Tính hàm súc trong thơ nguyễn trãi

  • 49 trang
  • file .pdf
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
&
LÊ THỊ HỒNG YẾN
MSSV: 6086300
TÍNH HÀM SÚC TRONG THƠ NGUYỄN
TRÃI
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn: NGUYỄN THỊ NGỌC BÍCH
Cần Thơ, năm 2012
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn chương là một phần không thể thiếu trong cuộc sống chúng ta. Nó như
là một món ăn tinh thần mang lại cho con người nhiều niềm vui và sự khám phá,
thưởng thức nhiều điều mới lạ. Bản thân mỗi con người chúng ta có lẽ có những
niềm đam mê văn chương khác nhau, riêng đối với chúng tôi, thơ ca chiếm một vị
trí rất quan trọng, đặc biệt là thơ ca Nguyễn Trãi, nó đem lại cho chúng tôi nhiều
thú vị và đam mê bởi những tính chất, những biện pháp nghệ thuật mang tầm vóc
thẩm mỹ bậc nhất của ông, có thể kể đến là tính hàm súc. Bản chất của thơ ca là
gợi lên những hình tượng không nói nên lời và cao hơn, vượt hẳn bức tranh được
miêu tả bằng lời...ý nghĩa xác thực của những điều nhà thơ nói lên vọng như một
tiếng vang, nó để lại cho người đọc tự khám phá những gì tàng ẩn giữa những
thanh âm và những vần điệu. Tính chất này được tác giả của nó thể hiện dưới
nhiều hình thức như ẩn dụ, hoán dụ, so sánh...Bởi vậy, tìm hiểu cái không nói ra,
tức “nội dung hàm súc” là một điều rất khó. Nhiều lúc nội dung này tưởng chừng
như mờ mịt, nhưng chỉ cần khám phá ra một “mã” thì tự nhiên nội dung của “cái
muốn nói lại không nói ra” sẽ hiện lên rõ rệt...Tính chất này thể hiện rất rõ nét
trong thơ Ức Trai.
Trong chương trình trung học phổ thông chúng tôi đã được làm quen và học
về tác gia Nguyễn Trãi, lên chương trình Đại học chúng tôi lại tiếp tục được tìm
hiểu sâu hơn về cuộc đời và con người ông, qua đó chúng tôi cảm thấy thật thú
vị khi được hiểu rõ hơn về một tác giả văn chương của nước ta không những trên
một phương diện mà ở nhiều góc độ khác nhau. Đọc thơ Nguyễn Trãi chúng tôi
thấy thật hay, thật sâu sắc, đặc biệt là tính hàm súc trong thơ ông. Với tính chất
đó, ông đã giúp chúng tôi hiểu được thế nào là “sự chấm dứt thiên thơ bằng một
sự mênh mông vô hạn”, nên chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu về tính hàm súc
trong thơ Nguyễn Trãi để nghiên cứu với sự cố gắng nổ lực hết mình của bản thân
trong luận văn tốt nghiệp của mình. Thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu đề tài
này, chúng tôi được học tập, tích lũy và nâng cao kiến thức cho mình nhiều hơn.
1LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
2. Lịch sử vấn đề
Từ những thế kỷ trước và cho đến hiện nay công việc nghiên cứu thơ văn
của tác giả Nguyễn Trãi được rất nhiều cá nhân và tập thể đã làm, có những công
trình đạt nhiều kết quả tốt nhưng cũng có những bài nghiên cứu còn sơ sài, tất cả
những công trình nghiên cứu, những bài viết, bài bình luận ấy đều là tấm lòng của
thế hệ sau đã kính trọng và tưởng nhớ đến tác giả Nguyễn Trãi. Tuy nhiên chúng
ta vẫn phải nhận thấy rằng chưa có một nhà nghiên cứu nào đưa ra những bài đánh
giá, tổng kết hoàn thiện nhất về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi – một nhà
chính trị đại tài, một anh hùng lừng lẫy của dân tộc. Qua việc tìm hiểu, chúng ta
cũng phải công nhận rằng đề tài về tác giả, sự nghiệp và những vấn đề liên quan
tới Nguyễn Trãi còn rất nhiều và là một đề tài rộng, vì vậy rất cần được đầu tư
nghiên cứu hơn nữa về Nguyễn Trãi. Bài nghiên cứu này chỉ là một phần nhỏ
trong hàng loạt vấn đề cần được tìm hiểu và khám phá về con người ấy. Có thể nói
Nguyễn Trãi là một trong những đại thi hào dân tộc, một danh nhân, một thi sĩ bậc
nhất trên thi đàn văn chương dân tộc và nhân loại, chính văn chương của ông đã
cho người đời biết nhiều hơn về ông.
- Bài viết của Đỗ Văn Hỷ trong Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm –
Nguyễn Hữu Sơn, có đề cập đến tính hàm súc trong thơ Nguyễn Trãi: “Tính chất
hàm súc thể hiện độc đáo trong thơ Ức Trai. Có nhiều bài thơ hình như tác giả chỉ
mô tả đơn thuần những sự việc tai nghe, mắt thấy, với một kết luận buông lửng,
không khép kín”. [8, tr. 531]. Thật vậy, thơ Nguyễn Trãi là thơ về thiên nhiên, về
đất nước, về nhân dân. Ở mỗi đề tài ông có thái độ khác nhau nhưng bao trùm
vẫn là một tình yêu chân thành và sâu sắc đối với dân tộc. Tuy nhiên, những tình
cảm mà nhà thơ gửi gắm trong đó không phải ai cũng cảm nhận được, bởi thơ ông
trầm lắng, ông ít khi nhấn mạnh những gì đang xảy ra và luôn hướng người đọc
đến nhiều kết luận khác nhau. Đó là cái hay “ý tại ngôn ngoại” trong thơ ông .Tuy
nhiên, bài viết này chỉ điểm qua sơ lược một số tác phẩm điển hình về tính hàm
súc trong thơ ông chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu.
- Nhà nghiên cứu người Nga Niculin nhận xét: “Thơ Nguyễn Trãi bằng chữ
Nôm có đặc điểm là tính cô đọng, sự không nói hết ý và lối ám dụ. Những đặc
2LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
điểm này cũng tiêu biểu cho thơ ca Viễn Đông nói chung” [7, tr. 588]. Sau vụ án
Lệ Chi Viên, văn chương Nguyễn Trãi được sưu tầm lại và được nhận định “Ức
Trai tâm thượng quang khuê tảo” (Lòng Ức Trai rực sáng ánh văn chương). Văn
chương của ông không chỉ rực rỡ ở mảng thơ Nôm – tập thơ Tiếng Việt xưa nhất
còn lại trong lịch sử văn học mà còn có nhiều thành tựu ở tập thơ chữ Hán. Nhận
xét của Nikulin có lẽ hơi phiến diện bởi không chỉ có thơ Nôm mà thơ chữ Hán
của ông cũng cô đọng và súc tích, đằng sau những câu thơ tưởng chừng như đơn
giản, là cả một hàm ý sâu xa mà tác giả đã gửi gắm trong đó. Cho nên chúng ta
cần nghiên cứu và khám phá những điều hay, điều lạ trong cả thơ chữ Nôm lẫn
chữ Hán của ông.
- Nhận xét của Lê Quý Đôn trong Toàn Việt thi lục: “Văn chương của
Nguyễn Trãi có khí cốt và phong cách, lời thơ giàu tình ý” [8, tr. 21]. Nhận xét
này rất phù hợp với văn chương Nguyễn Trãi. Là một người anh hùng dân tộc,
Nguyễn Trãi tự hào về truyền thống đánh giặc của dân tộc mình, khi nói về dân
tộc, về đất nước ông có những lời thơ, lời văn đầy khí phách. Còn khi ông nói về
thiên nhiên, khi hòa mình vào thiên nhiên ta thấy được tứ thơ của ông dạt dào,
muôn dặm, tạo cho người đọc nhiều xúc cảm. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là nhận xét
chủ quan của tác giả, chứ ông chưa đi sâu vào khai thác khía cạnh hàm súc trong
thơ Nguyễn Trãi.
- Nhận xét của soạn giả Nguyễn Năng Tĩnh: “Văn chương của tiên sinh tinh
vi, thâm thúy, rộng rãi, chính đáng, cứng rắn... Tiên sinh vốn không cố ý đúc
chuốt văn chương, nhưng một khi lời nói thổ lộ đều sáng sủa đẹp dẽ, mạnh mẽ,
dồi dào không có cái gì có thể che lấp được” [8, tr .51]. Như chúng ta thấy, văn
chương của Nguyễn Trãi đến giai đoạn ngày nay vẫn được lưu truyền, không bị
mai một, là do văn chương của ông đủ sức làm vẻ vang đất nước, như Nguyễn
Mộng Tuân đã nói “Kinh ban hoa quốc cổ vô tiền” (Cái tài điểm tô cho non sông
đất nước, làm cho hay cho đẹp thì từ xưa chưa bao giờ có). Trong văn chương của
mình, ông dùng những lời lẽ thiết thực mà không viển vông, chân thành mà không
kiểu cách. Ông không cố ý đúc chuốt văn chương nhưng khi đọc thơ văn ông, ai
trong mỗi chúng ta đều cảm nhận được sự tinh tế, hàm ý mà tác giả gửi gắm trong
đó. Nhưng trong nhận xét này, soạn giả chỉ đề cập đến những bài tuyên cáo và
3LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
mệnh lệnh viết trong quân thứ của Nguyễn Trãi chứ chưa đề cập đến thơ của ông.
3. Mục đích nghiên cứu
Đi sâu vào nghiên cứu đề tài “Tính hàm súc trong thơ Nguyễn Trãi” để
chúng ta thấy được cái hay, cái đẹp, cái tinh tế của thơ ông nói chung và của tính
hàm súc nói riêng, thông qua đó thấy được tài năng của tác giả cũng như giá trị
nghệ thuật của tác phẩm. Thông qua việc nghiên cứu về tính hàm súc cũng giúp
cho việc giảng dạy văn chương trong thời kì trung đại ở trường trung học phổ
thông, chương trình Đại học cũng như trên mọi lĩnh vực khác được tốt hơn và mở
rộng hơn.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng chủ yếu của chúng tôi cho đề tài này là cả phần thơ chữ Hán lẫn
chữ Nôm của Nguyễn Trãi, nguyên văn chữ Hán, chữ Nôm và các bản dịch từ các
nguồn văn bản Nguyễn Trãi toàn tập Tân Biên (tập 01, 03) do Mai Quốc Liên chủ
biên, Kiều Thu Hoạch – Vương Lộc – Nguyễn Khuê phiên âm và chú thích. Trong
quá trình tìm hiểu về tính hàm súc trong thơ Nguyễn Trãi chúng tôi cũng làm rõ
một số vấn đề liên quan về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Qua đó thấy được tài
năng nghệ thuật của nhà thơ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu bài luận văn đạt hiệu quả tốt nhất, chúng tôi phối hợp sử dụng
nhiều phương pháp.
Đầu tiên, chúng tôi đọc một số bài nghiên cứu có liên quan đến tác gia
Nguyễn Trãi, liên quan đến tính hàm súc rồi tổng hợp và ghi chép lại những vấn
đề cần thiết phục vụ cho bài nghiên cứu của mình. Sau đó, chúng tôi xem xét qua
tất cả tư liệu rồi phân loại, liệt kê nó, ghi lại những dẫn chứng phù hợp. Khi liệt kê
dẫn chứng thì phải có phân tích nên phương pháp phân tích được sử dụng để phân
tích những luận cứ, luận điểm đưa ra, làm sao để cho vấn đề được nói đến có sức
thuyết phục.
4LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. SƠ LƯỢC VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TRÃI
1.1. Cuộc đời Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi 阮 廌 hiệu Ức Trai 抑齋 ( 1380 – 1442 ) là nhà văn, nhà chính
trị, nhà tư tưởng Việt Nam kiệt xuất, vốn người xã Chi Ngại, huyện Phương Sơn,
lộ Lạng Giang, nay thuộc tỉnh Hải Dương, sau dời về xã Nhị Khê, huyện Thượng
Phúc, châu Thượng Phúc, lộ Đông Đô, nay thuộc tỉnh Hà Tây. Là con Nguyễn
Ứng Long 阮應 龍, tức Nguyễn Phi Khanh 阮 飛 卿, nhà văn thời Trần – Hồ và là
cháu ngoại Trần Nguyên Đán 陳 元 旦, nhà văn và là Tể tướng cuối triều Trần
1.1.1. Thời thơ ấu
Thuở trẻ, Nguyễn Ứng Long 阮 應 龍 nhà nghèo, phải ngồi dạy học ở nhà
quan tư đồ Trần Nguyên Đán 陳 元 旦, sau một thời gian ông được cô Trần Thị
Thái 陳 氏太 – con gái đầu lòng quan tư đồ, vốn là học trò của ông, đem lòng
yêu mến. Khi cô Thái 太 có mang, Ứng Long 應 龍 hoảng sợ trốn đi. Nhưng khi
Trần Nguyên Đán 陳 元 旦 biết chuyện, ông đã vui lòng hợp tác cho hai người.
Nguyễn Ứng Long 阮 應 龍 và Trần Thị Thái 陳 氏太 có với nhau 5 người con
trai : con đầu lòng là Nguyễn Trãi 阮 廌 , rồi đến Phi Báo, Phi Lân, Phi Bằng
và Phi Hùng. Trong thời gian Nguyễn Ứng Long 阮 應 龍 dạy học ở Nhị Khê,
Nguyễn Trãi 阮 廌 vẫn sống với mẹ ở Thăng Long 昇龍, trong dinh quan tư đồ.
Năm 1385 Trần Nguyên Đán 陳 元 旦 cáo quan về ở ẩn tại động Thanh Hư, trên
núi Côn Sơn 崑山 ( thuộc huyện Chí Linh 至 靈 tỉnh Hải Dương). Nguyễn Trãi
阮 廌 cũng theo mẹ và ông ngoại về đây. Ít lâu sau, bà Thái mất. Đến 1390, Trần
Nguyên Đán 陳 元 旦 cũng mất. Từ đó, Nguyễn Trãi 阮 廌 về làng Nhị Khê sống
với cha.
Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng Nguyễn Trãi 阮 廌 vẫn cố công học tập và
là người học rộng, tài cao, có kiến thức uyên bác về nhiều lĩnh vực. Có thể nói,
5LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ngay từ thời thơ ấu, Nguyễn Trãi 阮 廌 đã kế thừa những truyền thống tốt đẹp từ
gia đình, cả tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi 阮 廌 cũng là ảnh hưởng của ông
ngoại và cha mình. Chính truyền thống gia đình và những di sản văn hóa dân tộc
đã hun đúc nên một Nguyễn Trãi 阮 廌 có lòng yêu nước, thương dân tha thiết và
một nhà bác học uyên thâm.
1.1.2. Thời đánh giặc cứu nước
Ngày 28 tháng 02 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần, dựng
nên nước Đại Ngu. Cũng năm đó nhà Hồ mở khoa thi đầu tiên, Nguyễn Trãi 阮 廌
đi thi và đỗ thái học sinh (tiến sĩ), được trao chức Ngự Sử đài chánh chưởng. Sau
đó, Nguyễn Ứng Long 阮 應 龍 cũng đổi thành Nguyễn Phi Khanh 阮 飛 卿 và ra
làm quan cho nhà Hồ
Năm 1406, nhà Minh đem quân xâm lược nước Nam, cha con Hồ Quý Ly
tổ chức kháng chiến nhưng thất bại và bị bắt. Nhiều bề tôi của nhà Hồ cũng bị
bắt hoặc ra hàng, trong đó có cả Nguyễn Phi Khanh 阮 飛 卿. Nguyễn Trãi 阮
廌 cùng em là Phi Hùng, cải trang theo cha sang Trung Quốc. Đến ải Nam Quan,
Nguyễn Phi Khanh 阮 飛 卿 khuyên con trở về “ tìm cách rửa nhục cho nước, trả
thù cho cha thì mới là người đại hiếu” [4, tr. 216 ]. Nghe lời cha, ông tìm đường
trở về. Khi về đến Đông Quan, ông bị tướng giặc Trương Phu bắt. Biết ông là
người học rộng, tài cao, quân Minh dụ dỗ ông ra làm quan nhưng ông từ chối.
Trương Phu định giết ông nhưng tướng giặc khác là Hoàng Phúc xin tha cho và
buộc ông phải sống ở thành Đông Quan suốt 10 năm để chúng dễ bề kiểm soát.
Trong thời gian này, Nguyễn Trãi 阮 廌 sống một cuộc đời vô cùng bần hàn,
thanh đạm. Tuy sống trong vòng vây của kẻ thù nhưng ông vẫn giữ được tấm lòng
sắt son với đất nước, luôn nung nấu ý chí căm thù giặc.
Khoảng năm 1416, Nguyễn Trãi 阮 廌 trốn khỏi thành Đông Quan tìm
đường vào Lỗ Giang (Thanh Hóa). Đến với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn 籃 山
, Nguyễn Trãi 阮 廌 dâng cho Lê Lợi 黎 利 tác phẩm “ Bình Ngô Sách” 平 吳
策, là cuốn sách vạch ra đường lối cứu nước “ không nói đánh thành mà là giỏi
bàn về cách đánh lòng” [4, tr. 216 ] rất được Lê Lợi 黎 利 tán thành, trọng dụng.
Từ đó Nguyễn Trãi 阮 廌 đã gắn bó với phong trào khởi nghĩa Lam Sơn 籃 山
6LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
, đã sát cánh cùng Lê Lợi 黎利 và lực lượng nghĩa quân tham gia xây dựng đường
lối quân sự, chính trị phù hợp, đảm đương những nhiệm vụ quan trọng như soạn
thảo thư từ, địch vận, tham mưu vạch ra chiến lược, chiến thuật cho nghĩa quân.
Có thể nói, trong suốt 10 năm kháng chiến chống quân Minh, Nguyễn Trãi 阮 廌
chuyên “ giúp mưu hoạch và giúp việc từ mệnh” [3, tr. 268], là người giữ vai trò
quan trọng trong bộ máy chỉ huy như một vị quân sư không thể thiếu bên cạnh Lê
Lợi
Năm 1428, cuộc kháng chiến chống Minh thành công, Nguyễn Trãi 阮 廌
thay mặt Lê Lợi 黎利 viết Bình Ngô Đại Cáo 平吳 大 誥, bố cáo với thiên hạ
công cuộc kháng Minh đã hoàn toàn đại thắng, đánh đuổi kẻ thù xâm lược ra khỏi
bờ cỏi đất nước và tuyên bố nền hòa bình, độc lập của nước nhà
1.1.3. Thời hòa bình
Năm 1422, Lê Lợi 黎利 vì quá lo lắng cho ngôi báu của gia tộc mình, đã
ngăn cản không cho Nguyễn Trãi 阮 廌 phát huy hết mọi tài năng và ý nguyện “
kinh ban tế thế” (trị nước, giúp đời). Năm 1429, Lê Lợi 黎利 cho bắt giết Trần
Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo, hai bậc “ công thần khai quốc” đã cùng Lê Lợi “
đồng cam cộng khổ” trong suốt thời kháng chiến chống quân Minh đầy gian khổ.
Nguyễn Trãi 阮 廌 cũng bị bắt vào ngục một thời gian (1430), sau đó tuy được
tha nhưng cho đến khi Lê Lợi mất (1433), ông vẫn không được giao cho một công
việc gì quan trọng
Năm 1433, Thái Tử Nguyên Long kế vị ( tức vua Lê Thái Tông). Nguyễn
Trãi 阮 廌 được giao nhiệm vụ là dạy dỗ ông vua trẻ, nhưng thời gian này vua
còn quá nhỏ tuổi, sự tranh chấp giữa các phe phái trong triều xảy ra dữ dội. Vào
khoãng cuối những năm 30 của thế kỷ XV, Nguyễn Trãi 阮 廌 đã xin về hưu ở
Côn Sơn 山, thời gian này ông ôm nỗi buồn của một triết gia và một thi nhân.
1439, Lê Thái Tông ( 1423 – 1442) đã lớn khôn, có ý thức củng cố lại triều đình
nhà Lê, liền xuống chiếu vời Nguyễn Trãi 阮 廌 ra làm quan trở lại.
Ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Tuất ( tức ngày 1 tháng 9 năm 1442), Lê Thái
Tông đi duyệt võ ở Chí Linh 至 靈, ghé thăm Nguyễn Trãi 阮 廌 ở Côn Sơn và
trên đường trở lại kinh thành đã đi cùng Nguyễn Thị Lộ 阮 氏 路, vợ lẽ Nguyễn
Trãi 阮 廌 , bây giờ đang sung chức Lễ nghi nữ học sĩ trong triều. Ngày 7 tháng 9
7LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
năm 1442, xa giá về đến Lệ Chi Viên nghĩ lại, thì đột nhiên đêm đến vua bị cảm
và đột ngột băng hà. Triều đình liền bắt giam Nguyễn Thị Lộ阮 氏 路. Nguyễn
Trãi 阮 廌 và Nguyễn Thị Lộ bị nghi ngờ là âm mưu giết vua, đến ngày 16 tháng
8 năm Nhâm Tuất, cả gia đình Nguyễn Trãi 阮 廌 phải nhận án tru di tam tộc, chỉ
còn một người vợ lẽ của ông là Phạm Thị Mẫn đang có mang trốn thoát, sau sinh
ra Nguyễn Anh Võ.
Mãi đến 20 năm sau (1464), Lê Thánh Tông 黎 聖 宗 mới xuống chiếu rửa
oan cho gia đình Nguyễn Trãi 阮 廌, truy tặng ông chức tước tán trù bá và cho
Nguyễn Anh Võ làm tri huyện. 1467, Lê Thánh Tông 黎 聖 宗 lại cử riêng Trần
Khắc Kiệm sưu tầm lại di cảo thơ văn Nguyễn Trãi 阮 廌. Nhờ đó, một phần tác
phẩm quý giá của ông đến nay vẫn còn được giữ lại
1.2. Sự nghiệp văn chương
1.2.1. Văn chính luận
Quân trung từ mệnh tập 軍 中 詞 命 集 ( 1423 – 1428)
Khi Nguyễn Trãi tìm đến nghĩa quân Lam Sơn 籃 山, được Lê Lợi 藜 利
tin dùng, được giao một nhiệm vụ phức tạp là nhân danh Lê Lợi, viết thư gởi bọn
chỉ huy giặc Minh đủ các cấp như Phương Chính, Sơn Thọ, Thái Phúc, Trần Trí,
Vương Thông. Trên cơ sở này ông để lại cho văn học Việt Nam một tập thư luận
chiến nổi tiếng. Quân trung từ mệnh tập 軍 中 詞 命 集, một tác phẩm thể hiện
năng lực của một nhà tư tưởng và nhà biện luận thiên tài, vừa mắng nhiếc, khiêu
khích giặc, vừa phân tích lí lẽ phải trái, lại vừa mềm mỏng dụ hàng….Tất cả đều
nhằm mục đích đẩy kẻ địch tới những tình thế nhất định mà chúng không cưỡng
lại được, ăn khớp với từng kế hoạch tiến thoái cụ thể mà Bộ chỉ huy cuộc khởi
nghĩa đã dự liệu
Bình Ngô Đại Cáo 平 吳大 誥
1428 đất nước hoàn toàn giải phóng, Nguyễn Trãi vâng lệnh vua viết tác
phẩm Bình Ngô Đại Cáo, một “áng văn hùng tráng suốt thiên cổ”, nhằm trịnh
trọng tuyên bố nền độc lập mới mẻ của xã tắc, đồng thời tổng kết lại từng chặng
đường phát triển của 10 năm kháng chiến, trình bày tổng quát ý nghĩa vĩ đại của
chiến thắng, và những tư tưởng lớn đã chỉ đạo và soi đường cho mọi hoạt động
8LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
của nghĩa quân. Âm mưu nham hiểm và hành động man rợ của giặc Minh trong
hơn 20 năm đô hộ bị vạch trần. Phạm trù “nhân nghĩa” được nêu cao như một sức
mạnh tư tưởng, một chổ dựa tinh thần, đưa dân tộc ta ở thế kỉ XV lên một tầm cao
văn minh, văn hóa, đối chọi với sự tàn bạo, tối tăm của đội quân xâm lược trung
cổ phương Bắc.
Băng Hồ di sự lục 冰 壼 遺 事 碌 ( 1428)
Là tác phẩm giàu chất hồi kí, khắc họa sắc nét chân dung Trần Nguyên Đán,
ông ngoại Nguyễn Trãi, một người sáng suốt, biết nhìn trước xu thế diễn biến của
lịch sử.
Lam Sơn Vĩnh Lăng bia 籃 山 永 陵 碑 ( Bia Vĩnh Lăng ở Lam Sơn)
Bài văn khắc bia này sáng tác 1435, viết bằng chữ Hán, nêu rõ nguồn gốc
xuất thân của Lê Lợi, đề cao công đức của ông, đặt vai trò “sáng nghiệp” của nhà
Lê đối với nền độc lập tự chủ của dân tộc Việt.
Dư địa chí 地 誌 ( Ghi chép về địa chí)
1434 Lê Thái Tông lệnh cho Nguyễn Trãi soạn tác phẩm này, nó được hình
thành trong 10 ngày. Sách gồm 54 mục, do Nguyễn Thiên Tùng tập chú, Nguyễn
Thiên Tích cẩn án, Lý Tử Tấn thông luận, ghi chép sơ lược địa chí hành chính và
thiên nhiên nước ta qua các giai đoạn lịch sử. Đặc biệt, với lòng yêu nước nồng
nàn, lần đầu tiên Nguyễn Trãi đặt nền móng xây dựng khoa địa lí lịch sử của dân
tộc
1.2.2. Thơ
Thơ chữ Hán
Sau vụ án Lệ Chi Viên 1442, hầu hết thơ văn Nguyễn Trãi đều bị thiêu hủy,
thất lạc. Mãi đến 1464, khi Lê Thánh Tông lên ngôi, giải oan cho Nguyễn Trãi và
nhận định “ Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” – (Lòng Ức Trai rực sáng văn
chương, như ánh sao khuê, như ánh rong biển) thì thơ văn Nguyễn Trãi mới được
lệnh cho sưu tầm lại, nhưng những phần sưu tầm được cũng chỉ là một phần nào
thơ ông chứ chưa phải toàn bộ.
9LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Ức Trai Thi Tập 抑 齋 詩集 là tập thơ được viết bằng chữ Hán, do Trần
Khắc Kiệm sưu tầm gồm 105 bài. Có thể phân những bài thơ trong tập thơ thành
một số chủ đề :
- Ca ngợi thiên nhiên : Dục Thúy Sơn, Quá Hải... Thơ ca ngợi thiên nhiên
của Nguyễn Trãi không đơn thuần là tả cảnh mà chứa đựng nhiều nội dung với
nhiều sắc thái biểu hiện phong phú
- Thời kỳ Minh Thuộc : Ký hữu, Loạn hậu cảm tác.... Những bài thơ được
sáng tác trước khi Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, thể hiện sự căm thù
giặc Minh và lòng yêu nước sâu sắc.
- Ca ngợi chiến công dẹp giặc và dựng nước của Triều Lê : Hạ quy Lam
Sơn, Hạ tiệp... Những bài thơ này thể hiện khát vọng vươn tới tầm tư tưởng
thoáng đạt của nhà thơ.
Ức Trai Thi Tập bộc lộ sâu sắc toàn bộ tư tưởng, tính cách, con người
Nguyễn Trãi, phản ánh được tấn bi kịch cuộc đời của người anh hùng. Chính cái
gốc bi kịch này đã ảnh hưởng đến phong cách trữ tình của nhà thơ Nguyễn Trãi,
tạo nên âm hưởng bi tráng trong thơ ông. Tuy vậy, xuyên suốt tập thơ này vẫn là
tấm lòng của một con người thiết tha với đời, với người, một tấm lòng yêu nước
thương dân vô hạn. Tấm lòng ấy chi phối nhà thơ cả khi nhập thế cũng như rời
khỏi chốn quan trường về ở ẩn.
Thơ chữ Nôm
Quốc Âm thi Tập 國 音 詩 集 là tập thơ nổi tiếng và có giá trị, được viết
bằng chữ Nôm, là tập thơ Tiếng Việt xưa nhất còn lại trong lịch sử văn học.
Không rõ nguyên bản bao nhiêu bài thơ nhưng trải qua nhiều biến động lịch sử,
nhất là sau vụ án Lệ Chi Viên năm 1442, cũng như nhiều văn phẩm khác của ông,
số lượng thi ca Tiếng Việt này chắc cũng bị thất lạc, mất mát nhiều.
Bản Quốc Âm thi tập hiện nay đang lưu hành, chính là bản phiên âm từ
quyển thứ 7 trong Ức Trai di tập (1868), gồm 254 bài thơ, chia làm 4 mục : Vô đề
gồm 14 tiểu mục, 192 bài; Thời lệnh môn gồm 9 tiểu mục, 21 bài; Hoa học môn
gồm 23 tiểu mục, 32 bài; Cầm thú môn gồm 7 tiểu mục, 7 bài.
Quốc Âm thi tập gồm 4 chủ đề chính sau :
10LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
- Lòng yêu thiên nhiên tha thiết : Nguyễn Trãi ca ngợi thiên nhiên, cảnh
vật đất nước với tấm lòng tin yêu, rộng mở. Thiên nhiên gợi cho ông nhiều thi
hứng. Thiên nhiên được ông nhân cách hóa rất sinh động, ông thổi vào cỏ cây,
chim muôn, trăng nước...một tâm linh và cho chúng cuộc sống nhằm muốn thể
hiện tình cảm hài hòa thắm thiết, cởi mở giữa thiên nhiên với chính bản thân nhà
thơ.
- Giải bày những tâm sự u uẩn, thiết tha nhưng giấu kín của nhà thơ : Đây
là chủ đề quan trọng bậc nhất trong Quốc Âm thi tập. Nó thể hiện những uẩn khúc
khác nhau đã giày vò Ức Trai trên bước đường đời. Đặc biệt là sự chán ghét về
thói đời bạc bẽo trong những năm tháng dưới triều Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông,
cũng như những ngày lui về ở ẩn
- Tấm lòng yêu thương, gắn bó với con người, cuộc đời : Đó là tấm lòng
không lúc nào nguôi lạnh của ông. Ông thiết tha với việc giúp nước và luôn tôn
thờ chủ nghĩa trung quân
- Răn dạy và tự rèn luyện đạo đức của mình : Giữ gìn đạo đức của mình
sao cho không trái đạo, xử thế sao cho đúng mực. Chủ yếu là chùm thơ Bảo kính
cảnh giới và 61 bài trong phần Vô đề
Quan điểm văn học nghệ thuật
Thực tế, Nguyễn Trãi không tập trung bàn về vấn đề văn học nghệ thuật
nhưng ta vẫn có thể tìm hiểu quan niệm của ông về vấn đề này thông qua những
nhận xét, những nhận định của các sử gia và người đương thời. Song song đó,
chúng ta có thể tìm hiểu thông qua chính cuộc đời và những tác phẩm của ông
Nguyễn Trãi quan niệm rằng văn nghệ không thể tách rời những yêu cầu của
cuộc sống. Ông đã để lại những ý kiến rất quý báu góp phần xây dựng một nhận
thức đúng về nhiệm vụ và khả năng của văn nghệ. Trong các tác giả của nền văn
học Trung Quốc ông thường nhắc đến Đỗ Phủ :
“Tử Mỹ cô trung, Đường nhật nguyệt
Bá nhân song lệ, Tấn sơn hà”
(Loạn hậu cảm tác)
子美孤忠唐日月
11LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
伯仁雙 晉山河
(亂後感作)
“Nhan Uyên nước chứa, bầu còn nguyệt
Đỗ Phủ thơ nên, bút có thần”
( Ngôn chí 11)
顏 淵渃貯瓢群月
杜甫詩成筆固神
Thơ văn Nguyễn Trãi cũng có lúc nhắm đến những người như Khổng Dung,
Đào Tiềm, Lý Bạch nhưng ông thường ví mình với Đỗ Phủ. Ông tự cảm thấy
dám gánh trách nhiệm như Đỗ Phủ và mong thơ của mình có được cái hồn như
thơ Đỗ Phủ. Nghệ thuật thơ ca của ông đã bằng Đỗ Phủ chưa? Điều đó còn phải
bàn luận chăng? Nhưng thơ văn giúp đời của ông thì đạt hiệu quả mà Đỗ Phủ chắc
cũng phải suy nghĩ. Suốt đời ôm mối “tiên ưu”, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ,
Nguyễn Trãi lại thường nhắc lời Đông Pha (tức Tô Thức) :
“ Nhân sinh thức tự đa ưu hoạn
Pha lão tằng vân ngã diệc vân”
( Mạn hứng 01)
“Người đời biết chữ thì lo nghĩ nhiều”. Đó là niềm tự hào, là ý thức trách
nhiệm cũa người tri thức chân chính trong xã hội cũ, và cũng là niềm tự hào và ý
thức trách nhiệm mà Nguyễn Trãi tìm thấy ở nhà cầm bút.
Ông viết :
“Văn chương chép lấy đòi câu thánh
Sự nghiệp tu thìn, phải đạo trung
Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược
Có nhân, có trí, có anh hùng”
(Bảo kính cảnh giới 05)
文章 拿隊勾聖
事業須辰沛道中
除 除貪除暴虐
12LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
固仁固智固英雄
(寳鏡警戒 - 其五)
Nguyễn Trãi đã gắn văn chương với sự nghiệp, gắn việc làm văn với nhiệm
vụ làm người. Văn chương không tách rời hành động “Trừ độc, trừ tham, trừ bạo
ngược”, văn chương gắn liền với phẩm chất “Có nhân, có trí, có anh hùng”. Ông
đã nói về ý nghĩa chiến đấu của văn chương khi nhắc đến các bức thư gửi giặc
Minh như sau :
“Đao bút phải dùng tài đã vẹn
Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên
Vệ Nam mãi mãi ra tay thước
Điện Bắc đà đà yên phận tiên”
(Bảo kính cảnh giới 06)
Ông đã dùng “đao bút” để viết chỉ thư, chính là những bức thư luận chiến
với giặc Minh trong những năm tháng khởi nghĩa Lam Sơn mà sau này được
tập hợp lại với tên Quân trung từ mệnh tập. Cố “ra tay thước” tức là tỏ tài khéo
mà chiến đấu với tư tưởng ngoan cố của quân giặc, góp phần “vệ Nam” tức bảo
vệ “Nam quốc sơn hà” và “điện Bắc” tức dẹp yên giặc Bắc. Nguyễn Trãi quả là đã
có ý thức về tính chiến đấu của văn chương và đã tự hào rằng mình biết dùng ngòi
bút như một vũ khí [8, tr. 176]
Đến với Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã đem tất cả tâm
huyết của mình cống hiến cho chính nghĩa, cho nhân dân. Chính vì lẽ đó, cuộc
đời và sự nghiệp thơ văn của ông luôn thấm đẫm những trăn trở, suy tư về cuộc
sống, quyền lợi của nhân dân. Khái niệm “nhân dân” với Nguyễn Trãi đó chính
là “manh lệ”, “xích tử”, “thương sinh”, “lê dân”, “sinh linh”... Những danh từ này
xuất hiện khá nhiều trong các sáng tác của ông như minh chứng cho lòng ưu ái của
ông đối với cuộc đời
Mở đầu Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết :
“Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo”
(Việc nhân nghĩa cốt ở an dân
13LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo)
“Yên dân”, “trừ bạo” chính là điều luôn canh cánh trong lòng Nguyễn Trãi.
Ông cho rằng văn nghệ có nguồn gốc từ cuộc sống, nhất là cuộc sống của dân
chúng
Viết về tác dụng của một làn dân ca, Nguyễn Trãi đã có những phát hiện như
sau :
“Ngư ca tam xướng, yên hồ khoát
Mục địch nhất thanh thiên nguyệt cao”
( Chu trung ngẫu thành 02)
漁歌三唱煙湖闊
牧笛一聲天月高
(舟中偶成 - 其二)
Ông chài hát lên ba lần thì mặt phủ khói lại rộng ra thêm, chú chăn trâu thổi
lên một tiếng sáo thì mặt trăng trong bầu trời được đẩy lên cao hơn. Hồ rộng ra vì
làn dân ca tỏa ra trên mặt nước, lan dần ra, man mác, vô biên. Tả lời hát, tả tiếng
sáo, đồng thời tả cảm giác của người ta khi nghe ca, ý tứ thật là hàm súc, sâu xa.
Không gian rộng ra thêm, lớn ra thêm. Văn nghệ có thể và phải nâng con người
lên một tầm vóc cao đẹp hơn là thế
Nói về thơ, Nguyễn Trãi cũng có ý tương tự :
“Khách lạ đến, ngàn hoa chửa rụng
Câu mầu ngâm, dạ nguyệt càng cao”
(Thuật hứng 07)
客邏典岸花渚湧
勾牟吟胣月強高
(述興 - 其七)
Thơ hay thì phải làm cho người ta nhìn hiện thực ở một tầm khác tầm nhìn
bình thường. Đó là quan niệm rất chính xác và ý nghĩa rất sâu sắc về vai trò của
thơ
14LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Nguyễn Trãi, trong tác phẩm của mình, kể cả trong các tác phẩm chính luận,
luôn luôn có cái nhìn xa rộng, cái nhìn thấu đáo và sâu sắc đối với thiên nhiên, xã
hội, đối với cuộc sống của đất nước, của nhân dân. Ông đề cao tác dụng của văn
nghệ, đồng thời lại có yêu cầu cao đối với văn nghệ. Yêu cầu ấy trước hết là : Văn
nghệ phải gắn bó mật thiết với cuộc sống của quần chúng. Chính sự nghiệp văn
học của Nguyễn Trãi cũng được xây dựng trên mối quan hệ mật thiết giữa văn học
với đời sống. Ông đã có dịp phát biểu mối quan hệ này nhân trình bày với vua Lê
Thái Tông quan niệm của mình về một nền âm nhạc có cơ sở chân chính và vững
chắc : “Thời loạn thì dụng võ, thời bình thì dụng văn. Ngày nay định ra lễ nhạc,
chính là phải thời lắm. Song không có gốc, không thể đứng vững, không có văn
không thể lưu hành. Hòa bình là gốc của nhạc, âm thanh là văn của nhạc...Dám
mong bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân, khiến cho thôn cùng xóm
vắng, không có một tiến hờn giận oán sầu, đó tức là giữ được cái gốc của nhạc
vậy” [8, tr. 176 - 177]
Như thế nghĩa là văn nghệ có cuộc sống từ đời sống, mà đời sống ở đây
trước hết là đời sống của nhân dân. Câu nói trên cũng có thể suy rộng ra mà hiểu
là giữa “gốc” và “văn”, giữa nội dung và hình thức có mối quan hệ tương hỗ
khăng khít, hữu cơ, trong đó nội dung quyết định hình thức. Kết luận rất đúng mà
Nguyễn Trãi rút ra là muốn cho văn nghệ phát triển thì phải chăm lo đời sống của
nhân dân. Bản thân Nguyễn Trãi đã thể nghiệm điều ấy. Là một nhà yêu nước vĩ
đại, một chiến sĩ kiên cường, ông đã suốt đời đấu tranh vì lợi ích của Tổ Quốc,
của dân tộc. Ông viết để phục vụ cuộc đấu tranh ấy. Chính vì thế mà ông có được
những tác phẩm hay.
Nhìn chung, quan niệm về văn học nghệ thuật của Nguyễn Trãi đó là tất cả
những gì gắn với đời sống nhân dân, đất nước. Đúng như lời Nguyễn Mộng Tuân,
một người bạn của Nguyễn Trãi trong bài thơ Tặng Gián nghị đại phu Nguyễn
công viết :
“Hoàng các thanh phong ngọc thự tiên,
Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền.
Nhất thời từ hãn suy văn bá,
Lưỡng đạo quân dân ác chính quyền”
15LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
(Trông ông ngồi trong gác vàng, phong cách thanh cao giống như một vị tiên
trong lầu ngọc.
Cái tài kinh bang tế thế và làm rạng rỡ cho đất nước, từ xưa chưa có bao giờ.
Thư từ nổi tiếng một thời người ta suy tôn ông là bậc văn bá;
Coi giữ hai đạo quân dân, một tay cầm quyền chính sự)
Trước Nguyễn Trãi có rất nhiều nghệ sĩ làm công việc đó nhưng có lẽ chỉ
có ông là người để hết tâm trí, tài sức vào đây [12, tr. 247 – 248]
1.3. Nguyễn Trãi – ngôi sao sáng của nền thơ ca dân tộc
Nguyễn Trãi không chỉ là một người anh hùng dân tộc mà còn là nhà tư
tưởng lớn, nhà văn hóa lỗi lạc.
1.3.1.Nguyễn Trãi – người anh hùng dân tộc
Nhớ Nguyễn Trãi, chúng ta nhớ người anh hùng cứu nước, người cùng Lê
Lợi làm nên sự nghiệp “ bình ngô”, người thảo “Bình Ngô đại cáo”. Nguyễn Trãi
là một người yêu nước sâu sắc, mạnh mẽ, thiết tha, với tâm hồn và khí phách của
người anh hùng. Đối với Nguyễn Trãi, yêu nước là thương dân, để cứu nước phải
dựa vào dân và cứu nước để cứu dân, đem lại thái bình cho dân, cho mọi người,
cái nhân, cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt tàn bạo,
vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân.
Trong bài viết nhân kỉ niệm 520 năm ngày Nguyễn Trãi mất đăng trên báo
nhân dân ngày 19 – 9 – 1962, Phạm Văn Đồng có nhận xét : “Thơ Nguyễn Trãi
là tâm hồn của Nguyễn Trãi, trong sáng và đầy sức sống. Có người nói thơ của
Nguyễn Trãi buồn vì cảnh đời Nguyễn Trãi buồn. Thơ của Nguyễn Trãi có bài
buồn, có câu buồn vì lẽ gì chúng ta đều biết, nhưng cả tập thơ của Nguyễn Trãi
là thơ của một người yêu đời, yêu người, tâm hồn của Nguyễn Trãi sống một nhịp
với non sông đất nước tươi vui” [8, tr. 822]. Nguyễn Trãi là người chân đạp đất
Việt Nam, đầu đội trời Việt Nam, tâm hồn lộng gió của thời đại lúc bấy giờ, thông
cảm sâu xa với nỗi lòng dân lúc bấy giờ, suốt đời tận tụy cho một tư tưởng cao
quý. Nguyễn Trãi là khí phách của dân tộc, là tinh hoa của dân tộc. Sự nghiệp và
tác phẩm của Nguyễn Trãi là một bài ca yêu nước và tự hào dân tộc.
1.3.2. Nguyễn Trãi – nhà tư tưởng lớn, nhà văn hóa lỗi lạc
16LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Trong lịch sử phát triển tư tưởng của dân tộc ta cho đến thế kỉ XV, Nguyễn
Trãi là một nhà tư tưởng lớn, một nhà hoạt động chính trị lỗi lạc. Là con người
sáng tạo, con người hành động, tâm hồn và trí tuệ rộng lớn của ông tiêu biểu cho
tình cảm và suy nghĩ của một thời đại lịch sử đầy gian nan thử thách, đầy kì tích
oanh liệt và hào hùng.
Tư tưởng quán xuyến và chi phối toàn bộ hoạt động của Nguyễn Trãi là tư
tưởng “nhân nghĩa”, “đại nghĩa”, “chí nhân”. Theo ông thì “phàm mưu việc lớn
phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu, duy nhân
nghĩa gồm đủ thì công việc mới thành đạt được” [2, tr. 171]. Nội dung tư tưởng
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là : lòng yêu nước thương dân, ý thức độc lập tự chủ,
lòng nhân ái và ước vọng thái bình, quan hệ hòa hiếu giữa các dân tộc.
Nguyễn Trãi đã gắn “nhân nghĩa” với “dân” khi ông viết: “ Việc nhân nghĩa
cốt ở yên dân” trong Bình Ngô đại cáo. Ông lại cũng gắn “nhân nghĩa” với “nước”
khi ông viết : “nhân nghĩa duy tri thế nước yên” trong bài thơ Hạ quy Lam Sơn.
Thật là rõ ràng, với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, với
tấm lòng ưu ái, thương dân. Nguyễn Trãi nói đến nhân nghĩa, trước hết là nói đến
đại nghĩa, chí nhân của dân tộc ta, là nói đến ngọn cờ cứu nước, cứu dân, thắng
hung tàn, trừ bạo ngược. Khi nói đến dân, tất cả tấm lòng Nguyễn Trãi hướng về
những người lao động cùng khổ. Nguyễn Trãi quan niệm “ăn lộc đền ơn kẻ cấy
cày”. Dân cũng là những người biết quý trọng nhân nghĩa, “mến người có nhân và
dân”, và sức mạnh “chở thuyền” hay “lật thuyền” cũng là dân : “Lật thuyền mới rõ
dân như nước” [13, tr.30]. Với nhận thức trên, Nguyễn Trãi chủ trương cứu nước
phải cứu dân, và chỉ có dựa vào dân mới có thể cứu nước thành công được.
Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi còn là một chiến sĩ xuất sắc trên mặt trận văn hóa.
Gắn liền mọi hoạt động văn hóa với sự nghiệp cứu nước, cứu dân, ông đã dùng
ngọn bút của mình như một vũ khí chiến đấu, dùng sức mạnh của văn chương để
tập hợp lực lượng của ta, tiến đánh và làm rã quân địch, góp phần quan trọng vào
thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Ông đã có những cống hiến to
lớn vào việc phát triển nền văn hóa Đại Việt lên một bước mới. Đó là một nền văn
hóa yêu nước, tiến bộ, có tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc, có giá trị hiện thực
lớn, có tính chiến đấu rất cao, thể hiện một cách đầy đủ nhất, mạnh mẽ nhất chủ
17LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
nghĩa yêu nước Việt Nam trong thế kỷ XV.
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. Vài nét về tính hàm súc
2.1.1. Khái niệm tính hàm súc
Từ điển thuật ngữ Văn học xác định: Hàm súc là hình thức diễn đạt, qua đó,
người nói có thể thông báo được một nội dung lớn nhất bằng một số lượng các yếu
tố ngôn ngữ ít nhất. Đây là đặc điểm, đồng thời cũng là yêu cầu rất cao của của
ngôn từ văn học.
Nếu hiểu hàm súc là súc tích, ngắn gọn, hàm chứa nhiều ý nghĩa, thì tính
hàm súc là khả năng của ngôn từ văn học có thể miêu tả mọi hiện tượng của cuộc
sống một cách cô đọng, ít lời mà nói được nhiều ý, ý ở ngoài lời, “ý tại ngôn
ngoại”. Một từ trong ngôn ngữ văn học có khả năng gợi được một ý nghĩa lớn hơn
nó, tràn ra ngoài nó [14]
2.1.2. Chức năng của tính hàm súc
Xuất phát từ mặt yêu cầu về thông tin của tác phẩm; với tư cách là một văn
bản thông tin, bằng một lượng ngôn từ hạn hẹp, nhà văn, nhà thơ cần phải cung
cấp cho người đọc những lượng thông tin cao và được chắt lọc kĩ càng. Nguyễn
Du viết:
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Tràng Khanh
Hình ảnh lá gió cành chim sử dụng từ ý thơ của nàng Tiết Đào : “Chi nghinh
nam bắc điểu Diệp tống vãng lai phong”, nghĩa là Cành đón chim nam bắc; lá
đưa gió lại qua. Cha nàng xem, biết phận con sao không ra gì, bởi hàm ý của nó
chỉ khách giang hồ tiếp khách làng chơi. Tác giả dùng hình ảnh lá gió cành chim
để miêu tả cuộc sống ở thanh lâu của nàng Kiều. Dung lượng thông tin thật lớn
mà lại chỉ gói gọn trong hai dòng lục bát. Vì thế, trong tác phẩm văn chương nói
chung và trong thơ ca nói riêng, cần phải có tính hàm súc, để tạo nên hình tượng
thơ lung linh, đa nghĩa. Người đọc có thể tiếp cận tác phẩm và hiểu nó dưới nhiều
18LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
góc độ khác nhau, làm cho tác phẩm văn học trở nên phong phú hơn, đa dạng
hơn.
Bên cạnh đó, tính hàm súc trong tác phẩm văn chương còn có chức năng tạo
nên tính tế nhị, nói tránh những điều thô tục :
Truyện Kiều có câu :
Tiếc thay một đóa trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về
Trà mi tức hoa đồ mi, một thứ hoa nở về mùa hạ, sắc trắng hơi vàng (do mặt
chữ Hán tự “đồ” 荼 gần giống chữ 茶 nên đọc nhầm). Đường thi có câu : Khai
đáo đồ mi hoa sự liễu. Nghĩa là Nở đến hoa đồ mi là việc chơi hoa đã xong rồi.
Mượn ý thơ ấy, cùng với hình thức ẩn dụ tu từ (ong: đối tượng chủ động chơi hoa
rồi bỏ hoa hoa tàn!) Nguyễn Du diễn tả cảnh Thúy Kiều thất thân với Mã Giám
sinh, thật là tế nhị biết dường nào!
Hiện nay nhu cầu gia tăng thông tin đang đặt ra như một nhu cầu tất yếu và
chính đáng trong thời đại bùng nổ thông tin liên quan đến cả nhịp điệu của cuộc
sống hiện đại. Nhu cầu gia tăng thông tin trong ngộn từ văn học hay nói cách khác
là rút ngắn con đường dẫn đến thông tin là một trong những yêu cầu mới của công
chúng văn học ngày hôm nay.
2.2. Các phương thức thể hiện của tính hàm súc
Tính hàm súc trong tác phẩm văn học thể hiện ở tính đa nghĩa của nó. Trong
văn học, hàm súc là “lời ít, ý nhiều”, cùng một lời có thể hiểu theo nhiều cách
khác nhau và hình như hiểu theo cách nào cũng ít nhiều cũng có lý. Tính hàm
súc của ngôn ngữ văn học còn thể hiện ở dung lượng lớn những ý nghĩ, tình cảm
mà người viết không viết ra, nhưng người đọc có thể tự mình suy ra được. Cho
nên, trong văn thơ, ở chỗ lặng, chỗ ngừng, chỗ trống nhiều khi lại là chỗ được
nói nhiều nhất. Ở đây, tính hàm súc của văn chương là sự súc tích, cô đọng, là lời
chật, “ý rộng”, “lời đã hết mà ý vô cùng”, để lại nhiều dư vị trong lòng người đọc.
2.2.1. Đặc trưng thể loại
2.2.1.1. Trong ngôn ngữ thơ
19LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Tính hàm súc là đặc điểm chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương,
nhưng do đặc trưng của thể loại mà nó biểu hiện một cách tập trung với yêu cầu
cao nhất trong ngôn ngữ thơ. Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ biểu hiện tập trung
nhất tính hàm súc phong phú của ngôn ngữ, vừa giàu hình ảnh, sắc màu (tính họa)
vừa giàu nhạc điệu (tính nhạc). Các đặc điểm trên hòa quyện với nhau tạo nên
hình tượng thơ lung linh, đa nghĩa. “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh
cuộc sống, thể hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc,
giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu”. “Thơ cốt ở ý, ý cốt sâu xa thì thơ mới hay.
Không phải bất cứ điều gì phải nói ra bằng lời thì mới là thơ có giá trị. Ý hết mà
lời dừng là cái lời hết mực song lời dừng mà ý chưa hết thì lại càng hay tuyệt”
(Hải Thượng Lãn Ông). Là thể loại có một dung lượng ngôn ngữ hạn chế nhất
trong các loại tác phẩm văn học, nhưng thơ lại có tham vọng chiếm lĩnh thế giới.
Nói như Ôgiêrốp: "Bài thơ là một lượng thông tin lớn nhất trong một diện tích
ngôn ngữ nhỏ nhất". Chính sự hạn định số tiếng trong câu thơ, bài thơ buộc người
nghệ sỹ phải "thôi xao", nghĩa là phải phát huy sự tư duy ngôn ngữ để lựa chọn từ
ngữ cho tác phẩm. Bởi thế, Maiacôpxki gọi lao động nghệ thuật ngôn từ của nhà
thơ là “trả chữ với với giá cắt cổ” : “Nhà thơ trả chữ với giá cắt cổ. Như khai thác
chất hiếm radium. Lấy một gam phải mất hàng bao công lực. Lấy một chữ phải
mất hàng tấn quặng ngôn từ” [15]
Ví dụ : Ông Trần Đình Sử phát hiện đặc tính hàm súc của thơ Tố
Hữu “Chính sự kết hợp truyền thống và hiện đại trong thơ Tố Hữu đã đem lại một
quan niệm mới về sự hàm súc : Hàm súc trong thơ Tố Hữu là ở lời thơ mang sự
chất chứa trăm năm, nghìn năm của tâm hồn một dân tộc, mang cái bề sâu, bề dày
của thời gian”
Và hiểu được tính hàm súc trong thơ Tố Hữu ông nhấn mạnh “Phải sống thật
sâu sắc cuộc sống đau thương, nhưng rất đỗi thanh cao và hào hùng của dân tộc,
chúng ta mới nghe được hết cái âm vang của thơ ca Tố Hữu” [9, tr. 15]
2.2.1.2. Trong ngôn ngữ văn xuôi
Ngôn ngữ văn xuôi tự sự là ngôn ngữ của cuộc sống đời thường, nó chấp
nhận mọi lớp từ, mọi biến thái, mọi chiều kích, thậm chí cả sự xô bồ, phồn tạp đến
cực độ để tái hiện bộ mặt cuộc sống, tâm lý con người trong sự sâu rộng, đa chiều
20LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
vốn có của nó. Đối với văn xuôi, do nhà văn phải xây dựng nhân vật điển hình
trong những hoàn cảnh điển hình nên việc miêu tả ngoại hình, nội tâm nhân vật,
bối cảnh xã hội... thường phải cụ thể qua nhiều tình tiết, mâu thuẫn. Ở mỗi đoạn,
mỗi chương lại có sự phát triển tâm lý nhân vật một cách trực tiếp hay gián tiếp.
Số câu chữ có thể giãn ra hay co lại theo ý đồ tác giả. Nhưng nhìn chung là nó
không có sự cô đúc như từ ngữ thơ ca.
Ví dụ : Phạm Duy Tốn miêu tả cảnh đối lập mang tính cao trào giữa hình
ảnh hàng ngàn sinh linh đang náo loạn trước nguy cơ đê vỡ - một sự kiện có tính
đe dọa tới sự sống còn của bao người và cảnh nhân vật quan phụ mẫu vẫn “uy
nghi, chễm chệ ngồi...”, ngài vẫn “ù thông tôm, chi chi nẩy, điếu mày!”...Kịch tính
cứ được đẩy lên mãi, để rồi kết thúc truyện, người đọc thực sự phẫn nộ trước sự
vô lương tâm, vô trách nhiệm và mất hết lương tri của tên quan phụ mẫu đối với
mạng sống của bao người dân nghèo khổ :
“Trong đình, đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại
rộn ràng. Trên sập mới kê ở gian giữa, có một mình quan phụ-mẫu, uy-nghi chễm-
chện ngồi. Xung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu quan, thì có
thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội-nhất, thầy thông-nhì, sau hết, giáp phía tay tả
ngài, thì đến chánh-tổng sở-tại, cùng ngồi chầu bài.
Ngoài kia tuy mưa gió ầm-ầm, dân phu rối rít; nhưng trong này xem chừng
tĩnh mịch, nghiêm trang lắm, trừ quan phụ-mẫu ra, mọi người không ai dám to
tiếng. So với cảnh trăm họ đang vất vả lấm-láp, gội gió tắm mưa, như đoàn sâu
lũ kiến ở trên đê, thời ở trong đình rất là nhàn-nhã, đường-bệ, nguy-nga: nào
quan ngồi trên, nào nha ngồi dưới; người nhà, lính lệ như khoanh tay sắp hàng,
nghi-vệ tôn-nghiêm, như thần như thánh. Thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ mẫu
gọi: "Ðiếu, mày!" tiếng tên lính thưa: "Dạ"; tiếng thầy Ðề hỏi: "Bẩm, bốc?" tiếng
quan lớn truyền "ừ". Kẻ này: "Bát-xách... ?n", người kia: "Thất-văn... Phỗng", lúc
mau, lúc khoan, ung-dung êm-ái, khi cười, khi nói, vui-vẻ dịu-dàng. Thật là tôn-
kính, xứng đáng với một vì phúc-tinh...
Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài sơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt
râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọ, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang dậy
trời đất... Mọi người giật nẩy mình, duy quan vẫn điềm-nhiên, chỉ lăm-le chực
21LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Vì ngài sắp ù to.” [10]
2.2.1.3. Trong ngôn ngữ kịch
Tính hàm súc cũng được biểu hiện trong ngôn ngữ kịch. Ngôn ngữ trong
kịch là yếu tố chủ yếu xây dựng tính cách nhân vật, nó biểu lộ bên trong (suy
nghĩ); nó gây ra mọi hành động, tạo ra mâu thuẫn và đẩy tới xung đột. Nghĩa là,
kịch dùng ngôn ngữ nghệ thuật trình bày cuộc sống dưới dạng hành động kịch,
thông qua các xung đột xã hội đã được điển hình hóa, khái quát hóa. Vì vậy, ngôn
ngữ trong kịch cần phải “tính cách hóa”, “động tác hóa”, “thi hóa”, “hình tượng
hoá” (tạo hình, âm thanh, màu sắc) và phải có tính khẩu ngữ, tính hành động, tính
hàm súc, tính tổng hợp và phù hợp với tính cách nhân vật. Nó là thứ ngôn ngữ
hàm súc, đầy ước lệ, đầy rẫy những cách ngôn, những lời ngụ ý…, như thế mới có
thể diễn tả được một cách cô đọng các vấn đề chủ yếu trong kịch bản.
Ví dụ :
“- Dona Sol: Anh Hernani! Trời ơi! Em run sợ! Này! Đã thế, chúng ta phải
mau mau lên! Cùng nhau chạy trốn đi.
– Hernani: Cùng nhau ư! Không, không. Bây giờ muộn mất rồi. Chao ôi!
Dona Sol, khi em mới xuất hiện trước mắt anh, hiền hậu và đoái lòng yêu mến
anh bằng một mối tình cứu vớt, anh dù khốn khổ vẫn rất có thể tặng em quả núi,
khu rừng, dòng suối của anh-tình thương của em làm cho anh thêm mạnh dạn, -
miếng bánh lưu đày của anh, nửa chiếc giường cỏ xanh rậm rạp mà rừng ban cấp
cho anh; nhưng tặng em một nửa đài xử chém. Dona Sol ơi, tha thứ cho anh! Đài
xử chém là của riêng mình anh” [17]
2.2.2. Cách sử dụng ngôn từ
2.2.2.1. Tính hàm súc thể hiện ở khả năng lựa chọn từ ngữ của
mỗi nhà văn
Với một dung lượng ngôn ngữ hạn chế trong tác phẩm văn học, từ ngữ trong
tác phẩm thơ ca được sử dụng “tiết kiêm” cao độ nhất “đúc lại như huân chương”.
(Pautopxki) “Những chữ xơ xác nhất mà chúng ta đã nói đến tận cùng, đã mất
sạch tính chất hình tượng, đối với chúng ta, những chữ ấy trong thơ lại sáng lên
lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương” (Bông hồng vàng). Tính hàm súc của ngôn
22LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ngữ thơ, vì vậy, chứa đựng các thuộc tính khác. Hàm súc cũng có nghĩa là phải
chính xác, giàu hình tượng, có tính truyền cảm và thể hiện cá tính của người nghệ
sỹ. Chẳng hạn, từ “khô” trong câu thơ của Tản Đà : “Suối khô dòng lệ chờ mong
tháng ngày” là một từ có tính hàm súc cao mà những yếu tố tương đương với nó
(như “tuôn”) không thể thay thế. Nó không chỉ diễn tả được chiều sâu của tình
cảm mà còn gợi lên cả chiều dài của những tháng năm chờ đợi. Nó vừa đảm bảo
được tính chính xác, tính hình tượng, vừa có tính truyền cảm.
Tính hàm súc của ngôn từ được thể hiện ở việc từ đúng, từ độc đáo. Sự
kết hợp các từ cũng như việc sử dụng các loại từ đồng nghĩa, trái nghĩa, từ địa
phương… là phương tiện biểu đạt có hiệu quả cao nhất. Với sự công phu tìm tòi từ
ngữ, nhà thơ Nga Maiacopxki đã viết “Phải phí tổn ngàn cân quặng chữ. Mới thu
về một chữ mà thôi. Những chữ ấy làm cho rung động. Triệu trái tim trong hàng
triệu năm dài” còn Lê Quý Đôn “văn muốn hay trước hết phải đúng”. Đây cũng
chính là khả năng của ngôn ngữ văn chương, có thể thể hiện đúng điều mà nhà văn
muốn nói, miêu tả đúng cái mà nhà văn cần thể hiện. Có thể nói, từ ngữ trong tác
phẩm văn chương được sử dụng hết sức tiết kiệm [9, tr. 16]
Như vậy, tính hàm súc được hiểu là khả năng của ngôn ngữ có thể miêu tả
mọi hiện tượng của cuộc sống một cách cô đọng, ít lời mà nói được nhiều ý, ý tại
ngôn ngoại. Đây chính là cách dùng từ sao cho đắt nhất, có giá trị biểu hiện cao
nhất kiểu như Nguyễn Du đã “giết chết” các nhân vật Mã Giám Sinh, Sở Khanh,
Hồ Tôn Hiến, mỗi tên chỉ bằng một từ: cái vô học của Mã Giám Sinh : Ghế trên
ngồi tót sỗ sàng; cái gian manh của Sở Khanh : Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn
vào; cái tầm thường ti tiện của Hồ Tôn Hiến: Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình. Sự
chọn từ “đắt” cũng như việc kết hợp các từ, sử dụng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa,
Hán – Việt, từ cổ, từ mới…tất cả đều là phương tiện biểu đạt vô cùng quan trọng.
Ví dụ: làm sống dậy một cuộc sống giang hồ lưu manh của Tám Bính, Năm Sài
Gòn, Ba bay…thì phải nói đến “Bỉ Vỏ” của Nguyên Hồng. “So quéo đương mổ ở
hậu đờm tễ bướu lắm đấy” (thằng khờ đương ăn ở sau lưng nhiều tiền lắm đấy) [9,
tr. 16]
2.2.2.2. Tính hàm súc thể hiện qua việc sáng tạo của nhà văn, nhà
thơ khi dùng các ngôn từ lệch chuẩn
23LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Trong văn chương nghệ thuật, người ta trông chờ nhiều cái lạ, cái mới, cái
hay. Sự đi chệch chuẩn mực nào được mọi người thừa nhận, tán thưởng được coi
là sự sáng tạo ngôn ngữ, sự đóng góp của tác giả vào kho tàng tiếng nói dân tộc.
Các nhà văn lớn thường có sự đi chệch chuẩn mực như thế. Người được coi là có
những sáng tạo độc đáo trong việc dùng từ là Xuân Diệu. Hệ thống từ vựng “mới
mẻ” trong thơ ông mới đến nỗi nhiều người không chấp nhận được, vừa xem là
ngô ngê, quái gở. Ngay cả những người ủng hộ ông cũng phải dè dặt , chính Hoài
Thanh đã nhận xét “ ngay lời văn Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi, Xuân Diệu viết
văn tựa trẻ con học nói, hay như người ngoại quốc võ vẽ tiếng Nam. Câu văn
tuồng bỡ ngỡ”. Nhưng rồi cũng chính Hoài Thanh tự khẳng định: “Cái dáng bỡ
ngỡ ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người” [11, tr. 110]
Hay trong Truyện Kiều, Nguyễn Du dùng từ “cõi người ta” trong khi người
ta nói “cõi đời”, “cõi thế”, “coi trần gian”…. Trong bài thơ “không đề” năm 1968
của Bác có câu:
Bỗng nghe vần thắng vút lên cao
Có thể nói đây là một sáng tạo về ngôn ngữ. Thông thường ta nói: vần thơ,
vần điệu, vần bằng, vần trắc…Dùng “vần thắng” ở đây với nghĩa vần thơ chiến
thắng, bài ca chiến thắng thể hiện một liên tưởng mới, phát hiện mới của Bác Hồ.
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn để lại nhiều sự sáng tạo trong
cách dùng từ. Ông có thói quen không bằng lòng với cái cũ. Nhà văn luôn tìm tòi
những hình thức diễn đạt mới để thể hiện những cảm xúc, suy nghĩ của mình. Ví
dụ, khi nói về thế giới quan và nhân sinh quan của Hồ Xuân Hương, ông dụm cụm
từ “một nhỡn quan nõn nường”; khi nói về nghệ thuật múa xòe bị biến thành trò
chơi tiêu khiển độc ác, bất nhân của kẻ thù, tác giả dùng “nghệ thuật bị hiếp dâm,
cưỡng dâm”
Bằng những dấu ấn rất độc đáo, các tác giả đã cho ra đời những đứa con tinh
thần của mình không chỉ được coi là có tính hàm súc cao độ mà còn thể hiện một
thứ tiếng Việt tinh tế, giàu cảm giác, cảm xúc, ấn tượng…
2.2.2.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ còn thể hiện ở cấu trúc ngữ
pháp
24LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Để đạt được tính hàm súc cao nhất, có thể biểu hiện được cái vô hạn
của cuộc sống trong những cái hữu hạn của các đơn vị ngôn ngữ, thơ ca phải tính
đến những kiểu tổ chức đặc biệt mà nhà nghiên cứu Phan Ngọc gọi là "quái đản".
Dưới áp lực của cấu trúc ngôn ngữ khác thường này, ngữ nghĩa của từ trong thơ
không dừng lại ở nghĩa gốc, nghĩa đen, nghĩa trong từ điển mà phong phú, sâu
sắc, tinh tế hơn. Đó là thứ nghĩa được tạo sinh nhờ quan hệ và trong quan hệ. Ví
dụ: Khi Hồng Nguyên viết: "Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau" thì chính
trong quan hệ với những yếu tố trước và sau nó mà từ "đột kích" được cấp cho
một nghĩa mới, gợi lên những rung động thẩm mỹ. Hay trong câu thơ của Lâm
Thị Mỹ Dạ: "Em đã lấy tình yêu của mình thắp lên ngọn lửa" thì sự kết hợp bất
thường về nghĩa đã mở ra những liên tưởng hết sức thú vị. Trong đời thường, khi
nói đến việc "thắp lửa", người ta một là nghĩ đến phương tiện như: cái bật lửa, que
diêm ... hai là nguyên liệu như: dầu hoả, dầu dừa ... Ở đây, nhà thơ lại thay nó
bằng một "chất liệu" rất trừu tượng thuộc lĩnh vực tinh thần. Và trong quan hệ với
cái chất liệu trừu tượng đó, nghĩa bề mặt của “ngọn lửa” bị mờ đi, mở ra những
nghĩa mới. Đó là : chân lý, niềm tin, lý tưởng cuộc đời....Nghệ thuật sử dụng ngôn
từ còn thể hiện ở cấu trúc ngữ pháp : các kiểu câu đa dạng, phong phú, các câu
thông thường được biến hóa tối đa để phù hợp với việc thể hiện. Bà Huyện Thanh
Quan : “Xanh um cổ thụ tròn xoe tán, trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ” (cấu
trúc đảo). Nguyễn Công Hoan : thiên về khẩu ngữ, hoặc thậm chí dùng nhiều
động từ trong một câu “Chửi, kêu, đấm đá, thụi, bịch, như mưa vào đầu”. Dạng
câu treo, câu bị bỏ lửng : “Thác bức rèm thưa chợt thấy mà…”
Nét thu gợn song dường như thể” (thơ cổ)
Cấu trúc ngữ pháp trong thơ bộc lộ tính hàm súc cao độ. Với bài “Tống biệt
hành” (Thâm Tâm), tính hàm súc được nâng cao đến mức nhiều câu thơ trở nên
khó hiểu. “Chí nhớn chưa về bàn tay không, thì không bao giờ nói trở lại, ba năm
mẹ già cũng đừng mong”. Với những câu thơ như vậy, người đọc phải thêm từ vào
mới hiểu hết. Thực ra để hiểu bài thơ này, người đọc phải bắt đầu từ cấu tứ của bài
thơ : Đây là lời người đưa tiễn nói về người ra đi. Người ra đi không nói điều gì.
Người tiễn rất hiểu người ra đi và nhờ sự bộc lộ cảm xúc của người tiễn mà hình
ảnh người ra đi được bộc lộ đầy đủ : Người ra đi hiên ngang, mạnh mẽ, cao cả,
25LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
quyết dứt bỏ tình riêng ra đi vì nghĩa lớn.
2.2.3. Các biện pháp nghệ thuật
Định lượng số tiếng trong thơ cũng là tiền đề tạo ra sự xuất hiện với một mật
độ dày đặc các phương tiện nghệ thuật trong thơ so với văn xuôi. Nhiều lúc, trong
một bài thơ, có thể thấy xuất hiện cùng một lúc các phương tiện tu từ khác nhau,
như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá, tượng trưng, điệp từ, điệp ngữ, câu hỏi tu từ...
2.2.3.1. Ẩn dụ
Ca dao có câu :
Công anh chăn nghé đã lâu
Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày
Nghĩa tường minh của câu ca là một hiện tượng thực diễn ra khá phổ biến
trong cuộc sống của những người chân lắm tay bùn : con trâu đi trước cái cày theo
sau! Nhưng nhờ biện pháp tu từ ẩn dụ, nghĩa của câu ca không dừng lại ở đó. Ta
thấy ba từ : nghé – trâu – cày ẩn chứa đằng sau nó một cái gì khác thật xa xăm và
sâu sắc. Từ nghé để được thành trâu cày trải qua một quá trình chăm sóc dưỡng
nuôi. Anh chàng nông dân nào đấy đã chăn nghé cho đến khi nghé thành trâu.
Nhưng hỡi ôi, khi công đã đến hồi thành tựu, thì thành quả ấy đã vào tay “ai” kia!
Từ những ẩn ý ấy, lời thơ khiến người đọc có thể liên tưởng đến một cung
bậc dang dở nào đó trong tình yêu lứa đôi chăng! Có thể thấy thấp thoáng hình
ảnh một “anh” đã dày công “đeo đuổi”, “nuôi dưỡng” bóng hình nào đấy trong tim
mình để rồi giờ đây đêm về ôm mộng sầu cảnh gối chiếc chăn đơn!
2.2.3.2. Câu hỏi tu từ
Cuối bài thơ Độc Tiểu Thanh ký, Nguyễn Du viết :
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hậu hà nhân khấp Tố Như?”
Nghĩa là : Không biết hơn ba trăm năm sau/ Thiên hạ ai người khóc Tố Như?
Nghĩa tường mình là thế, nhưng câu thơ còn có nhiều cách hiểu khác nữa :
26LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Thứ nhất, hậu thế ai là người khóc cho Tiểu Thanh (nhân vật trữ tình trong
tác phẩm)
Thứ hai, ai sẽ là người đồng cảm cùng nhà thơ khóc Tiểu Thanh, khóc phận
đàn bà bạc mệnh!
Thứ ba, ai sẽ là người khóc cho đường công danh “bấp bênh” của Tố Như.
Thứ tư, Tố Như muốn người đọc hậu thế đồng cảm cùng với quan điểm nghệ
thuật của mình, …
Thật là, một câu hỏi lớn không lời đáp! (chữ của Huy Cận)
2.2.3.3. Điển tích và các tư liệu văn học cổ điển
Cung oán ngâm ở câu 83-84 Nguyễn Gia Thiều viết :
Giấc Nam Kha khéo bất bình
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không!
Tích giấc Nam kha được lấy từ chữ : Nam kha mộng, nghĩa là giấc mộng ở
cành hướng Nam. Trong một bài ký của Lý Công Tá, đời Đường, chép rằng :
Thuần Vu Phần chiêm bao đến nước Hoè An được quốc vương nước này cho làm
chức Thái thú và gả con gái cho, hưởng đủ mọi điều vinh hiển; nhưng sau bị thua
trận, vợ lại chết; vua sinh nghi cho về. Người ấy giật mình tỉnh giấc, thấy mình
ngủ dưới gốc hoè, dưới nhánh hoè hướng nam có cái hang kiến, mới sự tỉnh biết
mình nằm chiêm bao nơi hang ấy. Từ tích ấy, câu thơ muốn nói rằng mọi thứ vinh
hoa phú trên đời này chẳng khác gì giấc chiêm bao, có đó rồi mất đó.
2.2.3.4. Chơi chữ
Khi kín đáo hơn, nhẹ nhàng, để nói đến thân phận bấp bênh về thân phận của
người phụ nữ trong xã hội ngày trước, dân gian có câu :
Thân em như cá rô mề
Lao xao giữa chợ biết về tay ai
Ví thân em với cá rô mề, quả là khó còn từ ngữ nào đắc hơn trong văn cảnh
vừa dẫn, bởi nó chỉ được nhiều điều mà người sáng tạo ra nó muốn nói.
27LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG 3. TÌM HIỂU VỀ TÍNH HÀM SÚC TRONG
THƠ NGUYỄN TRÃI
Nhận định về Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông viết : “Trong lòng Ức Trai 抑 齋
rực sáng ánh văn chương”. Thực vậy, vẻ đẹp này trong thơ Ức Trai thật nhiều màu
sắc : bi ai có, hùng tráng có, căm giận có, yêu thương có...lấp lánh như sắc ngọc
trai dưới ánh mặt trời. Nhưng có một màu sắc rực rỡ hơn cả mà lại trầm lắng hơn
cả, lẩn khuất xa với những dư âm là một vấn đề đòi hỏi người nghiên cứu phải
quan tâm, đó là tính hàm súc trong thơ Nguyễn Trãi
Thi học của Phương Đông, cụ thể là thi học của Việt Nam, Trung Hoa, Ấn
Độ và Nhật Bản đã cho ta thấy: thơ ca của mỗi nước đều bị quy định bởi không
gian và thời gian mà nó xuất hiện. Ngoài tính chất đặc thù ra phần lớn thi ca Đông
phương còn mang một tính chất phổ biến, đó là tính hàm súc. Nguyễn Đức Long
trong Bài tựa Trích diễm thi tập cũng như Nghiêm Vũ trong Thương Lương thi
thoại đều cho ta thấy thơ Việt nam xưa cũng như thơ Đường bên Trung Hoa đều
28LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
mang tính hàm súc: “Lời hết nhưng ý không cùng”; nó huyền ảo “như âm thanh
trong không trung... như bóng trăng dưới nước, như hình ảnh trong gương”, chỉ
lĩnh hội bằng ý thức gián tiếp chứ không thể nắm bắt được [8, tr.531]
3.1.Trong thơ chữ Hán
3.1.1. Ca ngợi thiên nhiên
Đọc phần thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, người ta thấy rõ nhà thơ đã tiếp
thu truyền thống của thơ Đường, thơ Tống. Và đối với Nguyễn Trãi, sự tiếp thu ấy
rất có sáng tạo và phát triển. Nhưng nói thế không có nghĩa là chúng ta cho rằng
Nguyễn Trãi vượt lên Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị...Nhưng nếu như thơ của các
nhà thơ lớn Trung Quốc có tính dân tộc Trung Quốc, thì thơ Nguyễn Trãi cũng
mang rất rõ những đường nét, màu sắc Việt Nam.
Đây là cảnh chùa trên núi, buổi chiều :
“...Vân quy thiền tháp lãnh
Hoa lạc, giản lưu hương
Nhật mộ viên thanh cấp
Sơn không trúc ảnh trường
Cá trung chân hữu ý
Dục ngữ hốt hoàn vương!..”
(Du sơn tự)
(...Mây về, giường sư lạnh
Hoa rụng suối hương trôi
Chiều tối vượn kêu gấp
Núi quang bóng trúc đài
Cảnh này thật hữu ý