Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án dân sự và một số khuyến nghị
- 13 trang
- file .pdf
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266
Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản
để thi hành án dân sự và một số khuyến nghị
Trần Công Thịnh**
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
144 Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 01 tháng 12 năm 2008
Tóm tắt. Cưỡng chế kê biên tài sản (KBTS) nói riêng, thi hành án dân sự (THADS) nói chung là một
trong những hoạt động quan trọng, nhằm khôi phục và bảo vệ các quan hệ xã hội bị xâm hại. Do
đó, thi hành dứt điểm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật
nhưng được thi hành ngay trên thực tế có ý nghĩa đặc biệt trong việc đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.
Hiệu quả của việc cưỡng chế KBTS là cơ sở, tiền đề cho sự thành công và hiệu quả của một vụ thi
hành án về tài sản khi đương sự không tự nguyện thi hành. Song qua nghiên cứu về vấn đề này
chúng tôi thấy rằng trong quá trình áp dụng biện pháp cưỡng chế KBTS để thi hành án gặp rất
nhiều vướng mắc, nhiều nguyên nhân khác nhau gây cản trở cho việc cưỡng chế như: cơ chế quản
lý, hoạt động THADS còn chồng chéo; sự phối hợp giữa các cơ quan tổ chức trong việc cưỡng chế
còn chưa tốt; hay các nguyên nhân xuất phát trực tiếp từ các quy định của pháp luật về KBTS còn
chưa chặt chẽ, rõ ràng hoặc còn có thiếu sót.
Qua nghiên cứu, phân tích trên chúng tôi thấy rằng: cần đổi mới cơ chế quản lý hoạt động THADS;
tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong thi hành án đặc biệt là trong cưỡng
chế KBTS… Về mặt pháp luật, nên hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi hành án nói chung và các
quy định của pháp luật về cưỡng chế KBTS nói riêng như xây dựng và ban hành Bộ luật THADS,
nghiên cứu triển khai đề án Thừa phát lại.
Ngoài ra, chúng ta phải tăng cường năng lực, phẩm chất, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ chấp
hành viên (CHV); tích cực tuyên truyền phổ biến pháp luật về thi hành án để các đương sự tự
nguyện thỏa thuận thi hành và cơ quan thi hành án có thể tranh thủ được sự giúp đỡ, phối hợp của
cá nhân, tổ chức hữu quan trong suốt quá trình thi hành án. Chỉ như vậy mới tạo được điều kiện
thuận lợi cho KBTS và thi hành án sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
1. Những kết quả đạt được* xã hội bị xâm hại. Do đó, thi hành dứt điểm
các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
Cưỡng chế KBTS nói riêng, THADS nói luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng
chung là một trong những hoạt động quan được thi hành ngay trên thực tế có ý nghĩa
trọng, nhằm khôi phục và bảo vệ các quan hệ đặc biệt trong việc đảm bảo trật tự, an toàn
______ xã hội.
*
ĐT: 84-4-36367120. Để đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết
E-mail: [email protected] định, trong những năm qua Đảng, Nhà nước
254
T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266 255
đã quan tâm ban hành nhiều chủ trương, gắng trên, nhiều bản án, quyết định của Toà
chính sách và pháp luật, cũng như hỗ trợ và án đã được thi hành dứt điểm (Biểu số 1), bảo
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho công tác đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của nhà
THADS; các cơ quan quản lý THADS, cơ nước, của cơ quan, tổ chức và các cá nhân
quan THADS và toàn thể cán bộ, công chức công dân góp phần vào việc ổn định tình
ngành thi hành án đã nỗ lực phấn đấu để hình an ninh chính trị của đất nước, tạo tiền
nâng cao kết quả và hiệu quả của công tác thi đề cho sự phát triển của kinh tế - xã hội.
hành án dân sự. Nhờ có sự quan tâm và cố
Biểu số 1
Số Năm Số việc giải quyết Số việc thi hành Tỷ lệ giải quyết Tỷ lệ thi hành
TT xong ở thời điểm xong hoàn toàn ở xong/tổng số xong/số có
báo cáo thời điểm báo cáo phải thi hành điều kiện
1 2003 189.542 150740 35% 47%
2 2004 209.747 168022 39% 50%
3 2005 233.522 145468 42% 42%
4 2006 270.967 213218 45% 56%
5 2007 336.823 261197 52% 69%
Tuy nhiên bên cạnh kết quả đã đạt được, hội. Theo số liệu thống kê hàng năm thì số
thì vẫn còn không ít những bản án, quyết liệu các bản án, quyết định bị tồn lại (trong
định có hiệu lực thi hành nhưng chưa được đó các bản án, quyết định liên quan đến
tổ chức thi hành dứt điểm hoặc không thi cưỡng chế kê biên để thi hành án chiếm tỷ lệ
hành được, khiến cho quyền, lợi ích hợp không nhỏ) chưa được thi hành dứt điểm vào
pháp của một bộ phận quần chúng nhân dân các kỳ báo cáo hàng năm, mặc dù tỷ lệ có
không được đảm bảo, gây bức xúc trong xã giảm, nhưng vẫn còn cao.
Biểu số 2
Số TT Năm Tổng số việc phải thi Số lượng án chưa được giải quyết vào Tỷ lệ
hành của năm báo cáo thời điểm báo cáo hàng năm
1 2003 546.346 356.804 65.30%
2 2004 537.405 323.773 60.24%
3 2005 561.180 327.658 58.38%
4 2006 602.059 331.092 54.99%
5 2007 648.266 311.443 48.04%
Qua phân tích số lượng các vụ việc còn năm trước cộng dồn sang. Một điều đáng chú
tồn chuyển sang năm sau tiếp tục tổ chức thi ý là trong số tồn này có những việc tồn đã
hành (gọi tắt là việc tồn) trong 05 năm trở lại được thụ lý từ năm 1993 (thời điểm chuyển
đây (Biểu số 02) cho thấy, mặc dù số lượng giao công tác thi hành án từ Toà án sang cho
việc tồn đọng chuyển kỳ sau có lúc tăng lúc các cơ quan thuộc Chính phủ quản lý) đến
giảm. Nhưng thực tế số lượng việc tồn cần nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm.
phải giải quyết tính đến ngày 31/07/2007 vẫn Có nhiều lý do khách quan lẫn chủ quan
còn một số lượng lớn (311.443). Số lượng dẫn đến tình trạng pháp luật không được
những việc tồn này là số việc tồn của những chấp hành nghiêm chỉnh làm cho tồn đọng
256 T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266
án kéo dài không thi hành được. Tồn đọng án lòng tin của nhân dân vào các đường lối,
là mối quan tâm trăn trở của nhiều cấp, nhiều chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.
ngành, dư luận xã hội, nó ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập 2.2. Xuất phát từ nguyên nhân khách quan
thể và công dân [1].
2.2.1. Chế độ đãi ngộ đối với Chấp hành viên,
Sau đây, chúng ta xem xét cụ thể về
cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân
những vướng mắc trong quá trình áp dụng
sự chưa hợp lý
biện pháp cưỡng chế KBTS.
Trong những năm gần đây, tình trạng
chấp hành viên của cơ quan Thi hành án các
2. Những vướng mắc gặp phải trong quá nơi xin nghỉ việc cũng như muốn chuyển
trình áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên công tác khác có xu hướng gia tăng. Theo
tài sản để thi hành án thống kê sơ bộ, trong năm 2007, toàn ngành thi
hành án Thành phố Hồ Chí Minh có 19 người
xin nghỉ việc hoặc chuyển công tác khác; 02
2.1. Xuất phát từ nguyên nhân chủ quan
trưởng thi hành án quận huyện và nhiều chấp
Thứ nhất: Một bộ phận cán bộ, công chức hành viên xin thôi làm nhiệm vụ thi hành án để
làm công tác thi hành án dân sự có trình độ được làm công tác hành chính. Ngoài ra còn có
chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu của hàng chục cử nhân luật xin chấm dứt hợp đồng
nhiệm vụ trong tình hình mới. lao động trước thời hạn [2].
Thứ hai: Nhiều trường hợp Chấp hành Nhiều sinh viên cho biết họ không muốn
viên chưa thực sự tích cực, quyết liệt đối với làm ngành thi hành án vì ngoài mức lương
những vụ việc phức tạp, khó khăn; ngại khó, nhà nước cơ bản của cán bộ công chức không
ngại va chạm còn khoản nào khác nên không đủ sống.
Tại Điều 14 Pháp lệnh thi hành án dân sự Nhiều người tạm thời chấp nhận làm cán bộ,
năm 2004 đã quy định: “Chấp hành viên có chuyên viên thi hành án để chờ cơ hội học
trách nhiệm thi hành đúng nội dung bản án, nghề và sẵn sằng bỏ nghề để trở thành luật
sư hoặc tìm được công việc lương cao hơn.
quyết định dân sự, áp dụng đúng đắn các
Vừa qua Thi hành án Thành phố Hồ Chí
quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục
Minh muốn tổ chức thi tuyển 51 người
thi hành án đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp
nhưng lại không đủ số lượng dự tuyển theo
của nhà nước và đương sự...”. Đồng thời,
yêu cầu gấp đôi số cần tuyển (phải ít nhất là
Pháp lệnh Thi hành án dân sự cũng quy định 102 người) nên chưa thể tổ chức thi tuyển.
cho Chấp hành viên nhiều quyền năng để tổ Thậm chí cả khi Uỷ ban Nhân dân (UBND)
chức thi hành án, trong đó có quyền ra quyết thành phố chấp nhận cho tuyển cán bộ công
định cưỡng chế nói chung và cưỡng chế kê chức có hộ khẩu tạm trú dài hạn tại địa
biên tài sản nói riêng để thi hành án. Nhưng phương (KT3) nhưng vẫn không tuyển đủ số
trên thực tế, vẫn còn hiện tượng chấp hành lượng. Không có nhiều sinh viên luật tốt
viên chưa tích cực tổ chức thi hành án; ngại nghiệp muốn dự tuyển vì đặc trưng của
va chạm, nên không sử dụng các biện pháp ngành rất phức tạp và mang tính rủi ro cao.
mạnh để tổ chức thi hành dứt điểm bản án. 2.2.2. Người phải thi hành án chây ỳ, chống
Thứ ba: Vẫn còn trường hợp Chấp hành đối, cản trở việc thi hành án
viên gây sách nhiễu, vòi vĩnh đương sự, gây Qua thực tiễn tổ chức thi hành án dân sự
cản trở hoạt động thi hành án, làm xói mòn trong hơn 14 năm qua cho thấy, trong quá
T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266 257
trình thi hành án, quyền, lợi ích hợp pháp 2.2.3 Mối quan hệ phối hợp trong công tác thi
của các bên đương sự và những người có hành án
quyền, lợi ích liên quan trực tiếp bị ảnh Nhìn chung các cơ quan hữu quan tuy đã
hưởng, nhất là đối với những người phải thi thực hiện các quy định của pháp luật về việc
hành án. Lúc này các quyền về nhân thân (thi phối hợp hoặc trách nhiệm trong công tác
hành án buộc làm hoặc không được làm một
THADS. Nhưng cũng còn nhiều trường hợp
công việc), quyền về tài sản và tài sản (thi
quy định trên của pháp luật không được thực
hành nghĩa vụ về tài sản) của người phải thi
hiện đầy đủ như việc thực hiện không tốt
hành án đã trực tiếp bị tác động. Nếu họ
quyền yêu cầu hoãn, tạm đình chỉ thi hành
không tự nguyện thi hành nghĩa vụ, chấp
án. Trong thực tế, có nhiều trường hợp, sau
hành viên sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng
chế để buộc họ phải thực hiện theo đúng nội khi bản án, quyết định được tuyên, Toà án
dung bản án, quyết định của Toà án vì lợi ích chậm hoặc không chuyển giao cho cơ quan
của người được thi hành án. Do đó, trong thi hành án để thi hành, hoặc chuyển giao
giai đoạn này, người phải thi hành án thường bản án, nhưng không chuyển giao tang vật,
tìm mọi cách để trì hoãn, trốn tránh việc thi tài sản kèm theo, gây khó khăn cho việc thi
hành án, làm cho việc thi hành án trở nên hành án.
khó khăn, phức tạp, nhất là những trường Trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ của chính
hợp người phải thi hành án chưa thoả mãn quyền địa phương đặc biệt là UBND cấp xã
với kết quả giải quyết của Toà án và các cơ trong việc thi hành án trên thực tế thì sự phối
quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đó tỏ ra rất mờ nhạt từ phía UBND địa
Xin đưa ra đơn cử một ví dụ: Theo bản án số phương. Ngoài ra, công tác bảo vệ cưỡng chế
31/DSST ngày 21/04/2001 của Toà án nhân thi hành án có nơi chưa tốt, lực lượng cảnh
dân huyện H thì ông Nguyễn Ngọc H phải sát còn có thái độ ngần ngại, né tránh tham
trả lại cho ông Trần Hải Q 25m2 đất theo gia và còn có sự can thiệp yêu cầu hoãn thi
quyết định của bản án. hành án tùy tiện của một số chủ thể có
Sau nhiều lần động viên, thuyết phục quyền, dẫn đến ảnh hưởng không nhỏ tới
nhưng ông H vẫn không tự nguyện thi hành, hiệu quả của công tác THADS.
để thi hành dứt điểm bản án trên, cơ quan thi
Như vậy, việc phối hợp với các cơ quan
hành án huyện T đã lên kế hoạch chuẩn
thi hành án để thực hiện thi hành án đạt kết
cưỡng chế thi hành án đối với ông H. Khi cơ
quả cao là trách nhiệm của mọi chủ thể mà
quan thi hành án huyện T báo, người nhà
pháp luật đã quy định. Tuy nhiên, việc phối
ông H cho biết thời gian qua ông H thua cá
hợp giữa các cơ quan hữu quan đôi lúc đôi
độ phải vay nợ một số tiền lớn không có khả
năng trả được, nên bỏ đi, hiện không rõ địa nơi chưa được thật sự phối hợp một cách gắn
chỉ (ông H ly hôn vợ, do hai chồng sống với kết, nhịp nhàng và thống nhất. Chúng tôi xin
nhau lâu năm mà không có con, ngôi nhà đưa ra một ví dụ sau để minh họa:
hiện nay do Toà án giao cho ông H quản lý, Theo Pháp lệnh THADS 2004, cơ quan thi
sử dụng khi ly hôn vợ). hành án dân sự có thể uỷ quyền cho Trung
Việc tổ chức cưỡng chế phải dừng lại do tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc tự mình
người được thi hành án vắng mặt. Từ đó đến bán tài sản để thi hành án. Tài sản được bán
nay, gia đình ông H cũng không có tin tức gì đấu giá để thi hành án có thể là tang vật, tài
của ông. Vụ việc kéo dài đến nay vẫn chưa vật được tuyên tịch thu sung công ngay
giải quyết dứt điểm được. trong bản án, quyết định của Toà án; tài sản
258 T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266
do cơ quan thi hành án kê biên để đảm bảo đúng và đầy đủ các thủ tục do pháp luật quy
thi hành án... Người mua hoặc nhận tài sản định. Nhưng khi người mua được xe là ông
để thi hành án có thể là cá nhân, cơ quan Nguyễn Văn Quyền (165 Trần Cao Vân, thị
hoặc tổ chức... Khoản 1 Điều 49 Pháp lệnh xã Tam kỳ) đến phòng cảnh sát giao thông
THADS 2004 quy định: “Người mua được tài công an Tỉnh Đồng Nai, cơ quan thi hành án
sản thi hành án, người nhận tài sản để thi dân sự tỉnh Quảng Nam liên hệ làm việc với
hành án được pháp luật công nhận và bảo vệ phòng cảnh sát giao thông công an tỉnh Đồng
quyền sở hữu đối với tài sản đó”. Nai xin rút hồ sơ về để làm thủ tục trước bạ
Mặc dù pháp lệnh quy định rõ ràng như cho người mua thì bị cơ quan này từ chối và
vậy, nhưng trong thực tế, còn có nhiều hướng dẫn ngược lại rằng, phòng cảnh sát
trường hợp người mua hoặc nhận tài sản để giao thông công an tỉnh Quảng Nam phải
thi hành án đã gặp không ít khó khăn khi đi làm thủ tục sang tên trước bạ cho người mua
đăng ký quyền sở hữu tài sản của mình, trước, sau đó có công văn yêu cầu chuyển hồ
thường gặp nhất là trong các lĩnh vực nhà sơ để lưu thì phòng cảnh sát giao thông công
đất, ô tô, xe máy... Cơ quan chức năng khi an tỉnh Đồng Nai mới cho rút hồ sơ. Như vậy
thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu tài sản cùng một sự việc nhưng hai cơ quan cảnh sát
cho các trường hợp này thường yêu cầu giao thông ở hai tỉnh lại có hai cách giải quyết
người đi đăng ký phải xuất trình “ hồ sơ gốc” không giống nhau. Nơi này có yêu cầu hồ sơ
của tài sản đó mới cho đăng ký. Thực tế cho gốc mới cho trước bạ sang tên, nơi kia lại bảo
thấy không phải bất kỳ trường hợp nào tài trước bạ sang tên rồi mới cho rút hồ sơ gốc.
sản do cơ quan thi hành án đưa ra bán để thi Khoản 2 Điều 49 Pháp lệnh THADS năm
hành án cũng đều có đầy đủ hồ sơ gốc. Ví dụ 2004 quy định: “Cơ quan nhà nước có thẩm
như tài sản bị tuyên tịch thu sung công quyền có trách nhiệm thực hiện thủ tục
nhưng không rõ nguồn gốc chủ sở hữu; tài chuyển quyền sở hữu cho người mua, người
sản cơ quan thi hành án cưỡng chế kê biên thi nhận tài sản để thi hành án theo quy định
hành án, nhưng người bị kê biên cố tình của pháp luật”. Và khoản 3 điều này cũng
không giao nộp hoặc tiêu huỷ hồ sơ gốc của quy định hồ sơ chuyển quyền sở hữu gồm có:
tài sản này... Trong những trường hợp như a. Bản sao bản án, quyết định;
vậy, cơ quan thi hành án dân sự không thể b. Quyết định thi hành án, quyết định kê
nào đưa tài sản kê biên ra bán đấu giá với biên tài sản;
đầy đủ hồ sơ gốc. c. Văn bản bán đấu giá thành hoặc biên
Xin nêu một trường hợp cụ thể để minh bản giao nhận tài sản để thi hành án;
chứng: Trong một vi phạm an toàn giao d. Các giấy tờ khác liên quan đến tài sản
thông đường bộ, Quyết định phúc thẩm hình (nếu có).
sự cố 24/QĐPT ngày 25/01/2005 của toà phúc Như vậy, có thể nói, không chỉ riêng
thẩm toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đã trường hợp chiếc xe môtô được nêu ra làm ví
tuyên tiếp tục kê biên quy trữ xe môtô biển dụ trên đây, mà bất kỳ tài sản nào khác được
số 60H7 - 4678 của Lê Triệu Nhật Phi để bảo cơ quan thi hành án dân sự đưa ra bán đấu
đảm thi hành khoản tiền bồi thường cho giá (hoặc xử lý theo quy định của pháp luật)
người bị hại (kèm theo 01 giấy chứng nhận để thi hành án, thì hồ sơ cơ quan thi hành án
xe đứng tên Phạm Thị Kim Oanh). Trong quá dân sự cung cấp cho người mua hoặc người
trình xử lý bán chiếc xe môtô này để thi hành nhận tài sản để thi hành án (gồm các loại giấy
án, cơ quan thi hành án dân sự đã thực hiện tờ như trên) phải được coi như “hồ sơ gốc”.
T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266 259
Với hồ sơ này, người mua hoặc nhận tài sản thi hành án đang chấp hành hình phạt tù,
để thi hành án có quyền được đăng ký quyền không có tài sản; người phải thi hành án có
sở hữu tài sản của mình. Cơ quan có thẩm tài sản nhưng giá trị nhỏ không đáng kể để
quyền không được từ chối đăng ký cũng như thi hành án, hoặc chỉ có tài sản để kê biên,
cũng như không có quyền đòi hỏi thêm bất phát mãi nhưng không bán được, mà người
kỳ giấy tờ nào khác ngoài các giấy tờ được cơ được thi hành án không đồng ý nhận để trừ
quan thi hành án dân sự cung cấp theo quy vào số tiền được thi hành án và người phải
định của pháp luật. Trường hợp đăng ký thi hành án không còn tài sản nào khác.
sang tên trước bạ chiếc xe môtô nói trên, Người phải thi hành nghĩa vụ giao vật đặc
chúng tôi cho rằng, phòng Cảnh sát giao định mà vật đó đã mất, hư hỏng mà hai bên
thông Đồng Nai hướng dẫn đúng. không thoả thuận được về phương thức
Mỗi cơ quan trong hệ thống bộ máy nhà thanh toán...
nước đều được phân định chức năng, nhiệm
vụ rõ ràng cho nên sai ở khâu nào, người 2.3. Những bất cập từ các quy định về kê biên tài sản
nào, thì khâu đó, người đó phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật. Tác giả cho rằng việc 2.3.1. Về vấn đề định giá tài sản kê biên khi
chuyển giao quyền sở hữu cho người mua không bán được
hoặc nhận tài sản để thi hành án hay gặp Điều 48 Pháp lệnh THADS 2004 quy định
phải những vướng mắc như trên không phải về xử lý tài sản kê biên không bán được: “
vì cơ chế pháp lý còn thiếu hay không rõ Trong trường hợp tài sản kê biên không bán
ràng, mà vì chính một số cơ quan chức năng được... Cơ quan thi hành án tổ chức định giá
quá “ lo xa” sợ rằng cơ quan thi hành dân sự lại theo hướng giảm giá để tiếp tục bán đấu
không làm đúng pháp luật. Chính sự “lo xa” giá. Mỗi lần giảm giá không quá mười phần
không cần thiết này, đã làm cho trường hợp trăm đã định. Nếu sau hai lần giảm giá mà
người mua hoặc nhận tài sản do cơ quan thi tài sản vẫn không bán được thì người được
hành án giao gặp không ít khó khăn khi đăng thi hành án có quyền nhận tài sản theo giá đã
ký sang tên trước bạ. Đây cũng là một trong giảm để thi hành án. Nếu người được thi
những nguyên nhân ảnh hưởng làm hạn chế hành án không chấp nhận thì Chấp hành
kết quả thi hành án dân sự trong thời gian qua. viên trả lại tài sản cho người phải thi hành án
Mong rằng cơ quan thi hành án dân sự và áp dụng biện pháp cưỡng chế khác”.
nói riêng và ngành Tư pháp nói chung, cần Quy định như trên của Điều 48 là chưa
chủ động phối hợp với các cơ quan chức hợp lý, gây rất nhiều khó khăn cho công tác
năng liên quan để bàn bạc, trao đổi đi đến thi hành án, chúng tôi xin đưa ra ví dụ sau để
thống nhất hướng xử lý chung cho việc đăng minh chứng
ký quyền sở hữu cho người mua hoặc nhận Ví dụ: Tại Bản án dân sự phúc thẩm số
tài sản để thi hành án, tránh những vưỡng 117/DSPT ngày 13/9/2002 của Toà án nhân
mắc không cần thiết như hiện nay. dân tỉnh Bình Dương với nội dung buộc vợ
2.2.4. Người phải thi hành án không có khả chồng ông Võ Văn Lộc và Mai Ngọc Thu
năng để thi hành án phải trả cho bà Vương Thị Hiệp số tiền gốc
Người phải thi hành án không có tài sản, và lãi là 158.800.000 đồng. Ngày 21/5/2004, bà
thu nhập hợp pháp để thi hành án hoặc Hiệp làm đơn yêu cầu thi hành án và cơ quan
không xác định được nơi cư trú của đương thi hành án đã căn cứ bản án với nội dung
sự; đặc biệt đối với trường hợp người phải yêu cầu ra Quyết định thi hành án số
260 T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266
406/QĐ-TĐYC-THA ngày 24/5/2004 với nội Toàn bộ tài sản được định giá lần 2 là
dung như trên. Trong quá trình giải quyết 1.744.531.950 đồng. Ngày 08/04/2005, cơ quan
đôn đốc thi hành án, cơ quan thi hành án đã thi hành án và Trung tâm bán đấu giá tài sản
thuyết phục, động viên và cho thời hạn tự giao kết hợp đồng lần 2 và ra thông báo bán
nguyện, nhưng ông Lộc, bà Thu không tự đấu giá số 29 ngày 08/04/2005, nhưng vẫn
nguyện thi hành án. Qua xác minh cho thấy, không bán được. Ngày 14/6/2005, Trung tâm
ông Lộc, bà Thu có một số tài sản gồm: Tiền bán đấu giá tài sản có công văn gửi cơ quan
gửi tiết kiệm tại Chi nhánh Ngân hàng Nông thi hành án với nội dung không bán được tài
nghiệp và Phát triển Nông thôn là 50.000.000 sản và đề nghị định giá lại.
đồng và căn nhà diện tích xây dựng 351,3m2 Do gặp khó khăn trong việc đấu giá tài
gắn liền với quyền sử dụng đất 212,77m2, sản, nêu ngày 20/03/2006, cơ quan thi hành
ngoài ra không còn tài sản có giá trị nào khác. án đã phải giải thích và đề nghị bà Hiệp nhận
Cơ quan thi hành án đã ra Quyết định cưỡng tài sản để khấu trừ khoản phải thi hành án.
chế kê biên và thu được số tiền 50.000.000 Tuy nhiên, ngày 03/7/2006, bà Hiệp có đơn
đồng chi trả cho bà Hiệp. Số tiền còn phải thi khiếu nại gửi cơ quan thi hành án với nội
hành án là 108.800.000 đồng, cơ quan thi dung: “Người phải thi hành án có điều kiện
hành án ra quyết định kê biên nhà và quyền nhưng ngoan cố không chấp hành và cơ quan
sử dụng đất nêu trên. Tại biên bản định giá thi hành án thì lại vô tình làm ngơ, khiến cho
ngày 14/9/2004 xác định toàn bộ tài sản là bà bị thiệt thòi trong suốt thời gian qua…”.
1.892.373.400 đồng, cơ quan thi hành án uỷ Rõ ràng, việc xác định theo giá cả thị
quyền cho Trung tâm bán đấu giá không trường là vấn đề hết sức khó khăn và luôn
được, vì giá cao hơn giá khảo sát tại thị gây nhiều tranh cãi, cho nên, bên cạnh việc
trường. Ngày 29/10/2004, cơ quan thi hành án cơ quan nhà nước cần có khung giá phù hợp
gửi công văn đến Sở Tài chính đề nghị xác với giá cả thị trường và việc định giá phải
định lại giá trị quyền sử dụng đất với nội thấp hơn giá thị trường để làm cơ sở đưa ra
dung: “Theo khảo sát của trung tâm bán đấu giá khởi điểm, thì mới có thể thi hành được.
giá tài sản, thì tại tuyến đường Thủ Khoa Mặt khác, khi tài sản không thể bán được
Huân (nơi có tài sản), giá trị quyền sử dụng như trường hợp nêu trên, thì cho phép hội
đất chỉ có 2.000.000 đồng/m2, nhưng Hội đồng định giá lại tài sản xác định giá trị một
đồng lại định giá quyền sử dụng đất là cách phù hợp hơn. Theo tác giả, việc Điều 48
6.500.000 đồng/m2 là quá cao, không thể bán Pháp lệnh 2004 quy định mỗi lần giảm giá
được…”. Tại Công văn số 1589/TC-BG ngày không quá mười phần trăm là chưa phù hợp,
04/11/2004 của Sở Tài chính trả lời với nội nên nâng mức tỷ lệ giảm giá.
dung: “Giá đất do Hội đồng định giá tài sản 2.3.2. Về quy định bảo quản tài sản kê biên để
đã xác định là tương đương với giá thị thi hành án
trường. Hiện tại, ngành Tài chính đang dự Bảo quản tài sản kê biên thi hành án là
thảo bảng giá đất mới, trong đó, dự kiến đất một hoạt động của cá nhân hoặc tổ chức do
mặt tiền đường thủ Thủ Khoa Huân là pháp luật quy định, nhưng việc quyết định
6.700.000 đồng/m2. Do đó, Sở Tài chính giao tài sản kê biên thi hành án cho ai là
không nhất trí với đề nghị điều chỉnh giảm nhiệm vụ của Chấp hành viên thuộc cơ quan
giá đất theo đề nghị của cơ quan thi hành Thi hành án dân sự, điều này đã được pháp
án…”. luật về thi hành án dân sự quy định.
T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266 261
Tại Điều 32 Pháp lệnh THADS năm 1993 điều kiện thực tế (điều kiện của người được
quy định: giao bảo quản) và đảm bảo hiệu quả của việc
“1. Nếu người được thi hành án không thi hành án. Như vậy, so với quy định tại
đồng ý nhận tài sản kê biên để thi hành án, Điều 32 Pháp lệnh THADS năm 1993, điều
thì chấp hành viên giao tài sản đã kê biên cho luật này đã được sửa đổi theo hướng mở
người phải thi hành án, thân nhân của họ rộng hình thức giao bảo quản tài sản kê biên
hoặc người đang sử dụng tài sản đó bảo và quan trọng hơn là trao quyền lựa chọn các
quản… ”. hình thức giao bảo quản tài sản kê biên thi
Theo điều luật này, nếu người được thi hành án mà Pháp lệnh THADS năm 1993
hành án không đồng ý nhận tài sản đã kê chưa quy định.
biên để thi hành án thì việc giao bảo quản tài Trên thực tế, khi được lựa chọn các hình
sản kê biên để Chấp hành viên thi hành án thức giao bảo quản tài sản kê biên, Chấp
chỉ có một hình thức duy nhất là giao cho hành viên đã lựa chọn hình thức bảo quản
người phải thi hành án, thân nhân của họ (đối với tất cả các tài sản là động sản) tại kho
hoặc người đang sử dụng tài sản đó (trừ của Cơ quan thi hành án. Vì việc bảo quản tài
trường hợp tài sản là vàng, bạc, kim khí quý, sản tại kho Cơ quan thi hành án có nhiều
đá quý, ngoại tệ). Quy định này đã bộc lộ thuận lợi và thực sự đem lại hiệu quả trong
những bất cập trong công tác thi hành án dân công tác thi hành án dân sự, hạn chế được
sự đó là việc chấp hành viên giao cho người hiện tượng tẩu tán tài sản kê biên như trước
phải thi hành án hoặc thân nhân của họ quản đây. Đặc biệt đương sự đã thấy được sức
lý và bảo quản tài sản kê biên đã xảy ra các mạnh, quyền lực của nhà nước của Cơ quan
hiện tượng như: người phải thi hành án tìm thi hành án nói chung, của Chấp hành viên
mọi cách tẩu tán tài sản, cố tình trì hoãn hoặc nói riêng và thấy được tài sản của họ thực sự
chống đối lại việc thi hành án… gây nhiều bị “mất”. Từ đó buộc họ phải lựa chọn biện
khó khăn trong việc thi hành án và ảnh pháp thi hành có lợi cho họ, đó là việc tự
hưởng rất lớn đến hiệu quả công tác thi hành nguyện thi hành để họ sớm nhận lại tài sản
án dân sự. Để khắc phục tình trạng này, Pháp đang do Cơ quan thi hành án thu giữ. Tuy
lệnh THADS năm 2004 đã được sửa đổi tại nhiên, trên thực tế kho thi hành án của một
Điều 45 quy định cụ thể như sau: số Cơ quan thi hành án hiện nay chưa được
“Chấp hành viên lựa chọn một trong các xây dựng lại hoặc diện tích kho còn nhỏ hoặc
hình thức sau đây để bảo quản tài sản kê biên: chất lượng kho đã xuống cấp, không đảm
a) Giao cho người phải thi hành án, người bảo cho việc bảo quản các tài sản kê biên.
thân thích của họ hoặc người đang sử dụng Như vậy, có thể nói quy định này đã và
bảo quản; đang rất phù hợp với thực tiễn công tác thi
b) Giao cho cá nhân, tổ chức có điều kiện hành án dân sự, góp phần không nhỏ vào
bảo quản; thắng lợi của công tác thi hành án dân sự
c) Bảo quản tại kho của Cơ quan thi hành án”. trong toàn quốc.
Với nội dung điều luật này, Chấp hành Nhưng tại khoản 1 Điều 25 Nghị định số
viên có tới ba hình thức giao bảo quản tài sản 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 quy định về
kê biên thi hành án và hoàn toàn được quyền thủ tục, cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành
lựa chọn một trong ba hình thức quy định chính trong thi hành án dân sự quy định về
trên để giao bảo quản sao cho phù hợp với việc bảo quản tài sản thi hành án như sau:
262 T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266
“Cơ quan thi hành án thực hiện việc bảo bảo quản. Nhưng trên thực tế do tâm lý và
quản tài sản để thi hành án theo bản án, trình độ nhận thức của một số Chấp hành
quyết định không xác định người có trách viên, đặc biệt do thói quen áp dụng Điều 32
nhiệm bảo vệ tài sản thì việc bảo quản tài sản của pháp lệnh THADS năm 1993 cho nên một
được thực hiện như sau: số Chấp hành viên vẫn áp dụng Điều 25
a) Tài sản kê biên được giao cho người Nghị định số 173. Rõ ràng việc áp dụng quy
phải thi hành án, chủ sở hữu hoặc thân thích định về bảo quản tài sản kê biên thi hành án
của người đó bảo quản; vẫn chưa được thống nhất trong toàn quốc.
b) Nếu người phải thi hành án, người đang Mặt khác, Điều 25 Nghị định 173 không
sử dụng, quản lý tài sản, người thân thích của mang nội dung hướng dẫn thi hành mà còn
người phải thi hành án không nhận bảo quản trái ngược lại với tinh thần của Điều 45 Pháp
hoặc xét thấy có dấu hiệu tẩu tán, huỷ hoại tài lệnh THADS năm 2004. Đó chính là những
sản, cản trở việc thi hành án thì tuỳ từng bất cập trong quy định về bảo quản tài sản kê
trường hợp cụ thể tài sản kê biên được giao cho biên thi hành án hiện nay.
cá nhân, tổ chức có điều kiện bảo quản hay bảo Theo tác giả, khoản 1 Điều 25 Nghị định
quản tại kho của Cơ quan thi hành án”. 173 chỉ nên quy định đối với tài sản kê biên là
Theo điều luật này, quyền lựa chọn hình bất động sản thì sẽ hợp lý còn đối với tài sản
thức giao bảo quản tài sản kê biên để thi kê biên là động sản thì phương án bảo quản
hành án của Chấp hành viên đã bị hạn chế tại kho của Cơ quan thi hành án là khả thi
rất nhiều không đúng tinh thần của Điều 45 nhất và đem lại hiệu quả thi hành án cao
Pháp lệnh THADS năm 2004. Hạn chế ở chỗ nhất, ví dụ cụ thể như sau:
Chấp hành viên không được quyền lựa chọn Vụ án ly hôn giữa anh Nguyễn Đức M và
một trong ba hình thức giao bảo quản như chị Nguyễn Thị Thanh H của Toà án Nhân
như Điều 45 Pháp lệnh Thi hành án dân sự dân huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh tuyên:
năm 2004 quy định mà khi kê biên tài sản để “Anh M được sở hữu một xe máy Future và
thi hành án, trước hết, Chấp hành viên buộc một tivi Panasonic nhưng phải trả cho chị
phải “giao cho người phải thi hành án chủ sở Nguyễn Thị Thanh H số tiền là 5.900.000
hữu hoặc thân thích bảo quản đồng”. Hết thời gian tự nguyện, anh M
(theo điểm A Điều 25 Nghị định 173), nếu không tự nguyện chi trả cho chị H số tiền
chấp hành viên lựa chọn hình thức giao bảo 5.900.000 đồng. Chấp hành viên đã áp dụng
quản khác thì phải có những điều kiện nhất biện pháp cưỡng chế bằng biện pháp kê biên,
định như quy định tại điểm b, Điều 25 NĐ xử lý chiếc xe Future. Sau khi kê biên, Chấp
173. Như vậy, quyền lựa chọn hình thức giao hành viên quyết định đưa chiếc xe về kho
bảo quản tài sản kê biên của Chấp hành viên tang vật của Cơ quan thi hành án bảo quản,
theo quy định tại Điều 45 Pháp lệnh THADS xử lý. Ngay ngày hôm sau Nguyễn Đức M đã
năm 2004 rõ ràng không được thực hiện. Tuy đem đủ số tiền đến nộp tại cơ quan thi hành
nhiên, theo khoản 2 Điều 80 Luật Ban hành án để được nhận lại chiếc xe đã bị thu giữ.
văn bản quy phạm pháp luật quy định: Như vậy vụ án đã được thi hành xong trong
“Trong trường hợp các văn bản quy phạm thời gian ngắn nhất. Nếu Chấp hành viên áp
pháp luật có quy định khác nhau về cùng dụng khoản 1 Điều 25 Nghị định 173 sau khi
một vấn đề, thì áp dụng văn bản có hiệu lực kê biên chiếc xe lại giao cho anh Nguyễn Đức
pháp lý cao hơn” có nghĩa là Chấp hành viên M bảo quản thì quá trình hành án chắc chắn
được quyền áp dụng Điều 45 Pháp lệnh sẽ còn phải kéo dài theo các thủ tục như định
THADS năm 2004 để lựa chọn hình thức giao giá, bán đấu giá tài sản…
T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266 263
Từ những phân tích trên, để đảm bảo tính trạng pháp luật về thi hành án như là một
thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt nguyên nhân chính bên cạnh những nguyên
Nam, góp phần thúc đẩy công tác thi hành án nhân khác. Do đó, để nâng cao hiệu quả của
dân sự trong giai đoạn hiện nay, chúng tôi việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài
thiết nghĩ các nhà làm luật nên nghiên cứu, sản trước hết chúng ta cần phải hoàn thiện hệ
sửa đổi khoản 1 Điều 25 Nghị định thống pháp luật về thi hành án nói chung và
173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 cho phù hợp các quy định của pháp luật về cưỡng chế kê
với Điều 45 Pháp lệnh THADS năm 2004. biên tài sản nói riêng (ví dụ: xây dựng và ban
hành Bộ luật THADS, nghiên cứu triển khai
đề án Thừa phát lại), Luật thi hành án cần có
3. Khuyến nghị
sự đối chiếu các quy định về kê biên tài sản
giữa các văn bản này. Để khắc phục mâu
Từ những nghiên cứu về mặt lý luận
thuẫn giữa các văn bản, bổ sung những
cũng như việc đánh giá thực tiễn áp dụng
khoảng trống các quy định của từng văn bản
pháp luật, chỉ ra những vướng mắc, bất cập
cũng như giữa các văn bản với nhau...
trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê
Ngoài ra, cần quy kết trách nhiệm một
biên tài sản để thi hành án, chúng tôi xin kiến
cách rõ ràng với CHV tiến hành KBTS nhất là
nghị như sau:
trong việc xác minh tài sản của người phải thi
hành án, bởi không làm tốt việc này nó sẽ
3.1. Về cơ chế quản lý công tác thi hành án
ảnh hưởng tới các công việc tiếp theo của kê
Đổi mới cơ chế quản lý công tác thi hành biên, dẫn đến việc KBTS không đạt hiệu quả,
án, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hoặc đạt hiệu quả không cao.
hữu quan trong công tác thi hành án đặc biệt
là trong trường hợp cưỡng chế thi hành án. 3.3. Về thực hiện các quy định pháp luật cưỡng
Công tác thi hành án cần thống nhất về chế kê biên tài sản
một mối, bởi lẽ việc đổi mới cơ chế quản lý
Hiện nay, chúng ta đang xây dựng Nhà
công tác thi hành án hiện nay là một vấn đề
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì thế
có tính chiến lược, nằm trong quá trình cải
công việc thực hiện pháp luật đòi hỏi phải
cách tư pháp, cải cách hành chính. Việc đổi
bảo đảm pháp chế nghĩa là không những
mới cơ chế nhằm đảm bảo sự quản lý thống
tăng cường hoàn thiện hệ thống pháp luật
nhất về tổ chức, cơ chế hoạt động, công tác
mà còn đảm bảo cho pháp luật ấy đi vào cuộc
hướng dẫn chỉ đạo chuyên môn tập trung lực
sống cụ thể trong thi hành án để nâng cao
lượng cán bộ và chuyên môn hóa cán bộ,
hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp
tăng cường cơ sở vật chất là nhằm khắc phục
cưỡng chế. Trước hết cần phải có cơ chế phối
những vướng mắc, bất cập, tình trạng phân
hợp giữa các cơ quan thi hành án và các cơ
tán, xé lẻ trong hoạt động thi hành án, mà
quan chức năng khác trong công tác cưỡng
chúng tôi đã đề cập trong phần trên.
chế thi hành án nhằm đảm bảo tính khoa học
cũng như hiệu quả của công việc.
3.2. Về xây dựng pháp luật
Đồng thời, tăng cường công tác tuyên
Những tồn tại cơ bản của việc áp dụng truyền, giải thích pháp luật, thuyết phục
biện pháp cưỡng chế KBTS để thi hành án đương sự tự nguyện thi hành án và chỉ
được xem xét trong mối quan hệ với hiện cưỡng chế khi cần thiết.
Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản
để thi hành án dân sự và một số khuyến nghị
Trần Công Thịnh**
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
144 Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 01 tháng 12 năm 2008
Tóm tắt. Cưỡng chế kê biên tài sản (KBTS) nói riêng, thi hành án dân sự (THADS) nói chung là một
trong những hoạt động quan trọng, nhằm khôi phục và bảo vệ các quan hệ xã hội bị xâm hại. Do
đó, thi hành dứt điểm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật
nhưng được thi hành ngay trên thực tế có ý nghĩa đặc biệt trong việc đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.
Hiệu quả của việc cưỡng chế KBTS là cơ sở, tiền đề cho sự thành công và hiệu quả của một vụ thi
hành án về tài sản khi đương sự không tự nguyện thi hành. Song qua nghiên cứu về vấn đề này
chúng tôi thấy rằng trong quá trình áp dụng biện pháp cưỡng chế KBTS để thi hành án gặp rất
nhiều vướng mắc, nhiều nguyên nhân khác nhau gây cản trở cho việc cưỡng chế như: cơ chế quản
lý, hoạt động THADS còn chồng chéo; sự phối hợp giữa các cơ quan tổ chức trong việc cưỡng chế
còn chưa tốt; hay các nguyên nhân xuất phát trực tiếp từ các quy định của pháp luật về KBTS còn
chưa chặt chẽ, rõ ràng hoặc còn có thiếu sót.
Qua nghiên cứu, phân tích trên chúng tôi thấy rằng: cần đổi mới cơ chế quản lý hoạt động THADS;
tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong thi hành án đặc biệt là trong cưỡng
chế KBTS… Về mặt pháp luật, nên hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi hành án nói chung và các
quy định của pháp luật về cưỡng chế KBTS nói riêng như xây dựng và ban hành Bộ luật THADS,
nghiên cứu triển khai đề án Thừa phát lại.
Ngoài ra, chúng ta phải tăng cường năng lực, phẩm chất, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ chấp
hành viên (CHV); tích cực tuyên truyền phổ biến pháp luật về thi hành án để các đương sự tự
nguyện thỏa thuận thi hành và cơ quan thi hành án có thể tranh thủ được sự giúp đỡ, phối hợp của
cá nhân, tổ chức hữu quan trong suốt quá trình thi hành án. Chỉ như vậy mới tạo được điều kiện
thuận lợi cho KBTS và thi hành án sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
1. Những kết quả đạt được* xã hội bị xâm hại. Do đó, thi hành dứt điểm
các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
Cưỡng chế KBTS nói riêng, THADS nói luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng
chung là một trong những hoạt động quan được thi hành ngay trên thực tế có ý nghĩa
trọng, nhằm khôi phục và bảo vệ các quan hệ đặc biệt trong việc đảm bảo trật tự, an toàn
______ xã hội.
*
ĐT: 84-4-36367120. Để đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết
E-mail: [email protected] định, trong những năm qua Đảng, Nhà nước
254
T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266 255
đã quan tâm ban hành nhiều chủ trương, gắng trên, nhiều bản án, quyết định của Toà
chính sách và pháp luật, cũng như hỗ trợ và án đã được thi hành dứt điểm (Biểu số 1), bảo
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho công tác đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của nhà
THADS; các cơ quan quản lý THADS, cơ nước, của cơ quan, tổ chức và các cá nhân
quan THADS và toàn thể cán bộ, công chức công dân góp phần vào việc ổn định tình
ngành thi hành án đã nỗ lực phấn đấu để hình an ninh chính trị của đất nước, tạo tiền
nâng cao kết quả và hiệu quả của công tác thi đề cho sự phát triển của kinh tế - xã hội.
hành án dân sự. Nhờ có sự quan tâm và cố
Biểu số 1
Số Năm Số việc giải quyết Số việc thi hành Tỷ lệ giải quyết Tỷ lệ thi hành
TT xong ở thời điểm xong hoàn toàn ở xong/tổng số xong/số có
báo cáo thời điểm báo cáo phải thi hành điều kiện
1 2003 189.542 150740 35% 47%
2 2004 209.747 168022 39% 50%
3 2005 233.522 145468 42% 42%
4 2006 270.967 213218 45% 56%
5 2007 336.823 261197 52% 69%
Tuy nhiên bên cạnh kết quả đã đạt được, hội. Theo số liệu thống kê hàng năm thì số
thì vẫn còn không ít những bản án, quyết liệu các bản án, quyết định bị tồn lại (trong
định có hiệu lực thi hành nhưng chưa được đó các bản án, quyết định liên quan đến
tổ chức thi hành dứt điểm hoặc không thi cưỡng chế kê biên để thi hành án chiếm tỷ lệ
hành được, khiến cho quyền, lợi ích hợp không nhỏ) chưa được thi hành dứt điểm vào
pháp của một bộ phận quần chúng nhân dân các kỳ báo cáo hàng năm, mặc dù tỷ lệ có
không được đảm bảo, gây bức xúc trong xã giảm, nhưng vẫn còn cao.
Biểu số 2
Số TT Năm Tổng số việc phải thi Số lượng án chưa được giải quyết vào Tỷ lệ
hành của năm báo cáo thời điểm báo cáo hàng năm
1 2003 546.346 356.804 65.30%
2 2004 537.405 323.773 60.24%
3 2005 561.180 327.658 58.38%
4 2006 602.059 331.092 54.99%
5 2007 648.266 311.443 48.04%
Qua phân tích số lượng các vụ việc còn năm trước cộng dồn sang. Một điều đáng chú
tồn chuyển sang năm sau tiếp tục tổ chức thi ý là trong số tồn này có những việc tồn đã
hành (gọi tắt là việc tồn) trong 05 năm trở lại được thụ lý từ năm 1993 (thời điểm chuyển
đây (Biểu số 02) cho thấy, mặc dù số lượng giao công tác thi hành án từ Toà án sang cho
việc tồn đọng chuyển kỳ sau có lúc tăng lúc các cơ quan thuộc Chính phủ quản lý) đến
giảm. Nhưng thực tế số lượng việc tồn cần nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm.
phải giải quyết tính đến ngày 31/07/2007 vẫn Có nhiều lý do khách quan lẫn chủ quan
còn một số lượng lớn (311.443). Số lượng dẫn đến tình trạng pháp luật không được
những việc tồn này là số việc tồn của những chấp hành nghiêm chỉnh làm cho tồn đọng
256 T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266
án kéo dài không thi hành được. Tồn đọng án lòng tin của nhân dân vào các đường lối,
là mối quan tâm trăn trở của nhiều cấp, nhiều chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.
ngành, dư luận xã hội, nó ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập 2.2. Xuất phát từ nguyên nhân khách quan
thể và công dân [1].
2.2.1. Chế độ đãi ngộ đối với Chấp hành viên,
Sau đây, chúng ta xem xét cụ thể về
cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân
những vướng mắc trong quá trình áp dụng
sự chưa hợp lý
biện pháp cưỡng chế KBTS.
Trong những năm gần đây, tình trạng
chấp hành viên của cơ quan Thi hành án các
2. Những vướng mắc gặp phải trong quá nơi xin nghỉ việc cũng như muốn chuyển
trình áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên công tác khác có xu hướng gia tăng. Theo
tài sản để thi hành án thống kê sơ bộ, trong năm 2007, toàn ngành thi
hành án Thành phố Hồ Chí Minh có 19 người
xin nghỉ việc hoặc chuyển công tác khác; 02
2.1. Xuất phát từ nguyên nhân chủ quan
trưởng thi hành án quận huyện và nhiều chấp
Thứ nhất: Một bộ phận cán bộ, công chức hành viên xin thôi làm nhiệm vụ thi hành án để
làm công tác thi hành án dân sự có trình độ được làm công tác hành chính. Ngoài ra còn có
chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu của hàng chục cử nhân luật xin chấm dứt hợp đồng
nhiệm vụ trong tình hình mới. lao động trước thời hạn [2].
Thứ hai: Nhiều trường hợp Chấp hành Nhiều sinh viên cho biết họ không muốn
viên chưa thực sự tích cực, quyết liệt đối với làm ngành thi hành án vì ngoài mức lương
những vụ việc phức tạp, khó khăn; ngại khó, nhà nước cơ bản của cán bộ công chức không
ngại va chạm còn khoản nào khác nên không đủ sống.
Tại Điều 14 Pháp lệnh thi hành án dân sự Nhiều người tạm thời chấp nhận làm cán bộ,
năm 2004 đã quy định: “Chấp hành viên có chuyên viên thi hành án để chờ cơ hội học
trách nhiệm thi hành đúng nội dung bản án, nghề và sẵn sằng bỏ nghề để trở thành luật
sư hoặc tìm được công việc lương cao hơn.
quyết định dân sự, áp dụng đúng đắn các
Vừa qua Thi hành án Thành phố Hồ Chí
quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục
Minh muốn tổ chức thi tuyển 51 người
thi hành án đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp
nhưng lại không đủ số lượng dự tuyển theo
của nhà nước và đương sự...”. Đồng thời,
yêu cầu gấp đôi số cần tuyển (phải ít nhất là
Pháp lệnh Thi hành án dân sự cũng quy định 102 người) nên chưa thể tổ chức thi tuyển.
cho Chấp hành viên nhiều quyền năng để tổ Thậm chí cả khi Uỷ ban Nhân dân (UBND)
chức thi hành án, trong đó có quyền ra quyết thành phố chấp nhận cho tuyển cán bộ công
định cưỡng chế nói chung và cưỡng chế kê chức có hộ khẩu tạm trú dài hạn tại địa
biên tài sản nói riêng để thi hành án. Nhưng phương (KT3) nhưng vẫn không tuyển đủ số
trên thực tế, vẫn còn hiện tượng chấp hành lượng. Không có nhiều sinh viên luật tốt
viên chưa tích cực tổ chức thi hành án; ngại nghiệp muốn dự tuyển vì đặc trưng của
va chạm, nên không sử dụng các biện pháp ngành rất phức tạp và mang tính rủi ro cao.
mạnh để tổ chức thi hành dứt điểm bản án. 2.2.2. Người phải thi hành án chây ỳ, chống
Thứ ba: Vẫn còn trường hợp Chấp hành đối, cản trở việc thi hành án
viên gây sách nhiễu, vòi vĩnh đương sự, gây Qua thực tiễn tổ chức thi hành án dân sự
cản trở hoạt động thi hành án, làm xói mòn trong hơn 14 năm qua cho thấy, trong quá
T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266 257
trình thi hành án, quyền, lợi ích hợp pháp 2.2.3 Mối quan hệ phối hợp trong công tác thi
của các bên đương sự và những người có hành án
quyền, lợi ích liên quan trực tiếp bị ảnh Nhìn chung các cơ quan hữu quan tuy đã
hưởng, nhất là đối với những người phải thi thực hiện các quy định của pháp luật về việc
hành án. Lúc này các quyền về nhân thân (thi phối hợp hoặc trách nhiệm trong công tác
hành án buộc làm hoặc không được làm một
THADS. Nhưng cũng còn nhiều trường hợp
công việc), quyền về tài sản và tài sản (thi
quy định trên của pháp luật không được thực
hành nghĩa vụ về tài sản) của người phải thi
hiện đầy đủ như việc thực hiện không tốt
hành án đã trực tiếp bị tác động. Nếu họ
quyền yêu cầu hoãn, tạm đình chỉ thi hành
không tự nguyện thi hành nghĩa vụ, chấp
án. Trong thực tế, có nhiều trường hợp, sau
hành viên sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng
chế để buộc họ phải thực hiện theo đúng nội khi bản án, quyết định được tuyên, Toà án
dung bản án, quyết định của Toà án vì lợi ích chậm hoặc không chuyển giao cho cơ quan
của người được thi hành án. Do đó, trong thi hành án để thi hành, hoặc chuyển giao
giai đoạn này, người phải thi hành án thường bản án, nhưng không chuyển giao tang vật,
tìm mọi cách để trì hoãn, trốn tránh việc thi tài sản kèm theo, gây khó khăn cho việc thi
hành án, làm cho việc thi hành án trở nên hành án.
khó khăn, phức tạp, nhất là những trường Trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ của chính
hợp người phải thi hành án chưa thoả mãn quyền địa phương đặc biệt là UBND cấp xã
với kết quả giải quyết của Toà án và các cơ trong việc thi hành án trên thực tế thì sự phối
quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đó tỏ ra rất mờ nhạt từ phía UBND địa
Xin đưa ra đơn cử một ví dụ: Theo bản án số phương. Ngoài ra, công tác bảo vệ cưỡng chế
31/DSST ngày 21/04/2001 của Toà án nhân thi hành án có nơi chưa tốt, lực lượng cảnh
dân huyện H thì ông Nguyễn Ngọc H phải sát còn có thái độ ngần ngại, né tránh tham
trả lại cho ông Trần Hải Q 25m2 đất theo gia và còn có sự can thiệp yêu cầu hoãn thi
quyết định của bản án. hành án tùy tiện của một số chủ thể có
Sau nhiều lần động viên, thuyết phục quyền, dẫn đến ảnh hưởng không nhỏ tới
nhưng ông H vẫn không tự nguyện thi hành, hiệu quả của công tác THADS.
để thi hành dứt điểm bản án trên, cơ quan thi
Như vậy, việc phối hợp với các cơ quan
hành án huyện T đã lên kế hoạch chuẩn
thi hành án để thực hiện thi hành án đạt kết
cưỡng chế thi hành án đối với ông H. Khi cơ
quả cao là trách nhiệm của mọi chủ thể mà
quan thi hành án huyện T báo, người nhà
pháp luật đã quy định. Tuy nhiên, việc phối
ông H cho biết thời gian qua ông H thua cá
hợp giữa các cơ quan hữu quan đôi lúc đôi
độ phải vay nợ một số tiền lớn không có khả
năng trả được, nên bỏ đi, hiện không rõ địa nơi chưa được thật sự phối hợp một cách gắn
chỉ (ông H ly hôn vợ, do hai chồng sống với kết, nhịp nhàng và thống nhất. Chúng tôi xin
nhau lâu năm mà không có con, ngôi nhà đưa ra một ví dụ sau để minh họa:
hiện nay do Toà án giao cho ông H quản lý, Theo Pháp lệnh THADS 2004, cơ quan thi
sử dụng khi ly hôn vợ). hành án dân sự có thể uỷ quyền cho Trung
Việc tổ chức cưỡng chế phải dừng lại do tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc tự mình
người được thi hành án vắng mặt. Từ đó đến bán tài sản để thi hành án. Tài sản được bán
nay, gia đình ông H cũng không có tin tức gì đấu giá để thi hành án có thể là tang vật, tài
của ông. Vụ việc kéo dài đến nay vẫn chưa vật được tuyên tịch thu sung công ngay
giải quyết dứt điểm được. trong bản án, quyết định của Toà án; tài sản
258 T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266
do cơ quan thi hành án kê biên để đảm bảo đúng và đầy đủ các thủ tục do pháp luật quy
thi hành án... Người mua hoặc nhận tài sản định. Nhưng khi người mua được xe là ông
để thi hành án có thể là cá nhân, cơ quan Nguyễn Văn Quyền (165 Trần Cao Vân, thị
hoặc tổ chức... Khoản 1 Điều 49 Pháp lệnh xã Tam kỳ) đến phòng cảnh sát giao thông
THADS 2004 quy định: “Người mua được tài công an Tỉnh Đồng Nai, cơ quan thi hành án
sản thi hành án, người nhận tài sản để thi dân sự tỉnh Quảng Nam liên hệ làm việc với
hành án được pháp luật công nhận và bảo vệ phòng cảnh sát giao thông công an tỉnh Đồng
quyền sở hữu đối với tài sản đó”. Nai xin rút hồ sơ về để làm thủ tục trước bạ
Mặc dù pháp lệnh quy định rõ ràng như cho người mua thì bị cơ quan này từ chối và
vậy, nhưng trong thực tế, còn có nhiều hướng dẫn ngược lại rằng, phòng cảnh sát
trường hợp người mua hoặc nhận tài sản để giao thông công an tỉnh Quảng Nam phải
thi hành án đã gặp không ít khó khăn khi đi làm thủ tục sang tên trước bạ cho người mua
đăng ký quyền sở hữu tài sản của mình, trước, sau đó có công văn yêu cầu chuyển hồ
thường gặp nhất là trong các lĩnh vực nhà sơ để lưu thì phòng cảnh sát giao thông công
đất, ô tô, xe máy... Cơ quan chức năng khi an tỉnh Đồng Nai mới cho rút hồ sơ. Như vậy
thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu tài sản cùng một sự việc nhưng hai cơ quan cảnh sát
cho các trường hợp này thường yêu cầu giao thông ở hai tỉnh lại có hai cách giải quyết
người đi đăng ký phải xuất trình “ hồ sơ gốc” không giống nhau. Nơi này có yêu cầu hồ sơ
của tài sản đó mới cho đăng ký. Thực tế cho gốc mới cho trước bạ sang tên, nơi kia lại bảo
thấy không phải bất kỳ trường hợp nào tài trước bạ sang tên rồi mới cho rút hồ sơ gốc.
sản do cơ quan thi hành án đưa ra bán để thi Khoản 2 Điều 49 Pháp lệnh THADS năm
hành án cũng đều có đầy đủ hồ sơ gốc. Ví dụ 2004 quy định: “Cơ quan nhà nước có thẩm
như tài sản bị tuyên tịch thu sung công quyền có trách nhiệm thực hiện thủ tục
nhưng không rõ nguồn gốc chủ sở hữu; tài chuyển quyền sở hữu cho người mua, người
sản cơ quan thi hành án cưỡng chế kê biên thi nhận tài sản để thi hành án theo quy định
hành án, nhưng người bị kê biên cố tình của pháp luật”. Và khoản 3 điều này cũng
không giao nộp hoặc tiêu huỷ hồ sơ gốc của quy định hồ sơ chuyển quyền sở hữu gồm có:
tài sản này... Trong những trường hợp như a. Bản sao bản án, quyết định;
vậy, cơ quan thi hành án dân sự không thể b. Quyết định thi hành án, quyết định kê
nào đưa tài sản kê biên ra bán đấu giá với biên tài sản;
đầy đủ hồ sơ gốc. c. Văn bản bán đấu giá thành hoặc biên
Xin nêu một trường hợp cụ thể để minh bản giao nhận tài sản để thi hành án;
chứng: Trong một vi phạm an toàn giao d. Các giấy tờ khác liên quan đến tài sản
thông đường bộ, Quyết định phúc thẩm hình (nếu có).
sự cố 24/QĐPT ngày 25/01/2005 của toà phúc Như vậy, có thể nói, không chỉ riêng
thẩm toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đã trường hợp chiếc xe môtô được nêu ra làm ví
tuyên tiếp tục kê biên quy trữ xe môtô biển dụ trên đây, mà bất kỳ tài sản nào khác được
số 60H7 - 4678 của Lê Triệu Nhật Phi để bảo cơ quan thi hành án dân sự đưa ra bán đấu
đảm thi hành khoản tiền bồi thường cho giá (hoặc xử lý theo quy định của pháp luật)
người bị hại (kèm theo 01 giấy chứng nhận để thi hành án, thì hồ sơ cơ quan thi hành án
xe đứng tên Phạm Thị Kim Oanh). Trong quá dân sự cung cấp cho người mua hoặc người
trình xử lý bán chiếc xe môtô này để thi hành nhận tài sản để thi hành án (gồm các loại giấy
án, cơ quan thi hành án dân sự đã thực hiện tờ như trên) phải được coi như “hồ sơ gốc”.
T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266 259
Với hồ sơ này, người mua hoặc nhận tài sản thi hành án đang chấp hành hình phạt tù,
để thi hành án có quyền được đăng ký quyền không có tài sản; người phải thi hành án có
sở hữu tài sản của mình. Cơ quan có thẩm tài sản nhưng giá trị nhỏ không đáng kể để
quyền không được từ chối đăng ký cũng như thi hành án, hoặc chỉ có tài sản để kê biên,
cũng như không có quyền đòi hỏi thêm bất phát mãi nhưng không bán được, mà người
kỳ giấy tờ nào khác ngoài các giấy tờ được cơ được thi hành án không đồng ý nhận để trừ
quan thi hành án dân sự cung cấp theo quy vào số tiền được thi hành án và người phải
định của pháp luật. Trường hợp đăng ký thi hành án không còn tài sản nào khác.
sang tên trước bạ chiếc xe môtô nói trên, Người phải thi hành nghĩa vụ giao vật đặc
chúng tôi cho rằng, phòng Cảnh sát giao định mà vật đó đã mất, hư hỏng mà hai bên
thông Đồng Nai hướng dẫn đúng. không thoả thuận được về phương thức
Mỗi cơ quan trong hệ thống bộ máy nhà thanh toán...
nước đều được phân định chức năng, nhiệm
vụ rõ ràng cho nên sai ở khâu nào, người 2.3. Những bất cập từ các quy định về kê biên tài sản
nào, thì khâu đó, người đó phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật. Tác giả cho rằng việc 2.3.1. Về vấn đề định giá tài sản kê biên khi
chuyển giao quyền sở hữu cho người mua không bán được
hoặc nhận tài sản để thi hành án hay gặp Điều 48 Pháp lệnh THADS 2004 quy định
phải những vướng mắc như trên không phải về xử lý tài sản kê biên không bán được: “
vì cơ chế pháp lý còn thiếu hay không rõ Trong trường hợp tài sản kê biên không bán
ràng, mà vì chính một số cơ quan chức năng được... Cơ quan thi hành án tổ chức định giá
quá “ lo xa” sợ rằng cơ quan thi hành dân sự lại theo hướng giảm giá để tiếp tục bán đấu
không làm đúng pháp luật. Chính sự “lo xa” giá. Mỗi lần giảm giá không quá mười phần
không cần thiết này, đã làm cho trường hợp trăm đã định. Nếu sau hai lần giảm giá mà
người mua hoặc nhận tài sản do cơ quan thi tài sản vẫn không bán được thì người được
hành án giao gặp không ít khó khăn khi đăng thi hành án có quyền nhận tài sản theo giá đã
ký sang tên trước bạ. Đây cũng là một trong giảm để thi hành án. Nếu người được thi
những nguyên nhân ảnh hưởng làm hạn chế hành án không chấp nhận thì Chấp hành
kết quả thi hành án dân sự trong thời gian qua. viên trả lại tài sản cho người phải thi hành án
Mong rằng cơ quan thi hành án dân sự và áp dụng biện pháp cưỡng chế khác”.
nói riêng và ngành Tư pháp nói chung, cần Quy định như trên của Điều 48 là chưa
chủ động phối hợp với các cơ quan chức hợp lý, gây rất nhiều khó khăn cho công tác
năng liên quan để bàn bạc, trao đổi đi đến thi hành án, chúng tôi xin đưa ra ví dụ sau để
thống nhất hướng xử lý chung cho việc đăng minh chứng
ký quyền sở hữu cho người mua hoặc nhận Ví dụ: Tại Bản án dân sự phúc thẩm số
tài sản để thi hành án, tránh những vưỡng 117/DSPT ngày 13/9/2002 của Toà án nhân
mắc không cần thiết như hiện nay. dân tỉnh Bình Dương với nội dung buộc vợ
2.2.4. Người phải thi hành án không có khả chồng ông Võ Văn Lộc và Mai Ngọc Thu
năng để thi hành án phải trả cho bà Vương Thị Hiệp số tiền gốc
Người phải thi hành án không có tài sản, và lãi là 158.800.000 đồng. Ngày 21/5/2004, bà
thu nhập hợp pháp để thi hành án hoặc Hiệp làm đơn yêu cầu thi hành án và cơ quan
không xác định được nơi cư trú của đương thi hành án đã căn cứ bản án với nội dung
sự; đặc biệt đối với trường hợp người phải yêu cầu ra Quyết định thi hành án số
260 T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266
406/QĐ-TĐYC-THA ngày 24/5/2004 với nội Toàn bộ tài sản được định giá lần 2 là
dung như trên. Trong quá trình giải quyết 1.744.531.950 đồng. Ngày 08/04/2005, cơ quan
đôn đốc thi hành án, cơ quan thi hành án đã thi hành án và Trung tâm bán đấu giá tài sản
thuyết phục, động viên và cho thời hạn tự giao kết hợp đồng lần 2 và ra thông báo bán
nguyện, nhưng ông Lộc, bà Thu không tự đấu giá số 29 ngày 08/04/2005, nhưng vẫn
nguyện thi hành án. Qua xác minh cho thấy, không bán được. Ngày 14/6/2005, Trung tâm
ông Lộc, bà Thu có một số tài sản gồm: Tiền bán đấu giá tài sản có công văn gửi cơ quan
gửi tiết kiệm tại Chi nhánh Ngân hàng Nông thi hành án với nội dung không bán được tài
nghiệp và Phát triển Nông thôn là 50.000.000 sản và đề nghị định giá lại.
đồng và căn nhà diện tích xây dựng 351,3m2 Do gặp khó khăn trong việc đấu giá tài
gắn liền với quyền sử dụng đất 212,77m2, sản, nêu ngày 20/03/2006, cơ quan thi hành
ngoài ra không còn tài sản có giá trị nào khác. án đã phải giải thích và đề nghị bà Hiệp nhận
Cơ quan thi hành án đã ra Quyết định cưỡng tài sản để khấu trừ khoản phải thi hành án.
chế kê biên và thu được số tiền 50.000.000 Tuy nhiên, ngày 03/7/2006, bà Hiệp có đơn
đồng chi trả cho bà Hiệp. Số tiền còn phải thi khiếu nại gửi cơ quan thi hành án với nội
hành án là 108.800.000 đồng, cơ quan thi dung: “Người phải thi hành án có điều kiện
hành án ra quyết định kê biên nhà và quyền nhưng ngoan cố không chấp hành và cơ quan
sử dụng đất nêu trên. Tại biên bản định giá thi hành án thì lại vô tình làm ngơ, khiến cho
ngày 14/9/2004 xác định toàn bộ tài sản là bà bị thiệt thòi trong suốt thời gian qua…”.
1.892.373.400 đồng, cơ quan thi hành án uỷ Rõ ràng, việc xác định theo giá cả thị
quyền cho Trung tâm bán đấu giá không trường là vấn đề hết sức khó khăn và luôn
được, vì giá cao hơn giá khảo sát tại thị gây nhiều tranh cãi, cho nên, bên cạnh việc
trường. Ngày 29/10/2004, cơ quan thi hành án cơ quan nhà nước cần có khung giá phù hợp
gửi công văn đến Sở Tài chính đề nghị xác với giá cả thị trường và việc định giá phải
định lại giá trị quyền sử dụng đất với nội thấp hơn giá thị trường để làm cơ sở đưa ra
dung: “Theo khảo sát của trung tâm bán đấu giá khởi điểm, thì mới có thể thi hành được.
giá tài sản, thì tại tuyến đường Thủ Khoa Mặt khác, khi tài sản không thể bán được
Huân (nơi có tài sản), giá trị quyền sử dụng như trường hợp nêu trên, thì cho phép hội
đất chỉ có 2.000.000 đồng/m2, nhưng Hội đồng định giá lại tài sản xác định giá trị một
đồng lại định giá quyền sử dụng đất là cách phù hợp hơn. Theo tác giả, việc Điều 48
6.500.000 đồng/m2 là quá cao, không thể bán Pháp lệnh 2004 quy định mỗi lần giảm giá
được…”. Tại Công văn số 1589/TC-BG ngày không quá mười phần trăm là chưa phù hợp,
04/11/2004 của Sở Tài chính trả lời với nội nên nâng mức tỷ lệ giảm giá.
dung: “Giá đất do Hội đồng định giá tài sản 2.3.2. Về quy định bảo quản tài sản kê biên để
đã xác định là tương đương với giá thị thi hành án
trường. Hiện tại, ngành Tài chính đang dự Bảo quản tài sản kê biên thi hành án là
thảo bảng giá đất mới, trong đó, dự kiến đất một hoạt động của cá nhân hoặc tổ chức do
mặt tiền đường thủ Thủ Khoa Huân là pháp luật quy định, nhưng việc quyết định
6.700.000 đồng/m2. Do đó, Sở Tài chính giao tài sản kê biên thi hành án cho ai là
không nhất trí với đề nghị điều chỉnh giảm nhiệm vụ của Chấp hành viên thuộc cơ quan
giá đất theo đề nghị của cơ quan thi hành Thi hành án dân sự, điều này đã được pháp
án…”. luật về thi hành án dân sự quy định.
T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266 261
Tại Điều 32 Pháp lệnh THADS năm 1993 điều kiện thực tế (điều kiện của người được
quy định: giao bảo quản) và đảm bảo hiệu quả của việc
“1. Nếu người được thi hành án không thi hành án. Như vậy, so với quy định tại
đồng ý nhận tài sản kê biên để thi hành án, Điều 32 Pháp lệnh THADS năm 1993, điều
thì chấp hành viên giao tài sản đã kê biên cho luật này đã được sửa đổi theo hướng mở
người phải thi hành án, thân nhân của họ rộng hình thức giao bảo quản tài sản kê biên
hoặc người đang sử dụng tài sản đó bảo và quan trọng hơn là trao quyền lựa chọn các
quản… ”. hình thức giao bảo quản tài sản kê biên thi
Theo điều luật này, nếu người được thi hành án mà Pháp lệnh THADS năm 1993
hành án không đồng ý nhận tài sản đã kê chưa quy định.
biên để thi hành án thì việc giao bảo quản tài Trên thực tế, khi được lựa chọn các hình
sản kê biên để Chấp hành viên thi hành án thức giao bảo quản tài sản kê biên, Chấp
chỉ có một hình thức duy nhất là giao cho hành viên đã lựa chọn hình thức bảo quản
người phải thi hành án, thân nhân của họ (đối với tất cả các tài sản là động sản) tại kho
hoặc người đang sử dụng tài sản đó (trừ của Cơ quan thi hành án. Vì việc bảo quản tài
trường hợp tài sản là vàng, bạc, kim khí quý, sản tại kho Cơ quan thi hành án có nhiều
đá quý, ngoại tệ). Quy định này đã bộc lộ thuận lợi và thực sự đem lại hiệu quả trong
những bất cập trong công tác thi hành án dân công tác thi hành án dân sự, hạn chế được
sự đó là việc chấp hành viên giao cho người hiện tượng tẩu tán tài sản kê biên như trước
phải thi hành án hoặc thân nhân của họ quản đây. Đặc biệt đương sự đã thấy được sức
lý và bảo quản tài sản kê biên đã xảy ra các mạnh, quyền lực của nhà nước của Cơ quan
hiện tượng như: người phải thi hành án tìm thi hành án nói chung, của Chấp hành viên
mọi cách tẩu tán tài sản, cố tình trì hoãn hoặc nói riêng và thấy được tài sản của họ thực sự
chống đối lại việc thi hành án… gây nhiều bị “mất”. Từ đó buộc họ phải lựa chọn biện
khó khăn trong việc thi hành án và ảnh pháp thi hành có lợi cho họ, đó là việc tự
hưởng rất lớn đến hiệu quả công tác thi hành nguyện thi hành để họ sớm nhận lại tài sản
án dân sự. Để khắc phục tình trạng này, Pháp đang do Cơ quan thi hành án thu giữ. Tuy
lệnh THADS năm 2004 đã được sửa đổi tại nhiên, trên thực tế kho thi hành án của một
Điều 45 quy định cụ thể như sau: số Cơ quan thi hành án hiện nay chưa được
“Chấp hành viên lựa chọn một trong các xây dựng lại hoặc diện tích kho còn nhỏ hoặc
hình thức sau đây để bảo quản tài sản kê biên: chất lượng kho đã xuống cấp, không đảm
a) Giao cho người phải thi hành án, người bảo cho việc bảo quản các tài sản kê biên.
thân thích của họ hoặc người đang sử dụng Như vậy, có thể nói quy định này đã và
bảo quản; đang rất phù hợp với thực tiễn công tác thi
b) Giao cho cá nhân, tổ chức có điều kiện hành án dân sự, góp phần không nhỏ vào
bảo quản; thắng lợi của công tác thi hành án dân sự
c) Bảo quản tại kho của Cơ quan thi hành án”. trong toàn quốc.
Với nội dung điều luật này, Chấp hành Nhưng tại khoản 1 Điều 25 Nghị định số
viên có tới ba hình thức giao bảo quản tài sản 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 quy định về
kê biên thi hành án và hoàn toàn được quyền thủ tục, cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành
lựa chọn một trong ba hình thức quy định chính trong thi hành án dân sự quy định về
trên để giao bảo quản sao cho phù hợp với việc bảo quản tài sản thi hành án như sau:
262 T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266
“Cơ quan thi hành án thực hiện việc bảo bảo quản. Nhưng trên thực tế do tâm lý và
quản tài sản để thi hành án theo bản án, trình độ nhận thức của một số Chấp hành
quyết định không xác định người có trách viên, đặc biệt do thói quen áp dụng Điều 32
nhiệm bảo vệ tài sản thì việc bảo quản tài sản của pháp lệnh THADS năm 1993 cho nên một
được thực hiện như sau: số Chấp hành viên vẫn áp dụng Điều 25
a) Tài sản kê biên được giao cho người Nghị định số 173. Rõ ràng việc áp dụng quy
phải thi hành án, chủ sở hữu hoặc thân thích định về bảo quản tài sản kê biên thi hành án
của người đó bảo quản; vẫn chưa được thống nhất trong toàn quốc.
b) Nếu người phải thi hành án, người đang Mặt khác, Điều 25 Nghị định 173 không
sử dụng, quản lý tài sản, người thân thích của mang nội dung hướng dẫn thi hành mà còn
người phải thi hành án không nhận bảo quản trái ngược lại với tinh thần của Điều 45 Pháp
hoặc xét thấy có dấu hiệu tẩu tán, huỷ hoại tài lệnh THADS năm 2004. Đó chính là những
sản, cản trở việc thi hành án thì tuỳ từng bất cập trong quy định về bảo quản tài sản kê
trường hợp cụ thể tài sản kê biên được giao cho biên thi hành án hiện nay.
cá nhân, tổ chức có điều kiện bảo quản hay bảo Theo tác giả, khoản 1 Điều 25 Nghị định
quản tại kho của Cơ quan thi hành án”. 173 chỉ nên quy định đối với tài sản kê biên là
Theo điều luật này, quyền lựa chọn hình bất động sản thì sẽ hợp lý còn đối với tài sản
thức giao bảo quản tài sản kê biên để thi kê biên là động sản thì phương án bảo quản
hành án của Chấp hành viên đã bị hạn chế tại kho của Cơ quan thi hành án là khả thi
rất nhiều không đúng tinh thần của Điều 45 nhất và đem lại hiệu quả thi hành án cao
Pháp lệnh THADS năm 2004. Hạn chế ở chỗ nhất, ví dụ cụ thể như sau:
Chấp hành viên không được quyền lựa chọn Vụ án ly hôn giữa anh Nguyễn Đức M và
một trong ba hình thức giao bảo quản như chị Nguyễn Thị Thanh H của Toà án Nhân
như Điều 45 Pháp lệnh Thi hành án dân sự dân huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh tuyên:
năm 2004 quy định mà khi kê biên tài sản để “Anh M được sở hữu một xe máy Future và
thi hành án, trước hết, Chấp hành viên buộc một tivi Panasonic nhưng phải trả cho chị
phải “giao cho người phải thi hành án chủ sở Nguyễn Thị Thanh H số tiền là 5.900.000
hữu hoặc thân thích bảo quản đồng”. Hết thời gian tự nguyện, anh M
(theo điểm A Điều 25 Nghị định 173), nếu không tự nguyện chi trả cho chị H số tiền
chấp hành viên lựa chọn hình thức giao bảo 5.900.000 đồng. Chấp hành viên đã áp dụng
quản khác thì phải có những điều kiện nhất biện pháp cưỡng chế bằng biện pháp kê biên,
định như quy định tại điểm b, Điều 25 NĐ xử lý chiếc xe Future. Sau khi kê biên, Chấp
173. Như vậy, quyền lựa chọn hình thức giao hành viên quyết định đưa chiếc xe về kho
bảo quản tài sản kê biên của Chấp hành viên tang vật của Cơ quan thi hành án bảo quản,
theo quy định tại Điều 45 Pháp lệnh THADS xử lý. Ngay ngày hôm sau Nguyễn Đức M đã
năm 2004 rõ ràng không được thực hiện. Tuy đem đủ số tiền đến nộp tại cơ quan thi hành
nhiên, theo khoản 2 Điều 80 Luật Ban hành án để được nhận lại chiếc xe đã bị thu giữ.
văn bản quy phạm pháp luật quy định: Như vậy vụ án đã được thi hành xong trong
“Trong trường hợp các văn bản quy phạm thời gian ngắn nhất. Nếu Chấp hành viên áp
pháp luật có quy định khác nhau về cùng dụng khoản 1 Điều 25 Nghị định 173 sau khi
một vấn đề, thì áp dụng văn bản có hiệu lực kê biên chiếc xe lại giao cho anh Nguyễn Đức
pháp lý cao hơn” có nghĩa là Chấp hành viên M bảo quản thì quá trình hành án chắc chắn
được quyền áp dụng Điều 45 Pháp lệnh sẽ còn phải kéo dài theo các thủ tục như định
THADS năm 2004 để lựa chọn hình thức giao giá, bán đấu giá tài sản…
T.C. Thịnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266 263
Từ những phân tích trên, để đảm bảo tính trạng pháp luật về thi hành án như là một
thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt nguyên nhân chính bên cạnh những nguyên
Nam, góp phần thúc đẩy công tác thi hành án nhân khác. Do đó, để nâng cao hiệu quả của
dân sự trong giai đoạn hiện nay, chúng tôi việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài
thiết nghĩ các nhà làm luật nên nghiên cứu, sản trước hết chúng ta cần phải hoàn thiện hệ
sửa đổi khoản 1 Điều 25 Nghị định thống pháp luật về thi hành án nói chung và
173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 cho phù hợp các quy định của pháp luật về cưỡng chế kê
với Điều 45 Pháp lệnh THADS năm 2004. biên tài sản nói riêng (ví dụ: xây dựng và ban
hành Bộ luật THADS, nghiên cứu triển khai
đề án Thừa phát lại), Luật thi hành án cần có
3. Khuyến nghị
sự đối chiếu các quy định về kê biên tài sản
giữa các văn bản này. Để khắc phục mâu
Từ những nghiên cứu về mặt lý luận
thuẫn giữa các văn bản, bổ sung những
cũng như việc đánh giá thực tiễn áp dụng
khoảng trống các quy định của từng văn bản
pháp luật, chỉ ra những vướng mắc, bất cập
cũng như giữa các văn bản với nhau...
trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê
Ngoài ra, cần quy kết trách nhiệm một
biên tài sản để thi hành án, chúng tôi xin kiến
cách rõ ràng với CHV tiến hành KBTS nhất là
nghị như sau:
trong việc xác minh tài sản của người phải thi
hành án, bởi không làm tốt việc này nó sẽ
3.1. Về cơ chế quản lý công tác thi hành án
ảnh hưởng tới các công việc tiếp theo của kê
Đổi mới cơ chế quản lý công tác thi hành biên, dẫn đến việc KBTS không đạt hiệu quả,
án, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hoặc đạt hiệu quả không cao.
hữu quan trong công tác thi hành án đặc biệt
là trong trường hợp cưỡng chế thi hành án. 3.3. Về thực hiện các quy định pháp luật cưỡng
Công tác thi hành án cần thống nhất về chế kê biên tài sản
một mối, bởi lẽ việc đổi mới cơ chế quản lý
Hiện nay, chúng ta đang xây dựng Nhà
công tác thi hành án hiện nay là một vấn đề
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì thế
có tính chiến lược, nằm trong quá trình cải
công việc thực hiện pháp luật đòi hỏi phải
cách tư pháp, cải cách hành chính. Việc đổi
bảo đảm pháp chế nghĩa là không những
mới cơ chế nhằm đảm bảo sự quản lý thống
tăng cường hoàn thiện hệ thống pháp luật
nhất về tổ chức, cơ chế hoạt động, công tác
mà còn đảm bảo cho pháp luật ấy đi vào cuộc
hướng dẫn chỉ đạo chuyên môn tập trung lực
sống cụ thể trong thi hành án để nâng cao
lượng cán bộ và chuyên môn hóa cán bộ,
hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp
tăng cường cơ sở vật chất là nhằm khắc phục
cưỡng chế. Trước hết cần phải có cơ chế phối
những vướng mắc, bất cập, tình trạng phân
hợp giữa các cơ quan thi hành án và các cơ
tán, xé lẻ trong hoạt động thi hành án, mà
quan chức năng khác trong công tác cưỡng
chúng tôi đã đề cập trong phần trên.
chế thi hành án nhằm đảm bảo tính khoa học
cũng như hiệu quả của công việc.
3.2. Về xây dựng pháp luật
Đồng thời, tăng cường công tác tuyên
Những tồn tại cơ bản của việc áp dụng truyền, giải thích pháp luật, thuyết phục
biện pháp cưỡng chế KBTS để thi hành án đương sự tự nguyện thi hành án và chỉ
được xem xét trong mối quan hệ với hiện cưỡng chế khi cần thiết.