Tác động của các nhân tố lên giá chứng khoán
- 63 trang
- file .pdf
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
----------
PHẠM NGỌC TÀI
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ
LÊN GIÁ CHỨNG KHOÁN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
----------
PHẠM NGỌC TÀI
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ LÊN
GIÁ CHỨNG KHOÁN
Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS BÙI HỮU PHƯỚC
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2012
LỜI CÁM ƠN
♥♥♥♥♥♥♥♥
Để hoàn thành bài nghiên cứu này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ phía
thầy cô bạn bè và cả gia đình tôi. Và lời đầu tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến
thầy Bùi Hữu Phước đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong việc nghiên cứu cũng như góp ý
để bài nghiên cứu này hoàn thiện hơn.
Bên cạnh đó tôi cũng xin được cám ơn các bạn bè đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong
việc cung cấp tài liệu cũng như hỗ trợ, đóng góp ý kiến cho tôi trong suốt quá trình
làm luận văn. Cám ơn các thầy cô đã tận tình truyền thụ các kiến thức giúp tôi thêm
vững vàng trong cuộc sống cũng như công việc.
Lời cuối cùng tôi xin được cám ơn gia đình tôi đã tạo điều kiện thuận lợi nhất để
tôi học tập và hoàn tất luận văn nghiên cứu này.
LỜI CAM ĐOAN
♥♥♥♥♥♥♥♥
Tôi xin cam đoan rằng đay là công trình nghiên cứu của tôi với sự giúp đỡ của
thầy hướng dẫn cũng như sự giúp đỡ của bạn bè, thầy cô và gia đình tôi. Số liệu
thống kê và kết quả nghiên cứu bài luận văn này chưa từng được công bố trong bất
cứ công trình nào cho tới thời điểm hiện nay.
TP.HCM, ngày 09 tháng 11 năm 2012
Tác giả
Phạm Ngọc Tài
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
Tp. HCM, ngày …… tháng …… năm 2012
Giáo viên hướng dẫn
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
Tp. HCM, ngày …… tháng …… năm 2012
Hội đồng xét duyệt
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TTCK: Thị trường chứng khoán
HOSE : Sở Giao Dịch Chứng Khoán Tp.Hồ Chí Minh
HNX : Sở Giao Dịch Chứng Khoán Hà Nội
NĐT: Nhà đầu tư
TSSL: Tỷ suất sinh lợi của chứng khoán
CSG: Chỉ số giá chứng khoán
ADF: Augmented Dickey-Fuller
CPI: Chỉ số giá tiêu dùng
VAR: Vector Autoregression model
GOS: Tổng cục thống kê Việt Nam
SBV: Ngân hàng nhà nước Việt Nam
BVSC: công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt
IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế
IPI: Chỉ số sản xuất công nghiệp
USD: đô la Mỹ
VN: Việt Nam
VND: Việt Nam đồng
AIC: Akaike Info Criteria
SIC : Schwarz information criterion
LM Test : Residual Serial Correlation LM Tests
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 4.1: Tổng hợp các biến sử dụng trong nghiên cứu
Bảng 4.2: Tổng hợp các biến sử dụng trong mô hình
Bảng 5.1: Thống kê mô tả các biến được sử dụng trong nghiên cứu
Bảng 5.2: Kết quả kiểm định Unit root ADF
Bảng 5.3: Xác định độ trễ tối ưu
Bảng 5.4: Kết quả kiểm định LM Test
Bảng 5.5: Kết quả kiểm tra đồng liên kết cho từng cặp biến
Bảng 5.6: Kết quả kiểm định đồng liên kết Johansen-Juselius
Bảng 5.7: Phương trình đồng liên kết, cân bằng trong dài hạn
Bảng 5.8: Kết quả kiểm định nhân quả Granger
Bảng 5.9: Kết quả hồi quy theo VAR giữa các biến vĩ mô và VN-index
Bảng 5.10: Tóm tắt phương trình hồi quy giữa các biến vĩ mô và VN-index
Bảng 5.11: Phân rã phương sai thay đổi VN-index
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1: Diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam và ảnh hưởng các yếu tố vĩ mô
từ năm 2007- nay
Hình 3.1: Biến động nhân tố chỉ số sản xuất công nghiệp và chỉ số VN-index
Hình 3.2: Biến động nhân tố chỉ số giá tiêu dùng và chỉ số VN-index
Hình 3.3: Biến động nhân tố cung tiền và chỉ số VN-index
Hình 3.4: Biến động nhân tố tỷ giá hối đoái và chỉ số VN-index
Hình 3.5: Biến động nhân tố lãi suất và chỉ số VN-index
Hình 3.6: Biến động nhân tố giá dầu và chỉ số VN-index
Hình 3.7: Biến động nhân tố chỉ số chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương MSCI EM
và chỉ số VN-index
Hình 5.1: Kiểm định Variance Decomposition
10
TÓM TẮT
Đã có rất nhiều bài nghiên cứu về tác động của các nhân tố vĩ mô lên giá chứng
khoán ở các thị trường trên thế giới. Từ những nghiên mở đầu của việc ứng dụng
mô hình Arbitrage Pricing Theory (APT) của Chen, N. và cộng sự (1986) tại thị
trường Mỹ. Các nghiên cứu đã dần mở rộng ra ở các thị trường khác nhau: thị
trường các nước phát triển, thị trường các nước đang phát triển và cả thị trường các
nước mới nổi. Và bài nghiên cứu này cũng nhằm tìm kiếm thêm một minh chứng
thực nghiệm tại một thị trường mới nổi là Việt Nam về mối tương quan giữa 7 biến
vĩ mô là các biến: chỉ tiêu hoạt động kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng, cung tiền, giá dầu,
tỷ giá, lãi suất, chỉ số MSCI Châu Á Thái Bình Dương với biến CSG chứng khoán
VN-index. Tầng suất lấy dữ liệu theo tháng và thời gian thực hiện nghiên cứu là từ
tháng 12/2006-7/2012. Bằng việc sử dụng mô hình hồi qui Vector autoregression
(VAR) đã cho chúng ta kết quả là biến CSG VN-index chịu ảnh hưởng bới các nhân
tố độ trễ CSG VN-index, giá dầu thô – OIL, chỉ số MSCI Châu Á Thái Bình
Dương- MSCI, lãi suất – IR, chỉ số lạm phát – CPI. Và CSG VN-Index chỉ tác động
đến chỉ số lạm phát. Bằng kiểm định phân rã phương sai (Variance Decomposition)
cho chúng ta kết quả là trong cả ngắn hạn và dài hạn thì biến động của CSG VN-
index được giải thích chủ yếu là biến động của chính bản thân. Kết quả của hàm
phản ứng đẩy(Impulse Response Function) cho chúng ta thấy rằng CSG VN-index
phản ứng trong ngắn hạn cùng chiều với cú sốc của dầu lửa, lãi suất và tỷ giá và
phản ứng trái chiều với cú sốc chỉ số sản xuất công nghiệp, chỉ số giá tiêu dùng.
11
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ LÊN GIÁ CHỨNG
KHOÁN
1. GIỚI THIỆU
Với 12 năm hoạt động từ khi thành lập đến nay, thị trường chứng khoán Việt
Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Từ lúc ban đầu chỉ có 2 công ty niêm yết
trên sàn HOSE thì tính đến cuối quí II năm 2012 thì có 715 công ty đang niêm yết
tại 2 sàn. Thị trường chứng khoán trở thành một trong những kênh huy động vốn
ngày càng quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là các công ty niêm yết trên các sàn
HOSE, HNX và cả UPCOM. Ngoài ra, thị trường chứng khoán cũng là một công cụ
giúp cho các nhà hoạch định chiến lược thực hiện các chính sách kinh tế tài chính,
điều tiết nền kinh tế theo đúng định hướng mục tiêu kinh tế của từng thời kì.
Mối tương quan giữa nền kinh tế và thị trường vốn ngày càng mật thiết, trong đó
các yếu tố vĩ mô được xem là “nút thắt” đối với dòng tiền vào ra thị trường chứng
khoán. Trong thực tế năm 2008 cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ảnh hưởng đến
nền kinh tế Việt Nam, lãi suất cho vay tăng lên mức kỷ lục gần 24%, lạm phát (yoy)
tháng 6 đạt mức 19.87%, thị trường chứng khoán giảm 65.7% cùng với sự sụt giảm
dòng tiền thị trường khi giá trị giao dịch có lúc chỉ đạt hơn 200 tỷ đồng. Năm 2009,
nền kinh tế thế giới phục hồi khi chính phủ các nước thực hiện các gói kích cầu,
lượng cung tiền gia tăng giúp thị trường chứng khoán phục hồi 57.9%. Năm 2011,
nền kinh tế thế giới trở nên bất ổn với vấn đề nợ công Châu Âu, giá hàng hóa thế
giới tăng mạnh, giá vàng đạt đỉnh hơn 1.950 USD/oz, cùng các biện pháp thắt chặt
tiền tệ kiềm chế lạm phát, thị trường chứng khoán sụt giảm 27.66%. Tiếp tục những
khó khăng do khủng hoảng nợ công ở Châu Âu trong những tháng đầu năm 2012,
tuy cả năm kế hoạch đề ra là tăng tín dụng khoảng 15-17%, nhưng thực tế 6
tháng đầu năm không tăng, mà cho đến tháng 5 vẫn còn âm so với cuối năm
2011, lợi nhuận của một số ngân hàng giảm, nhiều chi nhánh ngân hàng báo lỗ. Ở
các doanh nghiệp sản xuất thì hàng tồn kho tăng mạnh trong khi đó sức mua giảm
sút trên thị trường. Tất cả những khó khăn đó cũng đã tác động mạnh đến thị trường
12
chứng khoán Việt Nam trong tháng 5, tháng 6 với mức giảm hơn 20% so với đầu
năm.
Nguồn: Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh và tổng hợp
Hình 1.1: Diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam và ảnh hưởng
các yếu tố vĩ mô từ năm 2007- nay
Từ những quan sát thực tiễn và đã có rất nhiều bài nghiên cứu trên thế giới đã
chỉ ra rằng có mối tương quan giữa các biến số vĩ mô và TTCK. Các nghiên cứu của
Chen, N. và cộng sự (1986) ở các nước đã phát triển đã thấy các nhân tố sản lượng
công nghiệp, lạm phát, lãi suất, cung tiền có một ý nghĩa quan trọng giải thích giá
cổ phiếu. Trong khi đó các nghiên cứu của Menike, L. (2006) ở Sri Lanka đã cho
thấy rằng 27/34 công ty được chọn đã có được khả năng giải thích cao ( R 2 lớn hơn
50%) bởi tác động của 4 nhân tố vĩ mô (cung tiền, tỷ giá, lạm phát, lãi suất) lên giá
cổ phiếu. Mohammad, D. và cộng sự (2009); Thaker, M., và cộng sự (2009) đã tìm
thấy một mối tương quan mạnh trong biến tỷ giá với giá chứng khoán ở Karachi
Stock Exchange Pakistan và Kuala Lumpur Malaysia. Các nhân tố vĩ mô ở các quốc
gia các vùng miền khác nhau sẽ có nhưng ảnh hưởng khác nhau lên thị trường
chứng khoán. Vậy liệu ở Việt Nam thì các nhân tố vĩ mô có ảnh hưởng đến giá
13
chứng khoán hay không? Các ảnh hưởng này có mối tương quan có giống như ở các
quốc gia đã phát triển và đang phát triển không? Đó là lý do đề tài “ Tác động của
các nhân tố lên giá chứng khoán” ra đời nhằm đóng góp thêm những luận cứ mới ở
một quốc gia mới nổi như Việt Nam. Đồng thời nó cũng giúp cho các NĐT và nhà
phân tích có những nhận định tốt hơn khi có các thay đổi trong chính sách vĩ mô.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
3.1 Mục tiêu tổng quát
Tìm kiếm minh chứng thực tiễn về sự ảnh hưởng của một số nhân tố vĩ mô (trong nước
và ngoài nước) tới CSG VN-index tại Sở Giao Dịch Chứng khoán TP HCM.
3.2 Mục tiêu cụ thể
Xác định các nhân tố vĩ mô ảnh hưởng đến CSG VN-index.
Xác định các mối quan hệ nhân quả giữa CSG VN-index với các nhân tố vĩ mô.
Phản ứng của CSG VN-index và các nhân tố vĩ mô khi có một cú sốc ảnh hưởng.
3.3 Câu hỏi nghiên cứu :
Bài nghiên cứu nhằm mục tiêu tìm kiếm câu trả lời cho 2 câu hỏi chính là:
- Có hay không mối tương quan giữa các yếu tố vĩ mô: chỉ tiêu hoạt động
kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng, cung tiền, giá dầu, tỷ giá, lãi suất, chỉ số
MSCI Châu Á Thái Bình Dương và CSG VN-index trên sở giao dịch
chứng khoán TP Hồ Chí Minh?
- Nhân tố CSG VN-index sẽ phản ứng như thế nào trước các cú sốc của 7
nhân tố vĩ mô chỉ tiêu hoạt động kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng, cung tiền, giá
dầu, tỷ giá, lãi suất, chỉ số MSCI Châu Á Thái Bình Dương?
3.4 Phạm vi nghiên cứu:
Luận án nghiên cứu sử dụng chỉ số giá VN-index của Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ
Chí Minh làm đại diện cho giá chứng khoán của toàn bộ công ty niêm yết tại sàn HOSE.
Các nhân tố nghiên cứu tác động đến CSG VN-index là các nhân tố vĩ mô:
- Trong nước:
Chỉ tiêu hoạt động kinh tế: được đo lường thông qua chỉ số sản xuất công
nghiệp (đã điều chỉnh lạm phát);
Thay đổi chỉ số giá tiêu dùng CPI đại diện cho chỉ số lạm phát;
14
Tăng trưởng cung tiền M2;
Thay đổi tỷ giá;
Thay đổi trong lãi suất.
- Thế giới:
Giá dầu thô thế giới;
Chỉ số MSCI Châu Á Thái Bình Dương.
- Phạm vi thời gian nghiên cứu từ tháng 12/2006 đến tháng 07/2012.
3.5 Bố cục luận văn:
Phần 1: Giới thiệu nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu và phạm
vi nghiên cứu.
Phần 2:
- Tổng hợp các nghiên cứu trước về mối tương quan giữa các nhân tố vĩ mô
và CSG ở các thị trường khác trên thế giới và Việt Nam nhằm hỗ trợ nền
tảng lý thuyết cho nghiên cứu.
- Phân tích biến động các nhân tố vĩ mô tác động lên CSG VN-index bằng
phương pháp mô phỏng đồ thị.
Phần 3: Mô tả dữ liệu được sử dụng và các phương pháp nghiên cứu sẽ được áp
dụng.
Phần 4: Kết quả nghiên cứu.
Phần 5: Kết luận nghiên cứu và kiến nghị.
15
3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN:
3.1. Tác động của các nhân tố vĩ mô lên giá chứng khoán
3.1.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp IPI và giá chứng khoán :
Chỉ số sản xuất công nghiệp đại diện cho hoạt động kinh tế. Lý thuyết cho rằng
chỉ số sản xuất công nghiệp gia tăng trong giai đoạn nền kinh tế đang tăng trưởng
và chỉ số sản xuất công nghiệp giảm suốt thời gian kinh tế suy thoái, do đó sự thay
đổi trong chỉ số sản xuất công nghiệp là dấu hiệu sự thay đổi nền kinh tế. Và các
phát hiện của nghiên cứu thực nghiệm của Husainey, K. và Le Khanh Ngoc (2009) và
Tunah, H. (2010) đã chứng minh rằng có một mối quan hệ đồng biến giữa các biến
kinh tế thực và giá cả chứng khoán.
3.1.2. Chỉ số giá tiêu dùng CPI và giá chứng khoán :
Chỉ số giá tiêu dùng CPI được sử dụng như là đại lượng đại diện cho lạm phát.
Nhìn về mặt tổng thể thì chúng ta vẫn thấy mối tương quan nghịch giữa giá chứng
khoán và chỉ số giá tiêu dùng CPI. TTCK sẽ hoạt động mạnh dưới hai điều kiện:
tăng trưởng kinh tế cao và lạm phát thấp. Nhưng nếu nền kinh tế phát triển mà lạm
phát tăng cao thì chưa chắc đã là tốt. Khi mối nguy lạm phát tăng cao, các nhà phân
tích đầu tư sẽ nghi ngờ về sự thịnh vượng của nền kinh tế hay các báo cáo tăng
trưởng việc làm. Lý do là họ lo sợ rằng dường như đang có một sự bùng nổ lạm
phát, một sự phát triển giả tạo đã được tạo nên bởi việc dễ dãi trong tín dụng của
chính quyền, do chính phủ chấp nhận một mức thâm hụt ngân sách cao hơn và mở
rộng cung tiền. Mối quan hệ thực sự của lạm phát và giá cổ phiếu luôn là một câu
hỏi thực nghiệm hóc búa và mối quan hệ này sẽ thay đổi theo thời gian và đặc điểm
của các quốc gia trong các giai đoạn này.
Các nghiên cứu của các tác giả cũng đã cho thấy sự phức tạp của mối quan hệ này:
quan hệ nghịch biến với nghiên cứu thực nghiệm của tác giả Menike, L. (2006). Và qua kết
quả nghiên cứu tác giả nhận thấy rằng một khi nhân tố lãi suất trái phiếu Chính phủ có dấu
hiệu tăng lên thì các NĐT sẽ có xu hướng thoát khỏi thị trường, và điều này làm cho giá
chứng khoán giảm. Còn về biến độ trễ lạm phát không phải là một nhân tố thể hiện sự dự
báo tốt cho sự thay đổi giá chứng khoán trong mô hình của ông lựa chọn. Tuy nhiên một
kết quả ngược lại: Thaker, M. và cộng sự (2009) nhận thấy rằng chỉ số lạm phát thì có
16
tương quan dương với giá chứng khoán cả trước và sau khủng hoảng. Trong khi Kandir, S.
(2008) thì cho thấy rằng nhân tố lạm phát tác động ( tương quan dương) lên tất cả các danh
mục mà ông khảo sát.
3.1.3. Cung tiền M2 và giá chứng khoán :
Lý thuyết danh mục tiền tệ cho rằng sự thay đổi cung tiền sẽ ảnh hưởng đến giá
của các tài sản trong danh mục đầu tư. Nếu cung tiền mở rộng, nó sẽ dẫn đến một sự
gia tăng trong tiêu dùng hàng hóa cũng như làm gia tăng việc sử dụng các tài sản tài
chính mà chứng khoán là một trong số đó. Khi cung tiền tăng, thanh khoản vượt trội
sẽ ảnh hưởng đến TTCK khá mạnh do tác động của chính sách tiền tệ tương đối
nhanh và trực tiếp. Chính sách mở rộng tiền tệ làm giảm lãi suất của nền kinh tế tế,
làm giảm lãi suất chiết khấu của chứng khoán qua đó làm tăng giá kỳ vọng và tăng
thu nhập. Nhận định này cũng tương đồng với nghiên cứu của Bilson, C. và cộng sự
(2001). Trong bài nghiên cứu này Bilson, C. và cộng sự đã sử dụng kết hợp giữa mô hình
các nhân tố trong nước và quốc tế. Và trong cả 2 mô hình ông đều nhận thấy biến cung tiền
có khả năng giải thích rất tốt, đặc biệt khi sử dụng mô hình có độ trễ. Và Tunah, H. (2010)
sử dụng mô hình VAR cũng tìm thấy một kết quả tương tự ở thị trường Turkish Stock
Exchange – Thổ Nhĩ Kì.
3.1.4. Tỷ giá và giá chứng khoán :
Kiến thức về những yếu tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán và tỷ giá đã thu hút
nhiều sự quan tâm của nhiều nhà kinh tế học, các nhà làm chính sách và cộng đồng
đầu tư trong một thời gian dài. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa hiện nay, có rất ít các
rào cản dòng vốn, do đó tạo nhiều cơ hội đầu tư cho các tập đoàn đa quốc gia.
Doanh nghiệp nào hoạt động cũng có khả năng phải chịu ba rủi ro là: độ nhạy cảm
kinh tế, nhạy cảm chuyển đổi, và nhạy cảm giao dịch đối với rủi ro tỷ giá. Điều này,
đã tạo ra một nhu cầu tìm hiểu mối quan hệ giữa tỷ giá và giá chứng khoán để
phòng ngừa cho rủi ro danh mục. Phần lớn các tài liệu xem xét mối quan hệ giữa giá
chứng khoán và tỷ giá ở các nước đang phát triển và đã phát triển. Trong các nghiên
cứu đó thì tác giả Menike (2006); Kandir (2008); Bilson và cộng sự (2010) đều tìm
thấy quan hệ nghịch biến giữa 2 biến này ở các thị trường mà họ nghiên cứu. Tuy
nhiên bên cạnh đó Thaker, M. và cộng sự (2009) thì lại tìm thấy một mối quan hệ phức tạp:
17
một tương quan âm trước khủng hoảng (1987-1995) nhưng lại có tương quan dương ở sau
khủng hoảng(1999-2007) tại Malaysia. Và Thaker, M. đã lý giải cho sự phức tạp này là vì
với các đăc tính riêng biệt trong cách điều hành tỷ giá của mỗi quốc gia, và trong từng giai
đoạn khác nhau đã làm cho các mối tương quan trở nên phức tạp.
3.1.5. Lãi suất và giá chứng khoán :
Theo lý thuyết kinh tế dự báo rằng lãi suất trong ngắn hạn và dài hạn có thể ảnh
hưởng tiêu cực đến giá của chứng khoán. Quan hệ giữa lãi suất và giá chứng khoán
là ngược chiều. Sự dao động của lãi suất không phải luôn được phản ứng trái ngược
của giá cổ phiếu. Chỉ khi nào lãi suất phản ánh xu hướng chủ đạo trong lạm phát, nó
mới trở thành thước đo hiệu quả sự dao động của TTCK. Thông thường lãi suất có
xu hướng giảm khi lạm phát giảm và lạm phát giảm khiến giá cổ phiếu tăng cao hơn
và ngược lại. Nhưng nếu lạm phát không phải là một vấn đề nghiêm trọng và lãi
suất tăng, đầu tư vào TTCK thường mang lại nhiều lãi, bởi vì trong trường hợp này,
lãi suất tăng là do nền kinh tế tăng trưởng.
Tuy nhiên nhìn chung và dễ nhận thấy là mối quan hệ giữa nhân tố lãi suất với giá
chứng khoán có quan hệ nghịch chiều. Và nhóm tác giả Menike, L.(2006); Kandir, S.
(2008); Tunah, H. (2010); Azam, M. (2011); Tangjitprom, N. (2012) cũng tìm thấy một kết
quả tương đồng ở các thị trường mà họ nghiên cứu. Điểm chung là ở các thị trường khác
nhau và sử dụng các mô hình khác nhau (giả Menike, L.(2006); Kandir, S. (2008) sử dụng
mô hình Ordinary least squares - OLS; Tunah, H. (2010); Tangjitprom, N. (2012)sử dụng
mô hình VAR và còn Azam, M. (2011) sử dụng mô hình Fix effects model và mô hình
Random effects model) thì nhân tố lãi suất đều thể hiện khả năng giải thích rất tốt cho biến
giá chứng khoán.
3.1.6. Giá dầu và giá chứng khoán :
Giá dầu là một yếu tố đầu vào trong tiến trình sản xuất. Một sự tăng lên trong
giá dầu sẽ làm tăng chi phí sản xuất tạo áp lực lên toàn bộ giá chứng khoán. Kỳ
vọng từ giá dầu còn ảnh hưởng lên thu nhập chứng khoán gián tiếp qua lãi suất chiết
khấu bởi tỷ lệ lạm phát kỳ vọng và lãi suất thực kỳ vọng. Theo đó, lạm phát kỳ vọng
và lãi suất đều bị ảnh hưởng bởi giá dầu, đối với một quốc gia nhập khẩu dầu ròng,
một sự gia tăng trong giá dầu sẽ tạo ra áp lực làm tăng lạm phát kỳ vọng, một tỷ lệ
lạm phát kỳ vọng cao hơn sẽ làm tăng lãi suất chiết khấu, tạo ảnh hưởng nghịch
18
biến lên thu nhập chứng khoán. Khi giá dầu đã trở nên không ổn định, chiến lược
năng lượng mới thường được đề nghị. Trong thời kì sốt dầu, nhà đầu tư bắt đầu xem
xét các khoản đầu tư dầu, cả trực tiếp và gián tiếp, như là một cách phòng ngừa rủi
ro nghịch đảo với sự chuyển biến của TTCK. Nói cách khác, khi giá dầu tăng, các
nhà đầu tư quan sát thấy rằng những lo lắng về kinh tế sẽ làm giá cổ phiếu rớt
xuống. Mặt khác, các nhà đầu tư xem việc giảm giá dầu như là có lợi cho nền kinh
tế và giá chứng khoán. Quan điểm này cũng được tác giả Tunah, H. (2010) , Gjerde
and Saettem (1999) tìm thấy ở các thị trường Thổ Nhĩ Kỳ và NaUy. Và một nghiên cứu
khác của Cheung and Ng (1998) tìm thấy mối tương quan nghịch biến giữa giá dầu
và giá chứng khoán ở phạm vi 3 quốc gia (Canada, Ý và Nhật Bản ).
3.1.7. Chỉ số chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương MSCI EM và giá
chứng khoán :
Nền kinh tế các quốc gia sẽ luôn chịu tác động bởi các nhân tố bên trong nội tại
của nền kinh tế và các biến động bên ngoài thế giới. Tùy theo vào sự mở của của
các quốc gia mà ảnh hưởng bên ngoài nhiều hay ít. Và khá nhiều nghiên cứu của
các tác giả trên nhiều nhóm quốc gia cũng đều nhận thấy một sự ảnh hưởng này. Cụ
thể là Kandir, S. (2008) (sử dụng chỉ số MSCI World Equity) và Husainey, K. và Le
Khanh Ngoc (2009) (sử dụng chỉ số S&P 500) tìm thấy một sự phản ứng tương đồng ở
TTCK các nước nghiên cứu với sự biến động của chỉ số đại diện.
Việt Nam đang từng bước tháo bỏ các rào cản kinh tế để hội nhập sâu hơn vào
thị trường thế giới. Vì thế TTCK nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung
không thể tránh khỏi các tác động bên ngoài từ các nước trong khu vực và trên toàn
cầu.
3.2. Phân tích biến động các nhân tố vĩ mô tác động lên chỉ số giá chứng
khoán:
3.2.1. Các nhân tố vĩ mô trong nước:
Chỉ tiêu hoạt động kinh tế: được đo lường thông qua chỉ số sản xuất công
nghiệp (đã điều chỉnh lạm phát) IPI.
19
Nguồn: Dữ liệu VN-Index của công ty cổ phần truyền thông Việt Nam VCCorp và
dữ liệu chỉ số sản xuất công nghiệp của Tổng cục Thống kê
Hình 3.1: Biến động nhân tố chỉ số sản xuất công nghiệp và chỉ số VN-index
Theo đồ thị ta thấy dường như chỉ số sản xuất công nghiệp và đường CSG VN-index
có mối quan hệ không rõ ràng. Trong giai đoạn năm 2009 thì chỉ số sản xuất công nghiệp
có quan hệ đồng biến với CSG VN-index ( khi chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 33% từ
120% – 160%) và chỉ số VN-index cũng tăng 100% từ 300 lên gần đến 600 điểm). Và kết
quả này cũng giống nghiên cứu thực nghiệm của Husainey, K. và Le Khanh Ngoc (2009)
và Tunah, H. (2010). Tuy nhiên từ thời điểm tháng 4/2010 đến tháng 6/2012 thì ta lại thấy
mối quan hệ nghịch biến giữa 2 chỉ số này. Trong khi chỉ số sản xuất công nghiệp vẫn tiếp
tục tăng thì CSG VN-index thì lại giảm.
Thay đổi chỉ số giá tiêu dùng CPI
Nguồn: Dữ liệu VN-Index của công ty cổ phần truyền thông Việt Nam VCCorp và
dữ liệu chỉ số giá tiêu dùng của Tổng cục Thống kê
Hình 3.2: Biến động nhân tố chỉ số giá tiêu dùng CPI và chỉ số VN-index
Dựa vào đồ thị trên ta thấy rằng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đại diện cho chỉ số lạm phát
tăng khá đều qua các năm. Trong khi đó thì CSG VN-index thì có những thời điểm đồng
biến với chỉ số giá lạm phát, lúc thì lại ngược chiều. Cụ thể như ta thấy ở thời điểm tháng
9/2007 – 2/2009, chỉ số CPI tăng từ 148% lên 190% trong khi đó chỉ số VN-index giảm từ
1046 điểm xuống còn 245.74 điểm (thấp nhất trong suốt thời gian 2005 đến nay). Thời
gian từ 10/2009 đến quí 2 năm 2012 thì CPI tăng từ 190% lên đến 270% và VN-index
giảm từ 580 xuống còn 414 điểm. Và kết quả này phù hợp với nghiên cứu thực nghiệm của
tác giả Menike, L. (2006). Trong khi đó, một giai đoạn nhỏ kể từ thời gian 2/2009-10/2009
thì lại xuất hiện quan hệ đồng biến giữa CPI và VN-index. Và điều này cũng được các bài
nghiên cứu của Kandir, S. (2008), Thaker, M. và cộng sự (2009) tìm thấy tương tự ở các
thị trường Thổ Nhĩ Kì và Malaysia.
Tuy nhiên nhìn về mặt tổng thể thì chúng ta vẫn thấy mối tương quan nghịch giữa 2
nhân tố này. Bởi vì một khi lạm phát cao sẽ thể hiện một sự bất ổn trong nền kinh tế khi
cung tiền đang vượt quá nhu cầu trên thị trường. Và đồng thời một khi lam phát cao sẽ
20
khiến cho chi phí sử dụng vốn của các doanh nghiệp sẽ tăng lên. Điều này sẽ làm cho lợi
nhuận các doanh nghiệp giảm đi. Nhu cầu đối với cổ phiếu đồng thời cũng sẽ giảm đi do
một khi lạm phát cao sẽ dẫn đến lãi suất cao, và lợi nhuận từ kênh đầu tư cổ phiếu giảm đi
trong khi rủi ro đang tăng lên. Điều này có thể sẽ làm cho giá chứng khoán giảm mạnh do
một đợt thoát khỏi thị trường như nhận định của nhà nghiên cứu Menike, L. (2006).
Tăng trưởng cung tiền M2
Nguồn: Dữ liệu VN-Index của công ty cổ phần truyền thông Việt Nam VCCorp và
dữ liệu tăng trưởng cung tiền M2 của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF
Hình 3.3: Biến động nhân tố cung tiền M2 và chỉ số VN-index
Nhìn vào đồ thị chúng ta thấy rằng lượng tiền M2 được ngân hàng nhà nước tung vào
thị trường tăng dần qua các năm. Điều này về dài hạn (trong suốt thời gian nghiên cứu
2006-2012) đã làm cho nền kinh tế bị lạm phát tăng cao như đồ thị lạm phát ở trên đã thể
hiện. Điều này đã làm cho chỉ số VN-index đi theo hướng ngược lại. Quan điểm này cũng
tương đồng với nghiên cứu của Thaker, M. và cộng sự (2009). Tuy nhiên bên cạnh đó
chúng ta cũng thấy một lập luận trái ngược lại là: khi cung tiền tăng lên sẽ giúp cho lãi suất
giảm đi và các doanh nghiệp có nhiều khả năng tiếp cận với nguồn vốn rẻ hơn. Điều này sẽ
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gia tăng sản xuất và tăng doanh thu. Và nó sẽ giúp cho
giá chứng khoán của các doanh nghiệp tăng lên (điều này đã đúng trong khoảng thời gian
tháng 2/2009-10/2009 khi chính phủ thực hiện chính sách nới lỏng tài chính, tăng cung tiền
ra thị trường). Nhận định này cũng tương đồng với nghiên cứu của Bilson, C. và cộng sự
(2001); Tunah, H. (2010). Bên cạnh những tương quan mạnh giữa 2 chỉ số này thì cũng có
những nghiên cứu của Menike, L. (2006); Kandir, S. (2008) thì tìm thấy tương quan rất yếu
hoặc không có tương quan giữa cung tiền M2 và chỉ số giá chứng khoán.
Thay đổi tỷ giá
Nguồn: Dữ liệu VN-Index của công ty cổ phần truyền thông Việt Nam VCCorp và
dữ liệu tỷ giá hối đoái USD/VNĐ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
----------
PHẠM NGỌC TÀI
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ
LÊN GIÁ CHỨNG KHOÁN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
----------
PHẠM NGỌC TÀI
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ LÊN
GIÁ CHỨNG KHOÁN
Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS BÙI HỮU PHƯỚC
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2012
LỜI CÁM ƠN
♥♥♥♥♥♥♥♥
Để hoàn thành bài nghiên cứu này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ phía
thầy cô bạn bè và cả gia đình tôi. Và lời đầu tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến
thầy Bùi Hữu Phước đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong việc nghiên cứu cũng như góp ý
để bài nghiên cứu này hoàn thiện hơn.
Bên cạnh đó tôi cũng xin được cám ơn các bạn bè đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong
việc cung cấp tài liệu cũng như hỗ trợ, đóng góp ý kiến cho tôi trong suốt quá trình
làm luận văn. Cám ơn các thầy cô đã tận tình truyền thụ các kiến thức giúp tôi thêm
vững vàng trong cuộc sống cũng như công việc.
Lời cuối cùng tôi xin được cám ơn gia đình tôi đã tạo điều kiện thuận lợi nhất để
tôi học tập và hoàn tất luận văn nghiên cứu này.
LỜI CAM ĐOAN
♥♥♥♥♥♥♥♥
Tôi xin cam đoan rằng đay là công trình nghiên cứu của tôi với sự giúp đỡ của
thầy hướng dẫn cũng như sự giúp đỡ của bạn bè, thầy cô và gia đình tôi. Số liệu
thống kê và kết quả nghiên cứu bài luận văn này chưa từng được công bố trong bất
cứ công trình nào cho tới thời điểm hiện nay.
TP.HCM, ngày 09 tháng 11 năm 2012
Tác giả
Phạm Ngọc Tài
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
Tp. HCM, ngày …… tháng …… năm 2012
Giáo viên hướng dẫn
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
Tp. HCM, ngày …… tháng …… năm 2012
Hội đồng xét duyệt
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TTCK: Thị trường chứng khoán
HOSE : Sở Giao Dịch Chứng Khoán Tp.Hồ Chí Minh
HNX : Sở Giao Dịch Chứng Khoán Hà Nội
NĐT: Nhà đầu tư
TSSL: Tỷ suất sinh lợi của chứng khoán
CSG: Chỉ số giá chứng khoán
ADF: Augmented Dickey-Fuller
CPI: Chỉ số giá tiêu dùng
VAR: Vector Autoregression model
GOS: Tổng cục thống kê Việt Nam
SBV: Ngân hàng nhà nước Việt Nam
BVSC: công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt
IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế
IPI: Chỉ số sản xuất công nghiệp
USD: đô la Mỹ
VN: Việt Nam
VND: Việt Nam đồng
AIC: Akaike Info Criteria
SIC : Schwarz information criterion
LM Test : Residual Serial Correlation LM Tests
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 4.1: Tổng hợp các biến sử dụng trong nghiên cứu
Bảng 4.2: Tổng hợp các biến sử dụng trong mô hình
Bảng 5.1: Thống kê mô tả các biến được sử dụng trong nghiên cứu
Bảng 5.2: Kết quả kiểm định Unit root ADF
Bảng 5.3: Xác định độ trễ tối ưu
Bảng 5.4: Kết quả kiểm định LM Test
Bảng 5.5: Kết quả kiểm tra đồng liên kết cho từng cặp biến
Bảng 5.6: Kết quả kiểm định đồng liên kết Johansen-Juselius
Bảng 5.7: Phương trình đồng liên kết, cân bằng trong dài hạn
Bảng 5.8: Kết quả kiểm định nhân quả Granger
Bảng 5.9: Kết quả hồi quy theo VAR giữa các biến vĩ mô và VN-index
Bảng 5.10: Tóm tắt phương trình hồi quy giữa các biến vĩ mô và VN-index
Bảng 5.11: Phân rã phương sai thay đổi VN-index
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1: Diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam và ảnh hưởng các yếu tố vĩ mô
từ năm 2007- nay
Hình 3.1: Biến động nhân tố chỉ số sản xuất công nghiệp và chỉ số VN-index
Hình 3.2: Biến động nhân tố chỉ số giá tiêu dùng và chỉ số VN-index
Hình 3.3: Biến động nhân tố cung tiền và chỉ số VN-index
Hình 3.4: Biến động nhân tố tỷ giá hối đoái và chỉ số VN-index
Hình 3.5: Biến động nhân tố lãi suất và chỉ số VN-index
Hình 3.6: Biến động nhân tố giá dầu và chỉ số VN-index
Hình 3.7: Biến động nhân tố chỉ số chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương MSCI EM
và chỉ số VN-index
Hình 5.1: Kiểm định Variance Decomposition
10
TÓM TẮT
Đã có rất nhiều bài nghiên cứu về tác động của các nhân tố vĩ mô lên giá chứng
khoán ở các thị trường trên thế giới. Từ những nghiên mở đầu của việc ứng dụng
mô hình Arbitrage Pricing Theory (APT) của Chen, N. và cộng sự (1986) tại thị
trường Mỹ. Các nghiên cứu đã dần mở rộng ra ở các thị trường khác nhau: thị
trường các nước phát triển, thị trường các nước đang phát triển và cả thị trường các
nước mới nổi. Và bài nghiên cứu này cũng nhằm tìm kiếm thêm một minh chứng
thực nghiệm tại một thị trường mới nổi là Việt Nam về mối tương quan giữa 7 biến
vĩ mô là các biến: chỉ tiêu hoạt động kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng, cung tiền, giá dầu,
tỷ giá, lãi suất, chỉ số MSCI Châu Á Thái Bình Dương với biến CSG chứng khoán
VN-index. Tầng suất lấy dữ liệu theo tháng và thời gian thực hiện nghiên cứu là từ
tháng 12/2006-7/2012. Bằng việc sử dụng mô hình hồi qui Vector autoregression
(VAR) đã cho chúng ta kết quả là biến CSG VN-index chịu ảnh hưởng bới các nhân
tố độ trễ CSG VN-index, giá dầu thô – OIL, chỉ số MSCI Châu Á Thái Bình
Dương- MSCI, lãi suất – IR, chỉ số lạm phát – CPI. Và CSG VN-Index chỉ tác động
đến chỉ số lạm phát. Bằng kiểm định phân rã phương sai (Variance Decomposition)
cho chúng ta kết quả là trong cả ngắn hạn và dài hạn thì biến động của CSG VN-
index được giải thích chủ yếu là biến động của chính bản thân. Kết quả của hàm
phản ứng đẩy(Impulse Response Function) cho chúng ta thấy rằng CSG VN-index
phản ứng trong ngắn hạn cùng chiều với cú sốc của dầu lửa, lãi suất và tỷ giá và
phản ứng trái chiều với cú sốc chỉ số sản xuất công nghiệp, chỉ số giá tiêu dùng.
11
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ LÊN GIÁ CHỨNG
KHOÁN
1. GIỚI THIỆU
Với 12 năm hoạt động từ khi thành lập đến nay, thị trường chứng khoán Việt
Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Từ lúc ban đầu chỉ có 2 công ty niêm yết
trên sàn HOSE thì tính đến cuối quí II năm 2012 thì có 715 công ty đang niêm yết
tại 2 sàn. Thị trường chứng khoán trở thành một trong những kênh huy động vốn
ngày càng quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là các công ty niêm yết trên các sàn
HOSE, HNX và cả UPCOM. Ngoài ra, thị trường chứng khoán cũng là một công cụ
giúp cho các nhà hoạch định chiến lược thực hiện các chính sách kinh tế tài chính,
điều tiết nền kinh tế theo đúng định hướng mục tiêu kinh tế của từng thời kì.
Mối tương quan giữa nền kinh tế và thị trường vốn ngày càng mật thiết, trong đó
các yếu tố vĩ mô được xem là “nút thắt” đối với dòng tiền vào ra thị trường chứng
khoán. Trong thực tế năm 2008 cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ảnh hưởng đến
nền kinh tế Việt Nam, lãi suất cho vay tăng lên mức kỷ lục gần 24%, lạm phát (yoy)
tháng 6 đạt mức 19.87%, thị trường chứng khoán giảm 65.7% cùng với sự sụt giảm
dòng tiền thị trường khi giá trị giao dịch có lúc chỉ đạt hơn 200 tỷ đồng. Năm 2009,
nền kinh tế thế giới phục hồi khi chính phủ các nước thực hiện các gói kích cầu,
lượng cung tiền gia tăng giúp thị trường chứng khoán phục hồi 57.9%. Năm 2011,
nền kinh tế thế giới trở nên bất ổn với vấn đề nợ công Châu Âu, giá hàng hóa thế
giới tăng mạnh, giá vàng đạt đỉnh hơn 1.950 USD/oz, cùng các biện pháp thắt chặt
tiền tệ kiềm chế lạm phát, thị trường chứng khoán sụt giảm 27.66%. Tiếp tục những
khó khăng do khủng hoảng nợ công ở Châu Âu trong những tháng đầu năm 2012,
tuy cả năm kế hoạch đề ra là tăng tín dụng khoảng 15-17%, nhưng thực tế 6
tháng đầu năm không tăng, mà cho đến tháng 5 vẫn còn âm so với cuối năm
2011, lợi nhuận của một số ngân hàng giảm, nhiều chi nhánh ngân hàng báo lỗ. Ở
các doanh nghiệp sản xuất thì hàng tồn kho tăng mạnh trong khi đó sức mua giảm
sút trên thị trường. Tất cả những khó khăn đó cũng đã tác động mạnh đến thị trường
12
chứng khoán Việt Nam trong tháng 5, tháng 6 với mức giảm hơn 20% so với đầu
năm.
Nguồn: Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh và tổng hợp
Hình 1.1: Diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam và ảnh hưởng
các yếu tố vĩ mô từ năm 2007- nay
Từ những quan sát thực tiễn và đã có rất nhiều bài nghiên cứu trên thế giới đã
chỉ ra rằng có mối tương quan giữa các biến số vĩ mô và TTCK. Các nghiên cứu của
Chen, N. và cộng sự (1986) ở các nước đã phát triển đã thấy các nhân tố sản lượng
công nghiệp, lạm phát, lãi suất, cung tiền có một ý nghĩa quan trọng giải thích giá
cổ phiếu. Trong khi đó các nghiên cứu của Menike, L. (2006) ở Sri Lanka đã cho
thấy rằng 27/34 công ty được chọn đã có được khả năng giải thích cao ( R 2 lớn hơn
50%) bởi tác động của 4 nhân tố vĩ mô (cung tiền, tỷ giá, lạm phát, lãi suất) lên giá
cổ phiếu. Mohammad, D. và cộng sự (2009); Thaker, M., và cộng sự (2009) đã tìm
thấy một mối tương quan mạnh trong biến tỷ giá với giá chứng khoán ở Karachi
Stock Exchange Pakistan và Kuala Lumpur Malaysia. Các nhân tố vĩ mô ở các quốc
gia các vùng miền khác nhau sẽ có nhưng ảnh hưởng khác nhau lên thị trường
chứng khoán. Vậy liệu ở Việt Nam thì các nhân tố vĩ mô có ảnh hưởng đến giá
13
chứng khoán hay không? Các ảnh hưởng này có mối tương quan có giống như ở các
quốc gia đã phát triển và đang phát triển không? Đó là lý do đề tài “ Tác động của
các nhân tố lên giá chứng khoán” ra đời nhằm đóng góp thêm những luận cứ mới ở
một quốc gia mới nổi như Việt Nam. Đồng thời nó cũng giúp cho các NĐT và nhà
phân tích có những nhận định tốt hơn khi có các thay đổi trong chính sách vĩ mô.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
3.1 Mục tiêu tổng quát
Tìm kiếm minh chứng thực tiễn về sự ảnh hưởng của một số nhân tố vĩ mô (trong nước
và ngoài nước) tới CSG VN-index tại Sở Giao Dịch Chứng khoán TP HCM.
3.2 Mục tiêu cụ thể
Xác định các nhân tố vĩ mô ảnh hưởng đến CSG VN-index.
Xác định các mối quan hệ nhân quả giữa CSG VN-index với các nhân tố vĩ mô.
Phản ứng của CSG VN-index và các nhân tố vĩ mô khi có một cú sốc ảnh hưởng.
3.3 Câu hỏi nghiên cứu :
Bài nghiên cứu nhằm mục tiêu tìm kiếm câu trả lời cho 2 câu hỏi chính là:
- Có hay không mối tương quan giữa các yếu tố vĩ mô: chỉ tiêu hoạt động
kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng, cung tiền, giá dầu, tỷ giá, lãi suất, chỉ số
MSCI Châu Á Thái Bình Dương và CSG VN-index trên sở giao dịch
chứng khoán TP Hồ Chí Minh?
- Nhân tố CSG VN-index sẽ phản ứng như thế nào trước các cú sốc của 7
nhân tố vĩ mô chỉ tiêu hoạt động kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng, cung tiền, giá
dầu, tỷ giá, lãi suất, chỉ số MSCI Châu Á Thái Bình Dương?
3.4 Phạm vi nghiên cứu:
Luận án nghiên cứu sử dụng chỉ số giá VN-index của Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ
Chí Minh làm đại diện cho giá chứng khoán của toàn bộ công ty niêm yết tại sàn HOSE.
Các nhân tố nghiên cứu tác động đến CSG VN-index là các nhân tố vĩ mô:
- Trong nước:
Chỉ tiêu hoạt động kinh tế: được đo lường thông qua chỉ số sản xuất công
nghiệp (đã điều chỉnh lạm phát);
Thay đổi chỉ số giá tiêu dùng CPI đại diện cho chỉ số lạm phát;
14
Tăng trưởng cung tiền M2;
Thay đổi tỷ giá;
Thay đổi trong lãi suất.
- Thế giới:
Giá dầu thô thế giới;
Chỉ số MSCI Châu Á Thái Bình Dương.
- Phạm vi thời gian nghiên cứu từ tháng 12/2006 đến tháng 07/2012.
3.5 Bố cục luận văn:
Phần 1: Giới thiệu nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu và phạm
vi nghiên cứu.
Phần 2:
- Tổng hợp các nghiên cứu trước về mối tương quan giữa các nhân tố vĩ mô
và CSG ở các thị trường khác trên thế giới và Việt Nam nhằm hỗ trợ nền
tảng lý thuyết cho nghiên cứu.
- Phân tích biến động các nhân tố vĩ mô tác động lên CSG VN-index bằng
phương pháp mô phỏng đồ thị.
Phần 3: Mô tả dữ liệu được sử dụng và các phương pháp nghiên cứu sẽ được áp
dụng.
Phần 4: Kết quả nghiên cứu.
Phần 5: Kết luận nghiên cứu và kiến nghị.
15
3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN:
3.1. Tác động của các nhân tố vĩ mô lên giá chứng khoán
3.1.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp IPI và giá chứng khoán :
Chỉ số sản xuất công nghiệp đại diện cho hoạt động kinh tế. Lý thuyết cho rằng
chỉ số sản xuất công nghiệp gia tăng trong giai đoạn nền kinh tế đang tăng trưởng
và chỉ số sản xuất công nghiệp giảm suốt thời gian kinh tế suy thoái, do đó sự thay
đổi trong chỉ số sản xuất công nghiệp là dấu hiệu sự thay đổi nền kinh tế. Và các
phát hiện của nghiên cứu thực nghiệm của Husainey, K. và Le Khanh Ngoc (2009) và
Tunah, H. (2010) đã chứng minh rằng có một mối quan hệ đồng biến giữa các biến
kinh tế thực và giá cả chứng khoán.
3.1.2. Chỉ số giá tiêu dùng CPI và giá chứng khoán :
Chỉ số giá tiêu dùng CPI được sử dụng như là đại lượng đại diện cho lạm phát.
Nhìn về mặt tổng thể thì chúng ta vẫn thấy mối tương quan nghịch giữa giá chứng
khoán và chỉ số giá tiêu dùng CPI. TTCK sẽ hoạt động mạnh dưới hai điều kiện:
tăng trưởng kinh tế cao và lạm phát thấp. Nhưng nếu nền kinh tế phát triển mà lạm
phát tăng cao thì chưa chắc đã là tốt. Khi mối nguy lạm phát tăng cao, các nhà phân
tích đầu tư sẽ nghi ngờ về sự thịnh vượng của nền kinh tế hay các báo cáo tăng
trưởng việc làm. Lý do là họ lo sợ rằng dường như đang có một sự bùng nổ lạm
phát, một sự phát triển giả tạo đã được tạo nên bởi việc dễ dãi trong tín dụng của
chính quyền, do chính phủ chấp nhận một mức thâm hụt ngân sách cao hơn và mở
rộng cung tiền. Mối quan hệ thực sự của lạm phát và giá cổ phiếu luôn là một câu
hỏi thực nghiệm hóc búa và mối quan hệ này sẽ thay đổi theo thời gian và đặc điểm
của các quốc gia trong các giai đoạn này.
Các nghiên cứu của các tác giả cũng đã cho thấy sự phức tạp của mối quan hệ này:
quan hệ nghịch biến với nghiên cứu thực nghiệm của tác giả Menike, L. (2006). Và qua kết
quả nghiên cứu tác giả nhận thấy rằng một khi nhân tố lãi suất trái phiếu Chính phủ có dấu
hiệu tăng lên thì các NĐT sẽ có xu hướng thoát khỏi thị trường, và điều này làm cho giá
chứng khoán giảm. Còn về biến độ trễ lạm phát không phải là một nhân tố thể hiện sự dự
báo tốt cho sự thay đổi giá chứng khoán trong mô hình của ông lựa chọn. Tuy nhiên một
kết quả ngược lại: Thaker, M. và cộng sự (2009) nhận thấy rằng chỉ số lạm phát thì có
16
tương quan dương với giá chứng khoán cả trước và sau khủng hoảng. Trong khi Kandir, S.
(2008) thì cho thấy rằng nhân tố lạm phát tác động ( tương quan dương) lên tất cả các danh
mục mà ông khảo sát.
3.1.3. Cung tiền M2 và giá chứng khoán :
Lý thuyết danh mục tiền tệ cho rằng sự thay đổi cung tiền sẽ ảnh hưởng đến giá
của các tài sản trong danh mục đầu tư. Nếu cung tiền mở rộng, nó sẽ dẫn đến một sự
gia tăng trong tiêu dùng hàng hóa cũng như làm gia tăng việc sử dụng các tài sản tài
chính mà chứng khoán là một trong số đó. Khi cung tiền tăng, thanh khoản vượt trội
sẽ ảnh hưởng đến TTCK khá mạnh do tác động của chính sách tiền tệ tương đối
nhanh và trực tiếp. Chính sách mở rộng tiền tệ làm giảm lãi suất của nền kinh tế tế,
làm giảm lãi suất chiết khấu của chứng khoán qua đó làm tăng giá kỳ vọng và tăng
thu nhập. Nhận định này cũng tương đồng với nghiên cứu của Bilson, C. và cộng sự
(2001). Trong bài nghiên cứu này Bilson, C. và cộng sự đã sử dụng kết hợp giữa mô hình
các nhân tố trong nước và quốc tế. Và trong cả 2 mô hình ông đều nhận thấy biến cung tiền
có khả năng giải thích rất tốt, đặc biệt khi sử dụng mô hình có độ trễ. Và Tunah, H. (2010)
sử dụng mô hình VAR cũng tìm thấy một kết quả tương tự ở thị trường Turkish Stock
Exchange – Thổ Nhĩ Kì.
3.1.4. Tỷ giá và giá chứng khoán :
Kiến thức về những yếu tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán và tỷ giá đã thu hút
nhiều sự quan tâm của nhiều nhà kinh tế học, các nhà làm chính sách và cộng đồng
đầu tư trong một thời gian dài. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa hiện nay, có rất ít các
rào cản dòng vốn, do đó tạo nhiều cơ hội đầu tư cho các tập đoàn đa quốc gia.
Doanh nghiệp nào hoạt động cũng có khả năng phải chịu ba rủi ro là: độ nhạy cảm
kinh tế, nhạy cảm chuyển đổi, và nhạy cảm giao dịch đối với rủi ro tỷ giá. Điều này,
đã tạo ra một nhu cầu tìm hiểu mối quan hệ giữa tỷ giá và giá chứng khoán để
phòng ngừa cho rủi ro danh mục. Phần lớn các tài liệu xem xét mối quan hệ giữa giá
chứng khoán và tỷ giá ở các nước đang phát triển và đã phát triển. Trong các nghiên
cứu đó thì tác giả Menike (2006); Kandir (2008); Bilson và cộng sự (2010) đều tìm
thấy quan hệ nghịch biến giữa 2 biến này ở các thị trường mà họ nghiên cứu. Tuy
nhiên bên cạnh đó Thaker, M. và cộng sự (2009) thì lại tìm thấy một mối quan hệ phức tạp:
17
một tương quan âm trước khủng hoảng (1987-1995) nhưng lại có tương quan dương ở sau
khủng hoảng(1999-2007) tại Malaysia. Và Thaker, M. đã lý giải cho sự phức tạp này là vì
với các đăc tính riêng biệt trong cách điều hành tỷ giá của mỗi quốc gia, và trong từng giai
đoạn khác nhau đã làm cho các mối tương quan trở nên phức tạp.
3.1.5. Lãi suất và giá chứng khoán :
Theo lý thuyết kinh tế dự báo rằng lãi suất trong ngắn hạn và dài hạn có thể ảnh
hưởng tiêu cực đến giá của chứng khoán. Quan hệ giữa lãi suất và giá chứng khoán
là ngược chiều. Sự dao động của lãi suất không phải luôn được phản ứng trái ngược
của giá cổ phiếu. Chỉ khi nào lãi suất phản ánh xu hướng chủ đạo trong lạm phát, nó
mới trở thành thước đo hiệu quả sự dao động của TTCK. Thông thường lãi suất có
xu hướng giảm khi lạm phát giảm và lạm phát giảm khiến giá cổ phiếu tăng cao hơn
và ngược lại. Nhưng nếu lạm phát không phải là một vấn đề nghiêm trọng và lãi
suất tăng, đầu tư vào TTCK thường mang lại nhiều lãi, bởi vì trong trường hợp này,
lãi suất tăng là do nền kinh tế tăng trưởng.
Tuy nhiên nhìn chung và dễ nhận thấy là mối quan hệ giữa nhân tố lãi suất với giá
chứng khoán có quan hệ nghịch chiều. Và nhóm tác giả Menike, L.(2006); Kandir, S.
(2008); Tunah, H. (2010); Azam, M. (2011); Tangjitprom, N. (2012) cũng tìm thấy một kết
quả tương đồng ở các thị trường mà họ nghiên cứu. Điểm chung là ở các thị trường khác
nhau và sử dụng các mô hình khác nhau (giả Menike, L.(2006); Kandir, S. (2008) sử dụng
mô hình Ordinary least squares - OLS; Tunah, H. (2010); Tangjitprom, N. (2012)sử dụng
mô hình VAR và còn Azam, M. (2011) sử dụng mô hình Fix effects model và mô hình
Random effects model) thì nhân tố lãi suất đều thể hiện khả năng giải thích rất tốt cho biến
giá chứng khoán.
3.1.6. Giá dầu và giá chứng khoán :
Giá dầu là một yếu tố đầu vào trong tiến trình sản xuất. Một sự tăng lên trong
giá dầu sẽ làm tăng chi phí sản xuất tạo áp lực lên toàn bộ giá chứng khoán. Kỳ
vọng từ giá dầu còn ảnh hưởng lên thu nhập chứng khoán gián tiếp qua lãi suất chiết
khấu bởi tỷ lệ lạm phát kỳ vọng và lãi suất thực kỳ vọng. Theo đó, lạm phát kỳ vọng
và lãi suất đều bị ảnh hưởng bởi giá dầu, đối với một quốc gia nhập khẩu dầu ròng,
một sự gia tăng trong giá dầu sẽ tạo ra áp lực làm tăng lạm phát kỳ vọng, một tỷ lệ
lạm phát kỳ vọng cao hơn sẽ làm tăng lãi suất chiết khấu, tạo ảnh hưởng nghịch
18
biến lên thu nhập chứng khoán. Khi giá dầu đã trở nên không ổn định, chiến lược
năng lượng mới thường được đề nghị. Trong thời kì sốt dầu, nhà đầu tư bắt đầu xem
xét các khoản đầu tư dầu, cả trực tiếp và gián tiếp, như là một cách phòng ngừa rủi
ro nghịch đảo với sự chuyển biến của TTCK. Nói cách khác, khi giá dầu tăng, các
nhà đầu tư quan sát thấy rằng những lo lắng về kinh tế sẽ làm giá cổ phiếu rớt
xuống. Mặt khác, các nhà đầu tư xem việc giảm giá dầu như là có lợi cho nền kinh
tế và giá chứng khoán. Quan điểm này cũng được tác giả Tunah, H. (2010) , Gjerde
and Saettem (1999) tìm thấy ở các thị trường Thổ Nhĩ Kỳ và NaUy. Và một nghiên cứu
khác của Cheung and Ng (1998) tìm thấy mối tương quan nghịch biến giữa giá dầu
và giá chứng khoán ở phạm vi 3 quốc gia (Canada, Ý và Nhật Bản ).
3.1.7. Chỉ số chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương MSCI EM và giá
chứng khoán :
Nền kinh tế các quốc gia sẽ luôn chịu tác động bởi các nhân tố bên trong nội tại
của nền kinh tế và các biến động bên ngoài thế giới. Tùy theo vào sự mở của của
các quốc gia mà ảnh hưởng bên ngoài nhiều hay ít. Và khá nhiều nghiên cứu của
các tác giả trên nhiều nhóm quốc gia cũng đều nhận thấy một sự ảnh hưởng này. Cụ
thể là Kandir, S. (2008) (sử dụng chỉ số MSCI World Equity) và Husainey, K. và Le
Khanh Ngoc (2009) (sử dụng chỉ số S&P 500) tìm thấy một sự phản ứng tương đồng ở
TTCK các nước nghiên cứu với sự biến động của chỉ số đại diện.
Việt Nam đang từng bước tháo bỏ các rào cản kinh tế để hội nhập sâu hơn vào
thị trường thế giới. Vì thế TTCK nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung
không thể tránh khỏi các tác động bên ngoài từ các nước trong khu vực và trên toàn
cầu.
3.2. Phân tích biến động các nhân tố vĩ mô tác động lên chỉ số giá chứng
khoán:
3.2.1. Các nhân tố vĩ mô trong nước:
Chỉ tiêu hoạt động kinh tế: được đo lường thông qua chỉ số sản xuất công
nghiệp (đã điều chỉnh lạm phát) IPI.
19
Nguồn: Dữ liệu VN-Index của công ty cổ phần truyền thông Việt Nam VCCorp và
dữ liệu chỉ số sản xuất công nghiệp của Tổng cục Thống kê
Hình 3.1: Biến động nhân tố chỉ số sản xuất công nghiệp và chỉ số VN-index
Theo đồ thị ta thấy dường như chỉ số sản xuất công nghiệp và đường CSG VN-index
có mối quan hệ không rõ ràng. Trong giai đoạn năm 2009 thì chỉ số sản xuất công nghiệp
có quan hệ đồng biến với CSG VN-index ( khi chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 33% từ
120% – 160%) và chỉ số VN-index cũng tăng 100% từ 300 lên gần đến 600 điểm). Và kết
quả này cũng giống nghiên cứu thực nghiệm của Husainey, K. và Le Khanh Ngoc (2009)
và Tunah, H. (2010). Tuy nhiên từ thời điểm tháng 4/2010 đến tháng 6/2012 thì ta lại thấy
mối quan hệ nghịch biến giữa 2 chỉ số này. Trong khi chỉ số sản xuất công nghiệp vẫn tiếp
tục tăng thì CSG VN-index thì lại giảm.
Thay đổi chỉ số giá tiêu dùng CPI
Nguồn: Dữ liệu VN-Index của công ty cổ phần truyền thông Việt Nam VCCorp và
dữ liệu chỉ số giá tiêu dùng của Tổng cục Thống kê
Hình 3.2: Biến động nhân tố chỉ số giá tiêu dùng CPI và chỉ số VN-index
Dựa vào đồ thị trên ta thấy rằng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đại diện cho chỉ số lạm phát
tăng khá đều qua các năm. Trong khi đó thì CSG VN-index thì có những thời điểm đồng
biến với chỉ số giá lạm phát, lúc thì lại ngược chiều. Cụ thể như ta thấy ở thời điểm tháng
9/2007 – 2/2009, chỉ số CPI tăng từ 148% lên 190% trong khi đó chỉ số VN-index giảm từ
1046 điểm xuống còn 245.74 điểm (thấp nhất trong suốt thời gian 2005 đến nay). Thời
gian từ 10/2009 đến quí 2 năm 2012 thì CPI tăng từ 190% lên đến 270% và VN-index
giảm từ 580 xuống còn 414 điểm. Và kết quả này phù hợp với nghiên cứu thực nghiệm của
tác giả Menike, L. (2006). Trong khi đó, một giai đoạn nhỏ kể từ thời gian 2/2009-10/2009
thì lại xuất hiện quan hệ đồng biến giữa CPI và VN-index. Và điều này cũng được các bài
nghiên cứu của Kandir, S. (2008), Thaker, M. và cộng sự (2009) tìm thấy tương tự ở các
thị trường Thổ Nhĩ Kì và Malaysia.
Tuy nhiên nhìn về mặt tổng thể thì chúng ta vẫn thấy mối tương quan nghịch giữa 2
nhân tố này. Bởi vì một khi lạm phát cao sẽ thể hiện một sự bất ổn trong nền kinh tế khi
cung tiền đang vượt quá nhu cầu trên thị trường. Và đồng thời một khi lam phát cao sẽ
20
khiến cho chi phí sử dụng vốn của các doanh nghiệp sẽ tăng lên. Điều này sẽ làm cho lợi
nhuận các doanh nghiệp giảm đi. Nhu cầu đối với cổ phiếu đồng thời cũng sẽ giảm đi do
một khi lạm phát cao sẽ dẫn đến lãi suất cao, và lợi nhuận từ kênh đầu tư cổ phiếu giảm đi
trong khi rủi ro đang tăng lên. Điều này có thể sẽ làm cho giá chứng khoán giảm mạnh do
một đợt thoát khỏi thị trường như nhận định của nhà nghiên cứu Menike, L. (2006).
Tăng trưởng cung tiền M2
Nguồn: Dữ liệu VN-Index của công ty cổ phần truyền thông Việt Nam VCCorp và
dữ liệu tăng trưởng cung tiền M2 của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF
Hình 3.3: Biến động nhân tố cung tiền M2 và chỉ số VN-index
Nhìn vào đồ thị chúng ta thấy rằng lượng tiền M2 được ngân hàng nhà nước tung vào
thị trường tăng dần qua các năm. Điều này về dài hạn (trong suốt thời gian nghiên cứu
2006-2012) đã làm cho nền kinh tế bị lạm phát tăng cao như đồ thị lạm phát ở trên đã thể
hiện. Điều này đã làm cho chỉ số VN-index đi theo hướng ngược lại. Quan điểm này cũng
tương đồng với nghiên cứu của Thaker, M. và cộng sự (2009). Tuy nhiên bên cạnh đó
chúng ta cũng thấy một lập luận trái ngược lại là: khi cung tiền tăng lên sẽ giúp cho lãi suất
giảm đi và các doanh nghiệp có nhiều khả năng tiếp cận với nguồn vốn rẻ hơn. Điều này sẽ
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gia tăng sản xuất và tăng doanh thu. Và nó sẽ giúp cho
giá chứng khoán của các doanh nghiệp tăng lên (điều này đã đúng trong khoảng thời gian
tháng 2/2009-10/2009 khi chính phủ thực hiện chính sách nới lỏng tài chính, tăng cung tiền
ra thị trường). Nhận định này cũng tương đồng với nghiên cứu của Bilson, C. và cộng sự
(2001); Tunah, H. (2010). Bên cạnh những tương quan mạnh giữa 2 chỉ số này thì cũng có
những nghiên cứu của Menike, L. (2006); Kandir, S. (2008) thì tìm thấy tương quan rất yếu
hoặc không có tương quan giữa cung tiền M2 và chỉ số giá chứng khoán.
Thay đổi tỷ giá
Nguồn: Dữ liệu VN-Index của công ty cổ phần truyền thông Việt Nam VCCorp và
dữ liệu tỷ giá hối đoái USD/VNĐ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam