Thực trạng kiến thức, thực hành về quy trình tiêm an toàn của điều dưỡng bệnh viện mê linh năm 2021

  • 55 trang
  • file .pdf
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH
CHU VĂN HẢI
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VỀ QUY TRÌNH
TIÊM AN TOÀN CỦA ĐIỀU DƯỠNG BỆNH VIỆN MÊ LINH
NĂM 2021
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
NAM ĐỊNH, 2021
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH
CHU VĂN HẢI
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VỀ QUY TRÌNH
TIÊM AN TOÀN CỦA ĐIỀU DƯỠNG BỆNH VIỆN MÊ LINH
NĂM 2021
Chuyên ngành: Điều dưỡng nội người lớn
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS ĐỖ MINH SINH
NAM ĐỊNH, 2021
i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện báo cáo chuyên đề, tôi
đã nhận được sự hướng dẫn cũng như sự giúp đỡ, động viên của các thầy cô
giáo, các đồng nghiệp tại Bệnh viện Đa khoa Mê Linh, gia đình và bạn bè.
Đến nay, báo cáo chuyên đề đã được hoàn thành.
Với sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn trân
thành tới: TS. Đỗ Minh Sinh, Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định là
người thầy đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
thực hiện và hoàn thành báo cáo chuyên đề.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, phòng Đào tạo Sau Đại học,
các phòng ban và các thầy cô giáo Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định đã
cho tôi kiến thức, những kinh nghiệm quý báu và tạo điều kiện, giúp đỡ tôi
trong thời gian học tập tại trường.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất đến Ban Giám đốc, các
đồng nghiệp tại Bệnh viện Đa khoa Mê Linh đã tận tình giúp đỡ và tạo điều
kiện để tôi có thể hoàn thành tốt khóa học này.
Tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn trân thành và sâu sắc tới gia đình, đồng
nghiệp, bạn bè và tập thể lớp Chuyên khoa cấp I khóa 8 những người đã giành
cho tôi tình cảm và nguồn động viên khích lệ.
Hà nội, tháng 9 năm 2021
Học viên
CHU VĂN HẢI
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Chu Văn Hải học viên lớp điều dưỡng chuyên khoa I khóa 8,
Trường Đại học Điều Dưỡng Nam Định xin cam đoan đây là báo cáo chuyên
đề của riêng tôi. Nội dung trong bài báo cáo này hoàn toàn trung thực, khách
quan và chưa được công bố trongbất cứ một công trình nào khác.
Báo cáo này do bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của giáo viên
hướngdẫn. Nếu có điều gì sai trái tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà nội, tháng 9 năm 2021
Học viên
CHU VĂN HẢI
iii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ..........................................................................................................i
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ..............................................................................iv
DANH MỤC BẢNG ............................................................................................... v
ĐẶT VẤN ĐỀ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ................................................. 3
1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................... 3
1.2. Cơ sở thực tiễn................................................................................................ 11
Chương 2............................................................................................................... 21
CHƯƠNG 2: MÔ TẢ VỀ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT ...................................... 21
Chương 3............................................................................................................... 30
BÀN LUẬN .......................................................................................................... 30
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 35
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP .......................................................................... 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................
PHỤ LỤC..................................................................................................................
iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BKT : Bơm kim tiêm
BV : Bệnh viện
BVĐK : Bệnh viện đa khoa
CTSN : Chất thải sắc nhọn
ĐD : Điều dưỡng
ĐDV : Điều dưỡng viên
ĐTNC : Đối tượng nghiên cứu
KBCB : Khám bệnh, chữa bệnh
KSNK : Kiểm soát nhiễm khuẩn
NCV : Nghiên cứu viên
NVYT : Nhân viên y tế
SK : Sát khuẩn
TAT : Tiêm an toàn
VST : Vệ sinh tay
WHO : Tổ chức Y tế Thế giới
KHHGĐ : Kế hoạch hóa gia đình
TTTT : Thu thập thông tin
v
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu .......................................... 21
Bảng 2. Kiến thức chung về tiêm an toàn đạt theo từng tiêu chí ........................ 22
Bảng 3. Kiến thức chuẩn bị người bệnh của điều dưỡng viên đạt theo từng tiêu
chí........................................................................................................ 23
Bảng 4. Kiến thức của điều dưỡng về dụng cụ và thuốc tiêm đạt theo từng tiêu
chí........................................................................................................ 24
Bảng 5. Các bước thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng ................................. 25
Bảng 6. Các bước thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng viên ...........................27
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong Y tế an toàn là nền tảng của chất lượng trong chăm sóc sức khỏe con
người và an toàn bệnh nhân là một vấn đề ưu tiên hàng đầu đối với thực hành y
khoa. Một trong những tiêu chí quan tâm nhất để đảm bảo an toàn người bệnh chính
là Tiêm an toàn. Tiêm có vai trò rất quan trọng trong công tác chăm sóc và điều trị
đặc biệt là đối với bệnh nhân cấp cứu hoặc bệnh nặng đe doạ đến tính mạng.Tổ
chức Y tế thế giới WHO định nghĩa: Mũi tiêm an toàn (TAT) là an toàn cho người
bệnh, an toàn cho nhân viên y tế và an toàn cho cộng đồng[1].
Tiêm không an toàn gây ra các tác động mang tính toàn cầu bao gồm: sức
khỏe, kinh tế, gánh nặng tâm lý, xã hội và các lĩnh vực khác ở nhiều cấp độ khác
nhau (cá nhân, gia đình, cộng đồng, quốc gia…). Trên thế giới, hàng năm có khoảng
16 tỷ mũi tiêm được thực hiện và có tới 50% mũi tiêm tại các nước đang phát triển
không đạt đủ tiêu chí mũi tiêm an toàn. Năm 2000, tiêm không an toàn là nguyên
nhân dẫn đến 21 triệu người nhiễm bệnh viêm gan B, 2 triệu người nhiễm viêm gan
C và 260 nghìn người nhiễm HIV [2].
Tại Việt Nam, một số tai biến trong tiêm xảy ra tại các cơ sở y tế đã gây hậu
quả không nhỏ làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của NB, nhân viên y tế
(NVYT) và cộng đồng làm ảnh hưởng đến chất lượng khám bệnh, chữa bệnh
(KBCB) và uy tín của ngành. Đã có rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra 2 rằng kiến thức
và thực hành TAT của ĐDV tại các BV còn nhiều hạn chế. Vì vậy, trước thực trạng
đó, Bộ Y tế đã ban hành Hướng dẫn tiêm an toàn tại Quyết định số 3671/QĐ-BYT
ngày 27 tháng 9 năm 2012 nhằm cung cấp những kiến thức và kỹ năng trong thực
hành TAT để triển khai áp dụng thống nhất trong tất cả các cơ sở KBCB, cơ sở đào
tạo cán bộ y tế và các cá nhân liên quan. Ngày 18 tháng 11 năm 2016 Bộ Y tế đã
ban hành Quyết định 6858/QĐ - BYT về bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện
phiên bản 2.0 gồm 83 tiêu chí. Trong đó chỉ số tiêm an toàn là một trong mười một
chỉ số chăm sóc của công tác điều dưỡng.
Tại Bệnh viện đa khoa huyện Mê Linh, năm 2010 đã tiến hành nghiên cứu
thực trạng mũi tiêm an toàn của ĐDV. Tuy nhiên trong những năm gần đây qua các
đợt kiểm tra quy chế đánh giá chất lượng bệnh viện và các báo cáo hàng tháng lên
phòng điều dưỡng cho thấy các mũi tiêm đạt an toàn chưa cao do nhiều yếu tố tác
2
động vào việc đảm bảo thực hiện các mũi tiêm an toàn của ĐDV. Tại thời điểm
hiện tại, Bệnh viện đa khoa huyện Mê Linh đang trong thời gian sửa chữa nâng cấp
hạ tầng do đó mặt bằng các khoa điều trị bị thu hẹp lại rất nhiều, số lượng bệnh
nhân luôn trong tình trạng quá tải, thời gian làm việc chuyên môn của điều dưỡng bị
thu hẹp do tăng số lượng công việc thủ tục hành chính và áp dụng phần mềm máy
tính vào công tác quản lý và điều trị bệnh nhân nội trú chưa thay thế được hoàn toàn
hồ sơ bệnh án giấy… Những vấn đề này đã trực tiếp ảnh hưởng tới thời gian công
tác chuyên môn của điều dưỡng và gây ra những hạn chế trong thực hành Tiêm an
toàn. Mặt khác tiêm an toàn là một chỉ số quan trọng trong công tác đánh giá chất
lượng của bệnh viện hàng năm. Đại đa số các mũi tiêm ở các khoa lâm sàng chủ yếu
là tiêm tĩnh mạch. Vì vậy nhóm nghiên cứu chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên
cứu về tiêm an toàn với quy trình tiêm tĩnh mạch và tìm hiểu các yếu tố liên quan
đến việc thực hiện các mũi tiêm an toàn đối với ĐDV trong khối lâm sàng của bệnh
viện đa khoa huyện Mê Linh với mục tiêu như sau:
1. Mô tả thực trạng kiến thức, thực hành về quy trình tiêm an toàn của điều
dưỡng các khoa lâm sàng bệnh viện đa khoa huyện Mê Linh năm 2020
2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao kiến thức thực hành về quy trình tiêm
an toàn của điều dưỡng các khoa lâm sàng tại BVĐK huyện Mê Linh
3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các định nghĩa và khái niệm sử dụng trong nghiên cứu
1.1.1.1. Định nghĩa tiêm an toàn
Tiêm an toàn là quy trình tiêm không gây nguy hại cho người nhận mũi tiêm,
không gây phơi nhiễm cho người thực hiện mũi tiêm và không tạo chất thải nguy
hại cho người khác và cộng đồng [1].
1.1.1.2. Định nghĩa về tiêm tĩnh mạch
Là kỹ thuật dùng kim đưa thuốc, dịch vào tĩnh mạch với góc tiêm 30° so với
mặt da. Khi tiêm chọn tĩnh mạch nổi rõ, mềm mại, không di động, da vùng tiêm
nguyên vẹn [1].
1.1.1.3.Một số khái niệm sử dụng trong nghiên cứu
* Bơm tiêm vô khuẩn:
Là bơm tiêm đã được tiệt khuẩn, còn hạn dùng, được đựng trong túi còn
nguyên vẹn, kim tiêm không chạm vào các đồ vật hoặc tay trước khi tiêm
* Vệ sinh tay:
Thực hiện theo hướng dẫn tại công văn số 7517/BYT-ĐT: Hướng dẫn quy
trình rửa tay thường quy và sát khuẩn tay nhanh bằng dung dịch chứa cồn và 05 thời
điểm rửa tay:
- Trước khi tiếp xúc với người bệnh;
- Trước khi làm thủ thuật vô khuẩn;
- Sau khi tiếp xúc với máu và dịch tiết;
- Sau khi tiếp xúc với người bệnh;
- Sau khi tiếp xúc với những vùng xung quanh bệnh nhân [3].
* Chất sát khuẩn
Các chất chống vi khuẩn (ngăn ngừa nhiễm khuẩn với mô sống hoặc da).
Chất này khác với chất kháng sinh sử dụng để tiêu diệt hoặc kìm hãm sự phát
triển của vi khuẩn một cách đặc hiệu và khác với chất khử khuẩn dụng cụ. Một
số loại chất sát khuẩn (SK) là chất diệt khuẩn thực sự, có khả năng tiêu diệt vi
khuẩn trong khi một số loại chất SK khác chỉ có tính năng kìm hãm, ngăn ngừa
4
và ức chế sự phát triển của chúng [1].
* Sát khuẩn và chuẩn bị vùng da tiêm
+ Sử dụng kẹp không mấu vô khuẩn để gắp bông gạc tẩm cồn: Khi sát khuẩn
không được chạm kẹp vào da người bệnh.
+ Sát khuẩn da vùng tiêm theo hình xoáy ốc từ trong ra ngoài với đường kính
10cm cho đến khi sạch.
+ Thời gian sát khuẩn 30 giây, để da tự khô hoàn toàn rồi mới tiêm.
+ Không chạm tay hoặc vật dụng không vô khuẩn vào vùng da đã được sát
khuẩn.
*Dung dịch sát khuẩn tay có chứa cồn
Dịch pha chế có chứa cồn dưới dạng chất lỏng, gel hoặc kem bọt dùng để
xoa/chà tay nhằm tiêu diệt hoặc làm giảm sự phát triển của vi sinh vật. Các loại
dung dịch này có thể chứa một hoặc nhiều loại cồn pha theo công thức được công
nhận của các hãng dược phẩm [1].
* Dự phòng sau phơi nhiễm
Biện pháp ngăn ngừa lây truyền các tác nhân gây bệnh đường máu sau phơi
nhiễm.
* Kỹ thuật vô khuẩn
Là các kỹ thuật không làm phát sinh sự lan truyền của vi khuẩn trong quá trình
thực hiện như: vệ sinh tay (VST), mang trang phục phòng hộ cá nhân, sử dụng chất
khử khuẩn da, cách mở các bao gói vô khuẩn, cách sử dụng dụng cụ vô khuẩn.
* Mũi tiêm an toàn trong nghiên cứu
Mũi tiêm an toàn trong nghiên cứu là mũi tiêm đạt đủ 17 tiêu chuẩn thực hành
trong bảng kiểm đánh giá thực hành TAT [4]. Cụ thể:
1. Bơm kim tiêm vô khuẩn
2. Có sử dụng xe tiêm khi đi tiêm
3. Có sử dụng khay tiêm khi đi tiêm
4. Có hộp đựng vật sắc nhọn ở gần nơi tiêm
5. Rửa tay, sát khuẩn tay nhanh trước khi chuẩn bị thuốc
6. Rửa tay, sát khuẩn tay nhanh trước khi đưa kim tiêm qua da
7. Mang găng khi tiêm tĩnh mạch, truyền dịch, truyền máu
8. Kim lấy thuốc đảm bảo vô khuẩn
5
9. Tiêm thuốc đúng chỉ định
10. Tiêm thuốc đúng thời gian
11. Tiêm đúng vị trí
12. Tiêm đúng góc kim so với mặt da
13. Tiêm đúng độ sâu
14. Rút pittông kiểm tra trước khi bơm thuốc
15. Bơm thuốc đảm bảo hai nhanh một chậm
16. Không dùng hai tay đậy nắp kim
17. Cô lập ngay bơm kim tiêm đã nhiễm khuẩn trong hộp an toàn.
*Nguyên tắc thực hành tiêm:[1]
- Không gây nguy hại cho người nhận mũi tiêm:
+Chuẩn bị đầy đủ phương tiện, dụng cụ thuốc tiêm.
+Thực hiện 05 đúng bao gồm: đúng người bệnh, đúng thuốc, đúng liều
lượng, đúng thời điểm, đúng đường tiêm.
+Phòng và chống sốc: Trước khi tiêm cần hỏi về tiền sử dị ứng của người
bệnh.Luôn mang theo hộp chống sốc khi tiêm. Khi tiêm cần bơm chậm, vừa bơm
vừa quan sát sắc mặt người bệnh. Sau khi tiêm nên để người bệnh nằm hoặc ngồi tại
chỗ 10-15 phút.
+ Phòng tránh xơ hóa cơ hoặc đâm kim vào dây thần kinh: Xác định đúng vị
trí tiêm, tiêm đúng góc độ và độ sâu.
+ Các phòng ngừa khác: Đảm bảo đúng kỹ thuật vô khuẩn trong tiêm truyền,
hỏi người bệnh về tiền sử dùng thuốc để tránh tương tác thuốc. Sử dụng thuốc tiêm
một liều. Nếu phải sử dụng thuốc tiêm nhiều liều, cần sử dụng kim lấy thuốc vô
khuẩn và không lưu kim trên lọ thuốc. Không pha trộn 2 hoặc nhiều loại thuốc vào
một loại bơm kim tiêm (BKT). Không dùng một kim tiêm để lấy nhiều loại thuốc.
- Không gây nguy hại cho người tiêm:
+Nguy cơ bị phơi nhiễm do máu hoặc do kim tiêm/vật sắc nhọn đâm
 Mang găng khi có nguy cơ tiếp xúc với máu hoặc dịch tiết của người bệnh
 Dùng gạc bẻ ống thuốc
 Không dùng tay đậy nắp kim
 Bỏ BKT vào thùng kháng thủng ngay sau khi tiêm. Không tháo rời kim tiêm
ra khỏi bơm tiêm sau khi tiêm
6
 Không để vật sắc nhọn (VSN) đầy quá 3/4 hộp kháng thủng
 Khi bị phơi nhiễm VSN, cần xử lý, khi báo ngay.
+ Nguy cơ bị đổ lỗi trách nhiệm cho người tiêm
 Thông báo, giải thích rõ cho người nhà hoặc người bệnh trước khi tiêm
 Kiểm tra y lệnh trong hồ sơ bệnh án (trừ trường hợp cấp cứu)
 Đánh giá tình trạng người bệnh trước, trong và sau khi tiêm
 Pha thuốc trước sự chứng kiến của người nhà, người bệnh
 Giữ lại lọ thuốc có ghi tên người bệnh đến hết ngày tiêm để làm vật chứng
 Ghi phiếu chăm sóc
+ Không gây nguy hại cho cộng đồng:
 Chuẩn bị hộp kháng thủng để đựng VSN.
 Tạo thói quen cho người tiêm: bỏ ngay BKT vào hộp kháng thủng ngay sau
khi tiêm.
 Thu gom và bảo quản BKT đã sử dụng theo đúng quy chế quản lý chất thải y
tế.
*Mũi tiêm không an toàn trong nghiên cứu
Mũi tiêm không an toàn trong nghiên cứu là mũi tiêm có từ một tiêu chí thực
hành không đạt trở lên bao gồm những đặc tính sau: dùng bơm tiêm, kim tiêm
(BKT) không vô khuẩn, tiêm không đúng thuốc theo chỉ định; không thục hiện
đúng các buớc của quy trình tiêm; các chất thải, đặc biệt là chất thải sắc nhọn
(CTSN) sau khi tiêm không phân loại và cô lập ngay theo quy chế quản lý chất thải
của Bộ Y tế.
* Người điều dưỡng thực hành tiêm an toàn đúng trong nghiên cứu
Người điều dưỡng thực hành tiêm an toàn đúng trong nghiên cứu là người
điều dưỡng có cả 2 mũi tiêm quan sát đạt mũi tiêm an toàn.
*Phơi nhiễm nghề nghiệp
Phơi nhiễm nghề nghiệp là sự tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết, chất bài tiết
(trừ mồ hôi) có chứa tác nhân gây bệnh trong khi NB thực hiện nhiệm vụ dẫn đến
nguy cơ lây nhiễm bệnh [1].
*Phương tiện phòng hộ cá nhân
Phương tiện phòng hộ cá nhân (PPE) bao gồm găng tay, khẩu trang, áo khoác
7
phòng thí nghiệm, áo choàng, tạp dề, bao giày, kính bảo hộ, kính có tấm chắn
bên, mặt nạ. Mục đích sử dụng PPE là để bảo vệ NVYT, NB, người nhà NB và
NVYT khỏi bị nguy cơ phơi nhiễm và hạn chế phát tán mầm bệnh ra môi trường
bên ngoài. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) không khuyến cáo sử dụng khẩu trang,
găng tay, kính bảo vệ mắt, quần áo bảo vệ trong thực hiện tiêm. Các PPE này chỉ sử
dụng trong trường hợp người tiêm có nguy cơ phơi nhiễm với máu, dịch tiết, chất
tiết (trừ mồ hôi) [1].
* Thùng đựng chất thải sắc nhọn
Còn gọi là “hộp đựng chất thải sác nhọn (CTSN)”, “hộp kháng thủng” hay
“hộp an toàn”. Hộp đựng CTSN được sản xuất bằng chất liệu cứng, chống thủng,
chống rò rỉ được thiết kế để chứa CTSN một cách an toàn trong quá trình thu gom,
hủy bỏ và tiêu hủy. Thùng này phải được thiết kế và quản lý theo đúng Quy chế
Quản lý chất thải y tế của Bộ Y tế [5].
* Xử lý các vật sắc nhọn sau khi tiêm
Phân loại chất thải ngay tại nguồn, cô lập ngay vật sắc nhọn vào hộp kháng
thủng đủ tiêu chuẩn, không đậy lại nắp kim, không uốn cong, bẻ gẫy kim [1].
1.1.1.4. Hậu quả và gánh nặng bệnh tật của tiêm không an toàn
Tiêm không an toàn có thể gây ra các hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng trực
tiếp tới tính mạng con người, kinh tế, xã hội, tâm lý và một số các lĩnh vực khác.
Thực tế là gây ra hậu quả và gánh nặng bệnh tật cho cả người nhận mũi tiêm, người
thực hiện tiêm và cộng đồng nếu như không có những giải pháp nhằm bảo đảm thực
hiện mũi tiêm an toàn[1].
Những nguy hại về sức khỏe và kinh tế do tiêm đã được khẳng định qua nhiều
nghiên cứu. Người ta ước tính rằng việc tiêm không an toàn gây thiệt hại khoảng
535 triệu USD mỗi năm cho chi phí y tế trực tiếp cho việc giải quyết những hậu quả
do tiêm không an toàn gây ra, tiêm không an toàn cũng gây nên khoảng 1,3 triệu cái
chết và làm mất đi 26 triệu năm sống [6].
* Đối với người bệnh:
Những hậu quả gây ra với tình mạng con người do tiêm không an toàn là
nguy cơ bị áp xe tại vị trí tiêm, chứng liệt thần kinh, phản ứng dị ứng, sốc phản vệ
và đặc biệt là nguy cơ truyền các virus qua đường máu cho người bệnh, NVYT và
cộng đồng.
8
Theo nghiên cứu “Gánh nặng toàn cầu của bệnh do tiêm bị ô nhiễm được
đưa ra trong các thiết lập chăm sóc sức khỏe” của Hauri và cộng sự cho thấy trung
bình mỗi người nhận 3,4 mũi tiêm, trong đó 39,3% sử dụng bơm tiêm dùng lại.
Tổ chức Y tế Thế giới WHO (2004) cho thấy 50% số bơm kim tiêm vẫn
được thiêu ngoài trời hoặc bán ở chợ đen và trong năm 2000 trên toàn cầu có
khoảng 21triệu ca nhiễm mới viêm gan B chiếm 32%, 2 triệu ca nhiễm mới viêm
gan C chiếm 40% và 260.000 ca nhiễm mới HIV chiếm 5% so với tổng số ca nhiễm
mới của từng loại virus đó. Tại các nước phát triển, tiêm không an toàn gây nên
khoảng 1/3 những trường hợp nhiễm mới HBV và là nguyên nhân chủ yếu của
những trường hợp nhiễm HCV, gây nên khoảng 2 triệu trường hợp nhiễm mới mỗi
năm chiếm trên 40% những trường hợp nhiễm HCV.
* Đối với nhân viên y tế:
Đối với nhân viên Y tế, nếu mũi tiêm không an toàn có thể dẫn đến những
hậu quả khó lường mà chủ yếu là các bệnh lây qua đường máu như viêm gan B;
HIV... Một mắt xích quan trọng của quá trình lây bệnh từ người bệnh sang nhân
viên y tế qua đường máu là các tai nạn do vật sắc nhọn. Theo WHO, đối tượng bị
tai nạn nghề nghiệp do kim đâm vào tay chiếm tỷ lệ cao nhất là điều dưỡng (44 -
72%); tiếp theo là bác sỹ (28%); kỹ thuật viên xét nghiệm là 15%; hộ lý là 3 - 16%
và nhân viên hành chính chiếm khoảng 1 - 6% [7],[8].
Điều dưỡng là đối tượng nhân viên y tế đáng được quan tâm nhất khi đề cập
tới chủ đề tiêm an toàn bởi vì đây là đối tượng có ảnh hưởng lớn tới bản thân họ và
các đối tượng còn lại là người được tiêm và cộng đồng [9]. Một số nghiên cứu trước
đây về chấn thương do kim đâm cho thấy khoảng 10% đến 25% chấn thương xẩy ra
do lắp lại nắp đậy kim tiêm sau khi sử dụng. Theo nghiên cứu tại Anh năm 2004
của Mehta trong vòng 1 năm, tỷ lệ NVYT bị kim đâm là 4-5% trong đó điều dưỡng
bị kim đâm thì 23% ĐDV bị nhiễm viêm gan B, bác sĩ 15%, kỹ thuật viên 11%
nhiễm viêm gan B [2].
Trong số các NVYT không được điều trị dự phòng sau phơi nhiễm, nguy cơ
nhiễm khuẩn sau khi bị tổn thương do kim tiêm là 23%- 62% đối với HBV và 0-7%
đối với HCV [10]. Nhiễm khuẩn chéo sang NB khác và sang NVYT có thể từ tay
của NVYT, thuốc, thiết bị và dụng cụ y tế hoặc bề mặt môi trường. Nghiên cứu
đánh giá tình hình lây nhiễm viêm gan C ở nhân viên y tế tại BV Trung ương
9
Hungary (2001) cho thấy trong số 477 nhân viên y tế được xét nghiệm máu tìm
kháng thể kháng vi rút viêm gan C thì có 2,7% nhân viên y tế có HCV dương tính,
trong đó 2,7% là điều dưỡng và 2,9% là nhân viên khác của BV, tỷ lệ nhiễm HCV
có liên quan đến yếu tố nghề nghiệp, nghĩa là thời gian làm việc tại BV càng dài thì
tỷ lệ nhiễm HCV càng lớn [11].
Việt Nam là một nước đang phát triển nằm trong khu vực Đông Nam Á - nơi
có tỷ lệ nhiễm khuẩn do tiêm không an toàn cao nhất thế giới (tỷ lệ nhiễm mới HBV
là 22,4%-53,6%, nhiễm mới HCV là 30,8%-59,5%, nhiễm mới HIV là 7,0%-
24,3%). Theo thống kê chưa đầy đủ của ủy ban phòng chống AIDS cho thấy số tai
nạn nghề nghiệp ở các phòng xét nghiệm HIV, riêng trong năm 1999 có tới 62 vụ
(trong số 695.097 mẫu xét nghiệm HIV), đây là một loại tai nạn do kim lấy máu
đâm vào tay NVYT, như vậy nguy cơ lây nhiễm bệnh HIV qua đường máu là rất
cao [8]. Bên cạnh đó, một loạt các hậu quả khác do tiêm không an toàn đã được ghi
nhận tại Việt Nam như tỷ lệ người bệnh bị áp xe tại vị trí tiêm, chứng liệt thần kinh,
phản ứng dị ứng, sốc phản vệ do tiêm không an toàn.
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Thúy Quỳnh năm 2008, cho thấy: điều
dưỡng có tần suất phơi nhiễm cao nhất (79,6/1000 người/4 tháng, trong đó tổn
thương xuyên da là 66,7/1000 người/4tháng); đứng thứ 2 là nhóm bác sĩ (26,9/1000
người/4 tháng, trong đó tổn thương xuyên da 22,2/1000 người/4 tháng). NVYT
thường xuyên thực hiện các công việc tiêm, truyền có tần suất phơi nhiễm cao nhất
và 100% các trường hợp là tổn thương xuyên da (43,3/1000 người/4tháng) [12].
Năm 2009, tại BV Xanh Pôn nghiên cứu trên 669 nhân viên của 33 khoa
phòng lâm sàng và cận lâm sàng cho thấy tỷ lệ NVYT có xét nghiệm dương tính
HBsAg là 7,3%, tần suất phơi nhiễm chung trong quá trình làm việc là
241,5/người/năm. Tần suất phơi nhiễm cao nhất là trong nhóm NVYT phải thường
xuyên thực hiện tiêm truyền là 55,5 người/năm, nhóm điều dưỡng có tần xuất phơi
nhiễm cao nhất là 146,1 người/năm, vị trí tổn thương ngón tay chiếm 42%, thời
điểm tổn thương thường vào buổi sáng 54% trong tổng số các phơi nhiễm [13].
Các tác nhân gây bệnh qua đường máu cũng có thể là nguyên nhân gây bệnh
cho cán bộ NVYT. Theo Cục quản lý khám chữa bệnh ước tính 44% ca nhiễm
HIV, 39% ca nhiễm HBV và HCV đều do tai nạn nghề nghiệp, nhiễm khuẩn chéo
trong bệnh viện gây lên. Vì vậy tuân thủ các quy trình kỹ thuật trong TAT góp phần
10
đảm bảo an toàn cho người bệnh và cả nhân viên y tế. Theo khỏa sát của hội
điều dưỡng Việt Nam năm 2005, chỉ có 22,5% mũi tiêm đạt thực hành an toàn.
Nguyên nhân chủ yếu là do kỹ thuật tiêm, truyền chưa đảm bảo an toàn, kỹ thuật
vô khuẩn kém, thiếu thốn dụng cụ tiêm, dung dịch sát khuẩn tay và sự cập nhật
thông tin không kịp thời của nhân viên y tế về hướng dẫn TAT[4].
* Đối với cộng đồng:
Tiêm không an toàn không những chỉ gây hại cho NB, NVYT mà còn gây hại
cho cộng đồng. Hiện tại chưa có số liệu thống kê một cách đầy đủ về tác hại gây ra
cho cộng đồng nhưng bằng chứng thực tế cho thấy những nguy hại từ việc xử lý
BKT sau tiêm không đúng, người trong cộng đồng đã nhặt đem về tái sử dụng hoặc
bị tổn thương trong quá trình nhặt bới rác do việc phân loại và thiêu đốt BKT không
đúng quy trình.
Việc thu gom, xử lý không đúng dụng cụ tiêm truyền nhiễm bẩn, dẫn đến
NVYT và cộng đồng có thể phơi nhiễm nguy cơ bị thương tích do kim đâm. Tiêm
không an toàn gây ra tâm lý lo lắng cả người được tiêm, người thực hành tiêm và
cộng đồng về nguy cơ lây nhiễm bệnh qua đường máu, dịch, nguy cơ bị tổn thương
do VSN… Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng không tốt về xử lý rác thải y tế là nguyên
nhân khiến tiêm không an toàn gây tổn hại đến cộng đồng.
Tiêm không an toàn gây những hậu quả nghiêm trọng là những điều đã được
chứng minh, tuy nhiên một trong những điểm rất đáng chú ý của vấn đề tiêm an
toàn là khả năng phòng tránh không để xẩy ra mất an toàn. Theo nhận định của
Trung tâm Kiểm soát bệnh tật của Hoa Kỳ (CDC) và WHO thì có tới 80% các rủi ro
do kim tiêm có thể phòng ngừa được bằng việc phối hợp các biện pháp hết sức đơn
giản pháp như: sử dụng trang thiết bị tiêm vô khuẩn; thực hiện đúng quy trình tiêm.
Những sự mất an toàn trong tiêm có thể được giảm nhẹ đi rất nhiều nếu mọi cá nhân
và cộng đồng hiểu rõ thực trạng về tiêm và chủ động kiểm soát các hành vi có có
nguy cơ gây hại và tiến tới loại trừ chúng ra khỏi đời sống.
1.1.1.5. Các nguy cơ dẫn đến tiêm không an toàn
Việc thực hiện các kỹ thuật tiêm truyền cho người bệnh có thao tác chưa
đúng trong quy trình tiêm truyền là nguyên nhân chính dẫn đến mũi tiêm không an
toàn.
Công tác kiểm soát nhiễm khuẩn không đảm bảo trong thực hiện kỹ thuật
11
tiêm truyền có nguy cơ cao dẫn đến mũi tiêm không an toàn.
Kiến thức và thực hành tiêm an toàn còn nhiều hạn chế cho cách tiếp cận và
cập nhật thông tin và hướng dẫn tiêm an toàn chưa đúng, đủ.
Số lượng bệnh nhân quá tải, khối lượng công việc quá nhiều dẫn đến việc
làm tắt hoặc làm theo thói quen của điều dưỡng cắt bớt một số bước khi thực hiện
tiêm, truyền cho người bệnh.
Phương tiện, dụng cụ, vật tư y tế không đảm bảo hoặc không đủ cho điều
dưỡng sử dụng trong quá trình thực hiện chuyên môn.
Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị chưa hiện đại, điều kiện môi trường làm việc không
thuận tiện làm giảm ý thức tuân thủ quy trình kỹ thuật của điều dưỡng.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng sử dụng thuốc tiêm và hiện tượng lạm dụng tiêm
Tiêm, truyền đang trở thành một thủ thuật xâm lấn phổ biến, với số lượng mũi
tiêm lớn trong chẩn đoán, phòng bệnh và chữa bệnh. Kết quả nghiên cứu của Yan Y
và cộng sự được tiến hành tại Trung Quốc nhằm đánh giá về TAT của người dân ở
huyện Kinh Châu, Hồ Bắc cho thấy trong số 595 đối tượng nghiên cứu có 192
người đã được tiêm ít nhất 1 lần trong 3 tháng chiếm 32,3%, trung bình 0,93 mũi
tiêm/người [14]. Hauri và cộng sự năm 2004 cũng cho thấy tỷ lệ tiêm hàng năm cho
mỗi người dao động từ 1,7 đến 11,3 [7]. Tại Việt Nam, năm 2005, nghiên cứu của
Đào Thành và cộng sự được tiến hành với mục tiêu đánh giá toàn diện trên phạm vi
toàn quốc về kết quả sau 5 năm thực hiện cuộc vận động TAT toàn quốc. Qua quan
sát ngẫu nhiên 776 mũi tiêm cho thấy: tỷ lệ mũi tiêm trung bình của NB là 2,2 mũi
tiêm/người/ngày [15]. Nghiên cứu của Trần Thị Minh Phượng tại BV đa khoa Hà
Đông năm 2012 cho thấy tỷ lệ NB nội trú có tiêm chiếm 64%, trung bình mỗi NB
nhận tới 3,1 mũi tiêm/ngày [16].
Thực tế cho thấy, việc lạm dụng tiêm truyền đang trở thành một vấn đề báo
động tại một số nước đang phát triển. Lạm dụng tiêm gây nên những thiệt hại lớn về
mặt kinh tế và làm tăng nguy cơ không an toàn trong quá trình thực hiện tiêm. Tại
Indonesia và Tanzania, trên 70% những mũi tiêm được cho là không cần thiết hoặc
có thể thay thế bằng thuốc uống, cái được cho là an toàn và rẻ tiền hơn rất nhiều [2].
Theo nghiên cứu của Hauri và cộng sự năm 2004 cũng đưa ra kết luận lạm dụng tiêm
và thực hành không an toàn đưa đến một gánh nặng đáng kể về tử vong và khuyết tật
12
trên toàn thế giới [7]. Nghiên cứu tại Jingzhou, Trung Quốc về thực hành tiêm
tại các cơ sở y tế cho thấy có tới 52% đơn thuốc của NB ngoại trú có chỉ định tiêm,
trong đó 57% số mũi tiêm là không cần thiết [14]. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Đào
Thành năm 2010 về thực trạng TAT trước và sau can thiệp tại 13 BV đại diện cho 3
vùng Bắc, Trung, Nam kết quả cho thấy trên 85% nhân viên y tế cho rằng có tình
trạng lạm dụng thuốc tiêm trong đó hơn một nửa số người cho rằng đó là tình trạng
phổ biến và quan điểm này không thay đổi ở đánh giá trước và sau [17].
Nguyên nhân dẫn đến lạm dụng tiêm bắt nguồn từ cả phía người được tiêm,
người tiêm và cộng đồng. Do thiếu thông tin về những nguy hại do tiêm truyền; có
niềm tin mơ hồ về tác dụng hiệu quả dùng thuốc theo đường tiêm so với uống; một
số NB thích được tiêm hơn, đề nghị hoặc yêu cầu bác sỹ cho thuốc tiêm, truyền
trong khi có thể dùng thuốc uống thay thế. Bên cạnh đó bác sỹ cũng kê đơn lạm
dụng thuốc tiêm để làm hài lòng NB và thêm nữa, lợi nhuận, tiền công thu được từ
thuốc tiêm cũng cao hơn thuốc uống.
1.2.2.Thực trạng cung cấp trang thiết bị, phương tiện phục vụ tiêm
Nhiều quốc gia chưa thực sự quan tâm đầu tư trang thiết bị phục vụ công tác
tiêm an toàn nhằm bảo đảm an toàn cho nhân viên y tế và cộng đồng. Irina
Mikheeva - Viện nghiên cứu dịch tễ học quốc gia liên bang Nga và cộng sự đã tiến
hành nghiên cứu về quản lý chất thải y tế trên 65.415 cơ sở y tế ở 50 vùng lãnh thổ
khác nhau của liên bang Nga năm 2005 cho thấy: 61,5% cơ sở y tế sử dụng chai
nhựa để chứa bơm kim tiêm. Chỉ có 1,4% cơ sở y tế sử dụng máy cắt kim; 14% cơ
sở y tế tái sử dụng các vật dụng thải bỏ.
Thiếu phương tiện, dụng cụ tiêm hoặc phương tiện, dụng cụ tiêm không phù
hợp. Thiếu BKT hoặc BKT không phù hợp về mặt kích cỡ, chủng loại hay không
bảo đảm chất lượng cho việc tái sử dụng. Một số cơ sở y tế dùng chung BKT cho
những loại thuốc khác nhau, cho những NB khác nhau, dùng một kim lấy thuốc để
pha thuốc và rút thuốc nhiều lần. Theo báo cáo của WHO, dựa trên kết quả nghiên
cứu về hiện trạng tiêm tại 19 nước đại diện cho 5 vùng trên thế giới, có 40% mũi
tiêm được thực hiện bằng BKT dùng lại mà không được tiệt khuẩn [2].
Nghiên cứu tại 80 cơ sở y tế ở Philippin năm 2007 (theo bộ công cụ đánh giá
tiêm an toàn của WHO) cho thấy: tỷ lệ sử dụng lại bơm kim tiêm xấp xỉ 16%,
khoảng 49% các cơ sở y tế chưa có hệ thống xử lý rác thải, chỉ có 17% số cơ sở y tế
13
có thùng chứa vật sắc nhọn đảm bảo tiêu chuẩn. Tại Gujarat, Indian, 77% số
người cung cấp mũi tiêm có những mũi tiêm được thực hành một cách không an
toàn bao gồm luộc bơm kim tiêm để dùng lại, đậy lại nắp kim tiêm bằng hai tay và
tiếp xúc trực tiếp với dịch cơ thể.
Tại Việt Nam, thiếu các phương tiện vệ sinh tay: Không đủ bồn rửa tay tại các
buồng bệnh, buồng thủ thuật, không cung cấp đủ nước, xà phòng, khăn lau tay sạch
hoặc dung dịch SK tay nhanh có chứa cồn làm ảnh hưởng đến quy trình TAT của
ĐDV. Giải pháp trang bị đủ các phương tiện vệ sinh tay như lắp đặt đủ các bồn rửa
tay ở buồng bệnh, buồng thủ thuật; cung cấp đủ nước, xà phòng, khăn lau tay sạch
cho mỗi lần rửa tay hoặc dung dịch SK tay nhanh có chứa cồn treo hoặc đặt sẵn trên
các xe tiêm đã được đề cập đến trong Hướng dẫn TAT của Bộ Y tế [1];
Thiếu các phương tiện thu gom chất thải y tế sau tiêm theo đúng quy định tại
Quyết định 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 của Bộ Y tế ban hành Quy chế
Quản lý chất thải y tế. Rất nhiều các cơ sở KBCB hiện nay sử dụng hộp đựng
CTSN sau tiêm không đạt yêu cầu, không đủ hộp, hộp không có tính kháng thấm,
kháng thủng, không phù hợp về kích cỡ, hoặc sử dụng không đúng như đựng quá
đầy, để hộp không đúng vị trí gây tai biến cho người thực hành tiêm và người thu
gom chất thải sau tiêm. Nghiên cứu đánh giá kiến thức về TAT và tần suất rủi ro do
vật sắc nhọn đối với điều dưỡng, hộ sinh tại 8 tỉnh đại diện, 6 tháng đầu năm 2005
của Phạm Đức Mục và cộng sự đã cho thấy có 63,1% và 62,6% số người được hỏi
cho rằng thiếu dụng cụ xử lý chất thải và thiếu hộp đựng CTSN chuẩn là nguyên
nhân dẫn đến mũi tiêm không an toàn [18]. Để thực hiện tốt nội dung này trong
tiêm truyền, Bộ Y tế đã khuyến cáo các cơ sở KBCB phải bảo đảm phương tiện
đựng CTSN phù hợp với phương pháp tiêu hủy cuối cùng. Hộp đựng CTSN phải
bảo đảm các tiêu chuẩn: thành và đáy cứng không bị xuyên thủng; có khả năng
chống thấm; kích thước phù hợp; có nắp đóng mở dễ dàng; miệng hộp đủ lớn để
cho vật sắc nhọn vào mà không cần dùng lực đẩy; có dòng chữ “chỉ đựng chất thải
sắc nhọn” và có vạch báo hiệu ở mức 3/4 hộp và có dòng chữ “Không được đựng
quá vạch này”; màu vàng; có quai hoặc kèm hệ thống cố định; khi di chuyển vật sắc
nhọn bên trong không bị đổ ra ngoài [1].
1.2.3.Thực trạng tiêm an toàn
Kiến thức, thực hành TAT chưa tốt đặc biệt là tại các nước đang phát triển