Thực trạng và các giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản của việt nam tại mỹ
- 35 trang
- file .pdf
§Ò ¸n m«n häc
MỤC LỤC
Lời mở đầu ........................................................................................1
Nội dung .............................................................................................3
I. Một số khái niệm về thị trường .......................................................3
2. Đặc điểm của thị trường thuỷ sản tại Mỹ .......................................4
3. Sự cần thiết phải mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ
của Việt Nam .....................................................................................7
II. Khái quát thực trạng thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ của
Việt Nam ............................................................................................8
1. Khái quát thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ của Việt Nam ....8
2. Thực trạng thị trường xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản của Việt
nam
sang Mỹ ..............................................................................................9
III. Các giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xuất
khẩu sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ ............18
1. Các giải pháp chủ yếu...................................................................18
2. Một số suy nghĩ của bản thân .......................................................23
Kết luận............................................................................................24
Tài liệu tham khảo ..........................................................................25
§Ò ¸n m«n häc
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế của Việt Nam, thuỷ sản là thế mạnh và là
ngành kinh tế mũi nhọn. Với lợi thế Việt Nam có hơn 3260 Km bờ
biển, 112 cửa sông, lạch, hơn 2 triệu km2 thềm lục địa, hơn một
triệu km2 mặt nước, sự phong phú về các loại thuỷ hải sản nên
ngành thuỷ sản của nước ta có điều kiện rất thuận lợi để phát triển
và thực tế nó đã trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân. Từ năm 1990 đến nay ngành ngư nghiệp đã phát triển
mạnh. Hàng năm Việt nam đã đánh bắt từ 1,2 triệu đến 1,7 tấn hải
sản. Trong những năm qua ngành thuỷ sản đã đạt được tốc độ phát
triển cao, ổn định và mức tăng tổng bình quân hàng năm về tổng
sản lượng thuỷ sản trên 4%/năm, giá trị kim ngạch xuất khẩu bình
quân chiếm 10-15% trong ttổng kim ngạch xuẩt khẩu của Việt nam
hàng năm, đứng thứ 29 trên thế giới về xuất khẩu với 1% giá trị
xuất khẩu thuỷ sản của thế giới. So với các nước Đông Nam Á thì
Việt Nam đứng hàng thứ tư sau Thái Lan, Inđônêsia, Malaisia về
đánh bắt và xuất khẩu thuỷ sản. Trong điều kiện hiện nay, đời sống
nhân dân ta ngày càng được nâng cao, nhu cầu về thực phẩm cũng
tăng lên nhanh chóng cả về mặt số lượng và chất lượng, đặc biệt là
nhu cầu về các loại thuỷ hải sản. Sản phẩm thuỷ sản của nước ta
hiện nay không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất
khẩu một số lượng lớn những sản phẩm có giá trị dinh dưỡng và
kinh tế cao ra nước ngoài( tôm , cua , cá, mực...).
Theo báo của tổng cục hải quan năm 1998, mặt hàng thuỷ
sản Việt Nam đã có mặt trên 34 nước trên thế giới với tổng kim
§Ò ¸n m«n häc
ngạch 856,6 triệu USD và hiện nay đã có mặt trên 64 quốc gia. Thị
trường nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam là các nước Châu Âu, 13
nước Châu Á và Mỹ, trong đó Mỹ đang là thị trường mục tiêu mà
chúng ta hướng vào. Với thực trạng Việt Nam đang trên đà phấn
đấu để gia nhập WTO thì việc xúc tiến quan hệ thương mại với Mỹ
là điều quan trọng, cùng với một số mặt hàng xuất khẩu khác, sản
phẩm thuỷ sản của Việt Nam cần phải khẳng định được vai trò và
vị thế của mình trên đất Mỹ. Đó là mục tiêu quan trọng của ngành
thuỷ sản nước ta và cũng là lý do để em chọn và nghiên cứu đề tài:
“Thực trạng và các giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm mở rộng thị
trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tại Mỹ”.
§Ò ¸n m«n häc
§Ò ¸n m«n häc
NỘI DUNG
I_ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG.
1_KHÁI NIỆM VỀ THỊ TRƯỜNG.
a. Thị trường nói chung.
Từ xưa đến nay đã có rất nhiều định nghĩa, quan niệm về thị
trường khác nhau nhưng ta có thể hiểu một cách chung nhất về bản
chất của thị trường như sau:
Thị trường là lĩnh vực trao đổi mà thông qua đó người bán
và người mua có thể trao đổi sản phẩm, dịch vụ cho nhau tuân theo
các quy luật kinh tế hàng hóa.
Như vậy, ta có thể hiểu thị trường được biểu hiện trên ba nét lớn
sau:
- Thị trường là lĩnh vực trao đổi được tổ chức theo quy luật
kinh tế hàng hoá như: quy luật giá trị; quy luật cạnh tranh....
- Thị trường là sự trao đổi ngang giá và tự do đối với sản
phẩm làm ra; gắn sản xuất với tiêu dùng, buộc sản xuất phải phục
tùng nhu cầu tiêu dùng.
- Một thị trường cân đối thì giá cả của nó phải phản ánh chí
phí sản xuất xã hội trung bình, do đó buộc người sản xuất phải
giảm chi phí, tiết kiệm nguồn lực, nâng cao năng suất và chất
lượng sản phẩm.
b. Thị trường xuất khẩu thuỷ sản
Thị trường xuất khẩu thuỷ sản về cơ bản vẫn mang bản
chất của thị trường nói chung nhưng nội dung của nó hẹp hơn. Ta
§Ò ¸n m«n häc
có thể hiểu thị trường xuất khẩu thuỷ sản là một lĩnh vực trao đổi
mà thông qua đó người cung cấp ở nước này và người có nhu cầu
ở nước khác về sản phẩm và dịch vụ thuỷ sản có thể trao đổi, mua
bán với nhau tuân theo các qui luật kinh tế hàng hoá.
Thị trường trao đổi thuỷ sản thế giới rất rộng lớn bao gồm
195 nước xuất khẩu và 180 quốc gia nhập khẩu thuỷ sản trong đó
nhiều quốc gia vừa xuất vừa nhập khẩu thuỷ sản như Mỹ, Pháp,
Anh...Năm 1999, lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản thế giới đạt hơn 50
tỷ đô la, giảm 2,8% so với 51,4 tỷ năm 1997.
Hiện nay, Thái Lan là nhà xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất với
kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ đô la, tương đương 8% tổng kim
ngạch thế giới. Sau đó là Mỹ, Nauy, Trung Quốc,Pêru, Đài Loan,
Canađa, Chilê, Inđônêxia, Nga, Hàn Quốc...
Quốc gia nhập khẩu lớn nhất là Nhật Bản, chiếm 30% tổng
kim ngạch buôn bán quốc tế, vượt xa mức 14% thị phần của nước
đứng thứ hai là Mỹ. Năm 1999, nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản,
Hồng Kông, Singapore...giảm sút nhưng đã được bù đắp phần nào
bởi nhu cầu tăng mạnh ở thị trường Mỹ. Các nước nhập khẩu thuỷ
sản lớn của thế giới đứng sau Nhật và Mỹ lần lượt là Pháp, Italia,
Đức, Anh, Hồng Kông, Hà Lan...
2_ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN TẠI MỸ.
Thị trường Mỹ luôn là môt thị trường hấp dẫn không chỉ đối
với các nước châu Á ( trong đó có Việt Nam) mà còn là mục tiêu
của nhiều nước trong các châu lục khác.Trong số các thị trường
tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam thì Mỹ là thị trường khá
§Ò ¸n m«n häc
rộng lớn và giàu tiềm năng, chỉ đứng sau Nhật Bản. Nước Mỹ với
280 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người vào loại cao nhất thế
giới, đời sống vật chất của người dân Mỹ ở mức rất cao nên nhu
cầu về các loại thực phẩm là rất lớn cả về số lượng và chất lượng,
trong đó đặc biệt là nhu cầu về sản phẩm thuỷ sản. Sức mua của
người dân Mỹ lớn, giá cả ổn định, mặt hàng chất lượng càng cao,
càng đắt giá thì lại càng dễ tiêu thụ. Mỹ cũng có một ngành thuỷ
sản khá phát triển, tuy nhiên nó vẫn không đủ để đáp ứng đầy đủ
nhu cầu của người dân về chủng loại và chất lượng ở một số mặt
hàng thuỷ sản. Chính vì thế Mỹ vẫn phải nhập khẩu từ các nước
khác. Khi đời sống lên cao thì nhu cầu về các loại hải sản tăng lên
mạnh mẽ. Các loại hải sản xuất hiện trên thị trường với nhiều
chủng loại khác nhau tạo nên sự phong phú và đa dạng. Có rất
nhiều loại sản phẩm trên thị trường được chế biến với công nghệ
khác nhau mang những thương hiệu khác nhau của rất nhiều hãng
trong và ngoài nước. Hơn nữa người dân Mỹ lại rất tự do trong
việc lựa chọn các mặt hàng tiêu dùng cho mình, họ có thể lựa chọn
một sản phẩm trong hoặc ngoài nước tuỳ ý miễn là đáp ứng được
nhu cầu của họ. Do đó rất nhiều các tổ chức kinh doanh trong và
ngoài nước Mỹ đổ xô vào thị trường tiêu thụ béo bở này tạo nên
một môi trường cạnh tranh khá căng thẳng. Việt Nam với những
lợi thế riêng về chất lượng sản phẩm tự nhiên, hàng năm nước ta
vẫn xuất sang Mỹ một số lượng lớn sản phẩm thuỷ sản được chế
biến dưới nhiều hình thức khác nhau. Chỉ tính riêng năm 1999
nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ lên tới con số kỷ lục 9,3 tỷ USD. Vào
§Ò ¸n m«n häc
được thị trường Mỹ tức là hàng hóa uy tín chất lượng cao, bởi vì
phải đảm bảo vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn
HACCP. Nhìn một cách tổng quát, Mỹ là thị trường tiêu thụ rộng
lớn và giàu tiềm năng của ngành xuất khẩu thuỷ sản nước ta.
Bên cạnh đó, thị trường Mỹ cũng là một thị trường khá khắt
khe. Thị trường Mỹ tuy rộng lớn nhưng nhu cầu của người tiêu
dùng Mỹ lại rất cao. Một sản phẩm thuỷ sản phải đạt tiêu chuẩn về
mẫu mã, chất lượng, độ an toàn thực phẩm và hàm lượng chất dinh
dưỡng thì mới có đủ khả năng xuất hiện và cạnh tranh trên thị
trường Mỹ. Nếu không có đủ tất cả các yêu cầu trên thì sản phẩm
đó sẽ bị các sản phẩm của các hãng khác cạnh tranh loại bỏ, hoặc
bị chính người tiêu dùng Mỹ tẩy chay, khả năng tồn tại và phát
triển của sản phẩm đó là rất khó khăn. Đó là về phía những người
tiêu dùng còn về phía Chính phủ Mỹ cũng có rất nhiều những qui
định đặt ra cho các sản phẩm thuỷ sản nhập khẩu. Khi đưa sản
phẩm thuỷ sản vào thị trường Mỹ, chúng ta phải quan tâm và hiểu
được hệ thống pháp luật của Mỹ. Hệ thống luật của Mỹ khá phức
tạp, chặt chẽ và mới lạ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt
Nam. Vì vậy nếu không nghiên cứu tìm hiểu rõ thì các doanh
nghiệp sẽ phải gánh chịu những thua thiệt nặng nề trong kinh
doanh. Có thể đơn cử một số luật sau:
_Luật chống độc quyền đưa ra các chế tài hình sự khá nặng
đối với những hành vi độc quyền hoặc cạch tranh không lành
mạnh trong kinh doanh, cụ thể là phạt tiền đến 1 triệu USD đối với
các công ty,100.000 USD hoặc tù 3 năm đối với cá nhân.
§Ò ¸n m«n häc
_Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm, theo đó người tiêu
dùng bị thiệt hại có thể kiện nhà sản xuất về mức bồi thường thiệt
hại quy định gấp nhiều lần thiệt hại thực tế.
_Luật liên bang và các tiểu bang của Mỹ được áp dụng
cùng một lúc trong lĩnh vực thuế kinh doanh đòi hỏi ngoài việc
nắm vững luật của tiểu bang mà các doanh nghiệp có quan hệ kinh
doanh còn phải nắm vững luật của Liên bang nữa.
Vì vậy có thể nói chưa có sự phù hợp cao giữa việc xuất
khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam với yêu cầu nhập khẩu của thị
trường Mỹ. Thị trường Mỹ là một thị trường “khó tính” của thế
giới. Hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Mỹ phải qua sự kiểm tra chặt
chẽ của cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa kỳ(FDA) theo
các tiêu chuẩn HACCP. Vấn đề vệ sinh thực phẩm, ô nhiễm môi
trường, bảo vệ sinh thái...là những lý do mà Mỹ thường đưa ra để
hạn chế nhập khẩu.
Bên cạnh đó, hàng hoá từ nước ngoài xuất khẩu vào Mỹ sẽ
phải trải qua một số thủ tục hải quan khá chặt chẽ. Hệ thống thuế
quan của Mỹ(gọi tắt là HTS ) hiện không chỉ được thi hành ở Mỹ,
mà hầu hết các quốc gia thương mại lớn của thế giới đang áp
dụng... .Nhiều loại thuế của Mỹ đánh theo tỷ lệ trên giá trị hàng
hoá, tức là mức thuế được xác định dựa trên tỷ lệ phần trăm trên
giá trị hàng nhập khẩu, mức thuế suất biến động từ 1-40%, trong
đó mức thông thường từ 2-7% giá trị hàng nhập khẩu. Một số hàng
hoá khác phải chịu thuế gộp- tức là loại thuế kết hợp cả mức thuế
tỷ lệ trên giá trị và mức thuế theo số lượng. Có những hàng hoá
§Ò ¸n m«n häc
phải chịu thuế định ngạch- đó là loại thuế suất cao hơn được áp
dụng đối với hàng nhập khẩu sau khi một lượng hàng hoá cụ thể
thuộc loại đó đã được nhập khẩu vào Mỹ trong cùng năm đó. Hầu
hết các đối tác thương mại của Mỹ đều được hưởng quy chế đối xử
thương mại bình thường(NTR). Hàng hoá của các nước thuộc diện
NTR khi xuất khẩu vào Mỹ chỉ phải chịu mức thuế thấp hơn nhiều
so với hàng hoá của các nước không có NTR của Mỹ. Khi có sự
điều chỉnh giảm hay huỷ bỏ một loại thuế quan nào đó thì sự thay
đổi đó sẽ được áp dụng bình đẳng đối với tất cả các nước được
hưởng NTR của Mỹ. Hiện nay, các nước tham gia WTO đều được
hưởng NTR của Mỹ. Các nước đang được hưởng NTR của Mỹ
phải đáp ứng hai điều kiện cơ bản: đã ký hiệp định thương mại
song phương với Mỹ và phải tuân thủ các điều kiện Jacson-Vanik
trong luật thuơng mại năm 1974 của Mỹ.
Hơn nữa, tính cạnh tranh trên thị trường Mỹ rất cao, nhiều
nước trên thế giới có lợi thế tương tự như Việt Nam cũng đều coi
thị trường Mỹ là thị trường chiến lược trong hoạt động xuất khẩu
thuỷ sản cũng như những hàng hoá khác. Ta bước vào thị trường
Mỹ chậm hơn so với các đối thủ, khi mà thị trường đã ổn định về:
người mua, người bán, thói quen, sở thích, sản phẩm_đây cũng
được coi là thách đố đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói
chung, hàng thuỷ sản nói riêng của Việt Nam trên thị trường Mỹ.
3_ SỰ CẦN THIẾT PHẢI MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT
KHẨU THUỶ SẢN TẠI MỸ CỦA VIỆT NAM.
§Ò ¸n m«n häc
Thực tế cho thấy sản lượng tiêu thụ thuỷ sản trên thị trường
thế giới nói chung và thị trường Mỹ nói riêng ngày càng tăng, việc
đó có nhiều nguyên nhân, nhưng có hai nguyên nhân chính đó là
gia tăng dân số và thu nhập. Dự báo vào năm 2005 mức tiêu thụ
thực phẩm trên trị trường thế giới là 100 triệu tấn/năm( chưa kể
đến thức ăn cho chăn nuôi là 25-30 triệu tấn/năm) và tổng mức
tiêu thụ thuỷ sản của thế giới là 125-135 triệu tấn/năm.
Ngành ngư nghiệp của Việt Nam mới bắt đầu phát triển mạnh
từ năm 1990 đến nay và xuất khẩu thuỷ sản cũng không ngừng
tăng lên từ đó. Mặt hàng xuất khẩu về thuỷ sản của Việt Nam khá
phong phú về chủng loại. Sản lượng tôm đông lạnh chiếm từ 80-
90% khối lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu, về giá xuất khẩu thì tôm
cũng là mặt hàng được giá nhất trong ba chủng loại chính xuất
khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam. Trong cơ cấu xuất khẩu của
Việt Nam thì thuỷ sản là ngành có vị trí rất quan trọng. Chúng ta
có thể thấy rằng Mỹ là thị trường tiềm năng đối với Việt Nam.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 2000 mới đạt khoảng 700
triệu USD nhưng khả năng nhập khẩu của thị trường này năm
2000 đã là 1300triệu USD (Việt Nam mới chỉ chiếm 0,06% thị
phần nhập khẩu của Mỹ). Dự tính rằng kim ngạch xuất khẩu sang
thị trường Mỹ ở cuối năm 2005 là 3 tỷ USD và năm 2010 là 6 tỷ
USD- đây là dự báo mà một nhóm các nhà nghiên cứu đã đề xuất.
Việc buôn bán thuỷ sản trên thế giới vẫn tiếp tục tăng như
hiện nay. Các nước xuất khẩu mạnh và năng động vẫn là các nước
§Ò ¸n m«n häc
đang phát triển - những nước đang cần ngoại tệ, còn những nước
nhập khẩu là những nước phát triển.
Trong xu thế đó, để tăng hơn nữa kim ngạch xuất khẩu ngành
thuỷ sản nói riêng và phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung thì
vấn đề mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản nước ngoài,
đặc biệt đối với thị trường Mỹ là vô cùng cần thiết.
II_ KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT
KHẨU THUỶ SẢN TẠI MỸ CỦA VIỆT NAM.
1_ KHÁI QUÁT THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN TẠI
MỸ CỦA VIỆT NAM.
Ngành thuỷ sản Việt Nam bắt đầu xuất khẩu sang Mỹ từ năm
1994 với giá trị ban đầu còn thấp, mới chỉ có 6 triệu USD. Từ đó
giá trị thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng liên tục qua
các năm. Năm 1998 lên tới 82 triệu USD và đưa Việt Nam lên vị
trí thứ 19 trong các nước xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ. Năm 1999
Mỹ nhập khẩu từ Việt Nam 130 triệu USD thủy sản các loại, năm
2000 đạt 302,4 triệu USD và trong 6 tháng đầu năm 2001 xuất
khẩu thuỷ Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng đạt 31 nghìn tấn về
khối lượng, với giá trị 210,4 triệu USD. Hàng thuỷ sản xuất khẩu
của Việt Nam sang Mỹ chủ yếu là tôm đông lạnh. Mặt hàng xuất
khẩu lớn thứ hai là cá ngừ tươi đạt 6,3 triệu USD trong 2 tháng
đầu năm 2001 cũng tăng vượt bậc so với cùng kỳ năm 2000 (chỉ có
1,5 triệu USD), cá biển đông lạnh có giá trị xuất khẩu đứng thứ 3
với giá trị 2,5 triệu USD trong hai tháng đầu năm 2001, trong đó
cá ba sa philê đông lạnh là mặt hàng Việt Nam vẫn chiếm lĩnh thị
§Ò ¸n m«n häc
trường Mỹ với giá trị xuất khẩu 1,7 triệu USD. Mặt hàng cua biển
cũng đạt mức tăng trưởng cao trong xuất khẩu sang Mỹ( bao gồm
cua sống, cua đông lạnh, cua luộc, thịt cua đông) đạt giá trị xuất
khẩu 1,8 triệu USD. Ngoài ra còn một số mặt hàng thuỷ sản xuất
khẩu khác cũng mang lại giá trị lớn cho ngành xuất khẩu thuỷ sản
của Việt Nam.
2_ THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM
THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM SANG MỸ.
a_ Những thuận lợi.
Thực tế, việc xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam
được diễn ra trên nền tảng của rất nhiều điều kiện thuận lợi. Thuận
lợi đầu tiên phải kể đến đó là thuận lợi về điều kiện tự nhiên. Đặc
điểm về mặt tự nhiên của nước ta như đã nói ở trên đảm bảo cho
nguồn tài nguyên hải sản rất phong phú. Các vùng biển Việt Nam
có năng lực tái sinh học cao của vùng sinh thái nhiệt đới và môi
trường biển còn tương đối sạch, do đó hải sản được đánh giá là an
toàn cho sức khoẻ_ một ưu điểm hàng đầu trên thị trường sản
phẩm thuỷ sản thế giới hiện nay.
Trong vùng biển đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km2
tổng trữ lượng thuỷ sản biển được đánh giá khoảng 4 triệu tấn,
trong đó trữ lượng thuỷ sản ở tầng nổi chiếm 62,7% và tầng đáy
chiếm 37,3% đảm bảo cho khả năng khai thác 1,4 đến 1,6 triệu tấn
thuỷ sản các loại hàng năm trong đó có nhiều loại hải sản quí có
giá trị kinh tế cao như tôm hùm, cá ngừ, sò huyết...Với 1,4 triệu ha
mặt nước nội địa, tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản rất dồi dào,
§Ò ¸n m«n häc
khoảng 1,5 triệu tấn mỗi năm. Như vậy, Việt Nam có lợi thế rất
lớn về sông, hồ, biển. Hệ thống sông ngòi được phân bố trên cả
nước, bờ biển kéo dài từ Bắc vào Nam. Những tiềm năng lớn như
thế này nếu được khai thác triệt để thì khả năng xuất khẩu thuỷ
sang Mỹ sẽ được gia tăng một cách đáng kể.
Bên cạnh đó chúng ta có thuận lợi rất lớn về nguồn nhân lực.
Chúng ta có một đội ngũ công nhân dồi dào về số lượng với bản
chất cần cù chịu khó không ngại gian khổ. Đội ngũ công nhân
trong ngành thuỷ sản đã góp phần tạo nên thành công trong hoạt
sản xuất-xuất khẩu. Đội ngũ nhân lực trong ngành không ngừng
được nâng cao về trình độ kỹ thuật và chuyên môn. Tuy nhiên
hiện tại, để đáp ứng việc khai thác chế biến thủy sản phục vụ cho
xuất khẩu chúng ta còn thiếu một lực lượng lao động có trình độ
chuyên môn cao, đặc biệt trong hoạt động quản lý của các doanh
nghiệp.
Về vấn đề sản xuất để phục vụ cho xuất khẩu, từ năm 1986,
Việt Nam đã có 41 nhà máy chế biến thuỷ sản với công suất 280
tấn/ngày. Nắm bắt được tính cách và tiềm năng của thị trường Mỹ,
Việt Nam đã cử chuyên gia thuỷ sản đầu tiên tham gia lớp tập
huấn quốc tế về HACCP( Hazard Analysis critical control Point)
từ năm 1991. Năm 1996 số nhà máy chế biến đã tăng lên đến 196
chiếc với công suất chế biến khoảng 1841 tấn/ngày. Ngành thuỷ
sản cũng đã thành lập cơ quan kiểm tra chất lượng hàng thuỷ sản,
cho nên năm 1998 đã có 27 nhà máy đông lạnh chế biến thuỷ sản
đạt tiêu chuẩn HACCP, năm 1999 lên đến 47 nhà máy, năm 2000
§Ò ¸n m«n häc
có 67 nhà máy đạt tiêu chuẩn HACCP. Nhờ nguồn đầu tư kịp thời
về vốn đã đưa lại những kết quả rõ nét: số tàu thuỷ sản tăng thêm
là hơn 1,2 triệu CV(163,36%), trong đó cơ cấu tàu có công suất
lớn khai thác xa bờ đã tăng lên rõ rệt, xây dựng được 27 cảng cá
trong đó có nhiều cảng đã hoàn thành và đưa lại hiệu quả cao. Về
nuôi trồng thuỷ sản tính đến tháng 12/2000: diện tích nuôi trồng
thuỷ đã tăng lên hàng chục nghìn ha, chuyển đổi cơ bản diện tích
trồng lúa năng suất thấp và đất hoang hoá sang nuôi trồng thuỷ sản
bước đầu có hiệu quả .Về chế biến thuỷ sản, trong 5 năm đã tăng
thêm 80 nhà máy chế biến với công suất chế biến 300 tấn/ngày,
đưa tổng số cơ sở chế biến lên 266 cơ sở, trong đó 220 nhà máy có
trang bị nhà xưởng hiện đại, trang bị dây chuyền công nghệ cao, có
50 doanh nghiệp chế biến đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thuỷ sản vào
EU, 77 doanh nghiệp xuất khẩu vào Bắc Mỹ. Nhờ vậy, năm 2000,
ngành thuỷ sản đã được những thành công lớn cả về sản lượng,
diện tích nuôi trồng và đặc biệt là giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt
mức kỷ lục 1,475 tỷ USD. Rõ ràng, đầu tư đã được chứng minh là
có hiệu quả.
Trong các nhân tố thuận lợi chúng ta phải kể đến nhân tố có
tính chất quan trọng bậc nhất, ảnh hưởng trực tiếp nhất đến quá
trình xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản, đó là nhân tố chủ trương và
đường lối của Đảng, Nhà nước. Chính phủ Việt Nam đã ra rất
nhiều những quyết định, chính sách nhằm thúc đẩy ngành xuất
khẩu thuỷ hải sản. Có thể đơn cử một số quyết định như sau:
§Ò ¸n m«n häc
_Nghị định số 13/CP ra ngày 2/3/1993 đã khơi dậy tiềm năng
của cả nước về phát triển lĩnh vực thuỷ sản đặc biệt là hướng về
xuất khẩu.
_Quyết định số 400/TTg ra ngày 7/8/93 cho phép miễn thuế
tài nguyên, thuế doanh thu và thuế lợi tức, hoàn thuế xuất khẩu
trong 3 năm đối với hoạt động đánh bắt thuỷ hải sản xa bờ.
_ Quyết định 428/TTg ra ngày 7/8/95 về đầu tư “ Khôi phục
và hoàn thiện cơ sở hạ tầng nghề cá” bao gồm việc xây dựng các
cảng cá, cho vay vốn dài hạn với lãi suất ưu đãi, thúc đẩy nghiên
cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển công nghệ
chế biến sau thu hoạch...
_ Quyết định số 251/1998/QĐ-TTg về các chính sách thúc
đẩy xuất khẩu thuỷ sản.
Ta thấy rằng đường lối đúng đắn của Đảng và Chính phủ đã
tạo ra một cơ hội thuận lợi cho mọi doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu ra
thị trường thế giới đặc biệt là thị trường Mỹ mà đặc biệt là hàng
thuỷ sản Việt Nam. Mặt khác ngành thuỷ được hỗ trợ bởi biện
pháp chính sách của Nhà nước: hỗ trợ nghiên cứu và chuyển giao
công nghệ hỗ trợ xây dựng quy hoạch, hỗ trợ đầu tư xúc tiến
thương mại...Những hỗ trợ này tăng khả năng xuất khẩu thuỷ sản
vào thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay
Chính phủ đang thông qua cơ chế điều hành xuất - nhập khẩu của
Việt Nam giai đoạn 2001-2005. Với cơ chế mới này mọi doanh
nghiệp đều có thể tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, tiến tới
§Ò ¸n m«n häc
xoá bỏ các rào cản pháp lý, thủ tục gây trở ngại cho hoạt động xuất
nhập khẩu. Khả năng tiếp cận các thị trường quốc tế trong đó có
Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ thuận lợi hơn. Môi trường
đầu tư của Việt Nam: môi trường pháp lý, môi trường hành chính,
môi trường tài chính ngân hàng, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân
lực...ngày càng hoàn thiện, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước
ngoài trong đó có các nhà đầu tư Mỹ vào Việt nam sản xuất hàng
xuất khẩu thuỷ sản. Chính sách ưu đãi đầu tư đối với Việt kiều
ngày càng thể hiện tính ưu việt: thu hút hàng ngàn kiều bào chuyển
vốn về nước, tạo ra hàng trăm dự án sản xuất linh hoạt trong đó có
nhiều dự án sản xuất hàng xuất khẩu thuỷ sản nhằm tiêu thụ tại thị
trường Mỹ. Có khoảng 1,5 triệu người Việt kiều sống tại mỹ đa số
họ đều có lòng yêu nước, hướng về cội nguồn, nếu có sự kết hợp
tốt thì Việt kiều ở Mỹ sẽ là cầu nối cho các doanh nghiệp Việt
Nam thâm nhập vào thị trường Mỹ. Bản thân nội lực của các
doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp thuộc ngành thuỷ sản
nói riêng của Việt nam đã được nâng lên đáng kể sau 10 năm thực
hiện chính sách mở cửa hội nhập: trình độ tay nghề công nhân,
trang thiết bị, máy móc đã được nâng lên đáng kể, nhiều sản phẩm
có chất lượng cao đã đáp ứng được yêu cầu thị trường trong đó có
thị trường Mỹ.
Sự tăng trưởng của xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ gắn
liền với sự tiến bộ trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam –
Hoa Kỳ, đặc biệt sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký
vào ngày 13/7/2000. Sự kiện này mở ra những cơ hội kinh doanh
§Ò ¸n m«n häc
mới, nhất là sau khi hiệp định được thông qua bởi hai nhà nước
Việt Nam –Hoa Kỳ. Đối với Việt Nam và các nước xuất khẩu thuỷ
sản khác, thì thị trường Mỹ là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn
thứ hai trên thế giới và cũng là thi trường tiêu thụ đa dạng về mặt
hàng, giá trị và chất lượng. Ngay sau khi hiệp định song phương
có hiệu lực, quy chế tối huệ quốc( MFN ) trong thương mại hàng
hoá đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng thuỷ sản Việt Nam vao thị
trường đầy hấp dẫn này với sự ưu đãi về mức thuế nhập khẩu
MFN, chẳng hạn đối với thịt cua thuế suất MFN là 7,5%,phi MFN
là 15%; ốc: thuế suất tương ứng là 5% và 20%; cá philê tươi và
đông: 0%và 0-5,5% cent/kg; cá khô 4-7% và25-30%...
Hiệp định thương mại Việt –Mỹ khuyến khích việc tổ chức
xúc tiến hoạt động thương mại giữa hai nước như: hội chợ, triển
lãm, trao đổi thương mại tại lãnh thổ hai nước, cho phép các công
dân, công ty hai nước quảng cáo sản phẩm, dịch vụ bằng cách thoả
thuận trực tiếp với các tổ chức thông tin quản cáo bao gồm: truyền
hình, phát thanh , đơn vị kinh doanh in ấn và bảng hiệu. Mỗi bên
cũng cho liên hệ và cho bán trực tiếp hàng hoá dịch vụ giữa công
dân, công ty của bên kia tới người sử dụng cuối cùng. Đây là cơ
hội cho cả doanh nghiệp Việt Nam và Mỹ có diều kiện tìm hiểu
sâu về thị trường của nhau để mở rộng buôn bán giữa hai nước.
Hiệp định thương mại Việt –Mỹ khẳng định cơ chế chính sách
mới của Việt Nam, đánh dấu bước ngoặc trong quan hệ Việt Nam
–Hoa Kỳ. Việc chúng ta thực hiện các điều khoản của hiệp định là
điều kiện ban đầu cho việc gia nhập WTO sau này. Kể từ khi ký
§Ò ¸n m«n häc
kết đến khi có hiệu lực hiệp định phải trải một thời gian thử thách
hơn một năm. Nó được quốc hội hai nươc phê chuẩn rất kỹ trước
khi thông qua, có thể nói đó là nỗ lực rất lớn của Đảng và chính
phủ ta, cũng như thượng hạ viện Hoa Kỳ. Hiệp định thương mại
Việt-Mỹ được thực thi, cánh cửa đi vào thị trường Mỹ của các
doanh nghiệp Việt Nam được mở rộng hơn. Thuế nhập khẩu sẽ
giảm đi 30-40% khi Việt Nam đưa hàng hoá vào thị trường Mỹ.
Theo phòng thương mại Mỹ tại TP Hồ chí Minh sau khi hiệp
thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực thì năm nhóm ngành trong đó có
ngành thuỷ sản được hưởng lợi nhiều nhất vì thuế nhập khẩu vào
thị trường Mỹ sẽ giảm mạnh. Môi trường kinh doanh và đầu tư
được cải thiện tăng khả năng thu hút vốn đầu tư chẳng những đối
với những doanh nghiệp Mỹ mà còn thu hút vốn đầu tư từ các
quốc gia khác. Vì trước khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu
lực thì hàng hoá Việt Nam đưa vào thị trường Mỹ không được
hưởng quy chế MFN. Cho nên nhiều nhà đầu tư nước muốn sản
xuất hàng hoá sang Mỹ không muốn đầu tư vào Việt Nam. Hiệp
định thương mại được thông qua thì hàng xuất khẩu từ Việt Nam
sang Mỹ được hưởng quy chế MFN, vấn đề còn lại là ta tiếp tục
hoàn chỉnh môi trường đầu tư mà ta đã cam kết theo tinh thần của
hiệp định: tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng để luồng vốn
đầu tư của các thành phần kinh tế có điều kiện phát triển như nhau.
Đơn giản hoá thủ tục và theo lộ trình thì bỏ giấy phép đầu tư, các
doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp FDI chỉ đăng ký kinh doanh
đầu tư. Sau khi hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực chắc
§Ò ¸n m«n häc
chắn rằng ngày càng có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào thị trường
Mỹ. Bởi vì, trước hết các thông tin về thị trường, khách hàng, đối
tác sẽ được cập nhật hơn. Sự am hiểu thi trường Mỹ sẽ tăng lên
đối vơi các doanh nghiệp Việt Nam hiệp định thương mại như nhịp
cầu nối giữa các doanh nghiệp hai nước tạo điều kiện cho sự hợp
tác kinh doanh xuẩt khẩu phát triển hơn. Đó là những điều kiện rất
thuận lợi mà hiệp định thương mại Việt – Mỹ mang lại cho chúng
ta.
Những điều kiện thuận lợi như đã phân tích ở trên, ngành xuất
khẩu sản phẩm thuỷ sản đã đạt được những thành tựu to lớn. Từ
năm 1996 đến năm 2000 ngành luôn hoàn thành kế hoạch nhà
nước giao, năm sau cao hơn năm trước và đạt được mức tăng
trưởng cao (bình quân 9,17%/năm), giá trị kim ngạch xuất khẩu
bình quân tăng 21,85%/năm. Xuất khẩu thuỷ sản năm 2000 đạt
1,475 tỷ USD, bằng 1/10 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và
vươn lên đứng hàng thứ 3 trong các ngành xuất khẩu của Việt
nam.
Sau năm năm 1996-2000 tổng mức đầu tư của ngành thuỷ sản
là 9.185.640 triệu đồng trong đố đầu tư nước ngoài là 545 tỷ đồng(
chiếm5,93%). Trong hơn 9 nghìn tỷ đồng được huy động để đầu tư
phát triển, ngành chủ yếu vận dụng nội lực là chủ yếu, vốn đầu tư
trong nước là hơn 8600 triệu đồng chiếm tới 90,07% tổng mức đầu
tư. Để có được nguồn vốn ngân sách thì ngành đã có biện pháp
huy động nguồn vồn trong dân đạt 1700 tỷ đồng ( chiếm tỷ trọng
18,62%).
MỤC LỤC
Lời mở đầu ........................................................................................1
Nội dung .............................................................................................3
I. Một số khái niệm về thị trường .......................................................3
2. Đặc điểm của thị trường thuỷ sản tại Mỹ .......................................4
3. Sự cần thiết phải mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ
của Việt Nam .....................................................................................7
II. Khái quát thực trạng thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ của
Việt Nam ............................................................................................8
1. Khái quát thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ của Việt Nam ....8
2. Thực trạng thị trường xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản của Việt
nam
sang Mỹ ..............................................................................................9
III. Các giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xuất
khẩu sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ ............18
1. Các giải pháp chủ yếu...................................................................18
2. Một số suy nghĩ của bản thân .......................................................23
Kết luận............................................................................................24
Tài liệu tham khảo ..........................................................................25
§Ò ¸n m«n häc
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế của Việt Nam, thuỷ sản là thế mạnh và là
ngành kinh tế mũi nhọn. Với lợi thế Việt Nam có hơn 3260 Km bờ
biển, 112 cửa sông, lạch, hơn 2 triệu km2 thềm lục địa, hơn một
triệu km2 mặt nước, sự phong phú về các loại thuỷ hải sản nên
ngành thuỷ sản của nước ta có điều kiện rất thuận lợi để phát triển
và thực tế nó đã trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân. Từ năm 1990 đến nay ngành ngư nghiệp đã phát triển
mạnh. Hàng năm Việt nam đã đánh bắt từ 1,2 triệu đến 1,7 tấn hải
sản. Trong những năm qua ngành thuỷ sản đã đạt được tốc độ phát
triển cao, ổn định và mức tăng tổng bình quân hàng năm về tổng
sản lượng thuỷ sản trên 4%/năm, giá trị kim ngạch xuất khẩu bình
quân chiếm 10-15% trong ttổng kim ngạch xuẩt khẩu của Việt nam
hàng năm, đứng thứ 29 trên thế giới về xuất khẩu với 1% giá trị
xuất khẩu thuỷ sản của thế giới. So với các nước Đông Nam Á thì
Việt Nam đứng hàng thứ tư sau Thái Lan, Inđônêsia, Malaisia về
đánh bắt và xuất khẩu thuỷ sản. Trong điều kiện hiện nay, đời sống
nhân dân ta ngày càng được nâng cao, nhu cầu về thực phẩm cũng
tăng lên nhanh chóng cả về mặt số lượng và chất lượng, đặc biệt là
nhu cầu về các loại thuỷ hải sản. Sản phẩm thuỷ sản của nước ta
hiện nay không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất
khẩu một số lượng lớn những sản phẩm có giá trị dinh dưỡng và
kinh tế cao ra nước ngoài( tôm , cua , cá, mực...).
Theo báo của tổng cục hải quan năm 1998, mặt hàng thuỷ
sản Việt Nam đã có mặt trên 34 nước trên thế giới với tổng kim
§Ò ¸n m«n häc
ngạch 856,6 triệu USD và hiện nay đã có mặt trên 64 quốc gia. Thị
trường nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam là các nước Châu Âu, 13
nước Châu Á và Mỹ, trong đó Mỹ đang là thị trường mục tiêu mà
chúng ta hướng vào. Với thực trạng Việt Nam đang trên đà phấn
đấu để gia nhập WTO thì việc xúc tiến quan hệ thương mại với Mỹ
là điều quan trọng, cùng với một số mặt hàng xuất khẩu khác, sản
phẩm thuỷ sản của Việt Nam cần phải khẳng định được vai trò và
vị thế của mình trên đất Mỹ. Đó là mục tiêu quan trọng của ngành
thuỷ sản nước ta và cũng là lý do để em chọn và nghiên cứu đề tài:
“Thực trạng và các giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm mở rộng thị
trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tại Mỹ”.
§Ò ¸n m«n häc
§Ò ¸n m«n häc
NỘI DUNG
I_ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG.
1_KHÁI NIỆM VỀ THỊ TRƯỜNG.
a. Thị trường nói chung.
Từ xưa đến nay đã có rất nhiều định nghĩa, quan niệm về thị
trường khác nhau nhưng ta có thể hiểu một cách chung nhất về bản
chất của thị trường như sau:
Thị trường là lĩnh vực trao đổi mà thông qua đó người bán
và người mua có thể trao đổi sản phẩm, dịch vụ cho nhau tuân theo
các quy luật kinh tế hàng hóa.
Như vậy, ta có thể hiểu thị trường được biểu hiện trên ba nét lớn
sau:
- Thị trường là lĩnh vực trao đổi được tổ chức theo quy luật
kinh tế hàng hoá như: quy luật giá trị; quy luật cạnh tranh....
- Thị trường là sự trao đổi ngang giá và tự do đối với sản
phẩm làm ra; gắn sản xuất với tiêu dùng, buộc sản xuất phải phục
tùng nhu cầu tiêu dùng.
- Một thị trường cân đối thì giá cả của nó phải phản ánh chí
phí sản xuất xã hội trung bình, do đó buộc người sản xuất phải
giảm chi phí, tiết kiệm nguồn lực, nâng cao năng suất và chất
lượng sản phẩm.
b. Thị trường xuất khẩu thuỷ sản
Thị trường xuất khẩu thuỷ sản về cơ bản vẫn mang bản
chất của thị trường nói chung nhưng nội dung của nó hẹp hơn. Ta
§Ò ¸n m«n häc
có thể hiểu thị trường xuất khẩu thuỷ sản là một lĩnh vực trao đổi
mà thông qua đó người cung cấp ở nước này và người có nhu cầu
ở nước khác về sản phẩm và dịch vụ thuỷ sản có thể trao đổi, mua
bán với nhau tuân theo các qui luật kinh tế hàng hoá.
Thị trường trao đổi thuỷ sản thế giới rất rộng lớn bao gồm
195 nước xuất khẩu và 180 quốc gia nhập khẩu thuỷ sản trong đó
nhiều quốc gia vừa xuất vừa nhập khẩu thuỷ sản như Mỹ, Pháp,
Anh...Năm 1999, lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản thế giới đạt hơn 50
tỷ đô la, giảm 2,8% so với 51,4 tỷ năm 1997.
Hiện nay, Thái Lan là nhà xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất với
kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ đô la, tương đương 8% tổng kim
ngạch thế giới. Sau đó là Mỹ, Nauy, Trung Quốc,Pêru, Đài Loan,
Canađa, Chilê, Inđônêxia, Nga, Hàn Quốc...
Quốc gia nhập khẩu lớn nhất là Nhật Bản, chiếm 30% tổng
kim ngạch buôn bán quốc tế, vượt xa mức 14% thị phần của nước
đứng thứ hai là Mỹ. Năm 1999, nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản,
Hồng Kông, Singapore...giảm sút nhưng đã được bù đắp phần nào
bởi nhu cầu tăng mạnh ở thị trường Mỹ. Các nước nhập khẩu thuỷ
sản lớn của thế giới đứng sau Nhật và Mỹ lần lượt là Pháp, Italia,
Đức, Anh, Hồng Kông, Hà Lan...
2_ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN TẠI MỸ.
Thị trường Mỹ luôn là môt thị trường hấp dẫn không chỉ đối
với các nước châu Á ( trong đó có Việt Nam) mà còn là mục tiêu
của nhiều nước trong các châu lục khác.Trong số các thị trường
tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam thì Mỹ là thị trường khá
§Ò ¸n m«n häc
rộng lớn và giàu tiềm năng, chỉ đứng sau Nhật Bản. Nước Mỹ với
280 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người vào loại cao nhất thế
giới, đời sống vật chất của người dân Mỹ ở mức rất cao nên nhu
cầu về các loại thực phẩm là rất lớn cả về số lượng và chất lượng,
trong đó đặc biệt là nhu cầu về sản phẩm thuỷ sản. Sức mua của
người dân Mỹ lớn, giá cả ổn định, mặt hàng chất lượng càng cao,
càng đắt giá thì lại càng dễ tiêu thụ. Mỹ cũng có một ngành thuỷ
sản khá phát triển, tuy nhiên nó vẫn không đủ để đáp ứng đầy đủ
nhu cầu của người dân về chủng loại và chất lượng ở một số mặt
hàng thuỷ sản. Chính vì thế Mỹ vẫn phải nhập khẩu từ các nước
khác. Khi đời sống lên cao thì nhu cầu về các loại hải sản tăng lên
mạnh mẽ. Các loại hải sản xuất hiện trên thị trường với nhiều
chủng loại khác nhau tạo nên sự phong phú và đa dạng. Có rất
nhiều loại sản phẩm trên thị trường được chế biến với công nghệ
khác nhau mang những thương hiệu khác nhau của rất nhiều hãng
trong và ngoài nước. Hơn nữa người dân Mỹ lại rất tự do trong
việc lựa chọn các mặt hàng tiêu dùng cho mình, họ có thể lựa chọn
một sản phẩm trong hoặc ngoài nước tuỳ ý miễn là đáp ứng được
nhu cầu của họ. Do đó rất nhiều các tổ chức kinh doanh trong và
ngoài nước Mỹ đổ xô vào thị trường tiêu thụ béo bở này tạo nên
một môi trường cạnh tranh khá căng thẳng. Việt Nam với những
lợi thế riêng về chất lượng sản phẩm tự nhiên, hàng năm nước ta
vẫn xuất sang Mỹ một số lượng lớn sản phẩm thuỷ sản được chế
biến dưới nhiều hình thức khác nhau. Chỉ tính riêng năm 1999
nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ lên tới con số kỷ lục 9,3 tỷ USD. Vào
§Ò ¸n m«n häc
được thị trường Mỹ tức là hàng hóa uy tín chất lượng cao, bởi vì
phải đảm bảo vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn
HACCP. Nhìn một cách tổng quát, Mỹ là thị trường tiêu thụ rộng
lớn và giàu tiềm năng của ngành xuất khẩu thuỷ sản nước ta.
Bên cạnh đó, thị trường Mỹ cũng là một thị trường khá khắt
khe. Thị trường Mỹ tuy rộng lớn nhưng nhu cầu của người tiêu
dùng Mỹ lại rất cao. Một sản phẩm thuỷ sản phải đạt tiêu chuẩn về
mẫu mã, chất lượng, độ an toàn thực phẩm và hàm lượng chất dinh
dưỡng thì mới có đủ khả năng xuất hiện và cạnh tranh trên thị
trường Mỹ. Nếu không có đủ tất cả các yêu cầu trên thì sản phẩm
đó sẽ bị các sản phẩm của các hãng khác cạnh tranh loại bỏ, hoặc
bị chính người tiêu dùng Mỹ tẩy chay, khả năng tồn tại và phát
triển của sản phẩm đó là rất khó khăn. Đó là về phía những người
tiêu dùng còn về phía Chính phủ Mỹ cũng có rất nhiều những qui
định đặt ra cho các sản phẩm thuỷ sản nhập khẩu. Khi đưa sản
phẩm thuỷ sản vào thị trường Mỹ, chúng ta phải quan tâm và hiểu
được hệ thống pháp luật của Mỹ. Hệ thống luật của Mỹ khá phức
tạp, chặt chẽ và mới lạ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt
Nam. Vì vậy nếu không nghiên cứu tìm hiểu rõ thì các doanh
nghiệp sẽ phải gánh chịu những thua thiệt nặng nề trong kinh
doanh. Có thể đơn cử một số luật sau:
_Luật chống độc quyền đưa ra các chế tài hình sự khá nặng
đối với những hành vi độc quyền hoặc cạch tranh không lành
mạnh trong kinh doanh, cụ thể là phạt tiền đến 1 triệu USD đối với
các công ty,100.000 USD hoặc tù 3 năm đối với cá nhân.
§Ò ¸n m«n häc
_Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm, theo đó người tiêu
dùng bị thiệt hại có thể kiện nhà sản xuất về mức bồi thường thiệt
hại quy định gấp nhiều lần thiệt hại thực tế.
_Luật liên bang và các tiểu bang của Mỹ được áp dụng
cùng một lúc trong lĩnh vực thuế kinh doanh đòi hỏi ngoài việc
nắm vững luật của tiểu bang mà các doanh nghiệp có quan hệ kinh
doanh còn phải nắm vững luật của Liên bang nữa.
Vì vậy có thể nói chưa có sự phù hợp cao giữa việc xuất
khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam với yêu cầu nhập khẩu của thị
trường Mỹ. Thị trường Mỹ là một thị trường “khó tính” của thế
giới. Hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Mỹ phải qua sự kiểm tra chặt
chẽ của cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa kỳ(FDA) theo
các tiêu chuẩn HACCP. Vấn đề vệ sinh thực phẩm, ô nhiễm môi
trường, bảo vệ sinh thái...là những lý do mà Mỹ thường đưa ra để
hạn chế nhập khẩu.
Bên cạnh đó, hàng hoá từ nước ngoài xuất khẩu vào Mỹ sẽ
phải trải qua một số thủ tục hải quan khá chặt chẽ. Hệ thống thuế
quan của Mỹ(gọi tắt là HTS ) hiện không chỉ được thi hành ở Mỹ,
mà hầu hết các quốc gia thương mại lớn của thế giới đang áp
dụng... .Nhiều loại thuế của Mỹ đánh theo tỷ lệ trên giá trị hàng
hoá, tức là mức thuế được xác định dựa trên tỷ lệ phần trăm trên
giá trị hàng nhập khẩu, mức thuế suất biến động từ 1-40%, trong
đó mức thông thường từ 2-7% giá trị hàng nhập khẩu. Một số hàng
hoá khác phải chịu thuế gộp- tức là loại thuế kết hợp cả mức thuế
tỷ lệ trên giá trị và mức thuế theo số lượng. Có những hàng hoá
§Ò ¸n m«n häc
phải chịu thuế định ngạch- đó là loại thuế suất cao hơn được áp
dụng đối với hàng nhập khẩu sau khi một lượng hàng hoá cụ thể
thuộc loại đó đã được nhập khẩu vào Mỹ trong cùng năm đó. Hầu
hết các đối tác thương mại của Mỹ đều được hưởng quy chế đối xử
thương mại bình thường(NTR). Hàng hoá của các nước thuộc diện
NTR khi xuất khẩu vào Mỹ chỉ phải chịu mức thuế thấp hơn nhiều
so với hàng hoá của các nước không có NTR của Mỹ. Khi có sự
điều chỉnh giảm hay huỷ bỏ một loại thuế quan nào đó thì sự thay
đổi đó sẽ được áp dụng bình đẳng đối với tất cả các nước được
hưởng NTR của Mỹ. Hiện nay, các nước tham gia WTO đều được
hưởng NTR của Mỹ. Các nước đang được hưởng NTR của Mỹ
phải đáp ứng hai điều kiện cơ bản: đã ký hiệp định thương mại
song phương với Mỹ và phải tuân thủ các điều kiện Jacson-Vanik
trong luật thuơng mại năm 1974 của Mỹ.
Hơn nữa, tính cạnh tranh trên thị trường Mỹ rất cao, nhiều
nước trên thế giới có lợi thế tương tự như Việt Nam cũng đều coi
thị trường Mỹ là thị trường chiến lược trong hoạt động xuất khẩu
thuỷ sản cũng như những hàng hoá khác. Ta bước vào thị trường
Mỹ chậm hơn so với các đối thủ, khi mà thị trường đã ổn định về:
người mua, người bán, thói quen, sở thích, sản phẩm_đây cũng
được coi là thách đố đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói
chung, hàng thuỷ sản nói riêng của Việt Nam trên thị trường Mỹ.
3_ SỰ CẦN THIẾT PHẢI MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT
KHẨU THUỶ SẢN TẠI MỸ CỦA VIỆT NAM.
§Ò ¸n m«n häc
Thực tế cho thấy sản lượng tiêu thụ thuỷ sản trên thị trường
thế giới nói chung và thị trường Mỹ nói riêng ngày càng tăng, việc
đó có nhiều nguyên nhân, nhưng có hai nguyên nhân chính đó là
gia tăng dân số và thu nhập. Dự báo vào năm 2005 mức tiêu thụ
thực phẩm trên trị trường thế giới là 100 triệu tấn/năm( chưa kể
đến thức ăn cho chăn nuôi là 25-30 triệu tấn/năm) và tổng mức
tiêu thụ thuỷ sản của thế giới là 125-135 triệu tấn/năm.
Ngành ngư nghiệp của Việt Nam mới bắt đầu phát triển mạnh
từ năm 1990 đến nay và xuất khẩu thuỷ sản cũng không ngừng
tăng lên từ đó. Mặt hàng xuất khẩu về thuỷ sản của Việt Nam khá
phong phú về chủng loại. Sản lượng tôm đông lạnh chiếm từ 80-
90% khối lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu, về giá xuất khẩu thì tôm
cũng là mặt hàng được giá nhất trong ba chủng loại chính xuất
khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam. Trong cơ cấu xuất khẩu của
Việt Nam thì thuỷ sản là ngành có vị trí rất quan trọng. Chúng ta
có thể thấy rằng Mỹ là thị trường tiềm năng đối với Việt Nam.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 2000 mới đạt khoảng 700
triệu USD nhưng khả năng nhập khẩu của thị trường này năm
2000 đã là 1300triệu USD (Việt Nam mới chỉ chiếm 0,06% thị
phần nhập khẩu của Mỹ). Dự tính rằng kim ngạch xuất khẩu sang
thị trường Mỹ ở cuối năm 2005 là 3 tỷ USD và năm 2010 là 6 tỷ
USD- đây là dự báo mà một nhóm các nhà nghiên cứu đã đề xuất.
Việc buôn bán thuỷ sản trên thế giới vẫn tiếp tục tăng như
hiện nay. Các nước xuất khẩu mạnh và năng động vẫn là các nước
§Ò ¸n m«n häc
đang phát triển - những nước đang cần ngoại tệ, còn những nước
nhập khẩu là những nước phát triển.
Trong xu thế đó, để tăng hơn nữa kim ngạch xuất khẩu ngành
thuỷ sản nói riêng và phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung thì
vấn đề mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản nước ngoài,
đặc biệt đối với thị trường Mỹ là vô cùng cần thiết.
II_ KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT
KHẨU THUỶ SẢN TẠI MỸ CỦA VIỆT NAM.
1_ KHÁI QUÁT THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN TẠI
MỸ CỦA VIỆT NAM.
Ngành thuỷ sản Việt Nam bắt đầu xuất khẩu sang Mỹ từ năm
1994 với giá trị ban đầu còn thấp, mới chỉ có 6 triệu USD. Từ đó
giá trị thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng liên tục qua
các năm. Năm 1998 lên tới 82 triệu USD và đưa Việt Nam lên vị
trí thứ 19 trong các nước xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ. Năm 1999
Mỹ nhập khẩu từ Việt Nam 130 triệu USD thủy sản các loại, năm
2000 đạt 302,4 triệu USD và trong 6 tháng đầu năm 2001 xuất
khẩu thuỷ Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng đạt 31 nghìn tấn về
khối lượng, với giá trị 210,4 triệu USD. Hàng thuỷ sản xuất khẩu
của Việt Nam sang Mỹ chủ yếu là tôm đông lạnh. Mặt hàng xuất
khẩu lớn thứ hai là cá ngừ tươi đạt 6,3 triệu USD trong 2 tháng
đầu năm 2001 cũng tăng vượt bậc so với cùng kỳ năm 2000 (chỉ có
1,5 triệu USD), cá biển đông lạnh có giá trị xuất khẩu đứng thứ 3
với giá trị 2,5 triệu USD trong hai tháng đầu năm 2001, trong đó
cá ba sa philê đông lạnh là mặt hàng Việt Nam vẫn chiếm lĩnh thị
§Ò ¸n m«n häc
trường Mỹ với giá trị xuất khẩu 1,7 triệu USD. Mặt hàng cua biển
cũng đạt mức tăng trưởng cao trong xuất khẩu sang Mỹ( bao gồm
cua sống, cua đông lạnh, cua luộc, thịt cua đông) đạt giá trị xuất
khẩu 1,8 triệu USD. Ngoài ra còn một số mặt hàng thuỷ sản xuất
khẩu khác cũng mang lại giá trị lớn cho ngành xuất khẩu thuỷ sản
của Việt Nam.
2_ THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM
THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM SANG MỸ.
a_ Những thuận lợi.
Thực tế, việc xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam
được diễn ra trên nền tảng của rất nhiều điều kiện thuận lợi. Thuận
lợi đầu tiên phải kể đến đó là thuận lợi về điều kiện tự nhiên. Đặc
điểm về mặt tự nhiên của nước ta như đã nói ở trên đảm bảo cho
nguồn tài nguyên hải sản rất phong phú. Các vùng biển Việt Nam
có năng lực tái sinh học cao của vùng sinh thái nhiệt đới và môi
trường biển còn tương đối sạch, do đó hải sản được đánh giá là an
toàn cho sức khoẻ_ một ưu điểm hàng đầu trên thị trường sản
phẩm thuỷ sản thế giới hiện nay.
Trong vùng biển đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km2
tổng trữ lượng thuỷ sản biển được đánh giá khoảng 4 triệu tấn,
trong đó trữ lượng thuỷ sản ở tầng nổi chiếm 62,7% và tầng đáy
chiếm 37,3% đảm bảo cho khả năng khai thác 1,4 đến 1,6 triệu tấn
thuỷ sản các loại hàng năm trong đó có nhiều loại hải sản quí có
giá trị kinh tế cao như tôm hùm, cá ngừ, sò huyết...Với 1,4 triệu ha
mặt nước nội địa, tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản rất dồi dào,
§Ò ¸n m«n häc
khoảng 1,5 triệu tấn mỗi năm. Như vậy, Việt Nam có lợi thế rất
lớn về sông, hồ, biển. Hệ thống sông ngòi được phân bố trên cả
nước, bờ biển kéo dài từ Bắc vào Nam. Những tiềm năng lớn như
thế này nếu được khai thác triệt để thì khả năng xuất khẩu thuỷ
sang Mỹ sẽ được gia tăng một cách đáng kể.
Bên cạnh đó chúng ta có thuận lợi rất lớn về nguồn nhân lực.
Chúng ta có một đội ngũ công nhân dồi dào về số lượng với bản
chất cần cù chịu khó không ngại gian khổ. Đội ngũ công nhân
trong ngành thuỷ sản đã góp phần tạo nên thành công trong hoạt
sản xuất-xuất khẩu. Đội ngũ nhân lực trong ngành không ngừng
được nâng cao về trình độ kỹ thuật và chuyên môn. Tuy nhiên
hiện tại, để đáp ứng việc khai thác chế biến thủy sản phục vụ cho
xuất khẩu chúng ta còn thiếu một lực lượng lao động có trình độ
chuyên môn cao, đặc biệt trong hoạt động quản lý của các doanh
nghiệp.
Về vấn đề sản xuất để phục vụ cho xuất khẩu, từ năm 1986,
Việt Nam đã có 41 nhà máy chế biến thuỷ sản với công suất 280
tấn/ngày. Nắm bắt được tính cách và tiềm năng của thị trường Mỹ,
Việt Nam đã cử chuyên gia thuỷ sản đầu tiên tham gia lớp tập
huấn quốc tế về HACCP( Hazard Analysis critical control Point)
từ năm 1991. Năm 1996 số nhà máy chế biến đã tăng lên đến 196
chiếc với công suất chế biến khoảng 1841 tấn/ngày. Ngành thuỷ
sản cũng đã thành lập cơ quan kiểm tra chất lượng hàng thuỷ sản,
cho nên năm 1998 đã có 27 nhà máy đông lạnh chế biến thuỷ sản
đạt tiêu chuẩn HACCP, năm 1999 lên đến 47 nhà máy, năm 2000
§Ò ¸n m«n häc
có 67 nhà máy đạt tiêu chuẩn HACCP. Nhờ nguồn đầu tư kịp thời
về vốn đã đưa lại những kết quả rõ nét: số tàu thuỷ sản tăng thêm
là hơn 1,2 triệu CV(163,36%), trong đó cơ cấu tàu có công suất
lớn khai thác xa bờ đã tăng lên rõ rệt, xây dựng được 27 cảng cá
trong đó có nhiều cảng đã hoàn thành và đưa lại hiệu quả cao. Về
nuôi trồng thuỷ sản tính đến tháng 12/2000: diện tích nuôi trồng
thuỷ đã tăng lên hàng chục nghìn ha, chuyển đổi cơ bản diện tích
trồng lúa năng suất thấp và đất hoang hoá sang nuôi trồng thuỷ sản
bước đầu có hiệu quả .Về chế biến thuỷ sản, trong 5 năm đã tăng
thêm 80 nhà máy chế biến với công suất chế biến 300 tấn/ngày,
đưa tổng số cơ sở chế biến lên 266 cơ sở, trong đó 220 nhà máy có
trang bị nhà xưởng hiện đại, trang bị dây chuyền công nghệ cao, có
50 doanh nghiệp chế biến đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thuỷ sản vào
EU, 77 doanh nghiệp xuất khẩu vào Bắc Mỹ. Nhờ vậy, năm 2000,
ngành thuỷ sản đã được những thành công lớn cả về sản lượng,
diện tích nuôi trồng và đặc biệt là giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt
mức kỷ lục 1,475 tỷ USD. Rõ ràng, đầu tư đã được chứng minh là
có hiệu quả.
Trong các nhân tố thuận lợi chúng ta phải kể đến nhân tố có
tính chất quan trọng bậc nhất, ảnh hưởng trực tiếp nhất đến quá
trình xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản, đó là nhân tố chủ trương và
đường lối của Đảng, Nhà nước. Chính phủ Việt Nam đã ra rất
nhiều những quyết định, chính sách nhằm thúc đẩy ngành xuất
khẩu thuỷ hải sản. Có thể đơn cử một số quyết định như sau:
§Ò ¸n m«n häc
_Nghị định số 13/CP ra ngày 2/3/1993 đã khơi dậy tiềm năng
của cả nước về phát triển lĩnh vực thuỷ sản đặc biệt là hướng về
xuất khẩu.
_Quyết định số 400/TTg ra ngày 7/8/93 cho phép miễn thuế
tài nguyên, thuế doanh thu và thuế lợi tức, hoàn thuế xuất khẩu
trong 3 năm đối với hoạt động đánh bắt thuỷ hải sản xa bờ.
_ Quyết định 428/TTg ra ngày 7/8/95 về đầu tư “ Khôi phục
và hoàn thiện cơ sở hạ tầng nghề cá” bao gồm việc xây dựng các
cảng cá, cho vay vốn dài hạn với lãi suất ưu đãi, thúc đẩy nghiên
cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển công nghệ
chế biến sau thu hoạch...
_ Quyết định số 251/1998/QĐ-TTg về các chính sách thúc
đẩy xuất khẩu thuỷ sản.
Ta thấy rằng đường lối đúng đắn của Đảng và Chính phủ đã
tạo ra một cơ hội thuận lợi cho mọi doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu ra
thị trường thế giới đặc biệt là thị trường Mỹ mà đặc biệt là hàng
thuỷ sản Việt Nam. Mặt khác ngành thuỷ được hỗ trợ bởi biện
pháp chính sách của Nhà nước: hỗ trợ nghiên cứu và chuyển giao
công nghệ hỗ trợ xây dựng quy hoạch, hỗ trợ đầu tư xúc tiến
thương mại...Những hỗ trợ này tăng khả năng xuất khẩu thuỷ sản
vào thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay
Chính phủ đang thông qua cơ chế điều hành xuất - nhập khẩu của
Việt Nam giai đoạn 2001-2005. Với cơ chế mới này mọi doanh
nghiệp đều có thể tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, tiến tới
§Ò ¸n m«n häc
xoá bỏ các rào cản pháp lý, thủ tục gây trở ngại cho hoạt động xuất
nhập khẩu. Khả năng tiếp cận các thị trường quốc tế trong đó có
Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ thuận lợi hơn. Môi trường
đầu tư của Việt Nam: môi trường pháp lý, môi trường hành chính,
môi trường tài chính ngân hàng, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân
lực...ngày càng hoàn thiện, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước
ngoài trong đó có các nhà đầu tư Mỹ vào Việt nam sản xuất hàng
xuất khẩu thuỷ sản. Chính sách ưu đãi đầu tư đối với Việt kiều
ngày càng thể hiện tính ưu việt: thu hút hàng ngàn kiều bào chuyển
vốn về nước, tạo ra hàng trăm dự án sản xuất linh hoạt trong đó có
nhiều dự án sản xuất hàng xuất khẩu thuỷ sản nhằm tiêu thụ tại thị
trường Mỹ. Có khoảng 1,5 triệu người Việt kiều sống tại mỹ đa số
họ đều có lòng yêu nước, hướng về cội nguồn, nếu có sự kết hợp
tốt thì Việt kiều ở Mỹ sẽ là cầu nối cho các doanh nghiệp Việt
Nam thâm nhập vào thị trường Mỹ. Bản thân nội lực của các
doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp thuộc ngành thuỷ sản
nói riêng của Việt nam đã được nâng lên đáng kể sau 10 năm thực
hiện chính sách mở cửa hội nhập: trình độ tay nghề công nhân,
trang thiết bị, máy móc đã được nâng lên đáng kể, nhiều sản phẩm
có chất lượng cao đã đáp ứng được yêu cầu thị trường trong đó có
thị trường Mỹ.
Sự tăng trưởng của xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ gắn
liền với sự tiến bộ trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam –
Hoa Kỳ, đặc biệt sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký
vào ngày 13/7/2000. Sự kiện này mở ra những cơ hội kinh doanh
§Ò ¸n m«n häc
mới, nhất là sau khi hiệp định được thông qua bởi hai nhà nước
Việt Nam –Hoa Kỳ. Đối với Việt Nam và các nước xuất khẩu thuỷ
sản khác, thì thị trường Mỹ là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn
thứ hai trên thế giới và cũng là thi trường tiêu thụ đa dạng về mặt
hàng, giá trị và chất lượng. Ngay sau khi hiệp định song phương
có hiệu lực, quy chế tối huệ quốc( MFN ) trong thương mại hàng
hoá đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng thuỷ sản Việt Nam vao thị
trường đầy hấp dẫn này với sự ưu đãi về mức thuế nhập khẩu
MFN, chẳng hạn đối với thịt cua thuế suất MFN là 7,5%,phi MFN
là 15%; ốc: thuế suất tương ứng là 5% và 20%; cá philê tươi và
đông: 0%và 0-5,5% cent/kg; cá khô 4-7% và25-30%...
Hiệp định thương mại Việt –Mỹ khuyến khích việc tổ chức
xúc tiến hoạt động thương mại giữa hai nước như: hội chợ, triển
lãm, trao đổi thương mại tại lãnh thổ hai nước, cho phép các công
dân, công ty hai nước quảng cáo sản phẩm, dịch vụ bằng cách thoả
thuận trực tiếp với các tổ chức thông tin quản cáo bao gồm: truyền
hình, phát thanh , đơn vị kinh doanh in ấn và bảng hiệu. Mỗi bên
cũng cho liên hệ và cho bán trực tiếp hàng hoá dịch vụ giữa công
dân, công ty của bên kia tới người sử dụng cuối cùng. Đây là cơ
hội cho cả doanh nghiệp Việt Nam và Mỹ có diều kiện tìm hiểu
sâu về thị trường của nhau để mở rộng buôn bán giữa hai nước.
Hiệp định thương mại Việt –Mỹ khẳng định cơ chế chính sách
mới của Việt Nam, đánh dấu bước ngoặc trong quan hệ Việt Nam
–Hoa Kỳ. Việc chúng ta thực hiện các điều khoản của hiệp định là
điều kiện ban đầu cho việc gia nhập WTO sau này. Kể từ khi ký
§Ò ¸n m«n häc
kết đến khi có hiệu lực hiệp định phải trải một thời gian thử thách
hơn một năm. Nó được quốc hội hai nươc phê chuẩn rất kỹ trước
khi thông qua, có thể nói đó là nỗ lực rất lớn của Đảng và chính
phủ ta, cũng như thượng hạ viện Hoa Kỳ. Hiệp định thương mại
Việt-Mỹ được thực thi, cánh cửa đi vào thị trường Mỹ của các
doanh nghiệp Việt Nam được mở rộng hơn. Thuế nhập khẩu sẽ
giảm đi 30-40% khi Việt Nam đưa hàng hoá vào thị trường Mỹ.
Theo phòng thương mại Mỹ tại TP Hồ chí Minh sau khi hiệp
thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực thì năm nhóm ngành trong đó có
ngành thuỷ sản được hưởng lợi nhiều nhất vì thuế nhập khẩu vào
thị trường Mỹ sẽ giảm mạnh. Môi trường kinh doanh và đầu tư
được cải thiện tăng khả năng thu hút vốn đầu tư chẳng những đối
với những doanh nghiệp Mỹ mà còn thu hút vốn đầu tư từ các
quốc gia khác. Vì trước khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu
lực thì hàng hoá Việt Nam đưa vào thị trường Mỹ không được
hưởng quy chế MFN. Cho nên nhiều nhà đầu tư nước muốn sản
xuất hàng hoá sang Mỹ không muốn đầu tư vào Việt Nam. Hiệp
định thương mại được thông qua thì hàng xuất khẩu từ Việt Nam
sang Mỹ được hưởng quy chế MFN, vấn đề còn lại là ta tiếp tục
hoàn chỉnh môi trường đầu tư mà ta đã cam kết theo tinh thần của
hiệp định: tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng để luồng vốn
đầu tư của các thành phần kinh tế có điều kiện phát triển như nhau.
Đơn giản hoá thủ tục và theo lộ trình thì bỏ giấy phép đầu tư, các
doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp FDI chỉ đăng ký kinh doanh
đầu tư. Sau khi hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực chắc
§Ò ¸n m«n häc
chắn rằng ngày càng có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào thị trường
Mỹ. Bởi vì, trước hết các thông tin về thị trường, khách hàng, đối
tác sẽ được cập nhật hơn. Sự am hiểu thi trường Mỹ sẽ tăng lên
đối vơi các doanh nghiệp Việt Nam hiệp định thương mại như nhịp
cầu nối giữa các doanh nghiệp hai nước tạo điều kiện cho sự hợp
tác kinh doanh xuẩt khẩu phát triển hơn. Đó là những điều kiện rất
thuận lợi mà hiệp định thương mại Việt – Mỹ mang lại cho chúng
ta.
Những điều kiện thuận lợi như đã phân tích ở trên, ngành xuất
khẩu sản phẩm thuỷ sản đã đạt được những thành tựu to lớn. Từ
năm 1996 đến năm 2000 ngành luôn hoàn thành kế hoạch nhà
nước giao, năm sau cao hơn năm trước và đạt được mức tăng
trưởng cao (bình quân 9,17%/năm), giá trị kim ngạch xuất khẩu
bình quân tăng 21,85%/năm. Xuất khẩu thuỷ sản năm 2000 đạt
1,475 tỷ USD, bằng 1/10 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và
vươn lên đứng hàng thứ 3 trong các ngành xuất khẩu của Việt
nam.
Sau năm năm 1996-2000 tổng mức đầu tư của ngành thuỷ sản
là 9.185.640 triệu đồng trong đố đầu tư nước ngoài là 545 tỷ đồng(
chiếm5,93%). Trong hơn 9 nghìn tỷ đồng được huy động để đầu tư
phát triển, ngành chủ yếu vận dụng nội lực là chủ yếu, vốn đầu tư
trong nước là hơn 8600 triệu đồng chiếm tới 90,07% tổng mức đầu
tư. Để có được nguồn vốn ngân sách thì ngành đã có biện pháp
huy động nguồn vồn trong dân đạt 1700 tỷ đồng ( chiếm tỷ trọng
18,62%).