Tình hình thực hiện các dự án fdi ở việt nam trong thơì gian qua
- 42 trang
- file .pdf
LUẬN VĂN:
Tình hình thực hiện các dự án FDI ở
Việt Nam trong thơì gian qua
Lời Nói đầu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh
tế của các nước .Bên cạnh việc cung cấp , đầu tư trực tiếp nước ngoài còn tạo ra điều kiện
chuyển giao công nghệ,kỹ năng và bí quyết quản lý tăng năng lực sản xuấtvà năng xuất
lao động, mở rộng thị trường, xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh của công nghiệp nội
địa, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Việt Nam đang trong quá trình phát triển và hội nhập,tham gia vào môi trường
cạnh tranh đầy sôi động của khu vực nói riêng và thế giới nói chung.Bởi vậy khi mà
chúng ta còn thiếu vốn, yếu kém về kỹ thuật thì nhu cầu về vốn và công nghệ là rất lớn và
trở lên cần thiết hơn bao giờ hết.Nhân tố có thể đem lại điều nàý đó là đầu tư trực tiếp
nước ngoài FDI. Xong vấn đề đặt ra là việc thu hút và sử dụng vốn này ra sao có đáp ứng
dược nhu cầu phát triển của nền kinh tế không?Một trong những khâu quan trọng góp
phần có thể nói là quyết định đến công cuộc đầu tư .Đó là thực hiện các dự án đầu tư .
Do dự án đầu tư có các đặc điểm khác biệt :tồn tại lâu dài hoạt động lâu, tính cố
định, tính cá biệt.Cho nên việc thực hiện các dự án diễn ra phức tạp và khó khăn nên
chúng ta phải đưa ra các giải pháp này.
Kết cấu của đề án gồm các phần:
Lời nói đầu
Chương I : Khái quát chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
Chương II: Tình hình thực hiện các dự án FDI ở Việt Nam trong thơì gian qua
Chương III:Giải pháp đẩy nhanh thực hiện các dự án FDI
Kết luận
Chương I
Khái quát chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
I. Tổng quan về nguồn vốn FDI trong đầu tư quốc tế.
1. Khái niệm về đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế được định nghĩa là sự di chuyển tài sản như vốn, công nghệ, kỹ
năng quản lý sang nước khác để kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận cao trên phạm
vi toàn cầu. Nước nhận đầu tư gọi là nước chủ nhà, nước chủ đầu tư gọi là nước đầu tư.
Đầu tư quốc tế còn mang một số đặc trưng khác với đầu tư nội địa:
- Chủ sở hữu đầu tư là người nước ngoài: đặc điểm này có liên quan tới các
khía cạnh về quốc tịch, luật pháp, ngôn ngữ, phong tục tập quán. Đây là yếu tố tăng thêm
tính rủi ro và tăng chi phi đầu tư ở nước ngoài.
- Các yếu tố đầu tư ra khỏi biên giới: Đặc điểm này có liên quan tới các khía
cạnh chính sách, luật pháp, hải quan và cước phí vận chuyển.
Vốn đầu tư được tính bằng ngoại tệ. Đặc điểm này có liên quan tới tỷ giá hối đoái
và các chính sách tài chính tiền tệ của các nước tham gia đầu tư.
- Đầu tư quốc tế được biểu hiện chủ yếu qua hai hình thức cơ bản: Đầu tư
trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp nước ngoài.
2. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Khái niệm.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó
người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản ký và điều hành hoạt động sử
dụng vốn. Sự ra đời và phát triển của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là kết quả tất
yếu của quá trình quốc tế hoá và phân công lao động quốc tế.
Theo hiệp hội luật quốc tế (1966): “đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước
của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó xí nghiệp kinh doanh
hoặc dịch vụ”.
Theo luật đầu tư nước ngoài ban hành tại Việt Nam năm 1987 và được bổ sung
hoàn thiện sau bốn lần sửa đổi (1989, 1992, 1996, 2000) “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là
việc các tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài
hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên
cơ sở hợp đồng hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài”.
Như vậy, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động di chuyển vốn của cá
nhân và tổ chức nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ
hay từng phần cơ sở đó. Xuất phát từ khái niệm, chúng ta có thể rút ra một vài đặc điểm
về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đặc điểm.
Một là: Các chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp
định, tuỳ theo luật đầu tư nước ngoài (tại Việt Nam, khi liên doanh, số vốn góp của bên
nước ngoài phải lớn hơn hoặc bằng 30% vốn pháp định).
Hai là: Quyền quản lý xí nghiệp tuỳ thuộc vào mức độ góp vốn. Đối với doanh
nghiệp liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh thì quyền quản lý doanh nghiệp và
quản lý đối tượng hợp tác tuỳ thuộc vào mức vốn góp của các bên tham gia, còn đối với
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì người nước ngoài (chủ đầu tư) toàn quyền quản
lý doanh nghiệp.
Ba là: Lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh
doanh và được chia theo tỷ lệ vốn góp.
Bốn là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện thông qua việc xây dựng
doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc sát
nhập các doanh nghiệp với nhau.
Năm là: Đầu tư nước ngoài không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn gắn với
chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý và tạo ra thị
trường mới cho cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư.
Sáu là: Đầu tư nước ngoài hiện nay gắn liền với các hoạt động kinh doanh quốc tế
của các công ty đa quốc gia.
3. Các đặc trưng cơ bản của các hình thức FDI.
Các đặc trưng chủ yếu của các hình thức đầu tư FDI là:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh: là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều
bên, quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành
kinh doanh ở nước chủ nhà, mà không thành lập pháp nhân mới. Nó có đặc trưng là các
bên cùng nhau hợp tác kinh doanh trên cơ sở phân định trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa
vụ rỏ ràng, không thành lập pháp nhân mới; mỗi bên làm nghĩa vụ với nước chủ nhà theo
quy định riêng. Hình thức này khá phổ biến trong các nước đang phát triển và được áp
dụng chủ yếu tại Việt Nam.
- Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp được thành lập tại nước chủ nhà
trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa bên chủ nhà và bên nước ngoài để đầu tư, kinh
doanh tại nước chủ nhà và có tư cách pháp nhân. Hình thức này có đặc trưng: Dạng công
ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước chủ nhà; mỗi bên
liên doanh có trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần
vốn đóng góp của mình vào vốn pháp định. Hình thức liên doanh có nhiều ưu điểm hơn
các hình thức FDI khác.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Là doanh nghiệp thuộc sỏ hữu của
nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý
và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Đặc trưng là: Dạng đầu tư trách nhiệm hữu
hạn, có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước chủ nhà; sở hữu hoàn toàn của nước
ngoài; chủ đầu tư nước ngoài tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
- Hợp đồng BOT: là văn bản ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ
quan có thẩm quyền tại nước chủ nhà, để đầu tư xây dựng, mở rộng nâng cấp, khai thác
công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định (Thu hồi vốn và có lợi nhuận
hợp lý) sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà. Hình
thức này có đặc trưng: Cơ sở pháp lý là hợp đồng, vốn đầu tư là của nước ngoài, hoạt
động dưới hình thức các doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài, chuyển giao không bồi hoàn cho Việt Nam; đối tượng hợp đồng là các công trình
hạ tần cơ sở.
Các dạng của BOT là hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO) được
hình thành tương tự như BOT, nhưng sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư nước
ngoài giao lại cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà dành cho nhà đầu tư nước
ngoài quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định nào đó để thu hồi vốn
đầu tư và có lợi hợp lý.
Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT): Được hình thành tương tự BOT, nhưng
sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài bàn giao lại cho nước chủ nhà, chính phủ
nước chủ nhà trả cho nhà đầu tư nước ngoài chi phí liên quan tới công trình và một tỷ lệ
thu nhập hợp lý.
II. Mối quan hệ giữa FDI với sự phát triển kinh tế của nước nhận đầu tư.
1. Những tác động của FDI đối với nước nhận đầu tư.
Tác động tích cực.
Tăng trưởng kinh tế:
FDI là yếu tố quan trọng quyết định tốc độ tăng trưởng. Bổ sung nguồn vốn trong
nước và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại,
kỹ xảo chuyên môn và phát triển khả năng công nghệ nội địa; phát triển nguồn nhân lực
và tạo việc làm; thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với thị trường thế giới; tạo liên kết
giữa các ngành công nghiệp
Vốn đầu tư và cán cân thanh toán quốc tế
FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn – của các
nước nhận đầu tư đặc biệt là các nước đang phát triển vì hầu hết các nước đang phát triển
đều rơi vào cái “vòng luẫn quẩn” đó là thu nhập thấp dẫn đến thu nhập thấp nên đầu tư
thấp rồi hậu quả lại là thu nhập thấp. Tình trạng luẫn quẩn này chính là điểm nút khó
khăn nhất mà các nước này phải vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo tăng trưởng kinh tế
hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng trì trệ của sự nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và
tạo ra được điểm đột phá chính xác một mắt xích của “vòng luẫn quẫn”. Trở ngại lớn
nhất để thực hiện điều đó đối với các nước đang phát triển đó là vốn đầu tư vào kỹ thuật.
Do vậy vốn nước ngoài sẽ là một “cú huých” để góp phần đột phá cái vòng luẫn quẩn đó.
Đặc biệt FDI là một nguồn vốn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không
gây nợ cho nước nhận đầu tư. Hơn nữa luồng vốn này có lợi thế hơn đối với vốn vay ở
chổ: thời hạn trả nợ vốn vay thường cố định và đôi khi quá ngắn so với một số dự án đầu
tư, còn thời hạn của FDI thì thường linh hoạt hơn. FDI còn là nguồn vốn quan trọng
không chỉ để bổ sung nguồn vốn nói chung mà cả sự thiếu hụt về ngoại tệ nói riêng bởi vì
FDI góp phần nhằm tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng khả năng xuất khẩu của nước
nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài, thu ngoại tệ từ các hoạt
động dịch vụ phục vụ cho FDI.
Chuyển giao và phát triển công nghệ
FDI được coi là nguồn quan trọng để phát triển công nghệ của nước chủ nhà. Vai trò này
được thể hiện qua hai khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẳn có từ bên ngoài vào
và phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà.
Đây là những mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ các nhà đầu tư nước
ngoài.
Bên cạnh chuyển giao công nghệ sẵn có, thông qua FDI các công ty xuyên quốc
gia còn góp phần tích cực đối với tăng cường nghiên cứu và phát triển công nghệ của
nước chủ nhà. Các hoạt động cải tiến công nghệ của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
đã tạo ra nhiều mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu,
ứng dụng công nghệ trong nước. Nhờ đó đã gián tiếp tăng cường năng lực phát triển công
nghệ địa phương. Mặt khác trong quá trình sử dụng công nghệ nước ngoài các nhà đầu tư
và phát triển công nghệ trong nước học được cách thiết kế, chế tạo ... công nghệ nguồn,
sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương và biến chúng thành
công nghệ của mình. Nhờ có những tác động tích cực trên, khả năng công nghệ của nước
chủ nhà được tăng cường, vì thế nâng cao năng suất các thành tố , nhờ đó thúc đẩy được
tăng trưởng.
Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm .
Nguồn nhân lực có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động sản xuất, các vấn đề xã
hội và mức độ tiêu dùng của dân cư. Việc cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua đầu
tư vào các lĩnh vực: sức khoẻ, dinh dưỡng, giáo dục, đào tạo ngành nghề và kỹ năng quản
lý sẽ tăng hiệu quả nguồn nhân lực, nâng cao được năng suất lao động và các yếu tố sản
xuất khác, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng.
Ngoài ra, tạo việc làm không chỉ tăng thu nhập cho người lao động mà còn góp
phần tích cực giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ
tăng trưởng.
FDI ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo ra công ăn việc làm thông qua việc cung
cấp việc làm trong các hãng có vốn đầu tư nước ngoài. FDI còn tạo ra nhửng cơ hội việc
làm trong những tổ chức khác khi các nhà đầu tư nước ngoài mua hàng hoá dịch vụ từ
các nhà sản xuất trong nước, hoặc thuê họ thông qua các hợp đồng gia công chế biến.
Thông qua khoản trợ giúp tài chính hoặc mở các lớp đào tạo dạy nghề, FDI còn
góp phần quan trọng đối với phát triển giáo dục của nước chủ nhà. Nhiều nhà đầu tư
nước ngoài đã đóng góp vào quỹ phát triển giáo dục phổ thông, cung cấp thiết bị giảng
dạy... FDI còn nâng cao năng lực quản lý của nước chủ nhà theo nhiều hình thức như các
khoá học chính quy, không chính quy, học thông qua làm.
Tóm lại FDI đem lại lợi ích về công ăn việc làm. Đây là một tác động kép: tạo
thêm việc làm củng có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao động từ đó tạo điều
kiện tích luỹ trong nước.
Thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận thị trường thế giới.
Thông qua FDI, các nước đang phát triển có thể tiếp cận với thị trường thế giới
bởi vì: Hầu hết các hoạt động FDI đều do các công ty xuyên quốc gia thực hiện, mà các
công ty này có lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn
dựa trên cơ sở thay thế và uy tín của họ về chất lượng, kiểu dáng sản phẩm và giao hàng
đúng hẹn...
Liên kết các ngành công nghiệp.
Liên kết giữa các ngành công nghiệp được biểu hiện chủ yếu qua tỷ trọng giá trị
hàng hoá (tư liệu sản xuất, nguyên vật liệu đầu vào), dịch vụ trao đổi trực tiếp từ các công
ty nội địa trong tổng giá trị trao đổi của các công ty nước ngoài ở nước chủ nhà. Việc
hình thành các liễn kết này là cơ sở quan trọng để chuyển giao công nghệ, phát triển
nguồn nhân lực và thúc đẩy xuất nhập khẩu của nước chủ nhà.
Cụ thể: Qua các hoạt động cung ứng nguyên vật liệu, dịch vụ cho các công ty
nước ngoài sản xuất hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp nội địa phát triển năng lực sản
xuất của mình (mở rộng sản xuất, bắt chước quá trình sản xuất và mẫu mã hàng hoá...)
sau một thời gian nhất định các doanh nghiệp trong nước có thể tự xuất nhập khẩu được.
Các tác động khác.
Ngoài những tác động trên, FDI còn tác động đáng kể đến các yếu tố ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế như: chất lượng môi trường, cạnh tranh và độc quyền, chuyển
dịch cơ cấu nền kinh tế, hội nhập khu vực vào quốc tế.
FDI tác động mạnh đến cạnh tranh và độc quyền thông qua việc thêm vào các đối
thủ cạnh tranh hoặc sử dụng sức mạnh của mình để khống chế thị phần ở nước chủ nhà.
Từ thúc đẩy cạnh tranh, FDI góp phần làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn,
nhờ đó thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Nhờ có FDI, cơ cấu nền kinh tế của nước chủ nhà chuyển dịch nhanh chóng theo
chiều hướng tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp dịch vụ và giảm tỷ trọng các
ngành nông nghiệp, khai thác trong GDP.
FDI là một trong nhửng hình thức quan trọng của các hoạt động kinh tế đối ngoại
và nó có liên quan chặt chẽ đến các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của các
quốc gia, do đó sự phát triển của lĩnh vực này thúc đẩy sự hoà nhập khu vực và quốc tế
của nước chủ nhà.
Tác động tiêu cực.
Chuyển giao công nghệ lạc hậu:
Chuyển giao công nghệ thông qua FDI phần lớn được chuyển giao giữa các chi
nhánh của công ty đa quốc gia sang các nước đang phát triển ở hình thừc 100% vốn nước
ngoài và doanh nghiệp liên doanh có phần lớn vốn nước ngoài, dưới các hạng mục chủ
yếu như những tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng,
kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ marketting. Nhưng các công
ty này rất hạn chế chuyển giao những công nghệ mới có tính cạnh tranh cao cho các chi
nhánh của chúng ở nước ngoài vì sợ lộ bí mật hoặc mất bản quyển công nghệ do việc bắt
chước, cải biến hoặc nhái lại công nghệ của các công ty nước chủ nhà. Các công ty này
lợi dụng sự yếu kém của nước chủ nhà họ đã chuyển giao những công nghệ đã lạc hậu cũ
kỹ nhưng giá đắt như giá công nghệ mới làm cho sản xuất sản phẩm kém chất lượng,
hàng hoá không tiêu thụ được.
Phụ thuộc vào nền kinh tế nước khác.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc đưa vốn từ nước ngoài vào trong nước để đầu
tư dẫn đến nền kinh tế trong nước phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài làm cho nền kinh
tế trong nước mất chủ động trong việc điều tiết và sản xuất.
Chi phí thu hút đầu tư.
Để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài hàng năm nước chủ nhà phải chịu một
khoản rất lớn tiền chi phí cho việc thu hút vốn đầu tư như việc xúc tiến đầu tư chi phí cho
bộ máy quản lý, chi phí cho việc giao tiếp, xây dựng cơ sở hạ tầng, mà khoản chi phí này
nước chủ nhà chủ yếu chi bằng tiền ngân sách và tiền đi vay. Khoản chi phí này là rất
lớn.
Sự can thiệp bất lợi của các tổ chức kinh tế vào nền kinh tế quốc dân.
Các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào nước chủ nhà họ chỉ muốn đầu tư vào
những ngành có lợi nhuận cao (ngành nhạy cảm), họ can thiệp sâu vào ngành kinh tế, can
thiệp sâu vào thị trường làm lũng loạn thị trường trongnước.
Xu hướng đẩy các công ty trong nước phá sản.
Các công ty nước ngoài có uy tín, chất lượng, mẫu mã hàng hoá đẹp dẫn đến cạnh
tranh rất mạnh đối với hàng hoá trong nước làm cho các hàng hoá sản xuất ở các công ty
trong nước không tiêu thụ được đã làm cho các công ty trong nước thua lỗ và họ không
còn đủ khả năng để sản xuất tiếp.
Sản xuất hàng hoá không thích hợp.
Khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư sang nước chủ nhà họ chưa nghiên cứu kỹ
thị trường dẫn đến sản xuất hàng hoá không phù hợp với thị trường.
Ô nhiễm môi trường.
Chất thải của các công ty nước ngoài, nhất là các ngành khai thác chế tạo là một
trong những nguyên nhân quan trọng gây nên tình trạng ô nhiểm môi trường trầm trọng ở
các nước đang phát triển. Đặc biệt là khi họ chuyển giao những công nghệ lạc hậu thì
khối lượng chất thải còn tăng lên rất nhiều.
Các nhà đầu tư thường tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế do các nhân tố
đầu vào.
Khi họ chuyển giao những công nghệ họ lợi dụng sự yếu kém về trình độ của nước
chủ nhà đã tính giá các yếu tố đầu vào cao hơn mà nước chủ nhà không thể biết.
2. Những đóng góp cụ thể của FDI đối với Việt Nam.
Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành
phần kinh tế khác. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là chỉ tiêu quan trọng, góp phần
khai thác các nguồn lực trong nước mở rộng hợp tác quốc tế tạo nên sực mạnh tổng hợp
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển nền kinh tế đất nước vững
chắc ổn định.
Những đóng góp tích cực.
Hoạt động thu hút FDI ở Việt Nam thời gian qua đã đóng góp tích cực vào việc
thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, góp phần tạo động
lực và điều kiện cho việc điều chỉnh chính sách kinh tế.
FDI là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát triển, là một
trong những điều kiện tiên quyết để thức hiện chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước. Từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cho đến nay bình quân
mỗi năm FDI thực hiện 1,112 triệu USD, chiếm khoảng 26,5% tổng vốn đầu tư xây dựng
cơ bản toàn xã hội. Giúp Việt Nam phát triển nền kinh tế cân đối theo hướng công nghiệp
hoá - hiện đại hoá góp phần đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trung bình khoảng 7,3%
trong thời gian qua và là động lực cho việc khai thác và phát huy có hiệu quả trong việc
sử dụng các nguồn lực trong nước.
FDI góp phần tạo ra năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, làm cho nước
ta từng bước chuyển biến theo hướng kinh tế thị trường hiện đại, góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá: khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có
chỉ số phát triển cao hơn chỉ số phát triển của các thành phần kinh tế khác và cao hơn chỉ
số phát triển chung của cả nước (năm 1997 chỉ số này là 120,75%/108,15%, năm 1998 là
116,88%/105,8%) tỷ trọng của khu vực FDI trong tổng sản phẩm trong nước có xu
hướng tăng lên ổn định qua các năm (1995: 6,3%, 1998: 10,12%, 1999: 10,3%)
Đối với ngành công nghiệp các doanh nghiệp FDI chiếm tỷ trọng cao và có xu
hướng tăng lên đáng kể trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành. Trong ngành nông
nghiệp tính đến nay có hơn 300 dự án FDI đang hoạt động với tổng vốn đăng ký khoảng
2 tỷ USD, góp phần đáng kể nâng cao năng lực sản xuất chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp,
chuyển giao nhiều giống cây con với sản phẩm chất lượng cao, nâng cao khả năng cạnh
tranh trên thị trường thế giới.
Nhiều công nghệ hiện đại được chuyển giao vào Việt Nam đã tạo ra bước ngoặt
mới trong sự phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn như khai thác dầu khí,viễn thông,
công nghiệp, điện tử, vật liệu xây dựng...
FDI đóng góp ngày càng tăng vào hoạt động ngoại thương, góp phần cải
thiện cán cân thanh toán quốc tế, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới,
tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế. Thông qua thực hiện các dự án đầu
tư, các nhà đầu tư nước ngoài đã trở thành cầu nối tạo điệu kiện để Việt Nam nhanh
chóng tiếp cận với thị trường thế giới, mở rộng bạn hàng và thị phần ở nước ngoài. Nhờ
có lợi thế trong hoạt động thị trường thế giới nên tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
của các doanh nghiệp FDI cao hơn tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của cả nước
và cao hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước. Năm 1995 các doanh nghiệp FDI xuất khẩu
440,1 triệu USD chiếm 8,1% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; tương ứng năm 1996 là
786 triệu USD chiếm 10,8%; con số này năm 1999 là 2,577 triệu USD chiếm 22,3% và
thời điểm hiện nay con số này còn tăng cao hơn nhiều.
FDI đã đóng góp một phần quan trọng vào tổng GDP, tạo nguồn thu ngân
sách lớn cho đất nước. Các doanh nghiệp FDI đóng góp vào GDP ở mức 7,7% năm 1996
và 9%năm 1998 nhưng nguồn thu ngân sách ở khu vực này liên tục gia tăng.
Các doanh nghiệp FDI đã góp phần tạo ra một khối lượng lớn chổ làm việc
trực tiếp và gián tiếp, tham gia phát triển nguồn nhân lực, đem lại phương thức quản lý,
kinh doanh mới, tạo động lực cạnh tranh, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước hoàn
thiện năng lực sản xuất của mình để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế
giới: tính đến nay, các doanh nghiệp FDI đã tạo việc làm cho khoảng 33 vạn lao động với
thu nhập bình quân 70 USD/người/ tháng, ngoài ra còn tạo ra hàng vạn việc làm gián
tiếp. Như vậy số lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI và các bộ phận liên quan
bằng khoảng 39% tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực nhà nước. Các
con số này liên tục tăng trong những năm gần đây.
Ngoài ra FDI còn giúp đẩy nhanh tốc độ tăng trưỡng nền kinh tế, tiếp nhận
thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến nhờ đó rút ngắn khoảng cách so với thế giới. Sử
dụng có hiệu quả những lợi thế của đất nước mà trước đây không thể thực hiện do thiếu
vốn như khai thác dầu mỏ, khai khoáng... Học tấp kinh ngiệm quản lý kinh doanh trong
điều kiện kinh tế thị trường của các nước tiên tiến.
Một số tồn tại.
Hệ thống luật pháp, chính sách của chúng ta đang trong quá trình hoàn
chỉnh nên thiếu đồng bộ, chưa cụ thể, các biện pháp khuyến khích cũng chưa hệ thống cơ
chế chính sách tài chính, đặc biệt là lĩnh vực thuế chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư.
Môi trường đầu tư ở Việt Nam còn nhiều rủi ro do chính sách hay thay đổi, thiếu rỏ ràng,
cơ sở hạ tầng yếu kém, khó khăn trong chuyển đổi ngoại tệ, chi phí đắt đỏ.
Hiệu quả kinh tế – xã hội của khu vực FDI thời gian qua chưa cao. Các dự
án FDI còn tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn và các địa phương có nhiều thuận lợi,
những ngành có lợi nhuận cao, thu hồi vốn đầu tư nhanh còn nhiều dự án rút giấy phép
đầu tư. Kim ngạch xuất khẩu gia tăng nhưng thấp hơn nhiều nước trong khu vực, chính
sách khuyến khích xuất khẩu chưa hấp dẫn, hàng xuất khẩu chủ yếu là gia công nên giá
trị gia tăng thấp, thiết bị máy móc chuyển giao vào Việt Nam để thực hiện các dự án còn
lạc hậu, giá cả cao, nhiều doanh nghiệp FDI hoạt động kinh doanh không có hiệu quả, lao
động FDI phổ biến là lao động phổ thông.
Công tác xây dựng và quy hoạch cụ thể trong cả nước cũng như từng vùng,
từng địa phương chưa được thực hiện nhằm đảm bảo yêu cầu, điều kiện mới cà gắn với
quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội. Công tác tuyên truyền vận động xúc tiến đầu tư còn
thụ động. Nghiên cứu đối với nước ngoài còn nhiều khiếm khuyết do thiếu thông tin.
Công tác quản lý nước ngoài đối với FDI còn yếu kém và sơ hở, vừa buông
lỏng, vừa gây phiền hà, can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp FDI. Thủ tục đầu tư còn phức tạp, còn nhiều tiêu cực gây khó khăn trong quá
trình triển khai dự án, tốn kém thời gian, tiền của của nhà đầu tư, ảnh hưởng xấu đến môi
trường đầu tư.
Năng lực và trình độ cán bộ phía Việt Nam còn hạn chế, đại bộ phận chưa
được đào tạo, thiếu kiến thức chuyên môn, không nắm vững pháp luật, thiếu kinh ngiệm
kinh doanh quốc tế. Nhận thức về vai trò, vị trí của lĩnh vực FDI chưa thống nhất, thiếu
thông tin trong lĩnh vực quản lý FDI, công tác kiểm tra báo cáo chưa đồng bộ, thiếu kịp
thời, chất lượng chưa cao nên ảnh hưởng đến quản lý vĩ mô của nhà nước.
Chương II
Tình hình thực hiện các dự án fdi ở Việt Nam trong thời gian qua
I. Tình hình thực hiện chung các dự án của cả nước.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua đã có những đóng
góp không nhỏ cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nguồn vốn FDI là một bộ
phận quan trọng trong nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Nguồn vốn này đã góp phần to lớn
vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên trong thực tiễn hiện nay, tình hình triển khai
thực hiện cá dự án FDI tại Việt Nam đang gặp không ít khó khăn và ở mức độ trung bình,
thậm chí nhiều dự án FDI bị giải thể đã làm nản lòng nhà đầu tư nước ngoài và ảnh
hưởng không tốt đến moi trường đầu tư ở Việt Nam. Thực tiển này đòi hòi Việt Nam
phải có những nhìn nhận và đánh giá ngiêm túc để có ngay những ứng xử cần thiết nhằm
cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường triển khai các dự án FDI và hấp dẫn các nhà đầu
tư nước ngoài. Để có cái nhìn rõ ràng, cụ thể hơn về tình hình thực hiện các dự án FDI
chúng ta xét tình hình đầu tư thực hiện theo các khía cạnh sau:
1. Tình hình thực hiện dự án FDI tại Việt Nam thời gian qua.
Kể từ khi luật đầu tư nước ngoài có hiệu lực đến hết năm 2002 thì vốn đăng kýưư
đầu tư giảm qua các năm có xu hướng giảm. Năm 1996 vốn đăng kưý đầu tư là 8640
triệu USD, nhưng đến năm 2002 chỉ có 1558 triệu USD. Điều đó cho thấy đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI vào Việt Nam có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Ngược
lại tình hình thực hiện các dự án thì ngàý càng thực hiện tốt hơn số vốn đăng ký. Qua số
liệu ta thấy số vốn thực hiện ở các năm càng về sau càng tôt như năm 1999 phần trăm
vốn thực hiện là: 138,97%, năm 2000:110,63%, năm 2002: 150,51%. Các năm này không
chỉ thực hiện số vốn đăng ký trong năm mà còn thực hiện cả số vốn đăng ký trong năm.
Như vậy tình hình thực hiện đầu tư thì có xu hướng tăng nhưng hiệu quả thực hiện các dự
án thì chưa cao đó cũng là điều cần phải bàn của các ngành các cấp và cũng do các chủ
đầu tư.
Bảng: FDI thực hiện qua các năm ở Việt Nam :
Đơn vị tính: Triệu USD
N¨ m
88 - 95 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
ChØtiªu
Vèn ®¨ ng ký 17,826 8640 4649 3897 1568 2014 2536 1558
Vèn thùc hiÖn 7153 2923 3137 2364 2179 2228 2300 2345
% vèn thùc hiÖn 40,13% 33.83% 67,48% 60,66%138,97%110,63% 90,69% 150,51%
N
guồn: vụ quản lý dự án ĐTNN – Bộ KHĐT
2. Tình hình thực hiện dự án FDI theo hình thức đầu tư tại Việt Nam giai đoạn
1998 – 2002.
Khi nhìn vào bảng số liệu và vốn thực hiện theo hình thức đầu tư đến năm 2002 có
3711 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với số vốn đăng ký là 38126152 nghìn USD vốn
thực hiện là 20880292 nghìn USD, phần trăm thực hiện vốn là 54,76%. Trong đó thì hình
thức hợp đồng hợp tác kinh doanh thực hiện tốt nhất với số dự án là 157 dự án, vốn đăng
ký là 3905125 nghìn USD, phần trăm vốn thực hiện là 105,58%. Nhưng nhiền một cách
tổng thể thì các hình thức đầu tư đều thực hiện chuâ tốt như hình thức BOT, BTO, BT
đây là hình thức rất quan trọng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng kỷ thuật thì chúng ta
thực hiện chưa tố, chỉ có 6 dự án với số vốn đăng ký 1332975 nghìn USD, vốn thực hiện
là 262437 nghìn USD và % vốn thực hiện là 19,68% là rất yếu, còn các hình thức khác
cũng chỉ thực hiện được trên dưới 50%. Đây là điều lo ngại trong điều kiện sự phát triển
kinh tế rất mạnh ở khu vực, thế giới và sự thụt lùi của Việt Nam .
Bảng FDI thực hiện theo hình thức đầu tư ở Việt Nam
Đơn vị: 1000USD
TT Hình thức Số dự Vốn đăng Tỷ Vốn thực Tỷ % vốn thực
đầu tư án ký trọng % hiện trọng hiện
%
1 100% vốn
đầu tư 2463 14.472.403 37,96 6.958.458 33,32 48.08
nước ngoài
2 Liên doanh 1085 18.415.649 48,30 9.536.283 45,67 51,78
3 Hợp đồng
hợp tác KD 157 3.905.125 10,24 4.123.115 19,75 105,58
4 Hợp đồng
BOT,
BTO, BT 6 1.332.975 3,50 262.437 1,26 19,68
Tổng số 3.711 38.126.152 100 20.880.293 100 54,76
Nguồn: vụ quản lý dự án – bộ KHDT
3. Tình hình thực hiện các dự án FDI theo đối tác đầu tư tại Việt Nam tính
đến hết ngày 31/12/2002
Bảng: FDI thực hiện theo đối tác đầu tư ở Việt Nam
Đơn vị: 1000USD
TT Quốc gia & Số Vốn đăng Tỷ Vốn thực Tỷ % vốn
vung lãnh thổ dự ký trọng hiện trọng thực
án hiện
1 Singapore 269 7.277.302 2,89 3.679.173 21,52 50,55
2 Đài Loan 812 5.496.566 18,80 3.424.234 20,03 62,29
3 Nhật Bản 376 4.311.336 14,74 3.280.799 19,19 76,09
4 Hàn Quốc 485 3.672.122 12,56 2.133.921 12,48 58,11
5 Hồng Kông 261 2.889.229 9,88 1.754.890 10,27 60,73
6 Pháp 124 2.094.432 7,16 849.281 4,97 40,54
7 Vương Quốc
Anh 161 1.817.780 6,21 908.502 5,31 49,97
8 Hà Lan 45 1.684.956 5,76 1.064.340 6,23 63,16
Tổng: 29.243.723 100 17.095.140 100
Nguồn: Vụ quản lý dự án – Bộ KHĐT
Đến thời điểm hiện nay chung ta vẫn chỉ có số ít những đối tác quen thuộc với số
vốn đầu tư vào nước ta không đáng kể so với số vốn mà các đối tác nàý đầu tư ra nước
ngoài.Trong số các đối tác trên thì Nhât Bản la nước có số dự án đăng ký nhiều nhất là
376 dự án và thực hiện tốt nhất với % vốn thực hiện là 76,09%. Nhưng số vốn đăng kưý
của Singapore lại là lớn nhất nhưng thực hiện lại không tốt bằng; số vốn đăng ký là
7277302 nghìn USD nhưng chỉ thực hiện được 3679173 nghìn USD ; % vốn thực hiện là
50,55% là thấp và chưa hiệu quả.
Nhìn trung tình hình thực hiện các dự án đầu tư theo đối tác đầu tư là ở mức trung
bình, hiệu quả chưa cao thậm chí có nước ở mức thấp: như Pháp;% vốn thực hiện chỉ có
40,54% mà nước này là một đối tác lý tưởng để chúng ta hợp tác nhưng chúng ta lại
không phát huy được,đây là một khiếm khuyết trong nền kinh tế quốc dan.
4. Tình hình thực hiện dự án FDI phân theo ngành giai đoạn
1998 – 2002.
Ngành công nghiệp – xây dựng.
Ngành công nghiệp là một ngành trọng điểm của tất cả các quốc gia trên thế giới
nói chung và đối với Việt Nam nói chung. Nguồn vốn FDI là một nguồn vốn quan trọng
để phát triển kinh tế đất nước là ngành công nghiệp non trẻ của chúng ta. Nó không chỉ
bổ sung nguồn vốn mà còn mang đến cho Việt Nam công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kinh
nghiệm quản lý tạo thêm nhiều ngành nghề, sản phẩm mới, qua đó góp phần khai thác tốt
hơn các nguồn lực, thúc đẩy tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá hiện đại hoá.
Hầu hết (tỷ trọng lớn) vốn đầu tư FDI vào Việt Nam là tập trung vào ngành công
nghiệp. Dựa vào bảng số liệu ta thấy số dự án vào ngành công nghiệp là 2467 dự án, vốn
đăng kưý 21185196 nghìn USD chiếm 55,27% vốn thực hiện là 13421135 nghìn USD và
phần trăm vốn thực hiện là 63,35% trong đó ngành công nghiệp dầu khí với số vốn đăng
kưý (là 1937533 nghìn USD) nhưng thực hiện tốt nhất với phần trăm vốn thực hiện là
172,69%. Đây cũng một phần do thế mạnh về điều kiện tự nhiên, còn các dự án thuộc
lĩnh vực khác cũng chỉ thực hiện được ở mực trung bình trên dưới 50% như ngành công
nghiệp nặng chỉ là 55,51% ngành công nghiệp nhẹ là 47,25%. Những con số này cho
thấy tình hình thực hiện của một ngành trọng điểm quốc gia là chưa ngang tầm với vị trí
của nó và đặt ra rất nhiều việc phải làm trong ngành này.
Bảng: FDI thực hiện theo ngành ở Việt Nam
Đơn vị: 1000USD
TT Lĩnh vực Số dự Vốn đăng Tỷ Vốn thực Tỷ % vốn
án ký trọng hiện trọng thực
% % hiện
I. CN & Xây
dựng 2467 21.185.196 55,27 13.421.135 64,29 63,35
1. CN nặng 1007 8.334.528 21,73 4.267.101 20,44 55,51
2. CN nhẹ 996 5.123.096 13,36 2.420.831 11,59 47,25
3. Xây dựng 242 3.341.516 8,71 1.921.219 9,20 57,5
4. CN thực 193 2.449.000 6,39 1.466.000 7,02 59,86
phẩm
5. CN dầu khí 29 1.937.533 5,05 3.346.083 16,05 172,69
II. Nông lâm – 481 2.648.413 6,65 1.323.330 6,35 54,66
Ngư nghiệp
6. Nông lâm 401 2.420.888 6,31 1.216.925 5,83 50,26
nghiệp
7. Thuỷ sản 80 227.525 0.59 106.405 0,51 46,76
III. Dịch vụ 763 14.520.069 38,08 6.125.828 29,36 42,18
8. XD văn
phòng căn hộ 104 3.424.395 8,93 1.607.449 7,70 46,94
9. Khách sạn du
lịch 132 3.234.537 8,43 2.020.414 9,68 62,46
10. GTVT – bưu
điện 108 2.572.098 6,71 997.389 4,769 38,77
11. XD khu đô
thị mới 3 2.466.674 6,43 395.000 1,89 16,01
12. XD hạ tầng
KCX – KCN 17 877.675 2,29 486.793 2,33 55,46
13. DVụ khác 224 731.545 1,91 261.412 1,25 35,73
14. VH – Ytế –
GD 128 611.095 1,59 206.498 0,99 33,78
15. TC – Ngân
hàng 47 602.050 1,57 555.478 2,66 92,26
Tổng số: 3711 38.126.153 100 20.880.293 54,76
Nguồn: Vụ đầu tư trực tiếp nước ngoài – Bộ KHĐT
Tình hình thực hiện các dự án FDI trong ngành dịch vụ – nông lâm nghư nghiệp.
Nhìn chung hai ngành nàý số dự án đầu tư vào ít hơn là ngành công nghiệp với số
vốn đăng kưý ít hơn nhưng với điều kiện kinh tế xã hội và nhu cầu thực tế ở nước ta hiện
nay đã làm cho các dự án nay thực hiện một cách chậm chạp. Hầu hết các ngành thực
hiện ở mức dưới 50% riêng chỉ có ngành tài chính ngân hàng là hoạt động có hiệu quả và
thực hiện tốt, với số dự án là 47 dự án vốn đăng ký là 602050 nghìn USD, vốn thực hiện
là 555478 nghìn USD; phần trăm vốn thực hiện là 92,26% còn những ngành quan trọng
khác như du lịch – khách sạn, xâý dựng hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất đều thực
hiện ở mức trung bình chỉ khoảng xấp xy 60%
Tình hình thực hiện các dự án FDI ở
Việt Nam trong thơì gian qua
Lời Nói đầu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh
tế của các nước .Bên cạnh việc cung cấp , đầu tư trực tiếp nước ngoài còn tạo ra điều kiện
chuyển giao công nghệ,kỹ năng và bí quyết quản lý tăng năng lực sản xuấtvà năng xuất
lao động, mở rộng thị trường, xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh của công nghiệp nội
địa, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Việt Nam đang trong quá trình phát triển và hội nhập,tham gia vào môi trường
cạnh tranh đầy sôi động của khu vực nói riêng và thế giới nói chung.Bởi vậy khi mà
chúng ta còn thiếu vốn, yếu kém về kỹ thuật thì nhu cầu về vốn và công nghệ là rất lớn và
trở lên cần thiết hơn bao giờ hết.Nhân tố có thể đem lại điều nàý đó là đầu tư trực tiếp
nước ngoài FDI. Xong vấn đề đặt ra là việc thu hút và sử dụng vốn này ra sao có đáp ứng
dược nhu cầu phát triển của nền kinh tế không?Một trong những khâu quan trọng góp
phần có thể nói là quyết định đến công cuộc đầu tư .Đó là thực hiện các dự án đầu tư .
Do dự án đầu tư có các đặc điểm khác biệt :tồn tại lâu dài hoạt động lâu, tính cố
định, tính cá biệt.Cho nên việc thực hiện các dự án diễn ra phức tạp và khó khăn nên
chúng ta phải đưa ra các giải pháp này.
Kết cấu của đề án gồm các phần:
Lời nói đầu
Chương I : Khái quát chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
Chương II: Tình hình thực hiện các dự án FDI ở Việt Nam trong thơì gian qua
Chương III:Giải pháp đẩy nhanh thực hiện các dự án FDI
Kết luận
Chương I
Khái quát chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
I. Tổng quan về nguồn vốn FDI trong đầu tư quốc tế.
1. Khái niệm về đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế được định nghĩa là sự di chuyển tài sản như vốn, công nghệ, kỹ
năng quản lý sang nước khác để kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận cao trên phạm
vi toàn cầu. Nước nhận đầu tư gọi là nước chủ nhà, nước chủ đầu tư gọi là nước đầu tư.
Đầu tư quốc tế còn mang một số đặc trưng khác với đầu tư nội địa:
- Chủ sở hữu đầu tư là người nước ngoài: đặc điểm này có liên quan tới các
khía cạnh về quốc tịch, luật pháp, ngôn ngữ, phong tục tập quán. Đây là yếu tố tăng thêm
tính rủi ro và tăng chi phi đầu tư ở nước ngoài.
- Các yếu tố đầu tư ra khỏi biên giới: Đặc điểm này có liên quan tới các khía
cạnh chính sách, luật pháp, hải quan và cước phí vận chuyển.
Vốn đầu tư được tính bằng ngoại tệ. Đặc điểm này có liên quan tới tỷ giá hối đoái
và các chính sách tài chính tiền tệ của các nước tham gia đầu tư.
- Đầu tư quốc tế được biểu hiện chủ yếu qua hai hình thức cơ bản: Đầu tư
trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp nước ngoài.
2. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Khái niệm.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó
người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản ký và điều hành hoạt động sử
dụng vốn. Sự ra đời và phát triển của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là kết quả tất
yếu của quá trình quốc tế hoá và phân công lao động quốc tế.
Theo hiệp hội luật quốc tế (1966): “đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước
của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó xí nghiệp kinh doanh
hoặc dịch vụ”.
Theo luật đầu tư nước ngoài ban hành tại Việt Nam năm 1987 và được bổ sung
hoàn thiện sau bốn lần sửa đổi (1989, 1992, 1996, 2000) “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là
việc các tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài
hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên
cơ sở hợp đồng hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài”.
Như vậy, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động di chuyển vốn của cá
nhân và tổ chức nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ
hay từng phần cơ sở đó. Xuất phát từ khái niệm, chúng ta có thể rút ra một vài đặc điểm
về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đặc điểm.
Một là: Các chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp
định, tuỳ theo luật đầu tư nước ngoài (tại Việt Nam, khi liên doanh, số vốn góp của bên
nước ngoài phải lớn hơn hoặc bằng 30% vốn pháp định).
Hai là: Quyền quản lý xí nghiệp tuỳ thuộc vào mức độ góp vốn. Đối với doanh
nghiệp liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh thì quyền quản lý doanh nghiệp và
quản lý đối tượng hợp tác tuỳ thuộc vào mức vốn góp của các bên tham gia, còn đối với
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì người nước ngoài (chủ đầu tư) toàn quyền quản
lý doanh nghiệp.
Ba là: Lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh
doanh và được chia theo tỷ lệ vốn góp.
Bốn là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện thông qua việc xây dựng
doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc sát
nhập các doanh nghiệp với nhau.
Năm là: Đầu tư nước ngoài không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn gắn với
chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý và tạo ra thị
trường mới cho cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư.
Sáu là: Đầu tư nước ngoài hiện nay gắn liền với các hoạt động kinh doanh quốc tế
của các công ty đa quốc gia.
3. Các đặc trưng cơ bản của các hình thức FDI.
Các đặc trưng chủ yếu của các hình thức đầu tư FDI là:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh: là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều
bên, quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành
kinh doanh ở nước chủ nhà, mà không thành lập pháp nhân mới. Nó có đặc trưng là các
bên cùng nhau hợp tác kinh doanh trên cơ sở phân định trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa
vụ rỏ ràng, không thành lập pháp nhân mới; mỗi bên làm nghĩa vụ với nước chủ nhà theo
quy định riêng. Hình thức này khá phổ biến trong các nước đang phát triển và được áp
dụng chủ yếu tại Việt Nam.
- Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp được thành lập tại nước chủ nhà
trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa bên chủ nhà và bên nước ngoài để đầu tư, kinh
doanh tại nước chủ nhà và có tư cách pháp nhân. Hình thức này có đặc trưng: Dạng công
ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước chủ nhà; mỗi bên
liên doanh có trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần
vốn đóng góp của mình vào vốn pháp định. Hình thức liên doanh có nhiều ưu điểm hơn
các hình thức FDI khác.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Là doanh nghiệp thuộc sỏ hữu của
nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý
và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Đặc trưng là: Dạng đầu tư trách nhiệm hữu
hạn, có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước chủ nhà; sở hữu hoàn toàn của nước
ngoài; chủ đầu tư nước ngoài tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
- Hợp đồng BOT: là văn bản ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ
quan có thẩm quyền tại nước chủ nhà, để đầu tư xây dựng, mở rộng nâng cấp, khai thác
công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định (Thu hồi vốn và có lợi nhuận
hợp lý) sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà. Hình
thức này có đặc trưng: Cơ sở pháp lý là hợp đồng, vốn đầu tư là của nước ngoài, hoạt
động dưới hình thức các doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài, chuyển giao không bồi hoàn cho Việt Nam; đối tượng hợp đồng là các công trình
hạ tần cơ sở.
Các dạng của BOT là hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO) được
hình thành tương tự như BOT, nhưng sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư nước
ngoài giao lại cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà dành cho nhà đầu tư nước
ngoài quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định nào đó để thu hồi vốn
đầu tư và có lợi hợp lý.
Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT): Được hình thành tương tự BOT, nhưng
sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài bàn giao lại cho nước chủ nhà, chính phủ
nước chủ nhà trả cho nhà đầu tư nước ngoài chi phí liên quan tới công trình và một tỷ lệ
thu nhập hợp lý.
II. Mối quan hệ giữa FDI với sự phát triển kinh tế của nước nhận đầu tư.
1. Những tác động của FDI đối với nước nhận đầu tư.
Tác động tích cực.
Tăng trưởng kinh tế:
FDI là yếu tố quan trọng quyết định tốc độ tăng trưởng. Bổ sung nguồn vốn trong
nước và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại,
kỹ xảo chuyên môn và phát triển khả năng công nghệ nội địa; phát triển nguồn nhân lực
và tạo việc làm; thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với thị trường thế giới; tạo liên kết
giữa các ngành công nghiệp
Vốn đầu tư và cán cân thanh toán quốc tế
FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn – của các
nước nhận đầu tư đặc biệt là các nước đang phát triển vì hầu hết các nước đang phát triển
đều rơi vào cái “vòng luẫn quẩn” đó là thu nhập thấp dẫn đến thu nhập thấp nên đầu tư
thấp rồi hậu quả lại là thu nhập thấp. Tình trạng luẫn quẩn này chính là điểm nút khó
khăn nhất mà các nước này phải vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo tăng trưởng kinh tế
hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng trì trệ của sự nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và
tạo ra được điểm đột phá chính xác một mắt xích của “vòng luẫn quẫn”. Trở ngại lớn
nhất để thực hiện điều đó đối với các nước đang phát triển đó là vốn đầu tư vào kỹ thuật.
Do vậy vốn nước ngoài sẽ là một “cú huých” để góp phần đột phá cái vòng luẫn quẩn đó.
Đặc biệt FDI là một nguồn vốn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không
gây nợ cho nước nhận đầu tư. Hơn nữa luồng vốn này có lợi thế hơn đối với vốn vay ở
chổ: thời hạn trả nợ vốn vay thường cố định và đôi khi quá ngắn so với một số dự án đầu
tư, còn thời hạn của FDI thì thường linh hoạt hơn. FDI còn là nguồn vốn quan trọng
không chỉ để bổ sung nguồn vốn nói chung mà cả sự thiếu hụt về ngoại tệ nói riêng bởi vì
FDI góp phần nhằm tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng khả năng xuất khẩu của nước
nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài, thu ngoại tệ từ các hoạt
động dịch vụ phục vụ cho FDI.
Chuyển giao và phát triển công nghệ
FDI được coi là nguồn quan trọng để phát triển công nghệ của nước chủ nhà. Vai trò này
được thể hiện qua hai khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẳn có từ bên ngoài vào
và phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà.
Đây là những mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ các nhà đầu tư nước
ngoài.
Bên cạnh chuyển giao công nghệ sẵn có, thông qua FDI các công ty xuyên quốc
gia còn góp phần tích cực đối với tăng cường nghiên cứu và phát triển công nghệ của
nước chủ nhà. Các hoạt động cải tiến công nghệ của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
đã tạo ra nhiều mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu,
ứng dụng công nghệ trong nước. Nhờ đó đã gián tiếp tăng cường năng lực phát triển công
nghệ địa phương. Mặt khác trong quá trình sử dụng công nghệ nước ngoài các nhà đầu tư
và phát triển công nghệ trong nước học được cách thiết kế, chế tạo ... công nghệ nguồn,
sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương và biến chúng thành
công nghệ của mình. Nhờ có những tác động tích cực trên, khả năng công nghệ của nước
chủ nhà được tăng cường, vì thế nâng cao năng suất các thành tố , nhờ đó thúc đẩy được
tăng trưởng.
Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm .
Nguồn nhân lực có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động sản xuất, các vấn đề xã
hội và mức độ tiêu dùng của dân cư. Việc cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua đầu
tư vào các lĩnh vực: sức khoẻ, dinh dưỡng, giáo dục, đào tạo ngành nghề và kỹ năng quản
lý sẽ tăng hiệu quả nguồn nhân lực, nâng cao được năng suất lao động và các yếu tố sản
xuất khác, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng.
Ngoài ra, tạo việc làm không chỉ tăng thu nhập cho người lao động mà còn góp
phần tích cực giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ
tăng trưởng.
FDI ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo ra công ăn việc làm thông qua việc cung
cấp việc làm trong các hãng có vốn đầu tư nước ngoài. FDI còn tạo ra nhửng cơ hội việc
làm trong những tổ chức khác khi các nhà đầu tư nước ngoài mua hàng hoá dịch vụ từ
các nhà sản xuất trong nước, hoặc thuê họ thông qua các hợp đồng gia công chế biến.
Thông qua khoản trợ giúp tài chính hoặc mở các lớp đào tạo dạy nghề, FDI còn
góp phần quan trọng đối với phát triển giáo dục của nước chủ nhà. Nhiều nhà đầu tư
nước ngoài đã đóng góp vào quỹ phát triển giáo dục phổ thông, cung cấp thiết bị giảng
dạy... FDI còn nâng cao năng lực quản lý của nước chủ nhà theo nhiều hình thức như các
khoá học chính quy, không chính quy, học thông qua làm.
Tóm lại FDI đem lại lợi ích về công ăn việc làm. Đây là một tác động kép: tạo
thêm việc làm củng có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao động từ đó tạo điều
kiện tích luỹ trong nước.
Thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận thị trường thế giới.
Thông qua FDI, các nước đang phát triển có thể tiếp cận với thị trường thế giới
bởi vì: Hầu hết các hoạt động FDI đều do các công ty xuyên quốc gia thực hiện, mà các
công ty này có lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn
dựa trên cơ sở thay thế và uy tín của họ về chất lượng, kiểu dáng sản phẩm và giao hàng
đúng hẹn...
Liên kết các ngành công nghiệp.
Liên kết giữa các ngành công nghiệp được biểu hiện chủ yếu qua tỷ trọng giá trị
hàng hoá (tư liệu sản xuất, nguyên vật liệu đầu vào), dịch vụ trao đổi trực tiếp từ các công
ty nội địa trong tổng giá trị trao đổi của các công ty nước ngoài ở nước chủ nhà. Việc
hình thành các liễn kết này là cơ sở quan trọng để chuyển giao công nghệ, phát triển
nguồn nhân lực và thúc đẩy xuất nhập khẩu của nước chủ nhà.
Cụ thể: Qua các hoạt động cung ứng nguyên vật liệu, dịch vụ cho các công ty
nước ngoài sản xuất hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp nội địa phát triển năng lực sản
xuất của mình (mở rộng sản xuất, bắt chước quá trình sản xuất và mẫu mã hàng hoá...)
sau một thời gian nhất định các doanh nghiệp trong nước có thể tự xuất nhập khẩu được.
Các tác động khác.
Ngoài những tác động trên, FDI còn tác động đáng kể đến các yếu tố ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế như: chất lượng môi trường, cạnh tranh và độc quyền, chuyển
dịch cơ cấu nền kinh tế, hội nhập khu vực vào quốc tế.
FDI tác động mạnh đến cạnh tranh và độc quyền thông qua việc thêm vào các đối
thủ cạnh tranh hoặc sử dụng sức mạnh của mình để khống chế thị phần ở nước chủ nhà.
Từ thúc đẩy cạnh tranh, FDI góp phần làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn,
nhờ đó thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Nhờ có FDI, cơ cấu nền kinh tế của nước chủ nhà chuyển dịch nhanh chóng theo
chiều hướng tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp dịch vụ và giảm tỷ trọng các
ngành nông nghiệp, khai thác trong GDP.
FDI là một trong nhửng hình thức quan trọng của các hoạt động kinh tế đối ngoại
và nó có liên quan chặt chẽ đến các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của các
quốc gia, do đó sự phát triển của lĩnh vực này thúc đẩy sự hoà nhập khu vực và quốc tế
của nước chủ nhà.
Tác động tiêu cực.
Chuyển giao công nghệ lạc hậu:
Chuyển giao công nghệ thông qua FDI phần lớn được chuyển giao giữa các chi
nhánh của công ty đa quốc gia sang các nước đang phát triển ở hình thừc 100% vốn nước
ngoài và doanh nghiệp liên doanh có phần lớn vốn nước ngoài, dưới các hạng mục chủ
yếu như những tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng,
kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ marketting. Nhưng các công
ty này rất hạn chế chuyển giao những công nghệ mới có tính cạnh tranh cao cho các chi
nhánh của chúng ở nước ngoài vì sợ lộ bí mật hoặc mất bản quyển công nghệ do việc bắt
chước, cải biến hoặc nhái lại công nghệ của các công ty nước chủ nhà. Các công ty này
lợi dụng sự yếu kém của nước chủ nhà họ đã chuyển giao những công nghệ đã lạc hậu cũ
kỹ nhưng giá đắt như giá công nghệ mới làm cho sản xuất sản phẩm kém chất lượng,
hàng hoá không tiêu thụ được.
Phụ thuộc vào nền kinh tế nước khác.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc đưa vốn từ nước ngoài vào trong nước để đầu
tư dẫn đến nền kinh tế trong nước phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài làm cho nền kinh
tế trong nước mất chủ động trong việc điều tiết và sản xuất.
Chi phí thu hút đầu tư.
Để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài hàng năm nước chủ nhà phải chịu một
khoản rất lớn tiền chi phí cho việc thu hút vốn đầu tư như việc xúc tiến đầu tư chi phí cho
bộ máy quản lý, chi phí cho việc giao tiếp, xây dựng cơ sở hạ tầng, mà khoản chi phí này
nước chủ nhà chủ yếu chi bằng tiền ngân sách và tiền đi vay. Khoản chi phí này là rất
lớn.
Sự can thiệp bất lợi của các tổ chức kinh tế vào nền kinh tế quốc dân.
Các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào nước chủ nhà họ chỉ muốn đầu tư vào
những ngành có lợi nhuận cao (ngành nhạy cảm), họ can thiệp sâu vào ngành kinh tế, can
thiệp sâu vào thị trường làm lũng loạn thị trường trongnước.
Xu hướng đẩy các công ty trong nước phá sản.
Các công ty nước ngoài có uy tín, chất lượng, mẫu mã hàng hoá đẹp dẫn đến cạnh
tranh rất mạnh đối với hàng hoá trong nước làm cho các hàng hoá sản xuất ở các công ty
trong nước không tiêu thụ được đã làm cho các công ty trong nước thua lỗ và họ không
còn đủ khả năng để sản xuất tiếp.
Sản xuất hàng hoá không thích hợp.
Khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư sang nước chủ nhà họ chưa nghiên cứu kỹ
thị trường dẫn đến sản xuất hàng hoá không phù hợp với thị trường.
Ô nhiễm môi trường.
Chất thải của các công ty nước ngoài, nhất là các ngành khai thác chế tạo là một
trong những nguyên nhân quan trọng gây nên tình trạng ô nhiểm môi trường trầm trọng ở
các nước đang phát triển. Đặc biệt là khi họ chuyển giao những công nghệ lạc hậu thì
khối lượng chất thải còn tăng lên rất nhiều.
Các nhà đầu tư thường tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế do các nhân tố
đầu vào.
Khi họ chuyển giao những công nghệ họ lợi dụng sự yếu kém về trình độ của nước
chủ nhà đã tính giá các yếu tố đầu vào cao hơn mà nước chủ nhà không thể biết.
2. Những đóng góp cụ thể của FDI đối với Việt Nam.
Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành
phần kinh tế khác. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là chỉ tiêu quan trọng, góp phần
khai thác các nguồn lực trong nước mở rộng hợp tác quốc tế tạo nên sực mạnh tổng hợp
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển nền kinh tế đất nước vững
chắc ổn định.
Những đóng góp tích cực.
Hoạt động thu hút FDI ở Việt Nam thời gian qua đã đóng góp tích cực vào việc
thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, góp phần tạo động
lực và điều kiện cho việc điều chỉnh chính sách kinh tế.
FDI là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát triển, là một
trong những điều kiện tiên quyết để thức hiện chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước. Từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cho đến nay bình quân
mỗi năm FDI thực hiện 1,112 triệu USD, chiếm khoảng 26,5% tổng vốn đầu tư xây dựng
cơ bản toàn xã hội. Giúp Việt Nam phát triển nền kinh tế cân đối theo hướng công nghiệp
hoá - hiện đại hoá góp phần đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trung bình khoảng 7,3%
trong thời gian qua và là động lực cho việc khai thác và phát huy có hiệu quả trong việc
sử dụng các nguồn lực trong nước.
FDI góp phần tạo ra năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, làm cho nước
ta từng bước chuyển biến theo hướng kinh tế thị trường hiện đại, góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá: khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có
chỉ số phát triển cao hơn chỉ số phát triển của các thành phần kinh tế khác và cao hơn chỉ
số phát triển chung của cả nước (năm 1997 chỉ số này là 120,75%/108,15%, năm 1998 là
116,88%/105,8%) tỷ trọng của khu vực FDI trong tổng sản phẩm trong nước có xu
hướng tăng lên ổn định qua các năm (1995: 6,3%, 1998: 10,12%, 1999: 10,3%)
Đối với ngành công nghiệp các doanh nghiệp FDI chiếm tỷ trọng cao và có xu
hướng tăng lên đáng kể trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành. Trong ngành nông
nghiệp tính đến nay có hơn 300 dự án FDI đang hoạt động với tổng vốn đăng ký khoảng
2 tỷ USD, góp phần đáng kể nâng cao năng lực sản xuất chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp,
chuyển giao nhiều giống cây con với sản phẩm chất lượng cao, nâng cao khả năng cạnh
tranh trên thị trường thế giới.
Nhiều công nghệ hiện đại được chuyển giao vào Việt Nam đã tạo ra bước ngoặt
mới trong sự phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn như khai thác dầu khí,viễn thông,
công nghiệp, điện tử, vật liệu xây dựng...
FDI đóng góp ngày càng tăng vào hoạt động ngoại thương, góp phần cải
thiện cán cân thanh toán quốc tế, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới,
tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế. Thông qua thực hiện các dự án đầu
tư, các nhà đầu tư nước ngoài đã trở thành cầu nối tạo điệu kiện để Việt Nam nhanh
chóng tiếp cận với thị trường thế giới, mở rộng bạn hàng và thị phần ở nước ngoài. Nhờ
có lợi thế trong hoạt động thị trường thế giới nên tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
của các doanh nghiệp FDI cao hơn tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của cả nước
và cao hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước. Năm 1995 các doanh nghiệp FDI xuất khẩu
440,1 triệu USD chiếm 8,1% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; tương ứng năm 1996 là
786 triệu USD chiếm 10,8%; con số này năm 1999 là 2,577 triệu USD chiếm 22,3% và
thời điểm hiện nay con số này còn tăng cao hơn nhiều.
FDI đã đóng góp một phần quan trọng vào tổng GDP, tạo nguồn thu ngân
sách lớn cho đất nước. Các doanh nghiệp FDI đóng góp vào GDP ở mức 7,7% năm 1996
và 9%năm 1998 nhưng nguồn thu ngân sách ở khu vực này liên tục gia tăng.
Các doanh nghiệp FDI đã góp phần tạo ra một khối lượng lớn chổ làm việc
trực tiếp và gián tiếp, tham gia phát triển nguồn nhân lực, đem lại phương thức quản lý,
kinh doanh mới, tạo động lực cạnh tranh, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước hoàn
thiện năng lực sản xuất của mình để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế
giới: tính đến nay, các doanh nghiệp FDI đã tạo việc làm cho khoảng 33 vạn lao động với
thu nhập bình quân 70 USD/người/ tháng, ngoài ra còn tạo ra hàng vạn việc làm gián
tiếp. Như vậy số lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI và các bộ phận liên quan
bằng khoảng 39% tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực nhà nước. Các
con số này liên tục tăng trong những năm gần đây.
Ngoài ra FDI còn giúp đẩy nhanh tốc độ tăng trưỡng nền kinh tế, tiếp nhận
thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến nhờ đó rút ngắn khoảng cách so với thế giới. Sử
dụng có hiệu quả những lợi thế của đất nước mà trước đây không thể thực hiện do thiếu
vốn như khai thác dầu mỏ, khai khoáng... Học tấp kinh ngiệm quản lý kinh doanh trong
điều kiện kinh tế thị trường của các nước tiên tiến.
Một số tồn tại.
Hệ thống luật pháp, chính sách của chúng ta đang trong quá trình hoàn
chỉnh nên thiếu đồng bộ, chưa cụ thể, các biện pháp khuyến khích cũng chưa hệ thống cơ
chế chính sách tài chính, đặc biệt là lĩnh vực thuế chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư.
Môi trường đầu tư ở Việt Nam còn nhiều rủi ro do chính sách hay thay đổi, thiếu rỏ ràng,
cơ sở hạ tầng yếu kém, khó khăn trong chuyển đổi ngoại tệ, chi phí đắt đỏ.
Hiệu quả kinh tế – xã hội của khu vực FDI thời gian qua chưa cao. Các dự
án FDI còn tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn và các địa phương có nhiều thuận lợi,
những ngành có lợi nhuận cao, thu hồi vốn đầu tư nhanh còn nhiều dự án rút giấy phép
đầu tư. Kim ngạch xuất khẩu gia tăng nhưng thấp hơn nhiều nước trong khu vực, chính
sách khuyến khích xuất khẩu chưa hấp dẫn, hàng xuất khẩu chủ yếu là gia công nên giá
trị gia tăng thấp, thiết bị máy móc chuyển giao vào Việt Nam để thực hiện các dự án còn
lạc hậu, giá cả cao, nhiều doanh nghiệp FDI hoạt động kinh doanh không có hiệu quả, lao
động FDI phổ biến là lao động phổ thông.
Công tác xây dựng và quy hoạch cụ thể trong cả nước cũng như từng vùng,
từng địa phương chưa được thực hiện nhằm đảm bảo yêu cầu, điều kiện mới cà gắn với
quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội. Công tác tuyên truyền vận động xúc tiến đầu tư còn
thụ động. Nghiên cứu đối với nước ngoài còn nhiều khiếm khuyết do thiếu thông tin.
Công tác quản lý nước ngoài đối với FDI còn yếu kém và sơ hở, vừa buông
lỏng, vừa gây phiền hà, can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp FDI. Thủ tục đầu tư còn phức tạp, còn nhiều tiêu cực gây khó khăn trong quá
trình triển khai dự án, tốn kém thời gian, tiền của của nhà đầu tư, ảnh hưởng xấu đến môi
trường đầu tư.
Năng lực và trình độ cán bộ phía Việt Nam còn hạn chế, đại bộ phận chưa
được đào tạo, thiếu kiến thức chuyên môn, không nắm vững pháp luật, thiếu kinh ngiệm
kinh doanh quốc tế. Nhận thức về vai trò, vị trí của lĩnh vực FDI chưa thống nhất, thiếu
thông tin trong lĩnh vực quản lý FDI, công tác kiểm tra báo cáo chưa đồng bộ, thiếu kịp
thời, chất lượng chưa cao nên ảnh hưởng đến quản lý vĩ mô của nhà nước.
Chương II
Tình hình thực hiện các dự án fdi ở Việt Nam trong thời gian qua
I. Tình hình thực hiện chung các dự án của cả nước.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua đã có những đóng
góp không nhỏ cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nguồn vốn FDI là một bộ
phận quan trọng trong nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Nguồn vốn này đã góp phần to lớn
vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên trong thực tiễn hiện nay, tình hình triển khai
thực hiện cá dự án FDI tại Việt Nam đang gặp không ít khó khăn và ở mức độ trung bình,
thậm chí nhiều dự án FDI bị giải thể đã làm nản lòng nhà đầu tư nước ngoài và ảnh
hưởng không tốt đến moi trường đầu tư ở Việt Nam. Thực tiển này đòi hòi Việt Nam
phải có những nhìn nhận và đánh giá ngiêm túc để có ngay những ứng xử cần thiết nhằm
cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường triển khai các dự án FDI và hấp dẫn các nhà đầu
tư nước ngoài. Để có cái nhìn rõ ràng, cụ thể hơn về tình hình thực hiện các dự án FDI
chúng ta xét tình hình đầu tư thực hiện theo các khía cạnh sau:
1. Tình hình thực hiện dự án FDI tại Việt Nam thời gian qua.
Kể từ khi luật đầu tư nước ngoài có hiệu lực đến hết năm 2002 thì vốn đăng kýưư
đầu tư giảm qua các năm có xu hướng giảm. Năm 1996 vốn đăng kưý đầu tư là 8640
triệu USD, nhưng đến năm 2002 chỉ có 1558 triệu USD. Điều đó cho thấy đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI vào Việt Nam có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Ngược
lại tình hình thực hiện các dự án thì ngàý càng thực hiện tốt hơn số vốn đăng ký. Qua số
liệu ta thấy số vốn thực hiện ở các năm càng về sau càng tôt như năm 1999 phần trăm
vốn thực hiện là: 138,97%, năm 2000:110,63%, năm 2002: 150,51%. Các năm này không
chỉ thực hiện số vốn đăng ký trong năm mà còn thực hiện cả số vốn đăng ký trong năm.
Như vậy tình hình thực hiện đầu tư thì có xu hướng tăng nhưng hiệu quả thực hiện các dự
án thì chưa cao đó cũng là điều cần phải bàn của các ngành các cấp và cũng do các chủ
đầu tư.
Bảng: FDI thực hiện qua các năm ở Việt Nam :
Đơn vị tính: Triệu USD
N¨ m
88 - 95 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
ChØtiªu
Vèn ®¨ ng ký 17,826 8640 4649 3897 1568 2014 2536 1558
Vèn thùc hiÖn 7153 2923 3137 2364 2179 2228 2300 2345
% vèn thùc hiÖn 40,13% 33.83% 67,48% 60,66%138,97%110,63% 90,69% 150,51%
N
guồn: vụ quản lý dự án ĐTNN – Bộ KHĐT
2. Tình hình thực hiện dự án FDI theo hình thức đầu tư tại Việt Nam giai đoạn
1998 – 2002.
Khi nhìn vào bảng số liệu và vốn thực hiện theo hình thức đầu tư đến năm 2002 có
3711 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với số vốn đăng ký là 38126152 nghìn USD vốn
thực hiện là 20880292 nghìn USD, phần trăm thực hiện vốn là 54,76%. Trong đó thì hình
thức hợp đồng hợp tác kinh doanh thực hiện tốt nhất với số dự án là 157 dự án, vốn đăng
ký là 3905125 nghìn USD, phần trăm vốn thực hiện là 105,58%. Nhưng nhiền một cách
tổng thể thì các hình thức đầu tư đều thực hiện chuâ tốt như hình thức BOT, BTO, BT
đây là hình thức rất quan trọng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng kỷ thuật thì chúng ta
thực hiện chưa tố, chỉ có 6 dự án với số vốn đăng ký 1332975 nghìn USD, vốn thực hiện
là 262437 nghìn USD và % vốn thực hiện là 19,68% là rất yếu, còn các hình thức khác
cũng chỉ thực hiện được trên dưới 50%. Đây là điều lo ngại trong điều kiện sự phát triển
kinh tế rất mạnh ở khu vực, thế giới và sự thụt lùi của Việt Nam .
Bảng FDI thực hiện theo hình thức đầu tư ở Việt Nam
Đơn vị: 1000USD
TT Hình thức Số dự Vốn đăng Tỷ Vốn thực Tỷ % vốn thực
đầu tư án ký trọng % hiện trọng hiện
%
1 100% vốn
đầu tư 2463 14.472.403 37,96 6.958.458 33,32 48.08
nước ngoài
2 Liên doanh 1085 18.415.649 48,30 9.536.283 45,67 51,78
3 Hợp đồng
hợp tác KD 157 3.905.125 10,24 4.123.115 19,75 105,58
4 Hợp đồng
BOT,
BTO, BT 6 1.332.975 3,50 262.437 1,26 19,68
Tổng số 3.711 38.126.152 100 20.880.293 100 54,76
Nguồn: vụ quản lý dự án – bộ KHDT
3. Tình hình thực hiện các dự án FDI theo đối tác đầu tư tại Việt Nam tính
đến hết ngày 31/12/2002
Bảng: FDI thực hiện theo đối tác đầu tư ở Việt Nam
Đơn vị: 1000USD
TT Quốc gia & Số Vốn đăng Tỷ Vốn thực Tỷ % vốn
vung lãnh thổ dự ký trọng hiện trọng thực
án hiện
1 Singapore 269 7.277.302 2,89 3.679.173 21,52 50,55
2 Đài Loan 812 5.496.566 18,80 3.424.234 20,03 62,29
3 Nhật Bản 376 4.311.336 14,74 3.280.799 19,19 76,09
4 Hàn Quốc 485 3.672.122 12,56 2.133.921 12,48 58,11
5 Hồng Kông 261 2.889.229 9,88 1.754.890 10,27 60,73
6 Pháp 124 2.094.432 7,16 849.281 4,97 40,54
7 Vương Quốc
Anh 161 1.817.780 6,21 908.502 5,31 49,97
8 Hà Lan 45 1.684.956 5,76 1.064.340 6,23 63,16
Tổng: 29.243.723 100 17.095.140 100
Nguồn: Vụ quản lý dự án – Bộ KHĐT
Đến thời điểm hiện nay chung ta vẫn chỉ có số ít những đối tác quen thuộc với số
vốn đầu tư vào nước ta không đáng kể so với số vốn mà các đối tác nàý đầu tư ra nước
ngoài.Trong số các đối tác trên thì Nhât Bản la nước có số dự án đăng ký nhiều nhất là
376 dự án và thực hiện tốt nhất với % vốn thực hiện là 76,09%. Nhưng số vốn đăng kưý
của Singapore lại là lớn nhất nhưng thực hiện lại không tốt bằng; số vốn đăng ký là
7277302 nghìn USD nhưng chỉ thực hiện được 3679173 nghìn USD ; % vốn thực hiện là
50,55% là thấp và chưa hiệu quả.
Nhìn trung tình hình thực hiện các dự án đầu tư theo đối tác đầu tư là ở mức trung
bình, hiệu quả chưa cao thậm chí có nước ở mức thấp: như Pháp;% vốn thực hiện chỉ có
40,54% mà nước này là một đối tác lý tưởng để chúng ta hợp tác nhưng chúng ta lại
không phát huy được,đây là một khiếm khuyết trong nền kinh tế quốc dan.
4. Tình hình thực hiện dự án FDI phân theo ngành giai đoạn
1998 – 2002.
Ngành công nghiệp – xây dựng.
Ngành công nghiệp là một ngành trọng điểm của tất cả các quốc gia trên thế giới
nói chung và đối với Việt Nam nói chung. Nguồn vốn FDI là một nguồn vốn quan trọng
để phát triển kinh tế đất nước là ngành công nghiệp non trẻ của chúng ta. Nó không chỉ
bổ sung nguồn vốn mà còn mang đến cho Việt Nam công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kinh
nghiệm quản lý tạo thêm nhiều ngành nghề, sản phẩm mới, qua đó góp phần khai thác tốt
hơn các nguồn lực, thúc đẩy tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá hiện đại hoá.
Hầu hết (tỷ trọng lớn) vốn đầu tư FDI vào Việt Nam là tập trung vào ngành công
nghiệp. Dựa vào bảng số liệu ta thấy số dự án vào ngành công nghiệp là 2467 dự án, vốn
đăng kưý 21185196 nghìn USD chiếm 55,27% vốn thực hiện là 13421135 nghìn USD và
phần trăm vốn thực hiện là 63,35% trong đó ngành công nghiệp dầu khí với số vốn đăng
kưý (là 1937533 nghìn USD) nhưng thực hiện tốt nhất với phần trăm vốn thực hiện là
172,69%. Đây cũng một phần do thế mạnh về điều kiện tự nhiên, còn các dự án thuộc
lĩnh vực khác cũng chỉ thực hiện được ở mực trung bình trên dưới 50% như ngành công
nghiệp nặng chỉ là 55,51% ngành công nghiệp nhẹ là 47,25%. Những con số này cho
thấy tình hình thực hiện của một ngành trọng điểm quốc gia là chưa ngang tầm với vị trí
của nó và đặt ra rất nhiều việc phải làm trong ngành này.
Bảng: FDI thực hiện theo ngành ở Việt Nam
Đơn vị: 1000USD
TT Lĩnh vực Số dự Vốn đăng Tỷ Vốn thực Tỷ % vốn
án ký trọng hiện trọng thực
% % hiện
I. CN & Xây
dựng 2467 21.185.196 55,27 13.421.135 64,29 63,35
1. CN nặng 1007 8.334.528 21,73 4.267.101 20,44 55,51
2. CN nhẹ 996 5.123.096 13,36 2.420.831 11,59 47,25
3. Xây dựng 242 3.341.516 8,71 1.921.219 9,20 57,5
4. CN thực 193 2.449.000 6,39 1.466.000 7,02 59,86
phẩm
5. CN dầu khí 29 1.937.533 5,05 3.346.083 16,05 172,69
II. Nông lâm – 481 2.648.413 6,65 1.323.330 6,35 54,66
Ngư nghiệp
6. Nông lâm 401 2.420.888 6,31 1.216.925 5,83 50,26
nghiệp
7. Thuỷ sản 80 227.525 0.59 106.405 0,51 46,76
III. Dịch vụ 763 14.520.069 38,08 6.125.828 29,36 42,18
8. XD văn
phòng căn hộ 104 3.424.395 8,93 1.607.449 7,70 46,94
9. Khách sạn du
lịch 132 3.234.537 8,43 2.020.414 9,68 62,46
10. GTVT – bưu
điện 108 2.572.098 6,71 997.389 4,769 38,77
11. XD khu đô
thị mới 3 2.466.674 6,43 395.000 1,89 16,01
12. XD hạ tầng
KCX – KCN 17 877.675 2,29 486.793 2,33 55,46
13. DVụ khác 224 731.545 1,91 261.412 1,25 35,73
14. VH – Ytế –
GD 128 611.095 1,59 206.498 0,99 33,78
15. TC – Ngân
hàng 47 602.050 1,57 555.478 2,66 92,26
Tổng số: 3711 38.126.153 100 20.880.293 54,76
Nguồn: Vụ đầu tư trực tiếp nước ngoài – Bộ KHĐT
Tình hình thực hiện các dự án FDI trong ngành dịch vụ – nông lâm nghư nghiệp.
Nhìn chung hai ngành nàý số dự án đầu tư vào ít hơn là ngành công nghiệp với số
vốn đăng kưý ít hơn nhưng với điều kiện kinh tế xã hội và nhu cầu thực tế ở nước ta hiện
nay đã làm cho các dự án nay thực hiện một cách chậm chạp. Hầu hết các ngành thực
hiện ở mức dưới 50% riêng chỉ có ngành tài chính ngân hàng là hoạt động có hiệu quả và
thực hiện tốt, với số dự án là 47 dự án vốn đăng ký là 602050 nghìn USD, vốn thực hiện
là 555478 nghìn USD; phần trăm vốn thực hiện là 92,26% còn những ngành quan trọng
khác như du lịch – khách sạn, xâý dựng hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất đều thực
hiện ở mức trung bình chỉ khoảng xấp xy 60%