Tom tat luan an tieng viet nghiên cứu phẫu thuật nội soi qua đường mũi xoang bướm trong điều trị u sọ hầu
- 24 trang
- file .docx
1
GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
1. Đặt vấn đề
U sọ hầu (Craniopharyngiomas) là loại u biểu mô vảy lành tính ít gặp, xếp loại
độ I (WHO grade I), chiếm 3 - 4% trong các loại u nội sọ, phát triển chậm, nằm
phần lớn ở vùng hố yên và trên yên, quanh tuyến yên và cuống tuyến yên. Mặc dù
lành tính nhưng do tổ chức u thường dính chặt, xâm lấn, len lỏi vào các cấu trúc
quan trọng xung quanh làm cho phẫu thuật cắt bỏ triệt để khối u, ngăn ngừa tái phát
trở nên khó khăn. Cho đến nay, phẫu thuật vẫn là phương pháp điều trị cơ bản đối
với u sọ hầu. Nhiều đường mổ khác nhau đã được áp dụng. Phẫu thuật nội soi qua
đường mũi xoang bướm được áp dụng trong những năm gần đây là đường mổ ít xâm
lấn, có tỷ lệ thành công cao và biến chứng thấp.
Tại Việt Nam, phẫu thuật u sọ hầu chủ yếu được thực hiện tại một số trung
tâm phẫu thuật thần kinh lớn, phần lớn bằng đường mở nắp sọ, sử dụng kính vi
phẫu. Phẫu thuật nội soi qua đường mũi xoang bướm trong phẫu thuật điều trị u sọ
hầu chưa được áp dụng nhiều, chưa có các báo cáo về việc áp dụng phương pháp
này. Chính vì thế, chúng tôi thực hiện đề tài “ Nghiên cứu phẫu thuật nội soi qua
đường mũi xoang bướm trong điều trị u sọ hầu ” với các mục tiêu sau:
1. Nhận xét phẫu thuật nội soi qua mũi xoang bướm trong điều trị u sọ hầu.
2. Đánh giá kết quả điều trị u sọ hầu bằng phẫu thuật nội soi qua mũi xoang bướm.
2. Tính cấp thiết của đề tài
U sọ hầu là một trong những bệnh lý phức tạp nhất trong các khối u nội sọ.
Phương pháp điều trị chính vẫn là phẫu thuật nhưng chọn đường mổ, phương pháp
mổ từ trước đến nay vẫn còn được nhiều phẫu thuật viên thần kinh bàn bạc và tranh
cãi. Phẫu thuật nội soi qua đường mũi xoang bướm cùng với những phẫu thuật ít
xâm lấn khác trong điều trị u sọ hầu là những tiến bộ và xu thế trong phẫu thuật thần
kinh hiện đại. Tại Việt Nam, phương pháp phẫu thuật nội soi lấy u sọ hầu qua đường
mũi xoang bướm chưa được triển khai ứng dụng nhiều, chưa được nghiên cứu sâu
và đầy đủ. Do đó, đây là đề tài rất cần thiết và có ý nghĩa cho sự phát triển cho
chuyên ngành.
3. Những đóng góp mới của luận án.
Đây là nghiên cứu chi tiết, đầy đủ về phương pháp phẫu thuật nội soi qua
đường mũi xoang bướm lấy u sọ hầu với chỉ định rõ ràng cho các khối u sọ hầu xếp
loại Kassam I, II, III. Với đường mổ qua xoang bướm đơn thuần cho những khối u
nhỏ nằm khu trú hố yên và đường xoang bướm mở rộng cho những khối u lớn hơn,
xâm lấn rộng và lên cao đến não thất III.
2
Nghiên cứu cũng đưa ra phương pháp đóng nền sọ với việc sử dụng vạt vách
mũi có cuống mạch nuôi, cùng với các vật liệu tự thân để tái tạo nền sọ làm giảm tỷ
lệ rò dịch não tuỷ khi mổ các tổn thương nền sọ.
Luận án đã nêu được kết quả phẫu thuật u sọ hầu bằng phương pháp nội soi
qua đường mũi xoang bướm, những tai biến và biến chứng gặp phải trong quá trình
phẫu thuật để các bác sỹ ngày càng hoàn thiện hơn, nâng cao chất lượng điều trị cho
bệnh nhân.
4. Bố cục của luận án
Luận án gồm 122 trang, mở đầu 2 trang, tổng quan tài liệu 38 trang, đối tượng và
phương pháp nghiên cứu 18 trang, kết quả 27 trang, bàn luận 35 trang, kết luận 2
trang. Luận án có 34 bảng, 9 biểu đồ, 31 hình và 135 tài liệu tham khảo.
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Lịch sử phẫu thuật và điều trị u sọ hầu
1.1.1 Trên thế giới
Năm 1857, Zenker là người đầu tiên mô tả về u sọ hầu. Halstead (1909) là
người đầu tiên phẫu thuật thành công cắt bỏ u sọ hầu. Năm 1932, Harvey Cushing
thông báo mổ 92 ca u sọ hầu, có 14 ca qua đường xoang bướm. Phẫu thuật qua
xoang bướm được phổ biến rộng rại từ năm 1965 bởi Gerrard Guiet và Jules Hardy.
Năm 1980. Laws thông báo mổ một số lượng lớn u sọ hầu qua đường mũi xoang
bướm và xoang bướm mở rộng dưới kính vi phẫu.
1.1.2 Tại Việt Nam
Phẫu thuật u sọ hầu trước đây chủ yếu qua đường mở sọ tại các trung tâm lớn
như Bệnh viện Việt Đức và Bệnh viện Chợ Rẫy. Phẫu thuật nội soi qua đường mũi
xoang bướm được ứng dụng gần đây cho các khối u tuyến yên. Một số trường hợp
sử dụng nội soi để mở thông u sọ hầu dạng nang vào mũi.
1.1.3 Sự phát triển của phẫu thuật nội soi qua đường mũi xoang bướm điều trị
u sọ hầu
Trước những năm 1990, phẫu thuật qua xoang bướm sử dụng kính vi phẫu cho
các khối u tuyến yên và một số u vùng hố yên. Năm 1987, Weiss đã sử dụng đường
mổ xoang bướm mở rộng để phẫu thuật cho các khối u vùng yên và trên yên khác
như u màng não củ yên, u sọ hầu. Năm 1997 Jho, Carau và cộng sự từ Pittsburgh
(Mỹ) báo cáo những trường hợp đầu tiên sử dụng nội soi hoàn toàn qua đường mũi
cho 50 bệnh nhân u tuyến yên, trong đó có 1 bệnh nhân u sọ hầu vùng hố yên. Tác
giả đã nêu ra những ưu điểm thuận lợi của phẫu thuật nội soi qua đường mũi xoang
bướm. Sau đó, nhiều tác giải đã báo cáo những ca phẫu thuật u sọ hầu nội soi qua
đường mũi xoang bướm đầu tiên như: Amin Kasssam (2004), Giorgio Frank (2006),
de Divitis (2007). Kassam (2008) đưa ra bảng phân loại hữu ích cho nội soi dựa vào
vị trí tương đối với phễu tuyến yên. Những năm gần đây có nhiều báo cáo với số
lượng lớn u sọ hầu như Koutousousiou (2013), Cavallo (2014)…đã cho thấy kết quả
thành công cao, biến chứng thấp.
3
1.2. Tỷ lệ mắc bệnh
U sọ hầu chiếm 1 - 4 % u não người lớn và 5 - 10% u não trẻ em tập trung
nhiều ở lứa tuổi 5 - 14 tuổi và 50 - 70 tuổi. Tỷ lệ mắc u sọ hầu 1,34/ 1 triệu dân/năm.
Không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh theo giới tính và chủng tộc.
1.3. Giải phẫu vùng hố yên và các cấu trúc liên quan
U sọ hầu có nguồn gốc từ các tế bào di tích của túi Rathke, khối u có xu hướng
phát triển từ phần trên của tuyến yên, cuống tuyến yên vào vùng hố yên và cạnh yên
là những vùng liên quan mật thiết với tuyến yên, cuống tuyến yên, vùng dưới đồi,
thần kinh thị giác và não thất ba. Khối u sọ hầu thường được cấp máu bởi các nhánh
xiên của động mạch cảnh trong, động mạch thông trước, thông sau và động mạch
não trước. Để thực hiện được phẫu thuật cần nắm rõ được giải phẫu và các cấu trúc
liên quan phức tạp ở vùng nền sọ trước này: bao gồm giải phẫu vùng khoang mũi,
xoang bướm, xương bướm và liên quan quanh xương bướm, giải phẫu vùng trên yên
và não thất ba
1.3.1. Vùng mũi xoang
Khoang mũi được giới hạn ở trên bởi hố sọ trước và giữa, phía ngoài bởi ổ
mắt và xoang hàm trên, phía dưới bởi vòm miệng cứng. Thành ngoài của khoang
mũi thường có ba cuốn mũi nhô vào trong: cuốn mũi trên, cuốn mũi giữa và cuốn
mũi dưới, tương ứng với ngách mũi trên, ngách mũi giữa và ngách mũi dưới.
Ứng dụng tạo vạt vách mũi có cuống mạch nuôi
Trong những trường hợp phẫu thuật nền sọ cần mảnh ghép đóng nền sọ tránh
rò dịch não tuỷ, sử dụng mảnh ghép có cuống mạch nuôi, thường là vạt vách mũi.
Mảnh ghép được thiết kế bằng cuống mạch là động mạch bướm khẩu cái. Vạt bắt
đầu ở trên sàn mũi 0,5cm ngay sát lỗ xoang bướm, dọc theo bờ trên cuốn mũi trên
đến cách đĩa khứu 1cm. Giới hạn trước cách lỗ mũi ngoài 1cm và giới hạn dưới là
nền vách mũi đến lỗ mũi ngoài.
1.3.2. Giải phẫu hố yên – xoang bướm.
Xoang bướm nằm ở thân xương bướm, kích thước khác nhau, tùy thuộc vào
tuổi và từng người. Xoang thường có 1-3 vách chia xoang thành nhiều khoang nhỏ,
hiếm khi vách chia nằm ở chính giữa.
1.3.3. Liên quan vùng hố yên
Hố yên là vùng lõm trung tâm của xương bướm nơi chứa tuyến yên, được giới hạn
bởi phía trước là củ yên, phía sau là lưng yên. Củ yên là phần gờ xương nằm liên kết
giữa hố yên và phần ngang xương bướm, giữa hai phần này là rãnh giao thoa thị giác nơi
thần kinh thị giác nằm ngay phía sau. Hai bên hố yên có ba mỏm yên là mỏm yên trước,
giữa và sau. Hố yên liên quan mật thiết với các cấu trúc thần kinh mạch máu quan trọng
vùng xoang hang, đa giác Wilis và vùng dưới đồi, não thất III.
1.4. Giải phẫu bệnh u sọ hầu
U sọ hầu gồm 2 thể là thể men bào và thể nhú. Đặc điểm của mỗi thể có tính
chất khác nhau và thể hiện hình ảnh trên phim chụp cũng có những đặc trưng riêng.
4
U sọ hầu thể men bào chiếm tỷ lệ 85 - 90% trong tất cả u sọ hầu, trong khi đó u sọ
hầu thể nhú chiếm 11 - 14% hầu như chỉ gặp ở người lớn. U sọ hầu thể men bào gặp
ở cả người lớn và trẻ em. Ở trẻ em em hầu như chỉ gặp thể men bào.
1.5. Phân loại u sọ hầu theo vị trí giải phẫu
Các tác giả đã phân loại u sọ hầu theo hướng phát triển và các đường mổ được
sử dụng, tất cả đều dựa vào nguyên tắc phân chia tổn thương dọc theo chiều dài xâm
lấn của khối u ở trên trục dọc chính, như liên quan đến giao thoa, hoành yên, não
thất ba, hay gần đây nhất là phễu yên như phân loại của Yasargil (1990), phân loại
của Samii và Tatagiba (1997).
Kassam đề xuất một phân loại hữu ích trong cách tiếp cận nội soi đường mũi,
dựa trên các mối quan hệ của các u sọ hầu với phễu yên. Loại 1: Khối u nằm trước
phễu. Loại 2: Khối u nằm xuyên phễu. Loại 3: Khối u ở sau phễu và hố gian cuống.
Loại 4: Khối u chỉ ở não thất ba hoặc sau ngách giao thoa thị giác, không thể tiếp
cận bằng đường nội soi.
1.6. Chẩn đoán u sọ hầu
1.6.1. Lâm sàng
Biểu hiện lâm sàng chính của u sọ hầu là cáu dấu hiệu rối loạn nội tiết và các
dấu hiện chèn ép thần kinh.
Các triệu chứng chèn ép thần kinh bao gồm như: giảm thị lực, khuyết thị
trường, phù gai thị, liệt vận nhãn hoặc các triệu chứng tăng áp lực nội sọ, động kinh,
rối loạn ý thức.
Các triệu chứng rối loạn nội tiết bao gồm suy tuyến yên ở các mức độ thiếu
hụt hormone khác nhau.
1.6.2. Xét nghiệm nội tiết: suy tuyến yên được đánh giá bằng các xét nghiệm nội
tiết. Thiếu hụt hormone ở thời điểm chẩn đoán bệnh u sọ hầu lên tới 70 - 85%.
1.6.3. Chẩn đoán hình ảnh
Về phương diện chẩn đoán hình ảnh: u sọ hầu thường có hình ảnh không đồng
nhất so với bất kì tổn thương nào vùng trên yên. U sọ hầu có thể gặp thể nang, thể
đặc hay hỗn hợp thể nang và đặc, có vôi hoá hay không vôi hoá. Chính vì sự đa dạng
tổ chức như vậy nên có thể thấy được sự biến đổi đa dạng tỷ trọng trên phim chụp
cắt lớp vi tính và thay đổi tín hiệu trên phim chụp cộng hưởng từ. U sọ hầu nằm ở bể
dịch não tuỷ trên yên trong khoảng 75% bệnh nhân; khoảng 20% là trong hoặc trên
yên; khoảng 5% là hoàn toàn nằm trong hố yên. Tổn thương đơn thuần ở não thất ba
là rất hiếm, và các khối u sọ hầu lạc chỗ là cực kì hiếm.
1.6.4. Chẩn đoán phân loại u sọ hầu trên hình ảnh
Các mô tả hình ảnh cổ điển của u sọ hầu thể men bào trên phim cắt lớp vi tính,
cộng hưởng từ kết hợp ba đặc điểm chính: u nang, vôi hóa và bắt thuốc cản quang.
Sự xuất hiện đặc trưng nhất của u sọ hầu thể men bào trên phim cộng hưởng từ là sự
không đồng nhất, chia thùy, hàng loạt nang và các thành phần rắn, cũng như vôi hoá.
U sọ hầu thể nhú thường ở hoàn toàn trên yên, và tương đối đồng nhất. Các tính
5
năng tiêu biểu trên phim CLVT, cộng hưởng từ bao gồm một hình cầu, chủ yếu là
đặc, nốt sáng không đồng nhất; nốt thường là đồng tỷ trọng trên hình ảnh CLVT,
hỗn hợp trong tín hiệu trên T1W, và đa dạng tín hiệu hơn trên T2W.
1.6.5. Chẩn đoán phân biệt u sọ hầu: Các tổn thương vùng yên và trên yên rất đa
dạng và phức tạp, hay nhầm chẩn đoán nhất với các bệnh lý vùng yên và trên
yên như: u thần kinh đệm (glioma) của chéo thị giác, u tuyến yên chảy máu, u bì
vùng hố yên, hay hiếm gặp hơn như u mạch thể hang, phình động mạch não
khổng lồ có canxi hoá.
1.7. Các phương pháp điều trị u sọ hầu: Hiện nay phẫu thuật được coi là sự lựa
chọn chính, xạ trị là phương pháp hỗ trợ quan trọng có thể ảnh hưởng đến kết quả
của bệnh nhân mắc u sọ hầu, điều trị nội tiết đặc biệt là hormon thay thế đóng vai trò
không thể thiếu. Chính vì thế để điều trị tốt cho bệnh nhân u sọ hầu cần phải có sự
phối hợp chặt chẽ của nhiều chuyên khoa.
1.7.1. Phẫu thuật: Điều trị phẫu thuật u sọ hầu nhằm 3 mục tiêu chính là: khẳng định
chẩn đoán, cắt bỏ khối u tránh chèn ép thần kinh và dự phòng tái phát. Não úng thuỷ và
rối loạn nội tiết với nguy cơ tử vong cao cần được xử trí trước hết. Nhiều đường mổ
khác nhau được áp dụng như: trán thái dương (pterional), dưới trán (subfrontal), trên
ổ mắt (supraorbital) và xuyên não thất (transventricular), phát triển qua nhiều thập
kỷ trong nỗ lực đạt được kết quả tốt hơn với tỷ lệ khỏi bệnh cao hơn và tỷ lệ tử vong
thấp hơn. Mỗi đường mổ đề có ưu điểm, nhược điểm và những giới hạn áp dụng tuỳ
thuộc vào vị trí của khối u. Một số kỹ thuật phẫu thuật khác có thể được sử dụng cho
việc điều trị u sọ hầu như: dẫn lưu u dạng nang, mở thông u nang vào khoang dịch
não tuỷ hoặc với các kỹ thuật nội soi qua não thất cắt bỏ phần nang trong não thất.
Não úng thuỷ nếu gây nguy hiểm tính mạng bệnh nhân cần điều trị trước nhất.
1.7.2. Xạ trị, xạ phẫu: Xạ trị là phương pháp điều trị quan trọng có thể ảnh hưởng
đến kết quả của bệnh nhân mắc u sọ hầu. Xạ trị áp các trường hợp loại bỏ khối u
không hoàn toàn, ủng hộ xạ trị phân đoạn như là điều trị phù hợp nhất cho khối u sọ
hầu. Xạ phẫu là một lựa chọn khác để điều trị u sọ hầu, sử dụng các máy gia tốc
tuyến tính hoặc gamma knife, cyber knife. Thông qua việc sử dụng một khung định
vị, xạ phẫu được phân phối bằng chùm tập trung của bức xạ với độ chính xác cao từ
nhiều hướng vào tổn thương. Tương tự với xạ trị, xạ phẫu được dùng để điều trị khối
u sót lại hoặc tái phát. Tóm lại, mặc cho những cải tiến trong phẫu thuật, xạ trị và xạ
phẫu vẫn là phương pháp điều trị có ý nghĩa, phải kết hợp nhiều chuyên khoa để
điều trị bệnh nhân với u sọ hầu cắt bỏ không hoàn toàn và tái phát.
1.7.3. Điều trị nội tiết: Điều trị thay thế glucocorticoid là ưu tiên cao nhất trong rối
loạn nội tiết và phải luôn luôn được dùng trước khi thay thế hormone tuyến giáp để
tránh suy thượng thận cấp tính. Điều trị nội tiết luôn là việc điều trị không thể thiếu,
đái tháo nhạt và thiếu hụt các hormone được điều trị phụ thuộc vào mức độ thiếu hụt
tuỳ theo từng bệnh nhân.
6
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân chẩn đoán u sọ hầu xếp loại Kassam I, II, III được phẫu
thuật nội soi qua đường mũi xoang bướm tại Bệnh viên Việt Đức trong thời gian từ
tháng 6/2013 đến tháng12/2015. Bệnh nhân không phân biệt tuổi giới, có đầy đủ hồ
sơ bệnh án, được khám lâm sàng, chụp phim CLVT, CHT, xét nghiệm nội tiết, giải
phẫu bệnh. Bệnh nhân được theo dõi sau mổ, khám định kì sau 1 tháng, 3 tháng, 6
tháng và sau 12 tháng.
Tiêu chuẩn lựa chọn: U sọ hầu xếp loại Kassam I, Kassam II, Kassam III; U sọ hầu
phẫu thuật lần đầu hoặc u sọ hầu tái phát, có giải phẫu bệnh là u sọ hầu thể nhú hoặc
thể men răng.
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân không có đầy đủ hồ sơ bệnh án theo mẫu thống
nhất, không được phẫu thuật nội soi qua đường mũi xoang bướm, không được theo
dõi, khám lại sau mổ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.1.1 Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu, không đối chứng. Nghiên
cứu sinh trực tiếp tham gia phẫu thuật, theo dõi, đánh giá bệnh nhân sau mổ theo
mẫu bệnh án thống nhất.
2.1.2 Cỡ mẫu: chọn cỡ mẫu thuận tiện, tất cả bệnh nhân đủ tiêu chuẩn trong thời
gian nghiên cứu đều được đưa vào trong nghiên cứu.
2.1.3 Thời gian và địa điểm: Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm Phẫu thuật
Thần kinh - Bệnh viện Việt Đức trong thời gian từ 6/2013 đến 12/2015.
2.1.4 Các bước nghiên cứu
Bước 1: Thông qua đề cương, xây dựng bệnh án mẫu
Bước 2: Khám, hội chẩn lựa chọn bệnh nhân u sọ hầu có chỉ định phẫu thuật nội soi
qua đường mũi xoang bướm. Thu thập số liệu trước phẫu thuật.
Bước 3: Tiến hành phẫu thuật nội soi lấy u sọ hầu qua đường mũi xoang bướm theo
quy trình đã xây dựng. Thu thập số liệu trong phẫu thuật
Bước 4: Đánh giá kết quả phẫu thuật tại các thời điểm trong mổ, ngay sau mổ, sau
mổ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng. Thu thập số liệu sau mổ.
Bước 5: xử lý số liệu và viết luận án
2.3. Chỉ định, chống chỉ định phẫu thuật u sọ hầu nội soi
Chỉ định phẫu thuật: U sọ hầu xếp loại Kassam I, II, III
Chống chỉ định: U sọ hầu xâm lấn chủ yếu vào sừng trán, thuỳ thái dương, não thất
bên, nằm hoàn toàn trong não thất III. Bệnh nhân có các bệnh lý không thể phẫu
thuật như tim mạch, rối loạn đông máu.
2.4. Phương tiện phẫu thuật: hệ thống nội soi, dụng cụ phẫu thuật hãng Karl Stoz
(Đức), máy định vị (Metronic S7, Brainlab), khoan mài qua mũi (metronic); keo
sinh học, keo cầm máu.
2.5. Kỹ thuật mổ:
7
Thì mũi phẫu thuật viên đẩy cuốn mũi ra ngoài hoặc cắt cuốn mũi, tạo vạt
vách mũi có cuống mạch nuôi, cắt một phần sau vách. Thì xoang bướm: cắt bỏ thành
trước xoang bướm, lấy vách ngăn xoang bướm. Thì nền sọ: mở thành sau xoang
bướm, mở rộng sàn yên, mài củ yên, mặt ngang xương bướm. Thì lấy u: Mở màng
cứng, phẫu tích bộc lộ, lấy dần khối u đến khi hết u hoặc đến khi không thể lấy thêm
khối u. Thì đóng nền sọ: sử dụng phương pháp đóng nhiều lớp bằng các vật liệu tự
thân như mỡ bụng, cân đùi và vạt vách mũi có cuống mạch nuôi
2.6. Các chỉ tiêu nghiên cứu
Các chỉ tiêu nghiên cứu cho mục tiêu 1 bao gồm các chỉ tiêu về lâm sàng, cận
lâm sàng, hình ảnh trước phẫu thuật; các chỉ tiêu trong phẫu thuật bao gồm kỹ thuật
mổ, đặc điểm nhận thấy trong mổ, tai biến xảy ra, khó khăn thuận lợi trong mổ.
Các chỉ tiêu nghiên cứu cho mục tiêu 2 bao gồm các chỉ tiêu về kết quả lấy u, biến
chứng xảy ra sau phẫu thuật, các diễn biến về lâm sàng, hình ảnh sau phẫu thuật.
2.6.1. Các chỉ tiêu nghiên cứu trước phẫu thuật
Các chỉ tiêu nghiên cứu về lâm sàng, cận lâm sàng, hình ảnh
CLVT, CHT trước mổ. Xếp loại Kassam theo phim CHT sọ não. Đánh giá
tình trạng lâm sàng trước mổ theo thang điểm Karnofsky.
2.6.2. Các chỉ tiêu nghiên cứu liên quan đến phẫu thuật
Các chỉ tiêu nghiên cứu liên quan đến phẫu thuật bao gồm đường mổ, kỹ thuật
mổ, đặc điểm trong mổ, khó khăn, thuận lợi, tai biến xảy ra. Đánh giá mức độ mở
nền sọ dựa vào bảng phân loại của Felice Esposito (2007). Ghi nhận mức độ lấy u
trong mổ: lấy toàn bộ, lấy gần toàn bộ (lấy được trên 80%), lấy một phần (lấy dưới
80%) kiểm tra bằng nhìn trực tiếp với các ống kính 0 độ, 30 độ, 70 độ và sử dụng hệ
thống định vị trong mổ. Kiểm tra lại mức độ lấy u bằng phim chụp cộng hưởng từ,
CLVT sau mổ.
2.6.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu sau phẫu thuật: Bao gồm giải phẫu bệnh, các chỉ
tiêu về lâm sàng, cận lâm sàng, hình ảnh sau mổ, so sánh với tình trạng trước mổ.
2.7. Xử lí số liệu: sử dụng phần mềm SPSS 16.0 để tạo tập tin, nhập và mã hoá số
liệu. Phân tích số liệu thống kê, mô tả và phân tích mối liên quan giữa các biến số
bằng thuật toán thống kê y học.
2.8. Đạo đức nghiên cứu: Đề cương nghiên cứu được thông qua bởi hội đồng xét
duyệt của trường Đại học Y Hà Nội do Bộ giáo dục và đào tạo quyết định. Nghiên
cứu được Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức chấp thuận. Phẫu thuật được thực hiện bởi
nhóm phẫu thuật viên có kinh nghiệm, đào tạo căn bản. Thông tin bệnh nhân được
giữu bí mật.
8
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
3.1.1 Đặc điểm về tuổi, giới: Tuổi trung bình của bệnh nhân 32 ± 17,0 tuổi, nhỏ
nhất là 6 tuổi, cao nhất là 65 tuổi. Tỷ lệ nam/nữ: 34/16 (2,125 lần). Phân bố độ tuổi
theo nhóm trẻ em (< 16 tuổi) chiếm 22,0%, người lớn (16 – 60 tuổi) chiếm 72,0%,
người cao tuổi (>60) chiếm 6,0%.
3.1.2 Tiền sử điều trị u sọ hầu: Bệnh nhân mổ lần đầu chiếm 60%, bệnh nhân đã
từng mổ u sọ hầu trước đó chiếm 40% (trong đó mổ 1 lần: 28%, mổ 2 lần: 10%, mổ
> 2 lần: 2%). Bệnh nhân có tiền sử xạ trị chiếm 4%.
3.1.3 Lý do đến khám bệnh: đau đầu chiếm 84,0%, mờ mắt chiếm 80,0%, nguyên
nhân khác chiếm 16,0%.
3.1.4 Triệu chứng về mắt: Số bệnh nhân có thị lực mắt bình thường (26,0%), tỷ lệ
có tổn thương thị lực là 74,0%. Có 84,0% số trường hợp có khuyết thị trường. Chỉ 1
bệnh nhân chiếm 2% số trường hợp có liệt dây thần kinh vận nhãn.
3.1.5 Triệu chứng lâm sàng rối loạn nội tiết: Số lượng lớn bệnh nhân có suy tuyến
yên chiếm 70%, đái nhạt trước mổ chiếm 32%, chậm phát triển thể chất chiếm 20%.
3.1.6 Các triệu chứng thần kinh: có 78% bệnh nhân có tăng áp lực nội sọ và 16%
có rối loạn ý thức trước mổ.
3.1.7 Đặc điểm vị trí, kích thước khối u trên phim CHT
Bảng 3.7: Vị trí, kích thước khối u trên phim CHT
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ (%)
Vị trí
Kassam I (Khối u nằm trước phễu) 5 10,0
Kassam II (Khối u nằm xuyên phễu) 20 40,0
Kassam III (Khối u nằm sau phễu) 25 50,0
Kích thước (đo theo đường kính lớn nhất)
< 2 cm 3 6,0
2 - 4 cm 27 54,0
> 4 cm 20 40,0
3.1.8 Đặc điểm khối u sọ hầu trên hình ảnh: U sọ hầu dạng nang hỗn hợp đặc và
nang chiếm tỷ lệ cao nhất (70,0%, tiếp đó dạng nang đơn thuần (22%) và dạng đặc
chiếm 8%. Vôi hoá trong u sọ hầu chiếm 74%. Tỷ lệ u sọ hầu có giãn não thất là
24%. Khối u có chèn ép giao thoa thị giác trên hình ảnh chiếm 94%, và 12% bệnh
nhân có phù não. Chủ yếu tín hiệu hỗn hợp trên T1, T2 (chiếm 74%), 100% khối u
có ngấm thuốc đối quang từ, trong đó 72% là kiểu ngấm thuốc hình nốt và 28%
ngấm thuốc hình vòng.
9
Đặc điểm hình ảnh xoang bướm trên hình ảnh có 72% dạng 1 (Sellar), 26% dạng
2 (presellar) và 2% dạng không có xoang bướm (dạng 3: conchar). Dấu hiệu hố yên
giãn rộng, phá huỷ mất ranh giới chiếm 40%, và hố yên còn nguyên vẹn chiếm 60%.
3.1.10. Tình trạng nội tiết trước mổ: Khối u có biểu hiện suy tuyến yên trước mổ
chiếm 70% và 30 % không có suy tuyến yên trước mổ.
3.2. Đặc điểm ứng dụng phẫu thuật
3.2.1. Đặc điểm đường vào phẫu thuật: Cuốn mũi phì đại chiếm 24,0%, không phì
đại chiếm 76,0%. Trong số đó, phải cắt cuốn mũi chiếm 28,0%. Số bệnh nhân được
tạo vạt vách mũi có cuống mạch nuôi chiếm 72,0%.
Đặc điểm trong phẫu thuật còn cho thấy có 66% bệnh nhân thấy rõ mốc lồi
động mạch cảnh, 54,0% thấy được tĩnh mạch liên xoang hang trước trong mổ và
22,0% chảy máu khi mở màng cứng từ tĩnh mạch liên xoang hang trước hoặc từ
xoang hang.
3.2.2. Cách thức tiếp cận khối u: Trong mổ sử dụng đường mổ xoang bướm đơn
thuần chiếm 34% và xoang bướm mở rộng chiếm 66,0%. Tính chất khối u đặc, khó
lấy chiếm 64% và mềm, dễ lấy chiếm 36,0%.
3.2.3. Mức độ mở nền sọ: mức độ mở nền sọ chủ yếu là mở sọ rộng độ 2 (18%) và
độ 3 (68%) (theo phân loại của Felice Esposito 2007).
6,0%
8,0%
18,0%
68,0%
Độ 0 Độ 1 Độ 2 Độ 3
3.2.4. Cách thức tái tạo nền sọ
Sử dụng mảnh ghép có cuống mạch 68%, sử dụng mỡ và cân tự thân chiếm
80%, sử dụng mảnh ghép xương chiếm 36%. Trong đó chủ yếu sử dụng các phương
thức này ở mức độ mở sọ rộng độ 3.
Sử dụng các vật liệu nhân tạo bao gồm keo sinh học chiếm 76%, sử dụng các
miếng đỡ (merocel, xông fonley) chiếm 84%. Dẫn lưu dịch não tuỷ thắt lưng sau mổ
chiếm 18%.
3.2.5. Tai biến bất thường trong mổ: có 1 trường hợp (2%) tổn thương mạch máu
trong mổ gây chảy máu trên 1 lít phải mở nắp sọ cầm máu và 1 trường hợp (2%) làm
tổn thương giao thoa thị giác trong mổ.
10
Thời gian mổ trung bình 136,7±35,8. Ca mổ ngắc nhất 60 phút và dài nhất là
250 phút.
3.3. Kết quả phẫu thuật
3.3.1. Kết quả giải phẫu bệnh
Bảng 3.20: Kết quả giải phẫu bệnh
Giải phẫu Người lớn Trẻ em Tổng số
bệnh Số lượng Tỷ lệ(%) Số lượng Tỷ lệ(%) Số lượng Tỷ lệ(%)
Thể men răng 28 71,2 11 100 39 78,0
Thể nhú 11 28,8 0 0 11 22,0
Tổng số 39 100 11 100 50 100
Nhận xét: Kết quả giải phẫu bệnh cho thấy có 78% số trường hợp là u sọ hầu thể
men răng, 22% thể nhú. Trong đó tất cả 11/11 trẻ em đều là u sọ hầu thể men răng,
28/39 người lớn là u sọ hầu thể men răng và 11 /39 người lớn là u sọ hầu thể nhú.
Như vậy 100% u sọ hầu thể nhú gặp ở người lớn, không gặp ở trẻ em.
3.3.2. Kết quả lấy u: Tỷ lệ lấy bỏ toàn bộ khối u chiếm 52%, lấy gần hoàn toàn
chiếm 38% và cắt một phần khối u chiếm 10%.
3.3.3. Mức độ lấy u theo tính chất khối u: Tỷ lệ cắt được toàn bộ khối u cao nhất ở
u nang (81,82%), tiếp sau là u đặc với 50,0% và u hỗn hợp chiếm tỷ lệ lấy toàn bộ u
thấp nhất là 42,86%. Khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p >0,05.
3.3.4. Mức độ lấy u theo giải phẫu bệnh khối u: Tỷ lệ lấy được toàn bộ khối u ở
bệnh nhân có kết quả giải phẫu bệnh u thể nhú cao hơn so với thể men răng (81,82%
so với 43,59%). Không có bệnh nhân nào có kết quả thể nhú chỉ lấn được bán phần
(<20%) khối u. Khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p >0,05.
3.3.5. Mức độ lấy u theo vị trí khối u: Tỷ lệ lấy được toàn bộ u là thấp nhất ở bệnh
nhân có u ở vị trí Kassam III, chiếm 28% trong khi ở vị trí Kassam I và Kassam II là
80% và 75%. Tỷ lệ chỉ lấy được bán phần đối với bệnh nhân có u ở vị trí Kassam III
lại cao nhất, chiếm 16%. Khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,02.
3.3.6. Mức độ lấy u theo kích thước: Khối u có kích thước lớn hơn 4 cm có tỷ lệ
lấy được toàn bộ khối u là thấp nhất 25%; trong khi đó tỷ lệ này ở những trường hợp
khối u dưới 2cm và từ 2 tới 4 cm là 66,67% và 70,37%. Khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p = 0,03.
3.3.7. Mức độ lấy u theo lứa tuổi: Tỷ lệ lấy được toàn bộ u ở người lớn cao hơn so
với ở trẻ em và người già. Tỷ lệ này lần lượt ở các đối tượng trên là 58,33%; 36,36%
và 33,33%. Khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p >0,05
3.3.8. Mức độ lấy u theo tiền sử mổ u sọ hầu: Tỷ lệ cắt toàn bộ khối u ở nhóm
phẫu thuật lần đầu là 63,3% cao hơn so với nhóm phẫu thuật lại (35%). Trong nhóm
11
mổ lại, tỷ lệ cắt gần toàn bộ khối u chiếm 50%, và cắt một phần sinh thiết chiếm
15%. Nhóm mổ lần đầu có tỷ lệ cắt gần toàn bộ là 30% và cắt một phần sinh thiết
chiếm 6,7%. Mức độ cắt u giữa 2 nhóm có sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
với p = 0,08
3.3.9. Kết quả lâm sàng sau 1 tháng: Tỷ lệ cải thiện triệu chứng và mắt chiếm
82%, không cải thiện chiếm 12% và kém hơn chiếm 6%. Triệu chứng nội tiết có tình
trạng suy tuyến yên mới chiếm 36%, suy tuyến yên như cũ chiếm 56% và có cải
thiện chiếm 8%. Tỷ lệ đái nhạt sau mổ chiếm 60% so với 32% trước mổ.
Bảng 3.28: Điểm Karnofsky sau mổ
Điểm Trước mổ Sau mổ 3 tháng Sau mổ 6 tháng
Karnofsky Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
50 1 2,0 1 2,08 2 4,17
60 1 2,0 2 4,17 1 2,08
70 5 10,0 4 8,33 4 8,33
80 27 54,0 23 47,92 19 39,58
90 13 26,0 16 33,33 13 27,09
100 3 6,0 2 4,17 9 18,75
Tổng 50 100,0 48 100,0 48 100,0
3.3.10. Biến chứng phẫu thuật
Bảng 3.29: Biến chứng sau mổ
Biến chứng Số lượng bệnh nhân Tỷ lệ (%)
Rò dịch não tuỷ 3 6,0
Chảy máu não thất 3 3,0
Máu tụ ngoài màng cứng 1 2,0
Mất ngửi 2 4,0
Hạ natri máu 4 8,0
Tăng natri máu 6 12,0
Viêm màng não 5 10,0
Tổn thương dưới đồi 1 2,0
Tử vong 2 4,0
Nhận xét: Biến chứng rò dịch não tủy có 3/50 (6%) trường hợp phải mổ lại vá rò, tử
vong 2/50 trường hợp (4%), viêm màng não chiếm tỷ lệ 10%, rối loạn điện giải gồm
tăng và hạ Natri chiếm 20%. Trong đó có 1 bệnh nhân máu tụ ngoài màng cứng sau
mổ được phẫu thuật lấy máu tụ sau mổ.
12
Sau mổ có 2/50 bệnh nhân tử vong chiếm 4,0%. Hai bệnh nhân tử vong gồm
một trường hợp tử vong sau mổ 3 tuần do viêm màng não. Một trường hợp tử vong
do chảy máu não thất sau mổ gây giãn não thất, bệnh nhân được dẫn lưu não thất ổ
bụng nhưng không hiệu quả, bệnh nhân tử vong sau 2 ngày phẫu thuật.
3.3.11. Theo dõi sau mổ: Triệu chứng đái nhạt giảm từ 60% sau mổ 1 tháng xuống
còn 25% sau 6 tháng. Tỷ lệ suy tuyến yên sau mổ 1 tháng và 6 tháng là 75% và
77,08%. Tỷ lệ rối loại tâm thần là 2,08%, 6,25% và 4,17% sau mổ 1 tháng, 3 tháng
và trên 6 tháng.
3.3.12. Theo dõi sau 12 tháng: Sau mổ trên 12 tháng, tỷ lệ bệnh nhân có u tái phát
là 10,42%, có 8,33% số bệnh nhân phải phẫu thuật lại. Có 1 bệnh nhân tử vong sau
20 tháng do khối u tái phát trở lại.
Chương 4: BÀN LUẬN
4.1 Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
4.1.1 Đặc điểm lâm sàng
Từ tháng 6 năm 2013 đến tháng 12 năm 2015 có 50 bệnh nhân u sọ hầu được
điều trị phẫu thuật nội soi qua đường mũi tại Bệnh viện Việt Đức đủ tiêu chuẩn
nghiên cứu. Trong đó, tỷ lệ nam/nữ là 34/16 bệnh nhân (2,125 lần). Nhóm người lớn
(16 - 60) phổ biến nhất với 72,0%, trẻ em (<16) chiếm 22% và người cao tuổi chiếm
6%. Theo báo cáo các tác giả Bunin (1998), Oskouian (2006), Phan Trung Đông
(2014) thì tỷ lệ mắc u sọ hầu không có sự khác biệt về giới.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 11/50 (22%) bệnh nhân trẻ em, bệnh nhân
nhỏ tuổi nhất là 6 tuổi cho thấy phẫu thuật nội soi u sọ hầu nhóm trẻ em cũng chiếm
tỷ lệ tương đối cao và hoàn toàn có thể thực hiện ở những trẻ rất nhỏ. Theo các tác
giả Zada (2010), Elliot (2010) thì những trẻ nhỏ thì cũng có thể phẫu thuật qua
đường mũi nhưng với dụng cụ chuyên biệt, tuy khó khăn do phẫu thường hẹp nhưng
cũng có những thuận lợi nhất định như xương trẻ thường mềm nên đường vào cũng
dễ dàng hơn.
Tỷ lệ bệnh nhân phẫu thuật lần đầu chiếm 60%. Nhóm có tiền sử phẫu thuật u
sọ hầu trước đó chiếm 40%, trong đó chủ yếu là phẫu thuật qua đường mở nắp sọ,
chỉ có 1 bệnh nhân được mổ cũ qua đường mũi xoang bướm. Trong nhóm mổ lại
thì có 14/20 bệnh nhân mổ cũ 1 lần, 5/20 bệnh nhân mổ cũ 2 lần và 1 bệnh nhân
mổ cũ 4 lần. Nhóm bệnh nhân mổ lại thường là những khối u sọ hầu tái phát hoặc
phần u sọ hầu còn lại sau phẫu thuật không thể cắt hết khối u. Nghiên cứu của
Cavallo (2014) trên 103 bệnh nhân được phẫu thuật u sọ hầu qua đường mũi có
28,2% bệnh nhân đã từng phẫu thuật u sọ hầu trước đó, trong đó có 2 bệnh nhân
đã từng phẫu thuật qua xoang bướm. Nghiên cứu của Koutourousiou (2013) phẫu
thuật 64 bệnh nhân u sọ hầu qua đường mũi có 17/64 (26,6%) bệnh nhân được
phẫu thuật u sọ hầu trước đó, có 5 bệnh nhân đã được phẫu thuật cũ qua đường
mũi xoang bướm.
Nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ có tổn thương thị lực là 74%. Có 84,0% số
trường hợp có khuyết thị trường. Chỉ 1 bệnh nhân chiếm 2% số trường hợp có liệt
13
dây thần kinh vận nhãn. Những kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu
của Yamada với 67,8% số bệnh nhân có ảnh hưởng thị lực trước mổ. Nghiên cứu
của Kim và cs (2011) có 17/18 bệnh nhân phẫu thuật qua đường mũi xoang bướm có
tổn thương thị lực.
Trong nghiên cứu có 70% số bệnh nhân có rối loạn nội tiết. Kết quả này phù
hợp với những nhận định của một số tác giả trên thế giới khi cho rằng rối loạn nội
tiết là một trong những triệu chứng lâm sàng phổ biến ở bệnh nhân u sọ hầu. Nghiên
cứu cũng cho thấy chỉ 10/50 (20%) số bệnh nhân có chậm phát triển thể chất. Ở trẻ
em, thiếu hụt GH dẫn đến giảm phát triển chiều cao. Giảm phát triển cơ bắp và tăng
phát triển xương cũng có thể xảy ra.
Mặc dù không phải là khá phổ biến, đái tháo nhạt cũng là một triệu chứng biểu
hiện thường gặp, xảy ra ở 12% đến 32% bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi cũng cho thấy triệu chứng này gặp ở 32,0% số bệnh nhân trước mổ.
4.1.2 Đặc điểm hình ảnh
Vị trí, kích thước khối u: Dựa trên hình ảnh phim chụp cắt lớp vi tính và cộng
hưởng từ có thể đánh giá được vị trí, đo kích thước và xác định mối liên quan với
các cấu trúc mạch máu, thần kinh và các cấu trúc quan trọng khác xung quanh khối
u sọ hầu. Trong nghiên cứu này, dựa vào hình ảnh học, chúng tôi xác định vị trí khối
u, sau đó dựa vào phân loại của Kassam (2008) để xếp loại khối u dựa theo trục dọc
liên quan với phễu tuyến yên trong đó Kassam I chiếm tỷ lệ 10%, Kassam II là 40%
và Kassam III chiếm 50%. Như vậy, đối tượng trong nghiên cứu này đa số là khối u
ở vị trí khó khăn phẫu thuật là Kassam II, III chiếm tới 90%. Kích thước khối u (đo
theo đường kính lớn nhất) cho thấy hầu hết là khối u có kích thước trên 2 cm chiếm
94%, trong đó khối u trên 4 cm chiếm tới 40%. Điều này cho thấy nhóm đối tượng
trong nghiên cứu hầu hết là những khối u lớn, phát hiện muộn khi đã có triệu chứng
lâm sàng điển hình nên việc phẫu thuật cắt bỏ khối u đều có khó khăn nhất định cho
phẫu thuật viên.
Nghiên cứu của Cavallo và cộng sự (2014) phẫu thuật nội soi qua đường mũi
cho 103 bệnh nhân u sọ hầu có 43,7% khối u có kích thước nhỏ hơn 3cm và 56,3%
khối u có kích thước trên 3 cm; trong đó có 18,5% khối u vùng hố yên, 33% khối u
vùng trên yên nhưng còn dưới hoành yên và 48,5% khối u vùng trên yên xâm lấn lên
trên hoành yên. Nghiên cứu của Koutourousiou (2013) phẫu thuật nội soi cho 64
trường hợp u sọ hầu có 60,1% khối u nằm trên yên và 32,8% khối u trên yên có xâm
lấn vào não thất ba.
Nghiên cứu của Yamada (2010) phẫu thuật 90 bệnh nhân u sọ hầu qua đường
mũi xoang bướm có 21,1% khối u nhỏ hơn 2 cm, 68,9% khối u từ 2 – 4cm và 10%
khối u có kích thước trên 4 cm. Cũng trong nghiên cứu này có 12,2% khối u nằm
trong hố yên, 25,6% khối u nằm trên yên nhưng dưới hoành yên và 62,2% khối u
vùng trên yên phát triển lên trên hoành yên.
Tính chất khối u: Trong nhóm nghiên cứu chúng tôi gặp tất cả các dạng hình ảnh
của khối u, trong đó hầu hết khối u hỗn hợp gồm cả phần đặc và phần nang chiếm tỷ
lệ 70%, khối dạng nang đơn thuần 22% và dạng đặc đơn thuần chỉ chiếm 8%, tương
14
ứng cho thấy đặc điểm tín hiệu trên phim cộng hưởng từ cả trên T1 và T2 đều có tín
hiệu hỗn hợp chiếm 74%. Cùng với tỷ lệ có canxi hoá chiếm tới 74%. U sọ hầu
thường không có phù não quanh khối u chiếm 88% và 100% khối u có ngấm thuốc
đối quang từ dạng hình nốt (72%) hoặc hình vòng (14%).
Tỷ lệ giãn não thất do khối u sọ hầu chèn ép gây ứ dịch chiếm tỷ lệ 24%. Đây là số
bệnh nhân cần phải can thiệp sớm, có thể phải phẫu thuật cấp cứu dẫn lưu não thất
nếu tình trạng tăng áp lực nội sọ gây nguy hiểm tính mạng cho bệnh nhân. Do vị trí
gần sàn não thất ba, u sọ hầu có xu hướng gây ra não úng thủy và tăng áp lực nội sọ.
Não úng thủy có thể xảy ra như là kết quả của sự tắc nghẽn trực tiếp bởi khối u. Tỷ
lệ mắc não úng thủy trước mổ theo Elliott (2011) từ 5,1% đến 41,7%. Komotar báo
cáo tỷ lệ tương ứng mắc não úng thủy là 10,1% đến 15,8%, trong các nhóm nghiên
cứu mà tác giả tổng hợp. Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
4.2 Bàn luận về phương pháp phẫu thuật nội soi qua đường mũi xoang bướm
4.2.1 Bàn luận về đường mổ nội soi
Đường mổ được chúng tôi áp dụng là nội soi qua mũi xoang bướm, trong đó
mở xoang bướm đơn thuần chiếm 34% áp dụng cho những khối u xâm kích thước
vừa và nhỏ nằm khu trú hố yên, dưới hoành yên hoặc nằm dưới sàn hố yên, trong
xoang bướm (Kassam I, II) . Đường mổ xoang bướm mở rộng chiếm 66% áp dụng
cho những khối u sọ hầu Kassam II, III với kích thước lớn, xâm lấn rộng, lên cao
cần một đường mở xương rộng rãi mới có thể tiếp cận và có phẫu trường đủ để phẫu
tích cắt bỏ khối u.
Ưu điểm của đường mổ nội soi qua mũi xoang bướm là góc nhìn rộng, đa
dạng, cận cảnh cho phép quan sát giải phẫu chính xác hơn. Nó cũng cho phép tiếp
cận trực tiếp đến không gian sau tuyến yên, cuống tuyến yên và trong não thất ba
trong khi rất khó để tiếp cận bằng đường mở nắp sọ. Trong thực tế, đây là một
phương pháp rất hiệu quả cho các khối u xâm lấn vào não thất ba vì có thể bộc lộ
hoàn toàn não thất ba.
Sự đồng thuận chung về việc sử dụng đường mổ nội soi qua mũi xoang bướm
ứng dụng đối với các khối u đường giữa kích thước vừa phải, đặc biệt là xâm lấn
trong mũi. Khối u sọ hầu nằm ở đường giữa có kích thước lớn hơn và có phần phát
triển lên vùng trên yên, não thất ba vẫn có thể được giải quyết thông qua một cách
tiếp cận hoàn toàn bằng nội soi, nhưng với nguy cơ cao hơn về rò dịch não tuỷ.
4.2.2 Bàn luận về kỹ thuật mổ
Việc đầu tiên trong đường mổ qua mũi là xác định các cuốn mũi có cản trở
đường vào. Sau đó xác định được lỗ thông xoang bướm là mốc giải phẫu rất qua
trọng để tránh đi lạc đường. Để bộc lộ các ngách bướm sàng, điều quan trọng là phải
mở rộng khoảng trống bên trong mũi. Đẩy hoặc di lệch các xoắn mũi dưới và giữa
sang hai bên, cải thiện tiếp cận, quan sát, và khoảng trống để sử dụng dụng cụ bên
trong ổ mũi. Gạt các cuốn mũi sang hai bên nên được thực hiện nhẹ nhàng, đường
gãy của cuốn mũi dưới có thể mở rộng đến ống mũi lệ và ổ mắt. Khi khoảng trống
được tạo ra, nội soi có thể được đưa vào và được đặt giữa vách mũi và cuốn mũi
giữa cho phép quan sát rộng rãi ngách bướm sàng. Có thể hữu ích trong một số
15
trường hợp việc cắt bỏ các cuốn mũi giữa và cuốn mũi trên, cắt bỏ phần sau xương
sàng, nếu có nhu cầu để mở rộng sang hai bên xương bướm và thành bên của ổ mắt.
Trong nhiều trường hợp đường vào mũi khó khăn như lỗ mũi nhỏ (trẻ em), cuốn mũi
phì đại hoặc những khối u lớn cần có không gian đưa dụng cụ cũng như cần góc nhìn
rộng thì có thể cắt cuống mũi một bên hoặc 2 bên. Trong số những bệnh nhân trong
nghiên của chúng tôi có 14/50 (28%) bệnh nhân phải cắt cuốn giữa bên phải, trong đó
7/11 trẻ em và 7/39 người lớn do cuốn mũi phì đại gây hẹp đường vào phẫu thuật.
U sọ hầu thường liên quan đến không gian trên yên nên việc cắt bỏ thường gây
ra rò dịch não tủy trong mổ. Tái tạo nền sọ với một vạt vách mũi có mạch máu
thường cần thiết để ngăn chặn rò dịch não tủy hậu phẫu và viêm màng não. Trong
nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng (36/50) 72% số bệnh nhân được tạo vạt vách mũi
có cuống mạch nuôi để đóng nền sọ.
Khó khăn thường gặp của chúng tôi khi mới bắt đầu thực hiện phẫu thuật nội
soi sử dụng đường xoang bướm mở rộng là việc xác định các mốc giải phẫu: lồi
động mạch cảnh, lồi thần kinh thị giác nên việc nắm chắc vị trí các mốc giải phẫu là
cực kỳ quan trọng, cùng với sử dụng hệ thống định vị giúp phẫu thuật viên tự tin và
đảm bảo tính chắc chắn, an toàn. Khó khăn nữa thường gặp khi mổ màng cứng là do
chảy máu từ xoang tĩnh mạch liên xoang hang hoặc từ xoang hang khi mài xương.
Khi gặp trường hợp này cần bình tĩnh cầm máu bằng các vật liệu cầm máu như
surgical ép chờ đến khi cầm máu, tốt hơn có thể dùng keo cầm máu (Floseal), xác
định chắc chắn vị trí xoang liên hang đốt cầm máu bằng dao lưỡng cực.
Trong số 50 bệnh nhân chúng tôi xác định rõ mốc động mạch cảnh theo giải
phẫu 66%, còn lại 34% không chắc chắn phải dung hệ thống định vị để xác định.
Trong khi đó xác định được xoang tĩnh mạch liên hang 27/50 (54%), số không xác
định được do khối u xân lấn gây tắc xoang hoặc gây chèn ép không nhìn rõ. Khi mở
màng cứng chảy máu vị trí này có 11/50 (22%) chảy máu phải dùng đến vật liệu
cầm máu (Floseal).
4.2.3 Khó khăn trong mổ nội soi
Đầu tiên, phương pháp nội soi có thể khó khăn để tiến hành ở trẻ em với các
xoang xương bướm chưa hình thành và hố yên nhỏ làm cho việc luồn ống nội soi qua
xoang bướm rất khó khăn và hạn chế không gian để dùng các dụng cụ phẫu thuật.
Chảy máu cũng là một nhược điểm, có thể làm mất tầm nhìn của phẫu thuật
viên trong một không gian chật hẹp mà tính cơ động của dụng cụ phẫu thuật không
giống với mổ vi phẫu. Khả năng linh hoạt của phẫu thuật nội soi là một vấn đề khi
dao đốt lưỡng cực (bipolar) khó khăn di chuyển để cầm máu ở các góc nhỏ. Ngoài ra
viện di chuyển dụng cụ cũng dễ làm tổn thương niêm mạc mũi hơn so với mổ vi
phẫu nếu thuật viên chưa có kinh nghiệm phẫu thuật nội soi.
Một nhược điểm trong mổ nội soi qua mũi là đòi hỏi hai bác sĩ phẫu thuật
chuyên nghiệp về nội soi và nền sọ có thời gian mổ và làm việc hợp tác tốt với nhau.
Rò dịch não tuỷ vẫn là một trong những hạn chế chính của mổ nội soi mở rộng cho u
sọ hầu; tỷ lệ rò DNT trong nhiều nghiên cứu đã được ghi nhận là lớn hơn so với mổ
nắp sọ. Trong đường mổ xoang bướm mở rộng, khoang dưới nhện được bộc lộ qua
16
lỗ màng cứng rộng, làm cho nguy cơ rò dịch não tủy là cao hơn cách tiếp cận qua
xoang bướm thông thường. Một số nghiên cứu hồi cứu báo cáo tỷ lệ rò rỉ dịch não
tủy từ 20% đến 30%, và một số đã báo cáo tỷ lệ cao 58%.
Chúng tôi sử dụng bảng phân loại rò dịch não tuỷ, mức độ mở nền sọ dựa theo
phân loại của Esposito (2007), chủ yếu là mức độ mở sọ độ rộng nhất (độ 3: chiếm
68%), và độ 2 chiếm 18%. Do khối u sọ hầu chủ yếu nằm vùng trên yên nên để tiếp
cận được khối y hầu hết phải mở rộng nền sọ, mở màn nhện qua hoành yên mới cắt
được khối u. Khi đóng nền sọ sử dụng kết hợp nhiều phương tiện, như sử dụng vạt
vách mũi có cuống mạch nuôi (68%), sử dụng mỡ bụng, cân đùi (80%), sử dụng
mảnh ghép xương lấy từ vách mũi (36%), sử dụng keo sinh học (76%).
Kỹ thuật tái tạo nền sọ đã được phát triển theo thời gian để giải quyết rò DNT.
Lớp niêm mạc hoặc xương đơn giản đã được thay thế bằng tái tạo phức tạp hơn bao
gồm lớp cân phủ, xương, vạt vách mũi, với kết quả rò DNT ít hơn trong các nghiên
cứu mới hơn.
Trong các báo cáo gần đây về cắt bỏ u sọ hầu qua mũi, tỉ lệ rò DNT chỉ ở mức 0
đến 4% đã được báo cáo. Phẫu trường hẹp và thiếu quan sát ba chiều đã gây khó khăn
cho việc tạo hình màng cứng bằng cân mạc đùi hoặc vật liệu thay thế màng cứng.
Bên cạnh không gian làm việc chật chội và thiếu thiết bị thích hợp, tỷ lệ rò
DNT cao còn liên quan một số yếu tố khác, bao gồm dòng chảy dịch não tủy cao và
hàm lượng protein trong dịch của u sọ hầu, bệnh nhân có thể đã điều trị bằng xạ trị
trước đó, lỗ mở màng cứng lớn, khối u lớn, mở bể đáy và não thất.
4.3 Bàn luận về kết quả phẫu thuật
4.3.1 Kết quả lấy u
Bảng 4.1: Phẫu thuật nội soi cắt u sọi hầu qua đường mũi của các nghiên cứu
trên thế giới.
Tác giả Số lượng Cắt toàn Cắt gần Cắt một
(Năm) bệnh nhân bộ toàn bộ phần
Frank và cs (2006) 10 7 (70%) 2 (20%) 1 (10%)
De Divitiis và cs (2007) 10 7 (70%) 2 (20%) 1 (10%)
Gardner và cs (2008) 16 8 (50%) 4 (25%) 4 (25%)
Fetami và cs (2009) 18 11 (61,1%) 6 (33%) 1 (5,9%)
Jane và cs (2010) 12 10 (83,3%) 2 (16,7%) 0
Leng và cs (2011) 23 17 (73,9%) 6 (26,7%) 0
Koutourousiou (2013) 64 24 (37,5%) 22 (34,4%) 18 (28,1%)
Cavallo và cs (2014) 103 71 (68,9%) 26 (25,2%) 6 (5,8%)
Nghiên cứu này (2017) 50 26 (52%) 19 (38%) 5 (10%)
17
Nghiên cứu gần đây với số lượng bệnh nhân lớn là của Koutourousiou (2013)
thì tỷ lệ cắt bỏ toàn bộ khối u chỉ chiếm 37,5%, và cắt gần toàn bộ chiếm 34,4%, tỷ
lệ chỉ cắt được một phần khối u chiếm 28,1%. Nghiên cứu có số lượng bệnh nhân
lớn nhất là của Cavallo và cộng sự (2014) với 103 bệnh nhân cho thấy tỷ lệ cắt toàn
bộ khối u chiếm 68,9%, cắt gần toàn bội khối u chiếm 25,2% và cắt một phần khối u
chiếm 5,8%.
Komotar và cộng sự đã xem lại các báo cáo đã công bố và so sánh cách tiếp
cận nội soi xuyên xoang bướm với vi phẫu qua xoang bướm và vi phẫu qua đường mở
nắp sọ [4]. Tác giả đã xác định được 88 nghiên cứu với 3470 bệnh nhân từ năm 1995
đến năm 2010 và thấy rằng các bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp nội soi qua
xoang bướm "có tỷ lệ cắt bỏ hoàn toàn” cao hơn đáng kể so với phẫu thuật qua đường
mở nắp sọ (66,9% so với 48,3%, P <0,003. Mức độ cắt bỏ khối u phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như vị trí khối u, kích thước khối u, loại u sọ hầu thể nhú hay thể men răng, mức
độ xâm lấn hay tính chất của khối u, u sọ hầu mổ lần đầu hay tái phát…
Trong nghiên cứu chúng tôi thây có sự khác biệt về tỷ lệ cắt bỏ khối u giữa
các nhóm khác nhau. Mức độ cắt bỏ khối u có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa các vị trí khối u (p =0,02). Tỷ lệ cắt bỏ thấp nhất ở nhóm khối u nằm từ
vùng trên yên đến não thất ba (Kassam III) chiếm 28%. Trong khi đó khối u ở
vùng dễ tiếp cận là vùng xoang bướm hố yên (Kassam I, II) có tỷ lệ cắt bỏ toàn
bộ khối u cao hơn chiếm tỷ lệ lần lượt là 80% và 75% (Bảng 3.23).
Mức độ cắt bỏ khối u còn có sự khác biệt giữa các khối u có kích thước khác
nhau (p = 0,03). Khối u kích thước lớn hơn 4 cm có tỷ lệ cắt bỏ toàn bộ khối u thấp
nhất chỉ 25%, cắt gần toàn bộ là 55% và cắt bán phần là 20%. Trong khi đó khối u
có kích thước từ 2 - 4 cm có tỷ lệ cắt bỏ toàn bộ khối u 70,4% và khối u có kích
thước nhỏ hơn 2 cm có tỷ lệ cắt bỏ toàn bộ khối u chiếm 66% (Bảng 3.24).
Nghiên cứu này có tỷ lệ khối u lớn ở vị trí khó là Kassam III chiếm 50% và
kích thước trên 4 cm chiếm 40% với mức độ cắt bỏ toàn bộ khối u thấp nên kết quả
chung toàn bộ nghiên cứu có tỷ lệ cắt bỏ toàn bộ khối u chỉ chiếm 52%.
Khối u sọ hầu thể nhú có tỷ lệ cắt bỏ khối u cao chiếm 81,8% so với u sọ hầu
thể men răng cắt bỏ toàn bội khối u 43,6%. Tỷ lệ này không có ý nghĩa thống kê với
p = 0,07. Tuy nhiên trong nghiên cứu tỷ lệ u sọ hầu thể nhú chỉ chiếm tỷ lệ thấp 22%
so với 78% là u sọ hầu thể men răng (bảng 3.22).
Mức độ cắt bỏ khối u không phụ thuộc vào độ tuổi, tính chất, hình dạng khối u
dạng nang, dạng đặc hay dạng hỗn hợp với p > 0,05 (bảng 3.21, 3.25)
Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy với những khối u dạng nang thì tỷ lệ cắt bỏ toàn
bộ khối u chiếm tỷ lệ cao 9/11 bệnh nhân (81,8%) do những khối u này sau khi hút
18
dịch trong nang sẽ có phẫu trường rộng rãi và quá trình phẫu tích tách phối u khối các
cấu trúc xung quanh khá dễ dàng nê việc cắt bỏ toàn bộ khối u khá thuận lợi.
4.3.2 Kết quả lâm sàng
Kết quả về thị giác: Trong nghiên cứu này tỷ lệ cải thiện thị giác chiếm 82%,
không cải thiện chiếm 12% và thị lực kém hơn hoặc mất thị lực sau phẫu thuật
chiếm 6%. Liên quan đến kết quả thị lực cho thấy kết quả cải thiện tốt hơn trong các
nhóm phẫu thuật nội soi qua đường mũi so với nhóm phẫu thuật bằng đường mở nắp
sọ. Trong phân tích tổng hợp Komotar và cộng sự (2012) nhóm phẫu thuật u sọ hầu
nội soi qua đường mũi cho thấy tỷ lệ tương ứng của cải thiện thị giác là 56,2% và
suy giảm là 1,7%. Theo Koutourousiou (2014), các tài liệu được công bố đã cho
thấy rằng phẫu thuật mở nắp sọ thường có cải thiện kém hơn so với phẫu thuật
xuyên bướm, trong đó ở nhóm phẫu thuật nội soi qua đường mũi có thị lực cải
thiện ở 86,4%, chỉ với một trương hợp bị tổn thương sau mổ (1,5%).
Elliott và cs (2011) so sánh, phân tích về loạt phẫu thuật nội soi qua mũi thấy sự cải
thiện tình trạng thị giác ở 85,5% bệnh nhân có tổn thương trước mổ (106 /124), và
chỉ có 2,3% số bệnh nhân bị tổn thương mới về thị lực hoặc thị trường sau khi điều
trị (8 /352). Elliott cũng ủng hộ cách tiếp cận nội soi qua xoang bướm như là phương
pháp hiệu quả và an toàn cho các thương tổn gây suy giảm thị lực do chèn ép các
dây thần kinh thị giác và giao thoa thị giác.
Bảng 4.2: So sánh kết quả thị giác sau phẫu thuật u sọ hầu qua đường mũi xoang
bướm
Tác giả Số lượng Cải thiện Không Kém hơn
(Năm) bệnh nhân thị giác thay đổi (%)
(%) (%)
Frank và cs (2006) 10 75 25 0
De Divitiis và cs (2007) 10 71 29 0
Gardner và cs (2008) 16 93 7 0
Fetami và cs (2009) 18 61,1 38,9 0
Jane và cs (2010) 12 78 22 0
Leng và cs (2011) 23 77 18,7 4,3
Koutourousiou (2013) 64 86,4 12,1 1,5
Cavallo và cs (2014) 103 74,7 22,8 2,5
Nghiên cứu này (2017) 50 82,0 12,0 6,0
19
Kết quả nội tiết: Kết quả trong nhóm nghiên cứu chúng tôi thấy tỷ lệ suy tuyến yên
mới sau mổ chiếm 36%, tỷ lệ cải thiện hơn trước mổ chỉ chiếm 8% và đái nhạt vĩnh
viễn sau mổ chiếm 60% so với trước mổ chỉ có 32% đái nhạt. Chúng tôi thấy rằng
bản chất của khối u sọ hầu đã gây suy tuyến yên trước mổ tới 70% nên việc điều trị
nội tiết với u sọ hầu là bắt buộc. Chỉ có 8% số bệnh nhân cải thiện triệu chứng nội
tiết không phải dùng hormone thay thế sau mổ là con số cho thấy việc cần thiết phải
điều trị nội tiết với tất cả bệnh nhân u sọ hầu.
Chọn lựa giữa cắt bỏ khối u và bảo tồn chức năng nội tiết là thách thức đặt ra
cho các phẫu thuật viên. Các tác giả cho rằng nên cố gắng cắt bỏ hoàn toàn khối u,
thậm chí nếu việc cắt bỏ toàn bộ khối u gây ra suy tuyến yên toàn bộ và phải thay
thế hormone nhưng cần xem xét có thể để lại phần khối u đã xâm nhập vào thành
của vùng dưới đồi không thể bóc tách.
Một số tác giả cho rằng, chìa khóa để xem xét mức độ cắt bỏ khối u là tình
trạng bệnh nội tiết và vị trí của cuống tuyến yên. Nhìn chung, đối với bệnh nhân
không có rối loạn nội tiết trước phẫu thuật hoặc chỉ một hormone tuyến yên và
cuống yên xác định rõ trên cộng hưởng từ, cần nên nỗ lực bảo tồn cuống yên và các
cấu trúc hạ đồi tuyến yên. Tuy nhiên, ở những bệnh nhân có đái tháo nhạt trước
phẫu thuật hoặc có thêm rối loạn chức năng tuyến yên, cố gắng tối đa để loại bỏ khối
u có thể được xem là hợp lý vì những rối loạn nội tiết thường sẽ không thể phục hồi.
Trong một số trường hợp, để lại một phần khối u dính dọc theo cuống tuyến yên để
bảo vệ chức năng nội tiết và vùng dưới đồi sau mổ nếu không thể phẫu tích lấy bỏ
[111].
Các báo cáo cho thấy rối loạn chức năng mới của tuyến yên trong khoảng một
phần ba số bệnh nhân. Tuy nhiên, Komotar và cộng sự báo cáo tỷ lệ suy tuyến yên
mới từ phân tích tổng hợp là 48,1% trong nhóm mổ đường mở nắp sọ và 47,1%
trong nhóm phẫu thuật nội soi qua đường mũi. Suy giảm hormone nội tiết trước khi
mổ là tương đối phổ biến, và phục hồi nội yên sau mổ là tương đối hiếm.
Đái tháo nhạt: là một trong những biến chứng thường gặp nhất sau phẫu thuật điều
trị u sọ hầu. Theo báo cáo của một số loạt nghiên cứu thì tỷ lệ đái tháo nhạt sau phẫu
thuật cao gần như 100% [112],[113]. Nghiên cứu của chúng tôi gặp 30/50 (60%) số
bệnh nhân có đái tháo nhạt sau mổ so với trước mổ chỉ là 32% (bảng 3.4, 3.27).
Báo cáo tỷ lệ về đái tháo nhạt sau mổ trong các nghiên cứu về phẫu thuật u sọ
hầu thay đổi trong các nghiên cứu khác nhau từ ít gặp đến phổ biến gặp.
Báo cáo của Elliott (2011) cho thấy tỷ lệ đái tháo nhạt thấp hơn ở nhóm phẫu thuật
qua đường mũi xoang bướm (36%) so với phẫu thuật qua đường mở nắp sọ (69%) . Giải
thích cho kết quả này có thể do sự cải thiện quan sát tuyến yên và cuống yên trong phẫu
thuật nội soi qua đường mũi tốt hơn so với đường mở nắp sọ.
GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
1. Đặt vấn đề
U sọ hầu (Craniopharyngiomas) là loại u biểu mô vảy lành tính ít gặp, xếp loại
độ I (WHO grade I), chiếm 3 - 4% trong các loại u nội sọ, phát triển chậm, nằm
phần lớn ở vùng hố yên và trên yên, quanh tuyến yên và cuống tuyến yên. Mặc dù
lành tính nhưng do tổ chức u thường dính chặt, xâm lấn, len lỏi vào các cấu trúc
quan trọng xung quanh làm cho phẫu thuật cắt bỏ triệt để khối u, ngăn ngừa tái phát
trở nên khó khăn. Cho đến nay, phẫu thuật vẫn là phương pháp điều trị cơ bản đối
với u sọ hầu. Nhiều đường mổ khác nhau đã được áp dụng. Phẫu thuật nội soi qua
đường mũi xoang bướm được áp dụng trong những năm gần đây là đường mổ ít xâm
lấn, có tỷ lệ thành công cao và biến chứng thấp.
Tại Việt Nam, phẫu thuật u sọ hầu chủ yếu được thực hiện tại một số trung
tâm phẫu thuật thần kinh lớn, phần lớn bằng đường mở nắp sọ, sử dụng kính vi
phẫu. Phẫu thuật nội soi qua đường mũi xoang bướm trong phẫu thuật điều trị u sọ
hầu chưa được áp dụng nhiều, chưa có các báo cáo về việc áp dụng phương pháp
này. Chính vì thế, chúng tôi thực hiện đề tài “ Nghiên cứu phẫu thuật nội soi qua
đường mũi xoang bướm trong điều trị u sọ hầu ” với các mục tiêu sau:
1. Nhận xét phẫu thuật nội soi qua mũi xoang bướm trong điều trị u sọ hầu.
2. Đánh giá kết quả điều trị u sọ hầu bằng phẫu thuật nội soi qua mũi xoang bướm.
2. Tính cấp thiết của đề tài
U sọ hầu là một trong những bệnh lý phức tạp nhất trong các khối u nội sọ.
Phương pháp điều trị chính vẫn là phẫu thuật nhưng chọn đường mổ, phương pháp
mổ từ trước đến nay vẫn còn được nhiều phẫu thuật viên thần kinh bàn bạc và tranh
cãi. Phẫu thuật nội soi qua đường mũi xoang bướm cùng với những phẫu thuật ít
xâm lấn khác trong điều trị u sọ hầu là những tiến bộ và xu thế trong phẫu thuật thần
kinh hiện đại. Tại Việt Nam, phương pháp phẫu thuật nội soi lấy u sọ hầu qua đường
mũi xoang bướm chưa được triển khai ứng dụng nhiều, chưa được nghiên cứu sâu
và đầy đủ. Do đó, đây là đề tài rất cần thiết và có ý nghĩa cho sự phát triển cho
chuyên ngành.
3. Những đóng góp mới của luận án.
Đây là nghiên cứu chi tiết, đầy đủ về phương pháp phẫu thuật nội soi qua
đường mũi xoang bướm lấy u sọ hầu với chỉ định rõ ràng cho các khối u sọ hầu xếp
loại Kassam I, II, III. Với đường mổ qua xoang bướm đơn thuần cho những khối u
nhỏ nằm khu trú hố yên và đường xoang bướm mở rộng cho những khối u lớn hơn,
xâm lấn rộng và lên cao đến não thất III.
2
Nghiên cứu cũng đưa ra phương pháp đóng nền sọ với việc sử dụng vạt vách
mũi có cuống mạch nuôi, cùng với các vật liệu tự thân để tái tạo nền sọ làm giảm tỷ
lệ rò dịch não tuỷ khi mổ các tổn thương nền sọ.
Luận án đã nêu được kết quả phẫu thuật u sọ hầu bằng phương pháp nội soi
qua đường mũi xoang bướm, những tai biến và biến chứng gặp phải trong quá trình
phẫu thuật để các bác sỹ ngày càng hoàn thiện hơn, nâng cao chất lượng điều trị cho
bệnh nhân.
4. Bố cục của luận án
Luận án gồm 122 trang, mở đầu 2 trang, tổng quan tài liệu 38 trang, đối tượng và
phương pháp nghiên cứu 18 trang, kết quả 27 trang, bàn luận 35 trang, kết luận 2
trang. Luận án có 34 bảng, 9 biểu đồ, 31 hình và 135 tài liệu tham khảo.
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Lịch sử phẫu thuật và điều trị u sọ hầu
1.1.1 Trên thế giới
Năm 1857, Zenker là người đầu tiên mô tả về u sọ hầu. Halstead (1909) là
người đầu tiên phẫu thuật thành công cắt bỏ u sọ hầu. Năm 1932, Harvey Cushing
thông báo mổ 92 ca u sọ hầu, có 14 ca qua đường xoang bướm. Phẫu thuật qua
xoang bướm được phổ biến rộng rại từ năm 1965 bởi Gerrard Guiet và Jules Hardy.
Năm 1980. Laws thông báo mổ một số lượng lớn u sọ hầu qua đường mũi xoang
bướm và xoang bướm mở rộng dưới kính vi phẫu.
1.1.2 Tại Việt Nam
Phẫu thuật u sọ hầu trước đây chủ yếu qua đường mở sọ tại các trung tâm lớn
như Bệnh viện Việt Đức và Bệnh viện Chợ Rẫy. Phẫu thuật nội soi qua đường mũi
xoang bướm được ứng dụng gần đây cho các khối u tuyến yên. Một số trường hợp
sử dụng nội soi để mở thông u sọ hầu dạng nang vào mũi.
1.1.3 Sự phát triển của phẫu thuật nội soi qua đường mũi xoang bướm điều trị
u sọ hầu
Trước những năm 1990, phẫu thuật qua xoang bướm sử dụng kính vi phẫu cho
các khối u tuyến yên và một số u vùng hố yên. Năm 1987, Weiss đã sử dụng đường
mổ xoang bướm mở rộng để phẫu thuật cho các khối u vùng yên và trên yên khác
như u màng não củ yên, u sọ hầu. Năm 1997 Jho, Carau và cộng sự từ Pittsburgh
(Mỹ) báo cáo những trường hợp đầu tiên sử dụng nội soi hoàn toàn qua đường mũi
cho 50 bệnh nhân u tuyến yên, trong đó có 1 bệnh nhân u sọ hầu vùng hố yên. Tác
giả đã nêu ra những ưu điểm thuận lợi của phẫu thuật nội soi qua đường mũi xoang
bướm. Sau đó, nhiều tác giải đã báo cáo những ca phẫu thuật u sọ hầu nội soi qua
đường mũi xoang bướm đầu tiên như: Amin Kasssam (2004), Giorgio Frank (2006),
de Divitis (2007). Kassam (2008) đưa ra bảng phân loại hữu ích cho nội soi dựa vào
vị trí tương đối với phễu tuyến yên. Những năm gần đây có nhiều báo cáo với số
lượng lớn u sọ hầu như Koutousousiou (2013), Cavallo (2014)…đã cho thấy kết quả
thành công cao, biến chứng thấp.
3
1.2. Tỷ lệ mắc bệnh
U sọ hầu chiếm 1 - 4 % u não người lớn và 5 - 10% u não trẻ em tập trung
nhiều ở lứa tuổi 5 - 14 tuổi và 50 - 70 tuổi. Tỷ lệ mắc u sọ hầu 1,34/ 1 triệu dân/năm.
Không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh theo giới tính và chủng tộc.
1.3. Giải phẫu vùng hố yên và các cấu trúc liên quan
U sọ hầu có nguồn gốc từ các tế bào di tích của túi Rathke, khối u có xu hướng
phát triển từ phần trên của tuyến yên, cuống tuyến yên vào vùng hố yên và cạnh yên
là những vùng liên quan mật thiết với tuyến yên, cuống tuyến yên, vùng dưới đồi,
thần kinh thị giác và não thất ba. Khối u sọ hầu thường được cấp máu bởi các nhánh
xiên của động mạch cảnh trong, động mạch thông trước, thông sau và động mạch
não trước. Để thực hiện được phẫu thuật cần nắm rõ được giải phẫu và các cấu trúc
liên quan phức tạp ở vùng nền sọ trước này: bao gồm giải phẫu vùng khoang mũi,
xoang bướm, xương bướm và liên quan quanh xương bướm, giải phẫu vùng trên yên
và não thất ba
1.3.1. Vùng mũi xoang
Khoang mũi được giới hạn ở trên bởi hố sọ trước và giữa, phía ngoài bởi ổ
mắt và xoang hàm trên, phía dưới bởi vòm miệng cứng. Thành ngoài của khoang
mũi thường có ba cuốn mũi nhô vào trong: cuốn mũi trên, cuốn mũi giữa và cuốn
mũi dưới, tương ứng với ngách mũi trên, ngách mũi giữa và ngách mũi dưới.
Ứng dụng tạo vạt vách mũi có cuống mạch nuôi
Trong những trường hợp phẫu thuật nền sọ cần mảnh ghép đóng nền sọ tránh
rò dịch não tuỷ, sử dụng mảnh ghép có cuống mạch nuôi, thường là vạt vách mũi.
Mảnh ghép được thiết kế bằng cuống mạch là động mạch bướm khẩu cái. Vạt bắt
đầu ở trên sàn mũi 0,5cm ngay sát lỗ xoang bướm, dọc theo bờ trên cuốn mũi trên
đến cách đĩa khứu 1cm. Giới hạn trước cách lỗ mũi ngoài 1cm và giới hạn dưới là
nền vách mũi đến lỗ mũi ngoài.
1.3.2. Giải phẫu hố yên – xoang bướm.
Xoang bướm nằm ở thân xương bướm, kích thước khác nhau, tùy thuộc vào
tuổi và từng người. Xoang thường có 1-3 vách chia xoang thành nhiều khoang nhỏ,
hiếm khi vách chia nằm ở chính giữa.
1.3.3. Liên quan vùng hố yên
Hố yên là vùng lõm trung tâm của xương bướm nơi chứa tuyến yên, được giới hạn
bởi phía trước là củ yên, phía sau là lưng yên. Củ yên là phần gờ xương nằm liên kết
giữa hố yên và phần ngang xương bướm, giữa hai phần này là rãnh giao thoa thị giác nơi
thần kinh thị giác nằm ngay phía sau. Hai bên hố yên có ba mỏm yên là mỏm yên trước,
giữa và sau. Hố yên liên quan mật thiết với các cấu trúc thần kinh mạch máu quan trọng
vùng xoang hang, đa giác Wilis và vùng dưới đồi, não thất III.
1.4. Giải phẫu bệnh u sọ hầu
U sọ hầu gồm 2 thể là thể men bào và thể nhú. Đặc điểm của mỗi thể có tính
chất khác nhau và thể hiện hình ảnh trên phim chụp cũng có những đặc trưng riêng.
4
U sọ hầu thể men bào chiếm tỷ lệ 85 - 90% trong tất cả u sọ hầu, trong khi đó u sọ
hầu thể nhú chiếm 11 - 14% hầu như chỉ gặp ở người lớn. U sọ hầu thể men bào gặp
ở cả người lớn và trẻ em. Ở trẻ em em hầu như chỉ gặp thể men bào.
1.5. Phân loại u sọ hầu theo vị trí giải phẫu
Các tác giả đã phân loại u sọ hầu theo hướng phát triển và các đường mổ được
sử dụng, tất cả đều dựa vào nguyên tắc phân chia tổn thương dọc theo chiều dài xâm
lấn của khối u ở trên trục dọc chính, như liên quan đến giao thoa, hoành yên, não
thất ba, hay gần đây nhất là phễu yên như phân loại của Yasargil (1990), phân loại
của Samii và Tatagiba (1997).
Kassam đề xuất một phân loại hữu ích trong cách tiếp cận nội soi đường mũi,
dựa trên các mối quan hệ của các u sọ hầu với phễu yên. Loại 1: Khối u nằm trước
phễu. Loại 2: Khối u nằm xuyên phễu. Loại 3: Khối u ở sau phễu và hố gian cuống.
Loại 4: Khối u chỉ ở não thất ba hoặc sau ngách giao thoa thị giác, không thể tiếp
cận bằng đường nội soi.
1.6. Chẩn đoán u sọ hầu
1.6.1. Lâm sàng
Biểu hiện lâm sàng chính của u sọ hầu là cáu dấu hiệu rối loạn nội tiết và các
dấu hiện chèn ép thần kinh.
Các triệu chứng chèn ép thần kinh bao gồm như: giảm thị lực, khuyết thị
trường, phù gai thị, liệt vận nhãn hoặc các triệu chứng tăng áp lực nội sọ, động kinh,
rối loạn ý thức.
Các triệu chứng rối loạn nội tiết bao gồm suy tuyến yên ở các mức độ thiếu
hụt hormone khác nhau.
1.6.2. Xét nghiệm nội tiết: suy tuyến yên được đánh giá bằng các xét nghiệm nội
tiết. Thiếu hụt hormone ở thời điểm chẩn đoán bệnh u sọ hầu lên tới 70 - 85%.
1.6.3. Chẩn đoán hình ảnh
Về phương diện chẩn đoán hình ảnh: u sọ hầu thường có hình ảnh không đồng
nhất so với bất kì tổn thương nào vùng trên yên. U sọ hầu có thể gặp thể nang, thể
đặc hay hỗn hợp thể nang và đặc, có vôi hoá hay không vôi hoá. Chính vì sự đa dạng
tổ chức như vậy nên có thể thấy được sự biến đổi đa dạng tỷ trọng trên phim chụp
cắt lớp vi tính và thay đổi tín hiệu trên phim chụp cộng hưởng từ. U sọ hầu nằm ở bể
dịch não tuỷ trên yên trong khoảng 75% bệnh nhân; khoảng 20% là trong hoặc trên
yên; khoảng 5% là hoàn toàn nằm trong hố yên. Tổn thương đơn thuần ở não thất ba
là rất hiếm, và các khối u sọ hầu lạc chỗ là cực kì hiếm.
1.6.4. Chẩn đoán phân loại u sọ hầu trên hình ảnh
Các mô tả hình ảnh cổ điển của u sọ hầu thể men bào trên phim cắt lớp vi tính,
cộng hưởng từ kết hợp ba đặc điểm chính: u nang, vôi hóa và bắt thuốc cản quang.
Sự xuất hiện đặc trưng nhất của u sọ hầu thể men bào trên phim cộng hưởng từ là sự
không đồng nhất, chia thùy, hàng loạt nang và các thành phần rắn, cũng như vôi hoá.
U sọ hầu thể nhú thường ở hoàn toàn trên yên, và tương đối đồng nhất. Các tính
5
năng tiêu biểu trên phim CLVT, cộng hưởng từ bao gồm một hình cầu, chủ yếu là
đặc, nốt sáng không đồng nhất; nốt thường là đồng tỷ trọng trên hình ảnh CLVT,
hỗn hợp trong tín hiệu trên T1W, và đa dạng tín hiệu hơn trên T2W.
1.6.5. Chẩn đoán phân biệt u sọ hầu: Các tổn thương vùng yên và trên yên rất đa
dạng và phức tạp, hay nhầm chẩn đoán nhất với các bệnh lý vùng yên và trên
yên như: u thần kinh đệm (glioma) của chéo thị giác, u tuyến yên chảy máu, u bì
vùng hố yên, hay hiếm gặp hơn như u mạch thể hang, phình động mạch não
khổng lồ có canxi hoá.
1.7. Các phương pháp điều trị u sọ hầu: Hiện nay phẫu thuật được coi là sự lựa
chọn chính, xạ trị là phương pháp hỗ trợ quan trọng có thể ảnh hưởng đến kết quả
của bệnh nhân mắc u sọ hầu, điều trị nội tiết đặc biệt là hormon thay thế đóng vai trò
không thể thiếu. Chính vì thế để điều trị tốt cho bệnh nhân u sọ hầu cần phải có sự
phối hợp chặt chẽ của nhiều chuyên khoa.
1.7.1. Phẫu thuật: Điều trị phẫu thuật u sọ hầu nhằm 3 mục tiêu chính là: khẳng định
chẩn đoán, cắt bỏ khối u tránh chèn ép thần kinh và dự phòng tái phát. Não úng thuỷ và
rối loạn nội tiết với nguy cơ tử vong cao cần được xử trí trước hết. Nhiều đường mổ
khác nhau được áp dụng như: trán thái dương (pterional), dưới trán (subfrontal), trên
ổ mắt (supraorbital) và xuyên não thất (transventricular), phát triển qua nhiều thập
kỷ trong nỗ lực đạt được kết quả tốt hơn với tỷ lệ khỏi bệnh cao hơn và tỷ lệ tử vong
thấp hơn. Mỗi đường mổ đề có ưu điểm, nhược điểm và những giới hạn áp dụng tuỳ
thuộc vào vị trí của khối u. Một số kỹ thuật phẫu thuật khác có thể được sử dụng cho
việc điều trị u sọ hầu như: dẫn lưu u dạng nang, mở thông u nang vào khoang dịch
não tuỷ hoặc với các kỹ thuật nội soi qua não thất cắt bỏ phần nang trong não thất.
Não úng thuỷ nếu gây nguy hiểm tính mạng bệnh nhân cần điều trị trước nhất.
1.7.2. Xạ trị, xạ phẫu: Xạ trị là phương pháp điều trị quan trọng có thể ảnh hưởng
đến kết quả của bệnh nhân mắc u sọ hầu. Xạ trị áp các trường hợp loại bỏ khối u
không hoàn toàn, ủng hộ xạ trị phân đoạn như là điều trị phù hợp nhất cho khối u sọ
hầu. Xạ phẫu là một lựa chọn khác để điều trị u sọ hầu, sử dụng các máy gia tốc
tuyến tính hoặc gamma knife, cyber knife. Thông qua việc sử dụng một khung định
vị, xạ phẫu được phân phối bằng chùm tập trung của bức xạ với độ chính xác cao từ
nhiều hướng vào tổn thương. Tương tự với xạ trị, xạ phẫu được dùng để điều trị khối
u sót lại hoặc tái phát. Tóm lại, mặc cho những cải tiến trong phẫu thuật, xạ trị và xạ
phẫu vẫn là phương pháp điều trị có ý nghĩa, phải kết hợp nhiều chuyên khoa để
điều trị bệnh nhân với u sọ hầu cắt bỏ không hoàn toàn và tái phát.
1.7.3. Điều trị nội tiết: Điều trị thay thế glucocorticoid là ưu tiên cao nhất trong rối
loạn nội tiết và phải luôn luôn được dùng trước khi thay thế hormone tuyến giáp để
tránh suy thượng thận cấp tính. Điều trị nội tiết luôn là việc điều trị không thể thiếu,
đái tháo nhạt và thiếu hụt các hormone được điều trị phụ thuộc vào mức độ thiếu hụt
tuỳ theo từng bệnh nhân.
6
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân chẩn đoán u sọ hầu xếp loại Kassam I, II, III được phẫu
thuật nội soi qua đường mũi xoang bướm tại Bệnh viên Việt Đức trong thời gian từ
tháng 6/2013 đến tháng12/2015. Bệnh nhân không phân biệt tuổi giới, có đầy đủ hồ
sơ bệnh án, được khám lâm sàng, chụp phim CLVT, CHT, xét nghiệm nội tiết, giải
phẫu bệnh. Bệnh nhân được theo dõi sau mổ, khám định kì sau 1 tháng, 3 tháng, 6
tháng và sau 12 tháng.
Tiêu chuẩn lựa chọn: U sọ hầu xếp loại Kassam I, Kassam II, Kassam III; U sọ hầu
phẫu thuật lần đầu hoặc u sọ hầu tái phát, có giải phẫu bệnh là u sọ hầu thể nhú hoặc
thể men răng.
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân không có đầy đủ hồ sơ bệnh án theo mẫu thống
nhất, không được phẫu thuật nội soi qua đường mũi xoang bướm, không được theo
dõi, khám lại sau mổ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.1.1 Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu, không đối chứng. Nghiên
cứu sinh trực tiếp tham gia phẫu thuật, theo dõi, đánh giá bệnh nhân sau mổ theo
mẫu bệnh án thống nhất.
2.1.2 Cỡ mẫu: chọn cỡ mẫu thuận tiện, tất cả bệnh nhân đủ tiêu chuẩn trong thời
gian nghiên cứu đều được đưa vào trong nghiên cứu.
2.1.3 Thời gian và địa điểm: Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm Phẫu thuật
Thần kinh - Bệnh viện Việt Đức trong thời gian từ 6/2013 đến 12/2015.
2.1.4 Các bước nghiên cứu
Bước 1: Thông qua đề cương, xây dựng bệnh án mẫu
Bước 2: Khám, hội chẩn lựa chọn bệnh nhân u sọ hầu có chỉ định phẫu thuật nội soi
qua đường mũi xoang bướm. Thu thập số liệu trước phẫu thuật.
Bước 3: Tiến hành phẫu thuật nội soi lấy u sọ hầu qua đường mũi xoang bướm theo
quy trình đã xây dựng. Thu thập số liệu trong phẫu thuật
Bước 4: Đánh giá kết quả phẫu thuật tại các thời điểm trong mổ, ngay sau mổ, sau
mổ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng. Thu thập số liệu sau mổ.
Bước 5: xử lý số liệu và viết luận án
2.3. Chỉ định, chống chỉ định phẫu thuật u sọ hầu nội soi
Chỉ định phẫu thuật: U sọ hầu xếp loại Kassam I, II, III
Chống chỉ định: U sọ hầu xâm lấn chủ yếu vào sừng trán, thuỳ thái dương, não thất
bên, nằm hoàn toàn trong não thất III. Bệnh nhân có các bệnh lý không thể phẫu
thuật như tim mạch, rối loạn đông máu.
2.4. Phương tiện phẫu thuật: hệ thống nội soi, dụng cụ phẫu thuật hãng Karl Stoz
(Đức), máy định vị (Metronic S7, Brainlab), khoan mài qua mũi (metronic); keo
sinh học, keo cầm máu.
2.5. Kỹ thuật mổ:
7
Thì mũi phẫu thuật viên đẩy cuốn mũi ra ngoài hoặc cắt cuốn mũi, tạo vạt
vách mũi có cuống mạch nuôi, cắt một phần sau vách. Thì xoang bướm: cắt bỏ thành
trước xoang bướm, lấy vách ngăn xoang bướm. Thì nền sọ: mở thành sau xoang
bướm, mở rộng sàn yên, mài củ yên, mặt ngang xương bướm. Thì lấy u: Mở màng
cứng, phẫu tích bộc lộ, lấy dần khối u đến khi hết u hoặc đến khi không thể lấy thêm
khối u. Thì đóng nền sọ: sử dụng phương pháp đóng nhiều lớp bằng các vật liệu tự
thân như mỡ bụng, cân đùi và vạt vách mũi có cuống mạch nuôi
2.6. Các chỉ tiêu nghiên cứu
Các chỉ tiêu nghiên cứu cho mục tiêu 1 bao gồm các chỉ tiêu về lâm sàng, cận
lâm sàng, hình ảnh trước phẫu thuật; các chỉ tiêu trong phẫu thuật bao gồm kỹ thuật
mổ, đặc điểm nhận thấy trong mổ, tai biến xảy ra, khó khăn thuận lợi trong mổ.
Các chỉ tiêu nghiên cứu cho mục tiêu 2 bao gồm các chỉ tiêu về kết quả lấy u, biến
chứng xảy ra sau phẫu thuật, các diễn biến về lâm sàng, hình ảnh sau phẫu thuật.
2.6.1. Các chỉ tiêu nghiên cứu trước phẫu thuật
Các chỉ tiêu nghiên cứu về lâm sàng, cận lâm sàng, hình ảnh
CLVT, CHT trước mổ. Xếp loại Kassam theo phim CHT sọ não. Đánh giá
tình trạng lâm sàng trước mổ theo thang điểm Karnofsky.
2.6.2. Các chỉ tiêu nghiên cứu liên quan đến phẫu thuật
Các chỉ tiêu nghiên cứu liên quan đến phẫu thuật bao gồm đường mổ, kỹ thuật
mổ, đặc điểm trong mổ, khó khăn, thuận lợi, tai biến xảy ra. Đánh giá mức độ mở
nền sọ dựa vào bảng phân loại của Felice Esposito (2007). Ghi nhận mức độ lấy u
trong mổ: lấy toàn bộ, lấy gần toàn bộ (lấy được trên 80%), lấy một phần (lấy dưới
80%) kiểm tra bằng nhìn trực tiếp với các ống kính 0 độ, 30 độ, 70 độ và sử dụng hệ
thống định vị trong mổ. Kiểm tra lại mức độ lấy u bằng phim chụp cộng hưởng từ,
CLVT sau mổ.
2.6.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu sau phẫu thuật: Bao gồm giải phẫu bệnh, các chỉ
tiêu về lâm sàng, cận lâm sàng, hình ảnh sau mổ, so sánh với tình trạng trước mổ.
2.7. Xử lí số liệu: sử dụng phần mềm SPSS 16.0 để tạo tập tin, nhập và mã hoá số
liệu. Phân tích số liệu thống kê, mô tả và phân tích mối liên quan giữa các biến số
bằng thuật toán thống kê y học.
2.8. Đạo đức nghiên cứu: Đề cương nghiên cứu được thông qua bởi hội đồng xét
duyệt của trường Đại học Y Hà Nội do Bộ giáo dục và đào tạo quyết định. Nghiên
cứu được Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức chấp thuận. Phẫu thuật được thực hiện bởi
nhóm phẫu thuật viên có kinh nghiệm, đào tạo căn bản. Thông tin bệnh nhân được
giữu bí mật.
8
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
3.1.1 Đặc điểm về tuổi, giới: Tuổi trung bình của bệnh nhân 32 ± 17,0 tuổi, nhỏ
nhất là 6 tuổi, cao nhất là 65 tuổi. Tỷ lệ nam/nữ: 34/16 (2,125 lần). Phân bố độ tuổi
theo nhóm trẻ em (< 16 tuổi) chiếm 22,0%, người lớn (16 – 60 tuổi) chiếm 72,0%,
người cao tuổi (>60) chiếm 6,0%.
3.1.2 Tiền sử điều trị u sọ hầu: Bệnh nhân mổ lần đầu chiếm 60%, bệnh nhân đã
từng mổ u sọ hầu trước đó chiếm 40% (trong đó mổ 1 lần: 28%, mổ 2 lần: 10%, mổ
> 2 lần: 2%). Bệnh nhân có tiền sử xạ trị chiếm 4%.
3.1.3 Lý do đến khám bệnh: đau đầu chiếm 84,0%, mờ mắt chiếm 80,0%, nguyên
nhân khác chiếm 16,0%.
3.1.4 Triệu chứng về mắt: Số bệnh nhân có thị lực mắt bình thường (26,0%), tỷ lệ
có tổn thương thị lực là 74,0%. Có 84,0% số trường hợp có khuyết thị trường. Chỉ 1
bệnh nhân chiếm 2% số trường hợp có liệt dây thần kinh vận nhãn.
3.1.5 Triệu chứng lâm sàng rối loạn nội tiết: Số lượng lớn bệnh nhân có suy tuyến
yên chiếm 70%, đái nhạt trước mổ chiếm 32%, chậm phát triển thể chất chiếm 20%.
3.1.6 Các triệu chứng thần kinh: có 78% bệnh nhân có tăng áp lực nội sọ và 16%
có rối loạn ý thức trước mổ.
3.1.7 Đặc điểm vị trí, kích thước khối u trên phim CHT
Bảng 3.7: Vị trí, kích thước khối u trên phim CHT
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ (%)
Vị trí
Kassam I (Khối u nằm trước phễu) 5 10,0
Kassam II (Khối u nằm xuyên phễu) 20 40,0
Kassam III (Khối u nằm sau phễu) 25 50,0
Kích thước (đo theo đường kính lớn nhất)
< 2 cm 3 6,0
2 - 4 cm 27 54,0
> 4 cm 20 40,0
3.1.8 Đặc điểm khối u sọ hầu trên hình ảnh: U sọ hầu dạng nang hỗn hợp đặc và
nang chiếm tỷ lệ cao nhất (70,0%, tiếp đó dạng nang đơn thuần (22%) và dạng đặc
chiếm 8%. Vôi hoá trong u sọ hầu chiếm 74%. Tỷ lệ u sọ hầu có giãn não thất là
24%. Khối u có chèn ép giao thoa thị giác trên hình ảnh chiếm 94%, và 12% bệnh
nhân có phù não. Chủ yếu tín hiệu hỗn hợp trên T1, T2 (chiếm 74%), 100% khối u
có ngấm thuốc đối quang từ, trong đó 72% là kiểu ngấm thuốc hình nốt và 28%
ngấm thuốc hình vòng.
9
Đặc điểm hình ảnh xoang bướm trên hình ảnh có 72% dạng 1 (Sellar), 26% dạng
2 (presellar) và 2% dạng không có xoang bướm (dạng 3: conchar). Dấu hiệu hố yên
giãn rộng, phá huỷ mất ranh giới chiếm 40%, và hố yên còn nguyên vẹn chiếm 60%.
3.1.10. Tình trạng nội tiết trước mổ: Khối u có biểu hiện suy tuyến yên trước mổ
chiếm 70% và 30 % không có suy tuyến yên trước mổ.
3.2. Đặc điểm ứng dụng phẫu thuật
3.2.1. Đặc điểm đường vào phẫu thuật: Cuốn mũi phì đại chiếm 24,0%, không phì
đại chiếm 76,0%. Trong số đó, phải cắt cuốn mũi chiếm 28,0%. Số bệnh nhân được
tạo vạt vách mũi có cuống mạch nuôi chiếm 72,0%.
Đặc điểm trong phẫu thuật còn cho thấy có 66% bệnh nhân thấy rõ mốc lồi
động mạch cảnh, 54,0% thấy được tĩnh mạch liên xoang hang trước trong mổ và
22,0% chảy máu khi mở màng cứng từ tĩnh mạch liên xoang hang trước hoặc từ
xoang hang.
3.2.2. Cách thức tiếp cận khối u: Trong mổ sử dụng đường mổ xoang bướm đơn
thuần chiếm 34% và xoang bướm mở rộng chiếm 66,0%. Tính chất khối u đặc, khó
lấy chiếm 64% và mềm, dễ lấy chiếm 36,0%.
3.2.3. Mức độ mở nền sọ: mức độ mở nền sọ chủ yếu là mở sọ rộng độ 2 (18%) và
độ 3 (68%) (theo phân loại của Felice Esposito 2007).
6,0%
8,0%
18,0%
68,0%
Độ 0 Độ 1 Độ 2 Độ 3
3.2.4. Cách thức tái tạo nền sọ
Sử dụng mảnh ghép có cuống mạch 68%, sử dụng mỡ và cân tự thân chiếm
80%, sử dụng mảnh ghép xương chiếm 36%. Trong đó chủ yếu sử dụng các phương
thức này ở mức độ mở sọ rộng độ 3.
Sử dụng các vật liệu nhân tạo bao gồm keo sinh học chiếm 76%, sử dụng các
miếng đỡ (merocel, xông fonley) chiếm 84%. Dẫn lưu dịch não tuỷ thắt lưng sau mổ
chiếm 18%.
3.2.5. Tai biến bất thường trong mổ: có 1 trường hợp (2%) tổn thương mạch máu
trong mổ gây chảy máu trên 1 lít phải mở nắp sọ cầm máu và 1 trường hợp (2%) làm
tổn thương giao thoa thị giác trong mổ.
10
Thời gian mổ trung bình 136,7±35,8. Ca mổ ngắc nhất 60 phút và dài nhất là
250 phút.
3.3. Kết quả phẫu thuật
3.3.1. Kết quả giải phẫu bệnh
Bảng 3.20: Kết quả giải phẫu bệnh
Giải phẫu Người lớn Trẻ em Tổng số
bệnh Số lượng Tỷ lệ(%) Số lượng Tỷ lệ(%) Số lượng Tỷ lệ(%)
Thể men răng 28 71,2 11 100 39 78,0
Thể nhú 11 28,8 0 0 11 22,0
Tổng số 39 100 11 100 50 100
Nhận xét: Kết quả giải phẫu bệnh cho thấy có 78% số trường hợp là u sọ hầu thể
men răng, 22% thể nhú. Trong đó tất cả 11/11 trẻ em đều là u sọ hầu thể men răng,
28/39 người lớn là u sọ hầu thể men răng và 11 /39 người lớn là u sọ hầu thể nhú.
Như vậy 100% u sọ hầu thể nhú gặp ở người lớn, không gặp ở trẻ em.
3.3.2. Kết quả lấy u: Tỷ lệ lấy bỏ toàn bộ khối u chiếm 52%, lấy gần hoàn toàn
chiếm 38% và cắt một phần khối u chiếm 10%.
3.3.3. Mức độ lấy u theo tính chất khối u: Tỷ lệ cắt được toàn bộ khối u cao nhất ở
u nang (81,82%), tiếp sau là u đặc với 50,0% và u hỗn hợp chiếm tỷ lệ lấy toàn bộ u
thấp nhất là 42,86%. Khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p >0,05.
3.3.4. Mức độ lấy u theo giải phẫu bệnh khối u: Tỷ lệ lấy được toàn bộ khối u ở
bệnh nhân có kết quả giải phẫu bệnh u thể nhú cao hơn so với thể men răng (81,82%
so với 43,59%). Không có bệnh nhân nào có kết quả thể nhú chỉ lấn được bán phần
(<20%) khối u. Khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p >0,05.
3.3.5. Mức độ lấy u theo vị trí khối u: Tỷ lệ lấy được toàn bộ u là thấp nhất ở bệnh
nhân có u ở vị trí Kassam III, chiếm 28% trong khi ở vị trí Kassam I và Kassam II là
80% và 75%. Tỷ lệ chỉ lấy được bán phần đối với bệnh nhân có u ở vị trí Kassam III
lại cao nhất, chiếm 16%. Khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,02.
3.3.6. Mức độ lấy u theo kích thước: Khối u có kích thước lớn hơn 4 cm có tỷ lệ
lấy được toàn bộ khối u là thấp nhất 25%; trong khi đó tỷ lệ này ở những trường hợp
khối u dưới 2cm và từ 2 tới 4 cm là 66,67% và 70,37%. Khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p = 0,03.
3.3.7. Mức độ lấy u theo lứa tuổi: Tỷ lệ lấy được toàn bộ u ở người lớn cao hơn so
với ở trẻ em và người già. Tỷ lệ này lần lượt ở các đối tượng trên là 58,33%; 36,36%
và 33,33%. Khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p >0,05
3.3.8. Mức độ lấy u theo tiền sử mổ u sọ hầu: Tỷ lệ cắt toàn bộ khối u ở nhóm
phẫu thuật lần đầu là 63,3% cao hơn so với nhóm phẫu thuật lại (35%). Trong nhóm
11
mổ lại, tỷ lệ cắt gần toàn bộ khối u chiếm 50%, và cắt một phần sinh thiết chiếm
15%. Nhóm mổ lần đầu có tỷ lệ cắt gần toàn bộ là 30% và cắt một phần sinh thiết
chiếm 6,7%. Mức độ cắt u giữa 2 nhóm có sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
với p = 0,08
3.3.9. Kết quả lâm sàng sau 1 tháng: Tỷ lệ cải thiện triệu chứng và mắt chiếm
82%, không cải thiện chiếm 12% và kém hơn chiếm 6%. Triệu chứng nội tiết có tình
trạng suy tuyến yên mới chiếm 36%, suy tuyến yên như cũ chiếm 56% và có cải
thiện chiếm 8%. Tỷ lệ đái nhạt sau mổ chiếm 60% so với 32% trước mổ.
Bảng 3.28: Điểm Karnofsky sau mổ
Điểm Trước mổ Sau mổ 3 tháng Sau mổ 6 tháng
Karnofsky Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
50 1 2,0 1 2,08 2 4,17
60 1 2,0 2 4,17 1 2,08
70 5 10,0 4 8,33 4 8,33
80 27 54,0 23 47,92 19 39,58
90 13 26,0 16 33,33 13 27,09
100 3 6,0 2 4,17 9 18,75
Tổng 50 100,0 48 100,0 48 100,0
3.3.10. Biến chứng phẫu thuật
Bảng 3.29: Biến chứng sau mổ
Biến chứng Số lượng bệnh nhân Tỷ lệ (%)
Rò dịch não tuỷ 3 6,0
Chảy máu não thất 3 3,0
Máu tụ ngoài màng cứng 1 2,0
Mất ngửi 2 4,0
Hạ natri máu 4 8,0
Tăng natri máu 6 12,0
Viêm màng não 5 10,0
Tổn thương dưới đồi 1 2,0
Tử vong 2 4,0
Nhận xét: Biến chứng rò dịch não tủy có 3/50 (6%) trường hợp phải mổ lại vá rò, tử
vong 2/50 trường hợp (4%), viêm màng não chiếm tỷ lệ 10%, rối loạn điện giải gồm
tăng và hạ Natri chiếm 20%. Trong đó có 1 bệnh nhân máu tụ ngoài màng cứng sau
mổ được phẫu thuật lấy máu tụ sau mổ.
12
Sau mổ có 2/50 bệnh nhân tử vong chiếm 4,0%. Hai bệnh nhân tử vong gồm
một trường hợp tử vong sau mổ 3 tuần do viêm màng não. Một trường hợp tử vong
do chảy máu não thất sau mổ gây giãn não thất, bệnh nhân được dẫn lưu não thất ổ
bụng nhưng không hiệu quả, bệnh nhân tử vong sau 2 ngày phẫu thuật.
3.3.11. Theo dõi sau mổ: Triệu chứng đái nhạt giảm từ 60% sau mổ 1 tháng xuống
còn 25% sau 6 tháng. Tỷ lệ suy tuyến yên sau mổ 1 tháng và 6 tháng là 75% và
77,08%. Tỷ lệ rối loại tâm thần là 2,08%, 6,25% và 4,17% sau mổ 1 tháng, 3 tháng
và trên 6 tháng.
3.3.12. Theo dõi sau 12 tháng: Sau mổ trên 12 tháng, tỷ lệ bệnh nhân có u tái phát
là 10,42%, có 8,33% số bệnh nhân phải phẫu thuật lại. Có 1 bệnh nhân tử vong sau
20 tháng do khối u tái phát trở lại.
Chương 4: BÀN LUẬN
4.1 Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
4.1.1 Đặc điểm lâm sàng
Từ tháng 6 năm 2013 đến tháng 12 năm 2015 có 50 bệnh nhân u sọ hầu được
điều trị phẫu thuật nội soi qua đường mũi tại Bệnh viện Việt Đức đủ tiêu chuẩn
nghiên cứu. Trong đó, tỷ lệ nam/nữ là 34/16 bệnh nhân (2,125 lần). Nhóm người lớn
(16 - 60) phổ biến nhất với 72,0%, trẻ em (<16) chiếm 22% và người cao tuổi chiếm
6%. Theo báo cáo các tác giả Bunin (1998), Oskouian (2006), Phan Trung Đông
(2014) thì tỷ lệ mắc u sọ hầu không có sự khác biệt về giới.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 11/50 (22%) bệnh nhân trẻ em, bệnh nhân
nhỏ tuổi nhất là 6 tuổi cho thấy phẫu thuật nội soi u sọ hầu nhóm trẻ em cũng chiếm
tỷ lệ tương đối cao và hoàn toàn có thể thực hiện ở những trẻ rất nhỏ. Theo các tác
giả Zada (2010), Elliot (2010) thì những trẻ nhỏ thì cũng có thể phẫu thuật qua
đường mũi nhưng với dụng cụ chuyên biệt, tuy khó khăn do phẫu thường hẹp nhưng
cũng có những thuận lợi nhất định như xương trẻ thường mềm nên đường vào cũng
dễ dàng hơn.
Tỷ lệ bệnh nhân phẫu thuật lần đầu chiếm 60%. Nhóm có tiền sử phẫu thuật u
sọ hầu trước đó chiếm 40%, trong đó chủ yếu là phẫu thuật qua đường mở nắp sọ,
chỉ có 1 bệnh nhân được mổ cũ qua đường mũi xoang bướm. Trong nhóm mổ lại
thì có 14/20 bệnh nhân mổ cũ 1 lần, 5/20 bệnh nhân mổ cũ 2 lần và 1 bệnh nhân
mổ cũ 4 lần. Nhóm bệnh nhân mổ lại thường là những khối u sọ hầu tái phát hoặc
phần u sọ hầu còn lại sau phẫu thuật không thể cắt hết khối u. Nghiên cứu của
Cavallo (2014) trên 103 bệnh nhân được phẫu thuật u sọ hầu qua đường mũi có
28,2% bệnh nhân đã từng phẫu thuật u sọ hầu trước đó, trong đó có 2 bệnh nhân
đã từng phẫu thuật qua xoang bướm. Nghiên cứu của Koutourousiou (2013) phẫu
thuật 64 bệnh nhân u sọ hầu qua đường mũi có 17/64 (26,6%) bệnh nhân được
phẫu thuật u sọ hầu trước đó, có 5 bệnh nhân đã được phẫu thuật cũ qua đường
mũi xoang bướm.
Nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ có tổn thương thị lực là 74%. Có 84,0% số
trường hợp có khuyết thị trường. Chỉ 1 bệnh nhân chiếm 2% số trường hợp có liệt
13
dây thần kinh vận nhãn. Những kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu
của Yamada với 67,8% số bệnh nhân có ảnh hưởng thị lực trước mổ. Nghiên cứu
của Kim và cs (2011) có 17/18 bệnh nhân phẫu thuật qua đường mũi xoang bướm có
tổn thương thị lực.
Trong nghiên cứu có 70% số bệnh nhân có rối loạn nội tiết. Kết quả này phù
hợp với những nhận định của một số tác giả trên thế giới khi cho rằng rối loạn nội
tiết là một trong những triệu chứng lâm sàng phổ biến ở bệnh nhân u sọ hầu. Nghiên
cứu cũng cho thấy chỉ 10/50 (20%) số bệnh nhân có chậm phát triển thể chất. Ở trẻ
em, thiếu hụt GH dẫn đến giảm phát triển chiều cao. Giảm phát triển cơ bắp và tăng
phát triển xương cũng có thể xảy ra.
Mặc dù không phải là khá phổ biến, đái tháo nhạt cũng là một triệu chứng biểu
hiện thường gặp, xảy ra ở 12% đến 32% bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi cũng cho thấy triệu chứng này gặp ở 32,0% số bệnh nhân trước mổ.
4.1.2 Đặc điểm hình ảnh
Vị trí, kích thước khối u: Dựa trên hình ảnh phim chụp cắt lớp vi tính và cộng
hưởng từ có thể đánh giá được vị trí, đo kích thước và xác định mối liên quan với
các cấu trúc mạch máu, thần kinh và các cấu trúc quan trọng khác xung quanh khối
u sọ hầu. Trong nghiên cứu này, dựa vào hình ảnh học, chúng tôi xác định vị trí khối
u, sau đó dựa vào phân loại của Kassam (2008) để xếp loại khối u dựa theo trục dọc
liên quan với phễu tuyến yên trong đó Kassam I chiếm tỷ lệ 10%, Kassam II là 40%
và Kassam III chiếm 50%. Như vậy, đối tượng trong nghiên cứu này đa số là khối u
ở vị trí khó khăn phẫu thuật là Kassam II, III chiếm tới 90%. Kích thước khối u (đo
theo đường kính lớn nhất) cho thấy hầu hết là khối u có kích thước trên 2 cm chiếm
94%, trong đó khối u trên 4 cm chiếm tới 40%. Điều này cho thấy nhóm đối tượng
trong nghiên cứu hầu hết là những khối u lớn, phát hiện muộn khi đã có triệu chứng
lâm sàng điển hình nên việc phẫu thuật cắt bỏ khối u đều có khó khăn nhất định cho
phẫu thuật viên.
Nghiên cứu của Cavallo và cộng sự (2014) phẫu thuật nội soi qua đường mũi
cho 103 bệnh nhân u sọ hầu có 43,7% khối u có kích thước nhỏ hơn 3cm và 56,3%
khối u có kích thước trên 3 cm; trong đó có 18,5% khối u vùng hố yên, 33% khối u
vùng trên yên nhưng còn dưới hoành yên và 48,5% khối u vùng trên yên xâm lấn lên
trên hoành yên. Nghiên cứu của Koutourousiou (2013) phẫu thuật nội soi cho 64
trường hợp u sọ hầu có 60,1% khối u nằm trên yên và 32,8% khối u trên yên có xâm
lấn vào não thất ba.
Nghiên cứu của Yamada (2010) phẫu thuật 90 bệnh nhân u sọ hầu qua đường
mũi xoang bướm có 21,1% khối u nhỏ hơn 2 cm, 68,9% khối u từ 2 – 4cm và 10%
khối u có kích thước trên 4 cm. Cũng trong nghiên cứu này có 12,2% khối u nằm
trong hố yên, 25,6% khối u nằm trên yên nhưng dưới hoành yên và 62,2% khối u
vùng trên yên phát triển lên trên hoành yên.
Tính chất khối u: Trong nhóm nghiên cứu chúng tôi gặp tất cả các dạng hình ảnh
của khối u, trong đó hầu hết khối u hỗn hợp gồm cả phần đặc và phần nang chiếm tỷ
lệ 70%, khối dạng nang đơn thuần 22% và dạng đặc đơn thuần chỉ chiếm 8%, tương
14
ứng cho thấy đặc điểm tín hiệu trên phim cộng hưởng từ cả trên T1 và T2 đều có tín
hiệu hỗn hợp chiếm 74%. Cùng với tỷ lệ có canxi hoá chiếm tới 74%. U sọ hầu
thường không có phù não quanh khối u chiếm 88% và 100% khối u có ngấm thuốc
đối quang từ dạng hình nốt (72%) hoặc hình vòng (14%).
Tỷ lệ giãn não thất do khối u sọ hầu chèn ép gây ứ dịch chiếm tỷ lệ 24%. Đây là số
bệnh nhân cần phải can thiệp sớm, có thể phải phẫu thuật cấp cứu dẫn lưu não thất
nếu tình trạng tăng áp lực nội sọ gây nguy hiểm tính mạng cho bệnh nhân. Do vị trí
gần sàn não thất ba, u sọ hầu có xu hướng gây ra não úng thủy và tăng áp lực nội sọ.
Não úng thủy có thể xảy ra như là kết quả của sự tắc nghẽn trực tiếp bởi khối u. Tỷ
lệ mắc não úng thủy trước mổ theo Elliott (2011) từ 5,1% đến 41,7%. Komotar báo
cáo tỷ lệ tương ứng mắc não úng thủy là 10,1% đến 15,8%, trong các nhóm nghiên
cứu mà tác giả tổng hợp. Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
4.2 Bàn luận về phương pháp phẫu thuật nội soi qua đường mũi xoang bướm
4.2.1 Bàn luận về đường mổ nội soi
Đường mổ được chúng tôi áp dụng là nội soi qua mũi xoang bướm, trong đó
mở xoang bướm đơn thuần chiếm 34% áp dụng cho những khối u xâm kích thước
vừa và nhỏ nằm khu trú hố yên, dưới hoành yên hoặc nằm dưới sàn hố yên, trong
xoang bướm (Kassam I, II) . Đường mổ xoang bướm mở rộng chiếm 66% áp dụng
cho những khối u sọ hầu Kassam II, III với kích thước lớn, xâm lấn rộng, lên cao
cần một đường mở xương rộng rãi mới có thể tiếp cận và có phẫu trường đủ để phẫu
tích cắt bỏ khối u.
Ưu điểm của đường mổ nội soi qua mũi xoang bướm là góc nhìn rộng, đa
dạng, cận cảnh cho phép quan sát giải phẫu chính xác hơn. Nó cũng cho phép tiếp
cận trực tiếp đến không gian sau tuyến yên, cuống tuyến yên và trong não thất ba
trong khi rất khó để tiếp cận bằng đường mở nắp sọ. Trong thực tế, đây là một
phương pháp rất hiệu quả cho các khối u xâm lấn vào não thất ba vì có thể bộc lộ
hoàn toàn não thất ba.
Sự đồng thuận chung về việc sử dụng đường mổ nội soi qua mũi xoang bướm
ứng dụng đối với các khối u đường giữa kích thước vừa phải, đặc biệt là xâm lấn
trong mũi. Khối u sọ hầu nằm ở đường giữa có kích thước lớn hơn và có phần phát
triển lên vùng trên yên, não thất ba vẫn có thể được giải quyết thông qua một cách
tiếp cận hoàn toàn bằng nội soi, nhưng với nguy cơ cao hơn về rò dịch não tuỷ.
4.2.2 Bàn luận về kỹ thuật mổ
Việc đầu tiên trong đường mổ qua mũi là xác định các cuốn mũi có cản trở
đường vào. Sau đó xác định được lỗ thông xoang bướm là mốc giải phẫu rất qua
trọng để tránh đi lạc đường. Để bộc lộ các ngách bướm sàng, điều quan trọng là phải
mở rộng khoảng trống bên trong mũi. Đẩy hoặc di lệch các xoắn mũi dưới và giữa
sang hai bên, cải thiện tiếp cận, quan sát, và khoảng trống để sử dụng dụng cụ bên
trong ổ mũi. Gạt các cuốn mũi sang hai bên nên được thực hiện nhẹ nhàng, đường
gãy của cuốn mũi dưới có thể mở rộng đến ống mũi lệ và ổ mắt. Khi khoảng trống
được tạo ra, nội soi có thể được đưa vào và được đặt giữa vách mũi và cuốn mũi
giữa cho phép quan sát rộng rãi ngách bướm sàng. Có thể hữu ích trong một số
15
trường hợp việc cắt bỏ các cuốn mũi giữa và cuốn mũi trên, cắt bỏ phần sau xương
sàng, nếu có nhu cầu để mở rộng sang hai bên xương bướm và thành bên của ổ mắt.
Trong nhiều trường hợp đường vào mũi khó khăn như lỗ mũi nhỏ (trẻ em), cuốn mũi
phì đại hoặc những khối u lớn cần có không gian đưa dụng cụ cũng như cần góc nhìn
rộng thì có thể cắt cuống mũi một bên hoặc 2 bên. Trong số những bệnh nhân trong
nghiên của chúng tôi có 14/50 (28%) bệnh nhân phải cắt cuốn giữa bên phải, trong đó
7/11 trẻ em và 7/39 người lớn do cuốn mũi phì đại gây hẹp đường vào phẫu thuật.
U sọ hầu thường liên quan đến không gian trên yên nên việc cắt bỏ thường gây
ra rò dịch não tủy trong mổ. Tái tạo nền sọ với một vạt vách mũi có mạch máu
thường cần thiết để ngăn chặn rò dịch não tủy hậu phẫu và viêm màng não. Trong
nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng (36/50) 72% số bệnh nhân được tạo vạt vách mũi
có cuống mạch nuôi để đóng nền sọ.
Khó khăn thường gặp của chúng tôi khi mới bắt đầu thực hiện phẫu thuật nội
soi sử dụng đường xoang bướm mở rộng là việc xác định các mốc giải phẫu: lồi
động mạch cảnh, lồi thần kinh thị giác nên việc nắm chắc vị trí các mốc giải phẫu là
cực kỳ quan trọng, cùng với sử dụng hệ thống định vị giúp phẫu thuật viên tự tin và
đảm bảo tính chắc chắn, an toàn. Khó khăn nữa thường gặp khi mổ màng cứng là do
chảy máu từ xoang tĩnh mạch liên xoang hang hoặc từ xoang hang khi mài xương.
Khi gặp trường hợp này cần bình tĩnh cầm máu bằng các vật liệu cầm máu như
surgical ép chờ đến khi cầm máu, tốt hơn có thể dùng keo cầm máu (Floseal), xác
định chắc chắn vị trí xoang liên hang đốt cầm máu bằng dao lưỡng cực.
Trong số 50 bệnh nhân chúng tôi xác định rõ mốc động mạch cảnh theo giải
phẫu 66%, còn lại 34% không chắc chắn phải dung hệ thống định vị để xác định.
Trong khi đó xác định được xoang tĩnh mạch liên hang 27/50 (54%), số không xác
định được do khối u xân lấn gây tắc xoang hoặc gây chèn ép không nhìn rõ. Khi mở
màng cứng chảy máu vị trí này có 11/50 (22%) chảy máu phải dùng đến vật liệu
cầm máu (Floseal).
4.2.3 Khó khăn trong mổ nội soi
Đầu tiên, phương pháp nội soi có thể khó khăn để tiến hành ở trẻ em với các
xoang xương bướm chưa hình thành và hố yên nhỏ làm cho việc luồn ống nội soi qua
xoang bướm rất khó khăn và hạn chế không gian để dùng các dụng cụ phẫu thuật.
Chảy máu cũng là một nhược điểm, có thể làm mất tầm nhìn của phẫu thuật
viên trong một không gian chật hẹp mà tính cơ động của dụng cụ phẫu thuật không
giống với mổ vi phẫu. Khả năng linh hoạt của phẫu thuật nội soi là một vấn đề khi
dao đốt lưỡng cực (bipolar) khó khăn di chuyển để cầm máu ở các góc nhỏ. Ngoài ra
viện di chuyển dụng cụ cũng dễ làm tổn thương niêm mạc mũi hơn so với mổ vi
phẫu nếu thuật viên chưa có kinh nghiệm phẫu thuật nội soi.
Một nhược điểm trong mổ nội soi qua mũi là đòi hỏi hai bác sĩ phẫu thuật
chuyên nghiệp về nội soi và nền sọ có thời gian mổ và làm việc hợp tác tốt với nhau.
Rò dịch não tuỷ vẫn là một trong những hạn chế chính của mổ nội soi mở rộng cho u
sọ hầu; tỷ lệ rò DNT trong nhiều nghiên cứu đã được ghi nhận là lớn hơn so với mổ
nắp sọ. Trong đường mổ xoang bướm mở rộng, khoang dưới nhện được bộc lộ qua
16
lỗ màng cứng rộng, làm cho nguy cơ rò dịch não tủy là cao hơn cách tiếp cận qua
xoang bướm thông thường. Một số nghiên cứu hồi cứu báo cáo tỷ lệ rò rỉ dịch não
tủy từ 20% đến 30%, và một số đã báo cáo tỷ lệ cao 58%.
Chúng tôi sử dụng bảng phân loại rò dịch não tuỷ, mức độ mở nền sọ dựa theo
phân loại của Esposito (2007), chủ yếu là mức độ mở sọ độ rộng nhất (độ 3: chiếm
68%), và độ 2 chiếm 18%. Do khối u sọ hầu chủ yếu nằm vùng trên yên nên để tiếp
cận được khối y hầu hết phải mở rộng nền sọ, mở màn nhện qua hoành yên mới cắt
được khối u. Khi đóng nền sọ sử dụng kết hợp nhiều phương tiện, như sử dụng vạt
vách mũi có cuống mạch nuôi (68%), sử dụng mỡ bụng, cân đùi (80%), sử dụng
mảnh ghép xương lấy từ vách mũi (36%), sử dụng keo sinh học (76%).
Kỹ thuật tái tạo nền sọ đã được phát triển theo thời gian để giải quyết rò DNT.
Lớp niêm mạc hoặc xương đơn giản đã được thay thế bằng tái tạo phức tạp hơn bao
gồm lớp cân phủ, xương, vạt vách mũi, với kết quả rò DNT ít hơn trong các nghiên
cứu mới hơn.
Trong các báo cáo gần đây về cắt bỏ u sọ hầu qua mũi, tỉ lệ rò DNT chỉ ở mức 0
đến 4% đã được báo cáo. Phẫu trường hẹp và thiếu quan sát ba chiều đã gây khó khăn
cho việc tạo hình màng cứng bằng cân mạc đùi hoặc vật liệu thay thế màng cứng.
Bên cạnh không gian làm việc chật chội và thiếu thiết bị thích hợp, tỷ lệ rò
DNT cao còn liên quan một số yếu tố khác, bao gồm dòng chảy dịch não tủy cao và
hàm lượng protein trong dịch của u sọ hầu, bệnh nhân có thể đã điều trị bằng xạ trị
trước đó, lỗ mở màng cứng lớn, khối u lớn, mở bể đáy và não thất.
4.3 Bàn luận về kết quả phẫu thuật
4.3.1 Kết quả lấy u
Bảng 4.1: Phẫu thuật nội soi cắt u sọi hầu qua đường mũi của các nghiên cứu
trên thế giới.
Tác giả Số lượng Cắt toàn Cắt gần Cắt một
(Năm) bệnh nhân bộ toàn bộ phần
Frank và cs (2006) 10 7 (70%) 2 (20%) 1 (10%)
De Divitiis và cs (2007) 10 7 (70%) 2 (20%) 1 (10%)
Gardner và cs (2008) 16 8 (50%) 4 (25%) 4 (25%)
Fetami và cs (2009) 18 11 (61,1%) 6 (33%) 1 (5,9%)
Jane và cs (2010) 12 10 (83,3%) 2 (16,7%) 0
Leng và cs (2011) 23 17 (73,9%) 6 (26,7%) 0
Koutourousiou (2013) 64 24 (37,5%) 22 (34,4%) 18 (28,1%)
Cavallo và cs (2014) 103 71 (68,9%) 26 (25,2%) 6 (5,8%)
Nghiên cứu này (2017) 50 26 (52%) 19 (38%) 5 (10%)
17
Nghiên cứu gần đây với số lượng bệnh nhân lớn là của Koutourousiou (2013)
thì tỷ lệ cắt bỏ toàn bộ khối u chỉ chiếm 37,5%, và cắt gần toàn bộ chiếm 34,4%, tỷ
lệ chỉ cắt được một phần khối u chiếm 28,1%. Nghiên cứu có số lượng bệnh nhân
lớn nhất là của Cavallo và cộng sự (2014) với 103 bệnh nhân cho thấy tỷ lệ cắt toàn
bộ khối u chiếm 68,9%, cắt gần toàn bội khối u chiếm 25,2% và cắt một phần khối u
chiếm 5,8%.
Komotar và cộng sự đã xem lại các báo cáo đã công bố và so sánh cách tiếp
cận nội soi xuyên xoang bướm với vi phẫu qua xoang bướm và vi phẫu qua đường mở
nắp sọ [4]. Tác giả đã xác định được 88 nghiên cứu với 3470 bệnh nhân từ năm 1995
đến năm 2010 và thấy rằng các bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp nội soi qua
xoang bướm "có tỷ lệ cắt bỏ hoàn toàn” cao hơn đáng kể so với phẫu thuật qua đường
mở nắp sọ (66,9% so với 48,3%, P <0,003. Mức độ cắt bỏ khối u phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như vị trí khối u, kích thước khối u, loại u sọ hầu thể nhú hay thể men răng, mức
độ xâm lấn hay tính chất của khối u, u sọ hầu mổ lần đầu hay tái phát…
Trong nghiên cứu chúng tôi thây có sự khác biệt về tỷ lệ cắt bỏ khối u giữa
các nhóm khác nhau. Mức độ cắt bỏ khối u có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa các vị trí khối u (p =0,02). Tỷ lệ cắt bỏ thấp nhất ở nhóm khối u nằm từ
vùng trên yên đến não thất ba (Kassam III) chiếm 28%. Trong khi đó khối u ở
vùng dễ tiếp cận là vùng xoang bướm hố yên (Kassam I, II) có tỷ lệ cắt bỏ toàn
bộ khối u cao hơn chiếm tỷ lệ lần lượt là 80% và 75% (Bảng 3.23).
Mức độ cắt bỏ khối u còn có sự khác biệt giữa các khối u có kích thước khác
nhau (p = 0,03). Khối u kích thước lớn hơn 4 cm có tỷ lệ cắt bỏ toàn bộ khối u thấp
nhất chỉ 25%, cắt gần toàn bộ là 55% và cắt bán phần là 20%. Trong khi đó khối u
có kích thước từ 2 - 4 cm có tỷ lệ cắt bỏ toàn bộ khối u 70,4% và khối u có kích
thước nhỏ hơn 2 cm có tỷ lệ cắt bỏ toàn bộ khối u chiếm 66% (Bảng 3.24).
Nghiên cứu này có tỷ lệ khối u lớn ở vị trí khó là Kassam III chiếm 50% và
kích thước trên 4 cm chiếm 40% với mức độ cắt bỏ toàn bộ khối u thấp nên kết quả
chung toàn bộ nghiên cứu có tỷ lệ cắt bỏ toàn bộ khối u chỉ chiếm 52%.
Khối u sọ hầu thể nhú có tỷ lệ cắt bỏ khối u cao chiếm 81,8% so với u sọ hầu
thể men răng cắt bỏ toàn bội khối u 43,6%. Tỷ lệ này không có ý nghĩa thống kê với
p = 0,07. Tuy nhiên trong nghiên cứu tỷ lệ u sọ hầu thể nhú chỉ chiếm tỷ lệ thấp 22%
so với 78% là u sọ hầu thể men răng (bảng 3.22).
Mức độ cắt bỏ khối u không phụ thuộc vào độ tuổi, tính chất, hình dạng khối u
dạng nang, dạng đặc hay dạng hỗn hợp với p > 0,05 (bảng 3.21, 3.25)
Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy với những khối u dạng nang thì tỷ lệ cắt bỏ toàn
bộ khối u chiếm tỷ lệ cao 9/11 bệnh nhân (81,8%) do những khối u này sau khi hút
18
dịch trong nang sẽ có phẫu trường rộng rãi và quá trình phẫu tích tách phối u khối các
cấu trúc xung quanh khá dễ dàng nê việc cắt bỏ toàn bộ khối u khá thuận lợi.
4.3.2 Kết quả lâm sàng
Kết quả về thị giác: Trong nghiên cứu này tỷ lệ cải thiện thị giác chiếm 82%,
không cải thiện chiếm 12% và thị lực kém hơn hoặc mất thị lực sau phẫu thuật
chiếm 6%. Liên quan đến kết quả thị lực cho thấy kết quả cải thiện tốt hơn trong các
nhóm phẫu thuật nội soi qua đường mũi so với nhóm phẫu thuật bằng đường mở nắp
sọ. Trong phân tích tổng hợp Komotar và cộng sự (2012) nhóm phẫu thuật u sọ hầu
nội soi qua đường mũi cho thấy tỷ lệ tương ứng của cải thiện thị giác là 56,2% và
suy giảm là 1,7%. Theo Koutourousiou (2014), các tài liệu được công bố đã cho
thấy rằng phẫu thuật mở nắp sọ thường có cải thiện kém hơn so với phẫu thuật
xuyên bướm, trong đó ở nhóm phẫu thuật nội soi qua đường mũi có thị lực cải
thiện ở 86,4%, chỉ với một trương hợp bị tổn thương sau mổ (1,5%).
Elliott và cs (2011) so sánh, phân tích về loạt phẫu thuật nội soi qua mũi thấy sự cải
thiện tình trạng thị giác ở 85,5% bệnh nhân có tổn thương trước mổ (106 /124), và
chỉ có 2,3% số bệnh nhân bị tổn thương mới về thị lực hoặc thị trường sau khi điều
trị (8 /352). Elliott cũng ủng hộ cách tiếp cận nội soi qua xoang bướm như là phương
pháp hiệu quả và an toàn cho các thương tổn gây suy giảm thị lực do chèn ép các
dây thần kinh thị giác và giao thoa thị giác.
Bảng 4.2: So sánh kết quả thị giác sau phẫu thuật u sọ hầu qua đường mũi xoang
bướm
Tác giả Số lượng Cải thiện Không Kém hơn
(Năm) bệnh nhân thị giác thay đổi (%)
(%) (%)
Frank và cs (2006) 10 75 25 0
De Divitiis và cs (2007) 10 71 29 0
Gardner và cs (2008) 16 93 7 0
Fetami và cs (2009) 18 61,1 38,9 0
Jane và cs (2010) 12 78 22 0
Leng và cs (2011) 23 77 18,7 4,3
Koutourousiou (2013) 64 86,4 12,1 1,5
Cavallo và cs (2014) 103 74,7 22,8 2,5
Nghiên cứu này (2017) 50 82,0 12,0 6,0
19
Kết quả nội tiết: Kết quả trong nhóm nghiên cứu chúng tôi thấy tỷ lệ suy tuyến yên
mới sau mổ chiếm 36%, tỷ lệ cải thiện hơn trước mổ chỉ chiếm 8% và đái nhạt vĩnh
viễn sau mổ chiếm 60% so với trước mổ chỉ có 32% đái nhạt. Chúng tôi thấy rằng
bản chất của khối u sọ hầu đã gây suy tuyến yên trước mổ tới 70% nên việc điều trị
nội tiết với u sọ hầu là bắt buộc. Chỉ có 8% số bệnh nhân cải thiện triệu chứng nội
tiết không phải dùng hormone thay thế sau mổ là con số cho thấy việc cần thiết phải
điều trị nội tiết với tất cả bệnh nhân u sọ hầu.
Chọn lựa giữa cắt bỏ khối u và bảo tồn chức năng nội tiết là thách thức đặt ra
cho các phẫu thuật viên. Các tác giả cho rằng nên cố gắng cắt bỏ hoàn toàn khối u,
thậm chí nếu việc cắt bỏ toàn bộ khối u gây ra suy tuyến yên toàn bộ và phải thay
thế hormone nhưng cần xem xét có thể để lại phần khối u đã xâm nhập vào thành
của vùng dưới đồi không thể bóc tách.
Một số tác giả cho rằng, chìa khóa để xem xét mức độ cắt bỏ khối u là tình
trạng bệnh nội tiết và vị trí của cuống tuyến yên. Nhìn chung, đối với bệnh nhân
không có rối loạn nội tiết trước phẫu thuật hoặc chỉ một hormone tuyến yên và
cuống yên xác định rõ trên cộng hưởng từ, cần nên nỗ lực bảo tồn cuống yên và các
cấu trúc hạ đồi tuyến yên. Tuy nhiên, ở những bệnh nhân có đái tháo nhạt trước
phẫu thuật hoặc có thêm rối loạn chức năng tuyến yên, cố gắng tối đa để loại bỏ khối
u có thể được xem là hợp lý vì những rối loạn nội tiết thường sẽ không thể phục hồi.
Trong một số trường hợp, để lại một phần khối u dính dọc theo cuống tuyến yên để
bảo vệ chức năng nội tiết và vùng dưới đồi sau mổ nếu không thể phẫu tích lấy bỏ
[111].
Các báo cáo cho thấy rối loạn chức năng mới của tuyến yên trong khoảng một
phần ba số bệnh nhân. Tuy nhiên, Komotar và cộng sự báo cáo tỷ lệ suy tuyến yên
mới từ phân tích tổng hợp là 48,1% trong nhóm mổ đường mở nắp sọ và 47,1%
trong nhóm phẫu thuật nội soi qua đường mũi. Suy giảm hormone nội tiết trước khi
mổ là tương đối phổ biến, và phục hồi nội yên sau mổ là tương đối hiếm.
Đái tháo nhạt: là một trong những biến chứng thường gặp nhất sau phẫu thuật điều
trị u sọ hầu. Theo báo cáo của một số loạt nghiên cứu thì tỷ lệ đái tháo nhạt sau phẫu
thuật cao gần như 100% [112],[113]. Nghiên cứu của chúng tôi gặp 30/50 (60%) số
bệnh nhân có đái tháo nhạt sau mổ so với trước mổ chỉ là 32% (bảng 3.4, 3.27).
Báo cáo tỷ lệ về đái tháo nhạt sau mổ trong các nghiên cứu về phẫu thuật u sọ
hầu thay đổi trong các nghiên cứu khác nhau từ ít gặp đến phổ biến gặp.
Báo cáo của Elliott (2011) cho thấy tỷ lệ đái tháo nhạt thấp hơn ở nhóm phẫu thuật
qua đường mũi xoang bướm (36%) so với phẫu thuật qua đường mở nắp sọ (69%) . Giải
thích cho kết quả này có thể do sự cải thiện quan sát tuyến yên và cuống yên trong phẫu
thuật nội soi qua đường mũi tốt hơn so với đường mở nắp sọ.