Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp

  • 22 trang
  • file .pdf
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
Mục lục
Lời mở đầu Trang 1
Chương 1: Tổng quan, một số vấn đề chung về tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp trong luật hình sự Trang 2
1. Khái niệm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Trang 2
2. Các đặc điểm cơ bản của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Trang 2
3. Tính hiệu quả của việc ghi nhận tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp trong luật hình sự Trang 3
Chương 2: Quy định của luật hình sự về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Trang 4
1. Những đặc điểm, dấu hiệu pháp lý của tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp Trang 4
2. Hình phạt đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Trang 7
3. Phân biệt tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với một số tội
phạm khác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
Trang 9
Chương 3: nguyên nhân, thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
hiện nay và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Trang 13
1. Nguyên nhân tình hình tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp 13
2. Thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại tỉnh Kiên
Giang Trang 16
3. Một số giải pháp góp phần phòng, chống tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp Trang 17
Kết luận Trang 19
-------------
1
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế, thì phát triển kinh
tế có vai rò rất quan trọng; trong việc thực hiện kinh doanh, buôn bán, sản xuất
hàng hóa thì sở hữu công nghiệp là việc không thể thiếu.
Việc thiếu hiểu biết về sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp gây ra những
thiệt hại rất lớn cho chủ thể sản xuất, buôn bán và kinh tế đất nước. Xuất phát từ
nhu cầu và đòi hỏi mới phát sinh từ thực tiễn trong nền kinh tế thị trường, Nhà
nước đã đặc biệt chú trọng tới công tác xây dựng, sửa đổi, bổ sung hệ thống
pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tron đó có quyền sở hữu công nghiệp.
Tuy nhiên, do mặt trái của nền kinh tế thị trường kết hợp nhiều nguyên nhân mà
tình trạng vi phạm pháp luật về sở hữu ngày càng trở nên phổ biến, tinh vi, gây
nhiều hậu quả xấu tác động đến nên kinh tế trong nước và các nhà đầu tư nước
ngoài.
Vì vậy, tìm hiểu cơ sở pháp lý, quy định của tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp có ý nghĩa vô cùng to lớn. Thông qua tình hình thực tế nắm bắt
được, chúng ta có thể biết được xu hướng phát triển của tội phạm qua đó tìm
ra được những phương pháp tuyên truyền pháp luật và đề xuất phương
hướng hoàn thiện pháp luật cũng như những giải pháp đúng đắn, sát thực
nhằm đấu tranh phòng, chống có hiệu quả tội phạm này.
Hạn chế của đề tài: Do khi chọn đề tài đi vào nghiên cứu lý luận và sau đó
mới tìm số liệu xét xử Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang. Do từ trước đến nay không điều tra, truy tố, xử vụ việc nào có
liên quan đến Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nên không có số liệu
cho tiểu luận và trong quá trình làm bài không tránh khỏi những sai sót. Mong
quý Thầy niệm tình thông cảm bỏ qua, tạo điều kiện cho em hoàn thành môn
học.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô!
2
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
Chương 1:
TỔNG QUAN, MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI XÂM PHẠM
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1. Khái niệm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm quyền sở hữu
của cá nhân, pháp nhân đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ
tại Việt Nam với quy mô thương mại.
2. Các đặc điểm cơ bản của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp có bốn đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là hành vi nguy
hiểm cho xã hội:
Đó là hành vi gây nên thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội trong lĩnh
vực sở hữu công nghiệp được pháp luật hình sự bảo vệ. Đây căn cứ để phân
biệt hành vi là tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Thứ hai, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là hành vi bị luật
hình sự cấm (còn gọi là tính trái pháp luật hình sự của tội phạm):
Đặc điểm pháp lý về hình thức của tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp được quy định trong luật hình sự thể hiện ở Điều 2 Bộ luật hình sự
hiện hành: "Chỉ người nào phạm một tội đã được luật hình sự quy định mới
phải chịu trách nhiệm hình sự" và tại Điều 171 Bộ luật hình sự năm 1999
(được sửa đổi, bổ sung năm 2009), đã áp dụng chế tài đối với người thực
hiện hành vi phạm tội là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù có
thời hạn.
Thứ ba, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp do người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố
ý:
Chủ thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp phải là người ở
trong trạng thái bình thường (không bị bệnh tâm thần hoặc bệnh lý khác làm
mất hoàn toàn khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi) và tại thời điểm
3
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
thực hiện tội phạm, người này còn phải đạt đến một độ tuổi nhất định mà
luật hình sự quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Cùng với năng lực trách nhiệm hình sự, chủ thể khi thực hiện tội phạm
ngoài độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì yếu tố lỗi cũng là một đặc điểm chủ
quan (lỗi cố ý) mang tính bắt buộc; gây nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được
hậu quả của hành vi do mình gây ra nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra.
Thứ tư, đối tượng của tội phạm này là xâm phạm đến nhãn hiệu và chỉ dẫn
địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại của quyền sở hữu
công nghiệp cụ thể:
Bộ luật hình sự năm 1999 khi chưa sửa đổi, bổ sung thì đối tượng tác
động của tội phạm gồm rất nhiều: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng
công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa v.v.. đang được
bảo hộ tại Việt Nam). Sau khi sửa đổi năm 2009 thì thì đối tượng tác động
của tội phạm này chủ yếu là nhãn hiệu gồm (nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu
chứng nhận, nhãn hiệu liên kết) và chỉ dẫn địa lý (chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý
chỉ có thể là tổ chức hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền).
3. Tính hiệu quả của việc ghi nhận tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp trong luật hình sự.
Một là, tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể trong xã hội,
khuyến khích khả năng sáng tạo các tài sản trí tuệ, tạo động lực để phát triển
kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật và hướng tới một môi trường kinh doanh
lành mạnh.
Hai là, việc quy định tội phạm này trong luật hình sự đã tạo cơ sở pháp lý
vững chắc đấu tranh phòng, chống các xâm phạm về sở hữu công nghiệp
nói chung và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nói riêng. Góp phần
giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật về sở hữu công nghiệp.
Ba là, việc ghi nhận tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật
hình sự còn là một bước quan trọng để tiến tới hoàn thiện hệ thống pháp luật
về sở hữu trí tuệ trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
Chương 2:
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI XÂM PHẠM
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1. Những đặc điểm, dấu hiệu pháp lý của tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cũng như tất cả các tội phạm
khác bao giờ cũng là sự hợp thành của bốn yếu tố: Khách thể, mặt khách
quan, chủ thể, mặt chủ quan.. Bởi tính chất quyết định của chúng cho nên khi
nghiên cứu về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nói riêng và tất cả các
tội phạm khác nói chung, ta nhất thiết phải xem xét đánh giá một cách toàn diện
và đầy đủ cả bốn dấu hiệu này.
1.1. Khách thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
và bị tội phạm xâm hại đến. Khách thể của tội phạm này chính là quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý
đang được bảo hộ tại Việt Nam.
Đối tượng tác động của tội phạm là nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý đang
được bảo hộ tại Việt Nam. Trong nhãn hiệu có một số trường hợp như: nhãn
hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu liên kết và nhãn hiệu nổi tiếng.
Nhãn hiệu có thể dùng được cho sản phẩm hoặc dịch vụ nhưng chỉ dẫn địa lý
chỉ dùng cho sản phẩm; chủ sở hữu nhãn hiệu là tổ chức, cá nhân song chủ sở
hữu chỉ dẫn địa lý lại chỉ có thể là tổ chức hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Đây chính là những điểm khác biệt dễ nhận ra giữa nhãn hiệu và chỉ dẫn
địa lý.
1.2. Mặt khách quan của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm
các biểu hiện tội phạm diễn ra như: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả
của tội phạm, mối quan hệ giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả;
những biểu hiện khác thuộc mặt khách quan của tội phạm như định lượng về
giá trị, vật chất. Trong đó, dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm: Là
5
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
hành vi "xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa
lý đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại".
Các hành vi thuộc mặt khách quan của tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp có thể làm rõ ở đây gồm có hai dạng hành vi:
- Hành vi chiếm đoạt quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, chỉ
dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam.
Hành vi này là hành động, người phạm tội cố ý dịch chuyển nhãn hiệu, chỉ
dẫn địa lý của người khác thành của mình bằng nhiều thủ đoạn như dùng vũ
lực, đe doạ dùng vũ lực, gian dối hay lén lút.v.v.. Hành vi này đồng thời làm
cho chủ sở hữu nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý mất đi khả năng thực tế thực hiện
đầy đủ quyền năng của mình.
Hành vi chiếm đoạt này là tài sản trí tuệ (một loại tài sản vô hình), là kết
quả của sự sáng tạo đã được bảo hộ và được thể hiện dưới bất kỳ hình thức
nào.
- Hành vi sử dụng bất hợp pháp nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được
bảo hộ tại Việt Nam.
Đây là hành vi khai thác lợi ích, công dụng của nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý
của chủ thể khác mà không được sự cho phép của chủ thể đó (có thể chủ sở
hữu hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý theo quy định của pháp
luật).
Các hành vi sử dụng bất hợp pháp có thể là:
+ Đối với nhẵn hiệu hàng hóa: Gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hóa,
bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao
dịch trong hoạt động kinh doanh; Lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán,
tàng trữ để bán hàng hóa mang nhãn hiệu được bảo hộ mà không được
phép của chủ sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đó.
+ Đối với chỉ dẫn địa lý: Gắn chỉ dẫn địa lý được bảo hộ lên hàng
hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, giấy tờ giao dịch trong hoạt
động kinh doanh; Lưu thông, chào bán, quảng cáo nhằm để bán, tàng trữ để
bán hàng hóa có mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ mà không được phép của
chủ sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý đó.
6
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
1.3. Chủ thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Chủ thể của của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là cá nhân
hoặc nhóm người, có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi mà pháp luật
quy định phải chịu trách nhiệm hình sự quy định trong Bộ luật hình sự.
Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy
định "Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng". Điều 171 Bộ luật hình sự hiện hành quy định (mức phạt của tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là từ sáu tháng đến ba năm tù) vì vậy tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp thuộc vào loại tội phạm ít nghiêm trọng.
Chủ thể của tội phạm này có thể là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có đầy đủ năng
lực trách nhiệm hình sự.
1.4. Mặt chủ quan của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, bao gồm các
dấu hiệu về lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra, nó là dấu hiệu chủ
quan có tính bắt buộc đối với mọi tội phạm. Đối với tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp, lỗi được biểu hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp.
Cụ thể: người phạm tội biết hành vi chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp
nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý của người khác đang được bảo hộ tại Việt Nam mục
đích với quy mô thương mại là nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được hậu quả
có thể hoặc tất yếu xảy ra do hành vi của mình gây nên song vẫn thực hiện với
ý thức mong muốn cho hậu quả xảy ra.
Trường hợp có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với lỗi cố
ý gián tiếp (trường hợp người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, tuy không
mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra) hay hình thức lỗi vô ý
(tức là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây
ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra
hoặc có thể ngăn ngừa được (lỗi vô ý vì quá tự tin) hoặc trường hợp khác là
người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy
hại cho xã hội mặc dù bắt buộc phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó
7
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
(lỗi vô ý do cẩu thả) thì không bị coi là tội phạm và không phải chịu trách
nhiệm hình sự.
2. Hình phạt đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Theo Điều 171 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm
2009) quy định về hình phạt đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
như sau:
2.1. Hình phạt chính: Bao gồm hai khung hình phạt:
+ Khung 1: được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có cấu thành quy
định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự hiện hành: "Phạt tiền từ năm mươi
triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm".
Phạt tiền: Nếu phạt tiền ở khung 1 được áp dụng là hình phạt chính thì
mức phạt tối đa là năm trăm triệu đồng, mức tối thiểu là năm mươi nghìn
đồng. Khi Tòa án quyết định hình phạt tiền đối với người bị kết án không
được vượt quá mức tối đa đã được điều luật quy định.
Cải tạo không giam giữ: Mức cải tạo không giam giữ đối người phạm tội
này là không quá hai năm. Khi Tòa án quyết định hình phạt cải tạo không
giam giữ đối với người bị kết án không được vượt quá mức tối đa đã được
điều luật quy định.
Người phạm tội bị xét xử theo khoản 1 của Điều 171 Bộ luật hình sự thì
chỉ bị Tòa án áp dụng hình phạt tiền hoặc là phạt cải tạo không giam giữ,
không được áp dụng đồng thời cả hai loại hình phạt này.
+ Khung hai: được quy định tại khoản 2 của Điều 171 Bộ luật hình sự:
"Phạt tiền từ bốn trăm triệu đồng đến một tỷ đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng
đến ba năm" đối với người phạm tội có một trong các tình tiết sau:
a) Có tổ chức; (là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa
những người cùng tham gia tội phạm từ hai người trở lên, cũng như có sự
phân công vai trò nhiệm vụ cụ thể, tính toán chu đáo và chuẩn bị kỹ càng cho
việc thực hiện tội phạm) được thể hiện dưới hai dạng:
Dạng thứ nhất: Những người đồng phạm cùng tham gia một tổ chức
phạm tội được hình thành với phương thức hoạt động có tính chất lâu dài,
bền vững;
8
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
Dạng thứ hai: Những người đồng phạm cùng nhau thực hiện hành vi
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nhiều lần (mỗi lần đều đủ yếu tố cấu
thành tội phạm) theo một kế hoạch đã được thống nhất vạch ra từ trước.
b) Phạm tội nhiều lần (chủ thể phạm tội từ hai lần trở lên, mỗi lần phạm
tội đều có đủ yếu tố cấu thành tội phạm nhưng chưa lần nào bị truy cứu trách
nhiệm hình sự và khi đưa ra xét xử vẫn còn trong thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự).
Phạt tiền: Tươn tự khung 1, hình phạt tiền ở khung 2 được áp dụng là
hình phạt chính thì mức phạt nâng lên tối đa là năm trăm triệu đồng lên mức
tối đa là một tỷ đồng, mức tối thiểu là bốn trăm triệu đồng. Khi Tòa án quyết
định hình phạt tiền đối với người bị kết án không được vượt quá mức tối đa
đã được điều luật quy định.
Hình phạt tù: buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội trong một
thời gian nhất định (tối thiểu là sáu tháng và tối đa là ba năm). Tuy nhiên
Tòa án vẫn có thể áp dụng mức hình phạt thấp hơn mức tối thiểu đã được quy
định trong trường hợp người bị kết án có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự và đủ điều kiện để được hưởng Điều 47 Bộ luật hình sự "Quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật".
2.2. Hình phạt bổ sung:
Ngoài hình phạt chính, tại khoản 3 Điều 171 còn có quy định về hình phạt
bổ sung để hỗ trợ cho hình phạt chính nhằm đạt được mục đích của hình phạt.
Hình phạt bổ sung không áp dụng một cách độc lập mà chỉ có thể được áp
dụng đồng thời với hình phạt chính. Các hình phạt bổ sung cụ thể là: "Phạt tiền
từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm".
Hình phạt bổ sung là biện pháp có tính chất phòng ngừa, được Tòa án áp
dụng đối với người bị kết án khi xét thấy nếu để người này tiếp tục đảm nhiệm
chức vụ, tiếp tục hành nghề hoặc tiếp tục làm công việc nhất định nào đó thì
họ có thể lại có điều kiện để phạm tội mới hoặc tiếp tục gây nguy hại cho xã
hội.
So hình phạt áp dụng đối với chủ thể của tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp nhẹ hơn hầu hết hình phạt ở các tội khác trong cùng Chương "Các
tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế", như: tội buôn lậu (Điều 153, mức hình
9
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
phạt cao nhất có thể được áp dụng lên đến tù chung thân; tội vận chuyển trái
phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới (Điều 154) mức hình phạt cao nhất là 10
năm tù; tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156) mức hình phạt cao nhất là
15 năm tù; tội sản xuất buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc
chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157) mức phạt cao nhất lên đến tử hình…
3. Phân biệt tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với một số tội
phạm khác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
3.1 Phân biệt tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với tội xâm
phạm quyền tác giả, quyền liên quan:
* Giống nhau:
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171) và tội xâm phạm
quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 170a) có những điểm giống nhau cơ bản là:
Đều là những tội xâm phạm quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ và
được bố trí nằm trong cùng Chương - "Các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế".
Các tội phạm này thường được thực hiện có tính tổ chức cao, số lượng
đồng phạm đông đảo và khả năng tái phạm nhiều.
- Về mặt khách quan: Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
hay hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan chỉ bị coi là tội phạm
khi các hành vi đó xâm phạm với "quy mô thương mại".
- Về chủ thể: Cả hai tội phạm đều có chủ thể là người có năng lực trách
nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
- Về mặt chủ quan: Cả hai tội phạm đều được thực hiện dưới hình thức lỗi
cố ý. Người phạm tội biết hành vi mình thực hiện là nguy hiểm cho xã hội,
nhận thức được hậu quả nguy hại có thể hoặc tất yếu xảy ra nhưng vẫn thực
hiện.
- Về hình phạt: Hai tội phạm này được Bộ luật hình sự năm 1999 (được
sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về hình phạt tương đối giống nhau ở
khung hình phạt cơ bản và hình phạt bổ sung áp dụng kèm theo.
* Khác nhau:
10
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
Mỗi tội phạm đều có những đặc điểm riêng nhất định cho phép phân
biệt tội phạm này với tội phạm khác. Tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp và tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan có những điểm khác
nhau cơ bản sau:
- Về khách thể:
+ Quyền sở hữu công nghiệp: Chủ thể đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý
đang được bảo hộ tại Việt Nam.
+ Quyền tác giả, quyền liên quan: Là quyền tác giả, quyền liên quan của
chủ thể đối với tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình hoặc bản sao của chúng
được pháp luật bảo hộ
- Về đối tượng tác động của tội phạm:
+ Quyền sở hữu công nghiệp: Là nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo
hộ tại Việt Nam (căn cứ để nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ chủ yếu
dựa trên quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền).
+ Quyền tác giả, quyền liên quan: Là tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình
hoặc bản sao của chúng (được mặc nhiên bảo hộ không phụ thuộc vào việc
đăng ký bảo hộ hay chưa)
- Về mặt khách quan
+ Quyền sở hữu công nghiệp: gồm hai dạng hành vi: (1) hành vi chiếm
đoạt quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được
bảo hộ tại Việt Nam; và (2) hành vi sử dụng bất hợp pháp nhãn hiệu, chỉ dẫn
địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam.
+ Quyền tác giả, quyền liên quan: gồm hai dạng hành vi: (1) hành vi sao
chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình mà không được phép của chủ thể
quyền tác giả, quyền liên quan; (2) hành vi phân phối đến công chúng bản
sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao bản ghi hình mà không được
phép của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan.
+ Quyền sở hữu công nghiệp:
+ Quyền tác giả, quyền liên quan:
11
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
3.2 Phân biệt tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với tội vi phạm
các quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171) và tội vi phạm
các quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 170)
có những điểm giống và khác nhau cơ bản như sau:
* Giống nhau:
Cả hai tội phạm này đều nằm trong nhóm các tội phạm trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp, là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện với
lỗi cố ý và đều có khách thể bị xâm hại là trật tự quản lý kinh của Nhà nước
trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp (như xác lập quyền sở hữu công nghiệp
và thực thi quyền sở hữu công nghiệp...).
Do cả hai tội phạm đều thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng (có khung
hình phạt cao nhất không quá ba năm tù) nên chủ thể của hai tội này đều phải
là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
* Khác nhau:
- Về mặt khách quan
+ Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp: Hành vi thuộc mặt khách
quan của tội phạm này được thực hiện bằng hành động bao gồm 02 dạng đó
là: hành vi chiếm đoạt và hành vi sử dụng bất hợp pháp nhãn hiệu, chỉ dẫn
địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại.
+ Tội vi phạm các quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền SHCN: được
thực hiện bằng hành động hoặc không hành động, bao gồm 04 dạng hành vi:
(1) không cấp văn bằng bảo hộ cho chủ thể đã có đủ điều kiện được cấp; (2)
đưa những thông tin sai lệch về các vấn đề có liên quan đến việc cấp văn
bằng bảo hộ; (3) cấp văn bằng bảo hộ không đúng quy định về thời gian, thủ
tục; (4) cấp văn bằng bảo hộ đối tượng sở hữu công nghiệp mà trước đó đối
tượng này đã được cấp văn bằng bảo hộ cho một chủ sở hữu công nghiệp
khác. Ngoài ra, hành vi nêu trên chỉ cấu thành tội phạm khi đã bị xử lý kỷ
luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, gây hậu quả
nghiêm trọng.
- Về chủ thể
12
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
+ Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp: Là bất kỳ người nào có năng
lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
+ Tội vi phạm các quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền SHCN: chỉ
những người có thẩm quyền trong hoạt động cấp các loại văn bằng bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp.
13
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
Chương 3:
NGUYÊN NHÂN, THỰC TRẠNG TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ
HỮU CÔNG NGHIỆP HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG,
CHỐNG TỘI PHẠM XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1. Nguyên nhân tình hình tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
1.1. Nguyên nhân do mặt trái của nền kinh tế thị trường.
- Với quy luật cạnh tranh khốc liệt của kinh tế thị trường và khi đất nước
bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế đã đem đến cho xã hội sự phân
hóa. Các chủ thể trong xã hội, nhất là hoạt động trong cùng lĩnh vực cạnh tranh
đã tìm nhiều cách, nhiều thủ đoạn để cạnh tranh nhau; hành vi sản xuất, buôn
bán hàng giả, xâm phạm sở hữu trí tuệ, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
luôn tạo ra “siêu lợi nhuận” nên rất có sức hút, lôi kéo được nhiều đối tượng
tham gia, trên nhiều địa bàn, nhiều lĩnh vực khác nhau, ngang nhiên xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp một cách trái pháp luật.
- Ngoài ra trong quá trình hội nhập, ngoài những tác động tích cực, còn
phát sinh những yếu tố tiêu cực xâm nhập vào nền kinh tế nhiều thành phần với
tính cạnh tranh cao và diễn biến phức tạp của nước ta. Các mặt hàng nội địa đa
dạng, phong phú nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho người tiêu dùng,
nhất là trong điều kiện thu nhập bình quân thấp, giá hàng hoá sản phẩm phục vụ
sinh hoạt cao tạo nên sự bất cân đối. Vì vậy mà người tiêu dùng lựa chọn những
sản phẩm nhái, giả nhưng mẫu mã, kiểu dáng công nghiệp “như thật” mà lại có
giá bán thấp. Lợi dụng tình trạng này, không ít doanh nghiệp thiếu ý thức tôn
trọng pháp luật, thiếu sự tôn trọng người tiêu dùng, vì mục tiêu lợi nhuận đã làm
giả, làm nhái những sản phẩm được bảo hộ có uy tín, chất lượng, kiểu dáng để
gây nhầm lẫn đối với người tiêu dùng. Vì vậy, việc sao chụp, mô phỏng, làm
nhái các sản phẩm của nhau để giành giật thị trường trở thành hiện tượng phổ
biến. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sản xuất, buôn bán
hàng giả và xâm phạm sở hữu trí tuệ tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt
động.
14
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
1.2. Nguyên nhân thuộc về chính sách, pháp luật nhà nước.
Các quy định về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ còn
chưa tập trung, mà rải rác trong quá nhiều văn bản từ Hiến pháp, Bộ luật Dân
sự, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Khoa học và Công nghệ, Bộ luật Hình sự và nhiều
văn bản hướng dẫn, thi hành các luật trên; những quy định về sở hữu trí tuệ và
hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ chưa thật đầy đủ, chưa đồng bộ, đặc biệt là
những quy định về các biện pháp và chế tài xử lý chủ yếu là hình thức xử lý
hành chính, rất ít xử lý hình sự, cụ thể là tại tỉnh Kiên Giang từ trước đến nay
hoàn toàn không xử lý hình sự đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
mà chủ yếu là áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, chưa phù hợp với tình
hình thực tế, chưa đủ sức răn đe đối tượng vi phạm. Chế tài về hình sự chỉ được
áp dụng với cá nhân, trong khi nhóm tội về sở hữu trí tuệ chủ yếu là do tổ chức
thực hiện, vì vậy, không thể truy cứu trách nhiệm hình sự với pháp nhân được.
1.3. Nguyên nhân chủ quan từ chủ sở hữu công nghiệp.
Hiện nay, ít doanh nghiệp có bộ phận chuyên chăm lo về sở hữu trí tuệ, ít
có doanh nghiệp nào có chiến lược về sở hữu trí tuệ, coi vấn đề sở hữu trí tuệ là
bộ phận trong chiến lược phát triển của mình. Tài sản trí tuệ chưa trở thành đối
tượng quản lý như quản lý tài sản thông thường nên phần lớn các chủ sở hữu trí
tuệ chưa thực sự chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi của mình, chưa có ý thức cao
trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, trong khi trình độ và hiểu biết về
tác hại của xâm phạm sở hữu trí tuệ đối với sức khoẻ, lợi ích của cộng đồng còn
rất hạn chế.
Các doanh nghiệp đã có sự chú trọng vào việc xây dựng thương hiệu, kiểu
dáng công nghiệp, tên gọi, chất lượng hàng hóa nhưng lại quên mất khâu đăng
ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của mình ở những khu vực thị trường đã và sẽ
phát triển. Nhiều doanh nghiệp chưa có ý thức trong việc phát hiện và ngăn
ngừa việc làm giả các sản phẩm của mình, chưa chủ động phối hợp với các cơ
quan chức năng trong việc kiểm tra, kiểm soát. Có những doanh nghiệp do sợ bị
ảnh hưởng đến doanh số và mức tiêu thụ sản phẩm, không dám công khai về
sản phẩm bị làm giả. Có những sản phẩm làm giả tinh vi đến mức chính doanh
nghiệp sản xuất cũng không phát hiện được, đến khi biết, tuy có một số biện
pháp khắc phục nhưng không đáng kể.
15
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
1.4. Hoạt động và sự phối hợp của các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan
quản lý nhà nước trong đấu tranh phòng chống các tội phạm xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp.
Công tác phối hợp trên thực tế của các tổ chức và hoạt động của các cơ
quan có trách nhiệm đấu tranh với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
còn thiếu đồng bộ và chồng chéo, nhiều tầng nấc xử lý khiến hiệu lực thực thi bị
phân tán, phức tạp. Hiện có nhiều cơ quan (UBND các cấp, thanh tra khoa học
và công nghệ, thanh tra văn hóa, cảnh sát kinh tế, quản lý thị trường, hải quan)
cùng có thẩm quyền xử phạt vi phạm. Theo thông lệ ở các nước trên thế giới thì
tòa án phải đóng vai trò rất quan trọng trong việc xử lý các vi phạm về sở hữu
trí tuệ, nhưng ở Việt Nam thì ngược lại, vai trò của tòa án rất mờ nhạt so với các
cơ quan hành chính. Mỗi năm có tới hàng nghìn vụ vi phạm sở hữu trí tuệ được
xử lý bởi các cơ quan hành chính, nhưng số vụ được đưa ra xét xử tại tòa án lại
quá ít trường hợp, một số địa phương ở cấp tỉnh và huyện không xét xử tội xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp (điển hình như tại Tòa án tỉnh Kiên Giang).
Chưa kể, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của phần lớn đội ngũ cán bộ làm công
tác bảo vệ pháp luật còn hạn chế, đặc biệt là trong các lĩnh vực liên quan đến sở
hữu trí tuệ, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, công nghệ máy tính… Ngoài ra
chúng ta còn phải phối hợp công tác phòng, chống xử lý các tội về xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp với các nước trong khu vực và quốc tế.
1.5. Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật trong đấu tranh
phòng, chống tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Trong những năm, thời điềm sau khi mở cửa phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa và gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO
Việt Nam thì việc xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuê trong đó có quyền sở hữu
công nghiệp diễn ra ngày một phức tạp bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, bằng công
nghệ cao nhưng công tác tuyên truyền, phồ biến giáo dục pháp luật trong đấu
tranh phòng, chống hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp chưa cao, chưa rộng, chưa đi vào chiều sâu, chưa
phản ảnh đúng tính chất và mức độ của loại tôi phạm này. Việc xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp vẫn đang diễn ra nhưng chúng ta chưa có biện pháp tuyên
truyền giáo dục hiệu quả, chưa kèm cế được hành vi vi phạm làm cho các nhà
đầu tư nước ngoài rất ngán ngại khi đầu tư vào Việt Nam.
16
Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
________________________________________________________________________________________________________________
1.6. Hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp.
Song song với các nguyên nhân trên thì hợp tác quốc tế trong đấu tranh
phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là một trong những
nguyên nhân dẫn đến các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong nước,
như những trường hợp các công ty nước ngoài làm hàng giả, hàng kém chất
lượng sử dụng bao bì, nhãn mác và chỉ dẫn địa lý nước ngoài (nhất là hàng
Trung Quốc) gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng Việt Nam nhưng chưa có biện
pháp phòng, chống hiệu quả trong đó có nguyên nhân từ hợp tác quốc tế trong
công tác đấu tranh phòng chống và thực hiện. Xúc tiến nghiên cứu ký kết các
điều ước quốc tế, hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống các loại tội phạm
về kinh tế trong đó có tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
2. Thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại tỉnh
Kiên Giang
Trong những năm qua tình hình xâm phạm quyền sở hữu trên điạ bàn tỉnh
Kiên Giang diễn biến hết sức phức tạp, việc buôn bán làm hàng giả, hàng nhái,
hàng kém chất lượng sử dụng bao bì nhãn mác hoặc chỉ dẫn địa lý của các công
ty lớn có uy tín gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng diễn ra hàng ngày nhưng
nhiều người tiêu dùng (nhất là ở nông thôn) chưa có biện pháp để hạn chế gây
thiệt hại đáng kể cho kinh tế như trường hợp bán phân bón giả cho nông dân ở
các huyện Hòn Đất, Tân Hiệp và Giồng Riềng những năm trước, người tiêu
dùng do chưa được tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nên không biết tố
giác hành vi vi phạm như thế nào và cơ quan nào thụ lý nên dẫn đến nhiều
người bị thiệt hại do hàng kém chất lượng còn Doanh nghiệp sản xuất chân
chính thì bị thiệt hại do hành vi xâm phạm này gây ra còn phía người bán lãng
tránh trách nhiệm nên chưa xử lý được triệt để, nếu có xử lý thì chỉ dùng lại ở
hành vi hành chính, xử phạt hành chính.
Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cả nước diễn ra đối với hầu
hết các loại sản phẩm ở hầu hết các khâu sản xuất, lưu thông, xuất nhập
khẩu.v.v. nhiều nhất là hành vi sao chép nhãn hiệu hàng hóa. Hàng nghìn vụ
việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đã bị phát hiện nhưng chủ yếu được
xử lý bằng biện pháp hành chính.
17