Thực trạng và giải pháp sử dụng hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách cho đầu tư phát triển trên địa bàn thị xã hồng lĩnh (tỉnh hà tĩnh) giai đoạn 2000 2010

  • 83 trang
  • file .pdf
LUẬN VĂN:
Thực trạng và giải pháp sử dụng hiệu
quả vốn đầu tư từ ngân sách cho đầu tư
phát triển trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh
(tỉnh Hà Tĩnh) giai đoạn 2000 - 2010
Lời nói đầu
Một trong những vấn đề chủ yếu của nền kinh tế hiện nay là làm sao thu hút
được nhiều vốn đầu tư cho công cuộc phát triển đất nước, đưa đất nước thoát ra khỏi
tình trạng nghèo nàn và lạc hậu.
Vấn đề cốt yếu của đầu tư là tính hiệu quả, làm sao để với một số vốn nhất định
có thể mang lại được lợi ích cao nhất. Vốn ngân sách Nhà nước là một phần quan
trọng trong công cuộc đổi mới kinh tế nói chung cũng như đầu tư nói riêng.
Nhìn lại 10 năm phát triển kinh tế của thị xã Hồng Lĩnh có những thành tựu
đáng tự hào, tuy nhiên cũng còn những vấn đề tồn tại cần khắc phục.
Một trong những yếu tố làm nên sự thành công của kinh tế thị xã Hồng Lĩnh
trong 10 năm phát triển chính là hoạt động đầu tư. Sự nỗ lực của địa phương trong việc
huy động vốn đầu tư, tạo ra được nhiều công trình đầu tư có hiệu quả. Nguồn vốn mà
thị xã Hồng Lĩnh sử dụng trong những năm qua chủ yếu là vốn ngân sách Nhà nước
(Vốn ngân sách tỉnh, ngân sách của Hồng Lĩnh), các nguồn vốn khác cũng có nhưng
chưa nhiều. Việc sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh có
hiệu quả đầu tư cao là vấn đề nổi cộm cần được quan tâm hàng đầu. Vì vậy, chuyên đề
“Thực trạng và giải pháp sử dụng hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách cho đầu tư
phát triển trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh (tỉnh Hà Tĩnh) giai đoạn 2000 - 2010 ’’
được hoàn thành với mong muốn đóng góp một số ý kiến cho vấn đề trên.
Hoạt động đầu tư có rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu như : Quản lý dự án đầu
tư, thẩm định dự án đầu tư, rủi ro trong đầu tư, đầu tư và chuyển giao công nghệ, lập
dự án đầu tư ... Nhưng do hạn chế trong việc thu thập số liệu và hạn chế về thời gian,
trình độ nên chuyên đề chỉ dừng lại ở mức khảo sát đánh giá hoạt động đầu tư của thị
xã Hồng Lĩnh một cách nói chung và việc sử dụng nguồn vốn ngân sách nói riêng.
 Về đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi bài viết do thời gian, nguồn số liệu và trình độ hạn chế nên chỉ
đi vào nghiên cứu về thực trạng sử dụng Vốn ngân sách cho đầu tư phát triển trên địa
bàn thị xã Hồng Lĩnh những mặt đạt được, chưa được trong giai đoạn từ năm 2000 đến
năm 2005. Từ đó đưa ra một số giải pháp sử dụng hiệu quả vốn ngân sách trên địa bàn
giai đoạn 2006 - 2010.
 Về nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu tập trung vào vấn đề sử dụng hiệu quả vốn ngân sách cho
đầu tư phát triển trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh (tỉnh Hà Tĩnh) giai đoạn 2000 - 2005
và các giải pháp cho giai đoạn 2006 - 2010.
 Kết cấu bài viết
Kết cấu bài viết được chia làm 3 chương (không kể lời nói đầu và phần kết
luận), với các nội dung như sau:
Chương 1: Tổng quan về đầu tư phát triển và đầu tư từ nguồn vốn ngân
sách.
Chương 2: Thực trạng sử dụng hiệu quả vốn ngân sách cho đầu tư phát
triển trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh (tỉnh Hà Tĩnh) giai đoạn 2000 - 2005.
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp cho việc sử dụng hiệu quả
vốn ngân sách cho đầu tư phát triển trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh giai đoạn
2006 - 2010.
Chương 1
Tổng quan về Đầu tư phát triển và Đầu tư
từ nguồn vốn ngân sách
1.1. Về đầu tư phát triển
1.1.1. Khái niệm
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu hút về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn
lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là
đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải
gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Trong lĩnh vực đầu tư có nhiều hình thức đầu tư như đầu tư thương mại, đầu tư
tài chính, đầu tư tài sản vật chất và sức lao động ...
Đầu tư thương mại: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để mua hàng
hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và
khi bán. Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến
ngoại thương) mà chỉ làm tăng tái sản xuất cho chính người đầu tư trong quá trình mua
đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và
giữa người đầu tư với khách hàng của họ.
Đầu tư tài chính: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặt mua
các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính
phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động: Là loại đầu tư trong đó người có tiền
bỏ ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng
tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo
việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền
ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp
đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí
thương xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt
động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hôị. Loại đầu tư
này được gọi chung là đầu tư phát triển.
Trên góc độ tài chính thì đầu tư phát triển là quá trình chi tiêu để duy trì sự phát
huy tác dụng của vốn cơ bản hiện có và bổ sung vốn cơ bản mới cho nền kinh tế, tạo
nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội trong dài hạn.
Đầu tư phát triển: Là một phương thức Đầu tư trực tiếp trong đó việc bỏ vốn là
nhằm gia tăng giá trị tài sản. Trong đầu tư phát triển nhằm tạo ra năng lực sản xuất
mới và (hoặc) cải tạo, mở rộng, nâng cấp năng lực sản xuất hiện có vì mục tiêu phát
triển.
Trong đầu tư các nguồn lực có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao
động và trí tuệ. Trong đầu tư các nguồn lực đóng vai trò quyết định, nó là cái đầu tiên
phải có khi tiến hành một công cuộc đầu tư.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển
Hoạt động đầu tư phát triển ngoài những đặc điểm chung của đầu tư như là tính
rủi ro, lượng vốn đầu tư, đầu tư đòi hỏi phải có thời gian, đầu tư là một sự hi sinh các
nguồn lực hiện tại....Còn có các đặc điểm khác biệt so với các loại hình đầu tư khác đó
là:
Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong
suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn cho hoạt động đầu tư
phát triển. Lượng vốn này cần được đảm bảo thì công cuộc đầu tư mới có thể mang lại
hiệu quả. Vì hoạt động đầu tư phát triển là đầu tư vào nhiều lĩnh vực thuộc nền kinh tế
- xã hội nên lượng vốn đầu tư phải lớn mới đảm bảo hiệu quả đầu tư . Đầu tư phát triển
gắn liền với các hoạt động khác của xã hội nên khi tiến hành đầu tư phải phân tích
nhiều và sâu về các lĩnh vực liên quan, làm được điều này đòi hỏi phải có vốn lớn và
để nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu tư. Ví dụ như một dự án đầu tư vào phát
triển mạng lưới giao thông đường bộ quốc gia thì lượng vốn bỏ ra rất lớn, công cuộc
đầu tư keo dài. Đường Hồ Chí Minh được đầu tư với số vốn hàng ngàn tỷ đồng, thời
gian đầu tư kéo dài trong nhiều năm, huy động một lượng nhân công lớn, có ảnh
hưởng tới nhiều vấn đề như môi trương văn hóa ...
Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó
phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xẩy ra. Do đó
không thể tránh khỏi sự tác động của hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không
ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế, văn hoá ...Có nhiều dự án đầu tư phải
dừng lại giữa chừng không thể tiến hành đầu tư được nữa do các yếu tố tiêu cực từ tự
nhiên gây ra. Vì thế khi tiến hành công cuộc đầu tư phát triển cần phải nghiên cứu và
dự báo các sự cố có thể xẩy ra với dự án sau này.
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều
năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm, thậm chí còn lâu hơn nữa như những công
trình : Vạn lý trường thành (Trung Quốc), Tháp chàm (Việt Nam), Kim tự tháp (Ai
Cập), Angcovat (Campuchia)... Điều này nói lên giá trị lớn của các thành quả đầu tư
phát triển. Các công cuộc đầu tư phát triển mang lại cho nhân loại nhiều giá trị về kinh
tế - xã hội, quốc phòng an ninh.
Mọi công cuộc đầu tư đều hướng tới các thành quả của nó, các thành quả của
hoạt động đầu tư phát triển thường là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi
mà nó được tạo dựng lên. Do đó các điều kiện về địa lý, địa hình tại đó có ảnh hưởng
lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như các tác dụng sau này của các kết quả đầu
tư. Công cuộc đầu tư phát triển của một vùng hay một địa phương là việc bỏ ra các
nguồn lực để đầu tư xây dựng các công trình tại đó để phục vụ công cuộc phát triển.
Điều kiện địa lý, địa hình có một ảnh hưởng rất lớn tới các công trình xây dựng nên
khi thực hiện đầu tư phải tính đến yếu tố này.
Mọi thành quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu
tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian như : Động đất, núi
lửa, chiến tranh ... Do hoạt động đầu tư phát triển phải tiến hành với thời gian dài nên
rủi ro là rất lớn. Các yếu tố không ổn định đó có thể khác phục được, nhưng cũng có
thể không khắc phục được chính vì thế các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển
không phải lúc nào cũng mang lại cho con người kết quả như mong muốn.
Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao
đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư. Sự chuẩn bị này được thể hiện ngay
trong việc biên soạn các dự án đầu tư, có nghĩa là phải thực hiện đầu tư theo dự án
được soạn thảo với chất lượng tốt. Trong các dự án đầu tư được biên soạn đó các yếu
tố về kỹ thuật, kinh tế xã hội, khía cạnh tài chính, về các rủi ro ... được nghiên cứu kỹ
và khoa học.
1.1.3. Các nguồn vốn cho đầu tư phát triển
Vốn đầu tư là tiền tích lũy của xã hội, của các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch
vụ, là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác như viện trợ của nước
ngoài, liên doanh liên kết, vay của các chính phủ hay các tổ chức phi chính phủ ...
nhằm tái sản xuất, duy trì, mở rộng các tài sản cố định. Đổi mới và bổ sung cơ sở vật
chất kỹ thuật cho nền kinh tế, cho các ngành, cho các địa phương, cho các cơ sở sản
xuất kinh doanh dịch vụ.
1.1.3.1. Nguồn vốn trong nước
Vốn ngân sách Nhà nước là nguồn vốn mà Nhà nước bỏ ra cho các công cuộc
đầu tư. Chi cho các địa phương để tiến hành các hoạt động của mình trong đó có hoạt
động đầu tư nói chung và đầu tư phát triển nói riêng. Vốn ngân sách được hình thành
từ vốn tích luỹ của nền kinh tế và được Nhà nước duy trì trong kế hoạch ngân sách để
cấp cho các đơn vị thực hiện các công trình thuộc kế hoạch Nhà nước.
Là những nguồn vốn được huy động trong nước bao gồm nguồn vốn của ngân
sách Nhà nước, ngồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước, nguồn vốn tín dụng của các
doanh nghiệp Nhà nước, nguồn vốn từ khu vực tư nhân...
 Nguồn vốn ngân sách Nhà nước:
Đây là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Là một nguồn vốn đầu tư
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn
này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng,
an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia
của Nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và phát triển nông thôn.
 Vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước:
Cùng với quá trình phát triển của đất nước, tín dụng đầu tư của Nhà nước ngày
càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Vốn tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao
cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn
này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính
kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương
thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước còn phục vụ công tác quản lý
và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn vốn tín dụng đầu tư, Nhà nước khuyến
khích phát triển kinh tế - xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược
của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực
hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội. Việc
phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển vùng kinh tế khó
khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xoá đói giảm nghèo. Và trên hết nguồn vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
 Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước:
Được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh
nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một một khối lượng vốn Nhà nước khá lớn. Mặc dù vẫn
còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực kinh tế Nhà nước
với sự tham gia của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế nhiều thành phần hiện nay. Lượng vốn mà các doanh nghiệp nắm giữ để đưa
vào đầu tư thường cho hiệu quả cao, góp một phần quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã
hội phát triển.
 Nguồn vốn từ khu vực tư nhân :
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ
của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo nhận định sơ bộ thì thì khu vực
kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được
huy động triệt để.
Cùng với sự phát triển của đất nước, một bộ phân không nhỏ trong dân cư có
tiềm năng kinh tế cao, có một lượng vốn khá lớn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc
do tích luỹ truyền thống. Nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không
phải là nhỏ, lượng vốn này tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt.... Nguồn này ước
tính xấp xỉ 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thực tế
phát hành trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc doanh cho thấy chỉ trong
thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng và hàng chục triệu USD từ khu
vực dân cư.
1.1.3.2. Nguồn vốn từ nước ngoài
 Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế trong đó người
chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng
vốn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được hình thành từ lâu, chủ yếu là sự di chuyển vốn
giữa các nước tư bản phát triển, ngày nay các nước đang phát triển cũng tiếp nhận
lượng vốn đầu tư này cho quá trình phát triển triển kinh tế của mình. Đây là một nguồn
quan trọng đối với các nước đang phát triển. Kinh nghiệm cho thấy các nước như Thái
Lan, Hàn Quốc, Malaysia, Singapo ... đã tận dụng nguồn vốn này rất tốt cho quá trình
phát triển kinh tế của nước họ, hiện nay các nước này đang là một trong những nước
có nền kinh tế phát triển nhanh, kinh tế ổn định.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc điểm như sau:
Các chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định,
tuỳ theo luật đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Đối với doanh nghiệp
liên doanh và hợp động hợp tác kinh doanh thì quyền quản lý doanh nghiệp và quản lý
đối tượng hợp tác tuỳ thuộc vào mức độ vốn góp của các bên tham gia, còn đối với
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì bên nước ngoài (chủ đầu tư) toàn quyền quản
lý doanh nghiệp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ít chịu sự chi phối của chính phủ. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài do các nhà đầu tư hoặc doanh nghiệp tư nhân thực hiện nên nó ít chịu sự
chi phối của chính phủ, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài ít phụ thuộc vào mối
quan hệ giữa nước chủ đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư so với các hình thức di chuyển
vốn đầu tư quốc tế khác.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra một nguồn vốn dài hạn cho nước chủ nhà:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường dài hạn nên không dễ rút đi trong thời gian ngắn.
Do đó, nước chủ nhà sẽ được tiếp nhận một nguồn vốn lớn bổ sung cho vốn đầu tư
trong nước mà không phải lo trả nợ. Điều này khác với nguồn vốn ODA, các nước
nhận vốn đầu tư phải trả nợ trong một khoảng thời gian nào đó theo quy định ký kết
giữa các bên chủ nhà và nhà viện trợ.
Quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn đầu tư gắn liền với chủ đầu tư. Chủ đầu tư
cũng chính là nhà đầu tư, họ trực tiếp đứng ra quản lý nguồn vốn của mình và chịu
mọi rủi ro có thể xẩy ra khi đầu tư. Tuy nhiên cũng như các nhà đầu tư trong nước, các
nhà đầu tư nước ngoài cũng phải tuân theo các quy định của pháp luật, các văn bản
pháp quy liên quan đến lĩnh vực đầu tư của Việt Nam.
 Nguồn viện trợ chính thức (ODA)
ODA bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại, hoặc tín
dụng ưu đãi của các chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ,
các tổ chức thuộc hệ thống liên hợp quốc (United Natinons-UN), các tổ chức tài chính
quốc tế dành cho các nước đang phát triển và chậm phát triển.
ODA cùng với các nguồn vốn khác như tín dụng thương mại từ các ngân hàng,
đầu tư trực tiếp nước ngoài, viện trợ cho không của các tổ chức phi chính phủ ( NGO),
tín dụng tư nhân chủ yếu chảy vào các nước đang và chậm phát triển. Các dòng vốn
quốc tế này có những mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Nếu một nước kém phát triển
không nhận được vốn ODA đủ mức cần thiết để cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
thì cũng khó có thể thu hút được nguồn vốn FDI cũng như vay các nguồn vốn tín dụng
khác để mở rộng kinh doanh. Nhưng nếu chỉ tìm và phụ thuộc vào ODA mà không tìm
cách thu hút các nguồn vốn khác thì nước đó không có điều kiện tăng trưởng nhanh
sản xuất, dịch vụ, không có đủ thu nhập để trả nợ ODA.
Vốn ODA mang tính ưu đãi: Đây chính là một sự ưu đãi dành cho nước vay,
nhiều khi nước nhận các khoản vốn này không phải hoàn lại.Thông thường trong ODA
có thành tố viện trợ không hoàn lại, đây chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho
vay thương mại. Các nhà tài trợ thường áp dụng nhiều hình thức khác nhau trong ưu
đãi, như kết hợp một phần ưu đãi và một phần tín dụng gần với điều kiện thương mại.
Vốn ODA còn thể hiện ở chỗ nó chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm
phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang phát
triển và chậm phát triển nhận được ODA là:
Thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người thấp. Nước nào
có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường nhận được tỷ lệ viện trợ không
hoàn lại của ODA càng cao và khả năng vay với lãi suất thấp, thời hạn ưu đãi càng
lớn. Khi các nước này đạt trình độ phát triển nhất định qua ngưỡng đói nghèo thì sự ưu
đãi này sẻ giảm đi.
Thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn ODA cua các nước này phải phù hợp với chính
sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận
ODA.
Thông thường, các nước cung cấp ODA đều có những chính sách ưu tiên riêng
của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay lĩnh vực mà họ có khả
năng kỹ thuật và tư vấn (công nghệ, kinh nghiệm quản lý...). Đồng thời, đối tượng ưu
tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo thời gian tuỳ từng điều
kiện cụ thể. Vì vậy, nắm được hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ chức
cung cấp ODA là rất cần thiết.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong
những điều kiện nhất định một phần Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) từ các nước phát
triển sang các nước đang phát triển. Như vậy nguồn gốc thực chất của ODA chính là
một phần của tổng sản phẩm quốc dân của các nước giàu được chuyển sang các nước
nghèo. Do thế, ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự điều chỉnh của dư luận xã
hội từ nước cung cấp cũng như từ nước tiép nhận ODA.
Vốn ODA mang tính ràng buộc: Có thể là ràng buộc một phần hoặc không
ràng buộc đối với nước nhận, thông thường đi kèm với vốn ODA là sự ràng buộc, tuy
nhiên sự ràng buộc nhiều hay ít còn tuỳ thuộc vào bên cho vay và bên nhận vay. Ngoài
ra nước viện trợ vốn họ còn có điều kiện, yêu cầu riêng khác nhau, các ràng buộc này
thường chặt chẽ với nước nhận ODA.
Các nước viện trợ nói chung đều không quên dành được lợi ích cho mình, vừa
gây ảnh hưởng về chính trị, vừa thực hiện xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tư vấn vào
nước nhận viện trợ. Như các nước Đức, Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải
mua hàng hoá và dịch vụ của nước mình, Canađa yêu cầu lên tới 65%, riêng Thuỵ Sĩ
chỉ yêu cầu 1,7%; Hà Lan 2,2% là hai nước có yêu cầu thấp nhất.
Kể từ khi ra đời đến nay viện trợ luôn chứa đựng 2 mục tiêu cùng tồn tại song
song. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm đói nghèo ở các
nước đang phát triển. Động cơ thúc đẩy các nhà tài trợ chính là thị trường tiêu thụ sản
phẩm, thị trường đầu tư. Viện trợ thường gắn với các điều kiện kinh tế cho nên xét về
lâu dài các nhà tài trợ sẻ có lợi về mặt an ninh, kinh tế, chính trị khi kinh tế các nước
nghèo tăng trưởng. Mối quan tâm mang tính cá nhân này được kết hợp với tinh thần
nhân đạo và tính cộng đồng. Vì một số vấn đề mang tính toàn cầu như sự bùng nổ dân
số, bảo vệ môi trường sống, bình đẳng giới, chống dịch bệnh, giải quyết xung đột sắc
tộc, tôn giáo... đòi hỏi sự hợp tác, nỗ lực của cả cộng đồng quốc tế, không phân biệt
nước giàu, nước nghèo. Mục tiêu tiếp theo là tăng cường vị thế về chính trị của các
nước viện trợ, các nước phát triển sử dụng ODA như một công cụ chính trị: xác định
vị trí ảnh hưởng của mình tại các nước và khu vực tiếp nhận ODA. Mỹ là một trong
những nước đi đầu trong chính sách dùng ODA để tạo tầm ảnh hưởng về chính trị cho
mình. Tiếp theo là Nhật Bản là nước sử dụng ODA để tạo tầm ảnh hưởng về mặt kinh
tế và chính trị.
ODA là vốn có khả năng gây nợ: Vì đây là nguồn vốn của các tổ chức nước
ngoài cho vay, thông qua hình thức đầu tư gián tiếp nên nước nhận đầu tư phải trả nợ
cho nước vay. Sự phức tạp là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho
sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi viện trợ lại dựa vào xuất khẩu ngoại tệ nên
khả năng nợ là rất cao, điều này khác với nguồn vốn FDI là nguồn vốn không có khả
năng gây nợ.
Hiện nay Việt Nam là một trong những nước nhận viện trợ lớn của khu vực,
điều này đòi hỏi chúng ta phải đầu tư từ nguồn vốn này sao cho hiệu quả của nó cao.
Vốn ODA có khả năng gây nợ nên hiệu quả đầu tư của nguồn vốn này cần phải nghiên
cứu xem xét kỹ trước khi nhận viện trợ từ các nước, phải nghiên cứu xem xét tính khả
thi của các dự án trước khi ra quyết định đầu tư.
Xu hướng của nguồn vốn ODA ngày nay là: ngày càng có thêm nhiều cam kết
quan trọng trong quan hệ hỗ trợ phát triển chính thức, bảo vệ môi trường sinh thái
đang là trọng tâm ưu tiên của các nhà tài trợ, mục tiêu và yêu cầu của các nhà tài trợ
ngày càng cụ thể, tuy nhiên ngày càng có sự nhất trí cao giữa các bên về mục tiêu này;
cạnh tranh giữa các nước đang phát triển trong việc thu hút ODA đang tăng lên. Có thể
khẳng định ODA là nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với các nước đang và chậm
phát triển.
1.2. Đầu tư từ vốn Ngân sách Nhà nước
1.2.1. Nội dung của vốn ngân sách Nhà nước
Vốn Ngân sách thường được gọi là vốn ngân sách Nhà nước vốn ngân sách trung
ương, vốn ngân sách cấp Tỉnh, vốn ngân sách cấp huyện, thị xã... (Ngân sách Trung
ương và ngân sách Địa phương). Vốn ngân sách được hình thành từ vốn tích luỹ của
nền kinh tế và được Nhà nước duy trì trong kế hoạch ngân sách để cấp cho các đơn vị
thực hiện các kế hoạch Nhà nước hàng năm, kế haọch 5 năm và kế hoạch dài hạn.
Đối với cấp hành chính là huyện, thị xã thì việc nhận vốn ngân sách cho đầu tư bao
gồm vốn đầu tư của Nhà nước cấp thông qua sở Tài chính, vốn ngân sách của Tỉnh.
Là nguồn vốn được huy động chủ yếu từ nguồn thu thuế và các loại phí, lệ phí. Đây
là nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng mặc dù vốn ngân sách chỉ chiếm khoảng 13% tổng
vốn đầu tư xã hội, song là nguồn vốn Nhà nước chủ động điều hành, đầu tư các lĩnh
vực cần ưu tiên phát triển then chốt của nền kinh tế những khu vực khó có khả năng
thu hồi vốn, những lĩnh vực mà tư nhân hoặc doanh nghiệp không muốn hoặc không
thể đầu tư vào các dự án thuộc các lĩnh vực sau:
Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; đường giao thông,
hạ tầng đô thị, các công trình cho giáo dục - văn hoá xã hội, quản lý Nhà nước....
Đầu tư các dự án sự nghiệp kinh tế như:
+ Sự nghiệp giao thông; duy tu, bảo dưỡng, sữa chữa cầu đường.
+ Sự nghiệp nông nghiệp, thuỷ lợi như: duy tu, bảo dưỡng các tuyến đê, kênh
mương, các công trình lợi ...
+ Sự nghiệp thị chính: duy tu bảo dưỡng hệ thống đèn chiếu sáng, vỉa hè, hệ thống
cấp thoát nước...
+ Các dự án điều tra cơ bản.
Đầu tư hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nước, góp vốn cổ phần, liên doanh vào
các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy
định của pháp luật.
Các địa phương cấp huyện, Thị xã đối với nguồn vốn này là rất quan trọng, nhất là
đối với những địa phương nghèo, nguồn thu cho ngân sách địa phương ít.
Ngoài việc đầu tư vào các lĩnh vực như đã nêu trên, vốn ngân sách còn có ý nghĩa
rất quan trọng để khơi dậy các nguồn vốn khác còn tiềm tàng đặc biệt là vốn trong dân
cư, ở đây vốn ngân sách có tính chất “vốn mồi”, vốn hỗ trợ một phần như: chi để lập
các dự án, các quy hoạch cần thiết để nhân dân và các tổ chức kinh tế khác đưa vốn
vào đầu tư phát triển. Hoặc vốn ngân sách hỗ trợ một phần làm đường ngõ xóm,
trường học, nhà trẻ ... phần còn lại cộng đồng dân cư tự đóng góp và quản lý sử dụng.
Hình thức này được sử dụng phổ biến ở các nước đặc biệt trong việc tham gia của
nhân dân vào các dự án dịch vụ và hạ tầng đô thị mới với các hình thức tài trợ xen kẽ,
hợp vốn công - tư ...
Nguồn vốn ngân sách nói chung được tập hợp từ các nguồn vốn trên địa bàn như:
+ Vốn ngân sách Trung ương đầu tư qua các Bộ, ngành trên địa bàn.
+ Vốn ngân sách Trung ương cân đối hoặc uỷ quyền qua Ngân sách địa phương
(Xây dựng cơ bản tập trung, thiết bị nước ngoài ghi thu ghi chi, vốn chương trình quốc
gia ...)
+ Vốn ngân sách từ các nguồn thu của địa phương được giữ lại ( cấp quyền sử
dụng đất, bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước, xổ số ... )
+ Vốn ngân sách sự nghiệp có tính chất XDCB.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn ngân sách
 Chỉ tiêu kết quả sử dụng vốn
- Khối lượng vốn đầu tư thực hiện:
Là tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt động của các công cuộc đầu tư bao
gồm: các công tác cho chi phí xây lắp, chi phí cho công tác mua sắm trang thiết bị và
các chi phí khác theo quy định của thiết kế dự toán và được ghi trong dự án đầu tư
được duyệt.
Chi phí xây lắp :
Chi phí phá và tháo dỡ các vật kiến trúc cũ ( có tính đến giá trị vật tư, vật liệu
thu hồi để giảm vốn đầu tư). Chi phí san lấp mặt bằng xây dựng. Chi phí xây dựng
công trình tạm, công trình phụ trợ phục vụ thi công ( đường thi công, điện, nước ...),
nhà tạm tại hiện trường để ở và điều hành thi công. Chi phí xây dựng các hạng mục
công trình. Chi phí lắp đặt thiết bị (đối với thiết bị cần lắp đặt). Chi phí di chuyển lớn
thiết bị thi công và lực lượng xây dựng (trong trường hợp chỉ định thầu nếu có)
Trong những năm qua ở Thị xã Hồng Lĩnh việc tính toán chi phí xây lắp đã
đúng với các văn bản của Nhà nước ban hành. Các nhà thầu đã sử dụng nhiều loại máy
móc cho công tác thi công, giải phóng mặt bằng ...
Chi phí thiết bị bao gồm:
Chi phí mua sắm thiết bị công nghệ (gồm cả thiết bị phi tiêu chuẩn cần sản xuất
gia công, các trang thiết bị khác phục vụ sản xuất, làm việc, sinh hoạt của công trình.
Chi phí vận chuyển từ cảng và nơi mua đến công trình, chi phí lưu kho, lưu bãi, lưu
Container tại cảng Việt Nam (đối với các thiết bị nhập khẩu), chi phí bảo quản , bảo
dưỡng tại kho bãi hiện trường. Thuế và các chi phí bảo hiểm thiết bị công trình.
Chi phí khác bao gồm:
ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư: Chi phí lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đối với
các dự án nhóm A hoặc dự án nhóm B (nếu cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư yêu
cầu bằng văn bản), báo cáo nghiên cứu khả thi đối với dự án nói chung và các dự án
chỉ thực hiện lập báo cáo đầu tư. Chi phí tuyên truyền quảng cáo cho dự án. Chi phí
nghiên cứu khoa học, công nghệ có liên quan đến dự án (đối với dự án nhóm A và một
số dự án có yêu cầu đặc biệt được thủ tướng chính phủ cho phép). Chi phí và lệ phí
thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án đầu tư .
ở giai đoạn thực hiện đầu tư: Chi phí khởi công công trình (nếu có). Chi phí đền
bù và tổ chức thực hiện trong quá trình đền bù đất đai, hoa màu, di chuyển dân cư và
các công trình trên mặt bằng xây dựng, chi phí phục vụ cho công tác tái định cư và
phục hồi (đối với công trình xây dựng của dự án đầu tư có yêu cầu tái định cư và phục
hồi). Chi phí khảo sát xây dựng, thiết kế công trình, chi phí mô hình thí nghiệm, chi
phí lập hồ sơ mời thầu, chi phí cho việc phân tích, đành giá kết quả đấu thầu xây lắp,
mua sắm vật tư thiết bị, chi phí giám sát thi công xây dựng, lắp đặt thiết bị và các chi
phí tư vấn khác. Tiền thuê đất hoặc tiền chuyển quyền sử dụng đất. Chi phí ban quản
lý dự án. Chi phí bảo vệ an toàn, bảo vệ môi trường trong quá trình xây dựng công
trình (nếu có). Chi phí kiểm định vật liệu đưa vào công trình (nếu có). Chi phí lập
thẩm tra đơn giá dự toán, chi phí quản lý, chi phí xây dựng công trình. Chi phí bảo
hiểm công trình. Lệ phí địa chính. Chi phí và lệ phí thẩm định thiết kế mỹ thuật hoặc
thiết kế kỹ thuật thi công, tổng dự toán công trình.
ở giai đoạn kết thúc xây dựng đưa dự án vào sử dụng: Chi phí thực hiện việc
quy đổi vốn, thẩm tra và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư công trình. Chi phí tháo dỡ
công trình tạm, công trình phụ trợ phục vụ thi công. Chi phí thu dọn vệ sinh công
trình, tổ chức nghiệm thu, khánh thành và bàn giao công trình. Chi phí đào tạo công
nhân kỹ thuật và cán bộ quản lý sản xuất (nếu có). Chi phí nguyên, vật liệu, năng
lượng và nhân lực cho quá trình chạy thử không tải, có tải (trừ giá trị sản phẩm thu hồi
được)... Chi phí dự phòng cho các khoản phát sinh không dự kiến trước được.
- Tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm:
Là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây dựng có khả năng phát
huy tác dụng độc lập (làm ra sản phẩm, hàng hoá hoặc tién hành các hoạt động dịch vụ
cho xã hội đã được ghi trong dự án đầu tư) đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm,
đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng có thể đưa vào hoạt động được ngay.
Để tính giá trị các tài sản cố định được huy động trong kỳ nghiên cứu áp dụng
công thức sau:
F = Ivb + Ivr - C - Ive
Trong đó:
F - giá trị các tái sản cố định được huy động trong kỳ.
Ivb - Vốn đầu tư được thực hiện ở các kỳ trước chưa được
huy động chuyển sang kỳ nghiên cứu.
Ivr - Vốn đầu tư được thực hiện trong kỳ nghiên cứu
C - Chi phí không làm tăng giá trị tài sản cố định.
Ive - Vốn đầu tư thực hiện chưa được huy động chuyển
sang kỳ sau.
 Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn
> Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn ở tầm vĩ mô:
ở tầm vĩ mô các hiệu quả kinh tế thường biểu hiện một cách không rõ nét,
thường phải chờ đợi một thời gian dài mới thấy hết hiệu quả của nó.
Hiệu quả đầu tư là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các kết quả
kinh tế - xã hội đạt được của hoạt động đầu tư với các chi phí phải bỏ ra để có các kết
quả đó trong một thời kỳ nhất định.
- Hệ số gia tăng vốn sản phẩm (hệ số ICOR)
Hệ số ICOR cho biết từng thời kỳ cụ thể muốn tăng thêm một đồng GDP thì
cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư. Hệ số này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
càng lớn.
ICOR = Vốn đầu tư / GDP do vốn tạo ra = Vốn đầu tư/ GDP
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. ở
các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5-7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử
dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở
các nước chậm phát triển thì ICOR thường chỉ 2-3 do thiếu vốn đầu tư, thừa lao động
nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế vốn do sử dụng công nghệ kém
hiện đại, giá rẻ.
Hệ số này đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng kế hoạch kinh tế cho
quốc gia.
- Hiệu suất vốn đầu tư :
Biểu hiện quan hệ so sánh giữa mức tăng trưởng GDP và vốn đầu tư trong kỳ
Hi =  GDP/I
Trong đó:
Hi: hiệu suất vốn đầu tư trong kỳ.
I: Mức tăng đầu tư trong kỳ.
Chỉ tiêu hiệu suất vốn đầu tư phản ánh tổng hợp hiệu quả vốn đầu tư, nhưng chỉ
tiêu này có nhược điểm cơ bản là sự hạn chế về tính so sánh được giữa tử số và mẫu số
của chỉ tiêu, vì giữa GDP và vốn đầu tư trong cùng một thời kỳ không tồn tại mối quan
hệ trực tiếp. Thời kỳ ngắn thì nhược điểm này càng bộc lộ rõ.
- Hệ số trang bị TSCĐ cho lao động
Hệ số trang bị tài sản cố định cho lao động(HL) được xác định bằng tỷ số giữa
giá trị hình bình quân của tài sản cố định trong kỳ (FA) và số lượng lao động sử dụng
bình quân trong kỳ (L) được tính theo công thức:
HL = FA/L.
Hệ số này cũng là một chỉ tiêu hiệu quả vốn đầu tư quan trọng vì kết quả vốn
đầu tư được biểu hiện ở khối lượng tài sản cố định, yếu tố vật chất hoá sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật trong việc nâng cao mức trang bị kỹ thuật cho lao động biểu hiện
kết quả của việc tăng cường cơ giới hoá, tự động hoá và các phương hướng phát triển
khoa học kỹ thuật khác là tiền đề quan trọng đảm bảo tăng năng suất lao động, phát
triển sản xuất, nâng cao mức sống của dân cư.
- Hệ số thực hiện vốn đầu tư
Hệ số thực hiện vốn đầu tư là một chỉ tiêu hiệu quả vốn đầu tư rất quan trọng,
nó phản ánh mối quan hệ giữa khối lượng vốn đầu tư bỏ ra với các tài sản cố định (kết
quả của vốn đầu tư) được đưa vào sử dụng. Hệ số được tính theo công thức:
Hu = FA/I
Trong đó: Hu: Hệ số thực hiện vốn đầu tư;
FA: Giá trị TSCĐ được đưa vào sử dụng trong kỳ:
I : Tổng vốn đầu tư trong kỳ.
Hệ số vốn đầu tư càng lớn, biểu hiện hiệu quá vốn đầu tư càng cao.
> Các chỉ tiêu hiệu quả vốn đầu tư ở tầm vi mô.
Là các chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả vốn đầu tư ở tầm vi mô, tức là đo
lường và đánh giá hiệu quả của từng dự án đầu tư cụ thể; từng công trình xây dựng.
Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của một địa phương ta xét tổng hợp các chỉ tiêu này
theo nhiều góc độ khác nhau.
- Tỷ số lợi ích trên chi phí (B/C)
Tỷ lệ lợ ích trên chi phí xác định mối quan hệ giữa lợi ích thu được của dự án
đầu tư so với chi phí mà dụ án đầu tư bỏ ra. hay nói cách khác tỷ số lợi ích trên chi phí
(B/C) là tỷ số giữa hiện giá thu nhập và hiện giá chi phí. Để xác định được tỷ lệ này
chúng ta cần xác định được dòng lợi ích và dòng chi phí của dự án.
Tỷ lệ này được tính theo công thức:
Tổng hiện giá thu nhập Bt/(1+i)t
B/C = =
Tổng hiện giá chi phí Ct/(1+i)t
t=1n
Dòng chi phí bao gồm chi phí vận hành hàng năm và dòng đầu tư.
Dòng lợi ích được xác định bằng dòng thu của dự án.
Trong đó: Bt: thu nhập của dự án năm t
Ct: chi phí dự án năm t
n: Tuổi thọ kinh tế hoặc thời gian hoạt động của dự án đầu tư
Nếu B/C >1 : Thu nhập > Chi phí, dự án có lãi (hiệu quả)
Nếu B/C = 1: Thu nhập = Chi phí, dự án không có lãi
Nếu B/C < 1: Thu nhập < chi phí, dự án bị lỗ
ưu điểm của chỉ tiêu này cho thấy mức thu nhập của một đồng chi phí, nhưng
nó có nhược điểm là không cho chúng ta biết tổng số lãi ròng thu được (có dự án có tỷ
lệ lợi ích trên chi phí (B/C) lớn, nhưng tổng lãi ròng vẫn nhỏ).
- Thời hạn thu hồi vốn đầu tư ( T)
Thời hạn thu hồi vốn đầu tư xác định khoảng thời gian số vốn đầu tư bỏ vào thu
hồi lại được hoàn toàn.
Thời hạn thu hồi vốn đầu tư có thể xác định theo thời hạn thu hồi vốn giản đơn
(ký hiệu là T) và thời hạn thu hồi vốn đầu tư có tính đến yếu tố thời gian của tiền (thời
hạn thu hồi vốn đầu tư có chiết khấu T).
Thời hạn thu vốn đầu tư giản đơn.
T
K   CFi
i 1
T: Thời hạn thu hồi vốn giản đơn.
CFi = lợi nhuận + khấu hao = Bi - Ci
K: Tổng vốn đầu tư ban đầu
Thời hạn tu hồi vốn đầu tư có chiết khấu:
+ Phương pháp trừ dần:
Ki: là số vốn đầu tư quy về năm i
CFi = lợi nhuận + khấu hai năm i
I = Ki - Ci là số vốn đầu tư đã thu hồi một phần tại năm i sẽ chuyển sang
năm i + 1 để thu hồi tiếp.
Ta có: Ki + 1 = i (1+r)
Ki = i - 1 (1 +r)
Khi i  0 thì i  T
+ Phương pháp cộng dồn:
t (Bi-Ci)
K=
i = 1 (1 + r)i
Quy đổi các giá trị về năm 0 rồi cộng lại cho đến khi bằng với giá trị K khi đó
ta sẽ xác định được thời hạn thu hồi vốn đầu tư có tính đến yếu tố thời gian của tiền.