chỉn là
rừng. Rừng là không gian sinh tồn, là phương tiê ̣n đặc biê ̣t để sinh sống. Rừng còn
là môi trường văn hóa”. Vi vậy, không gian sinh tồn và quyền hoạt động kinh tế
phải được xem xét một cach hết sức chu đao, cả về mặt tư nhiên, cả về mặt xã hội
cua nó, không kể đó là dân tại chỗ hay dân từ nơi khac đến. Nguyễn uy Thuy
[109] hê ̣ thống và đanh gia hiê ̣u quả một số chính sach liên quan đến công tac quản
lý, quy hoạch và sư dung ruộng đất ở huyê ̣n Lắk, tỉnnh Đắk Lắk. Tac giả cho rằng:
viê ̣c quản lí đất đai, quản lý kế hoạch sản xuất còn lỏng lẻ,o, Nhà nước chưa thưc sư
kiểm soat được viê ̣c sư dung đất, dẫn đến tinh trạng mua ban, lấn chiếm, cấp đất trai
phap luật diễn ra. Một số diê ̣n tích đất nông nghiê ̣p đã chuyển sang đất xây dưng
không theo quy hoạch. Hê ̣ quả tất yếu là hiê ̣n tượng tranh chấp đất đai nảy sinh và
diễn ra ngày càng phổ biến, căng thẳng. Mai Thanh Sơn [86] tập trung nghiên cứu
tac động cua sư can thiê ̣p từ bên ngoài và chính sach đất đai cua Nhà nước đối với
người dân Tây Nguyên trên cơ sở lý thuyết “Ba điểm tưa và đa chiều tac động”. Mô
hinh quản lý cộng đồng cac nguồn tài nguyên dưa trên nguyên tắc hành động tập thể
được tac giả đề xuất như là một giải phap hiê ̣u quả nhằm dung hòa những cach tiếp
cận khac nhau về quyền sở hữu, cho phép quan tâm đến cac vấn đề văn hóacxã hội
cua cac nhóm đối tượng. Bùi Minh Đạo [21], [22], [23], [24] làm sang tỏ thưc trạng
tổ chức và hoạt động cua buôn làng Tây Nguyên từ truyền thống đến nay đang đối
mặt với mâu thuẫn giữa sở hữu toàn dân với sở hữu tập thể buôn làng về đất rừng;
Tinh trạng thiếu đất sản xuất; Mất rừng, suy giảm môi trường sống, mất nguồn sinh
kế truyền thống; Hê ̣ thống chính trị cơ sở cấp buôn làng hoạt động kém hiê ̣u quả;
Đứt gãy văn hóa và mai một, mất mat nhanh văn hóa; Ảnh hưởng tiêu cưc đến lòng
dân Tây Nguyên và sư phat triển bền vững vùng Tây Nguyên. Mặc dù đanh gia cao
13