Sử dụng hợp lý tài nguyên
- 17 trang
- file .doc
Sử dụng hợp lý tài nguyên
I. KHÁI QUÁT
Nước là tài nguyên vật liệu quan trọng nhất của loài người và sinh vật trên
trái đất. Con người mỗi ngày cần 250 lít nước cho sinh hoạt, 1.500 lít nước cho
hoạt động công nghiệp và 2.000 lít cho hoạt động nông nghiệp. Nước chiếm 99%
trọng lượng sinh vật sống trong môi trường nước và 44% trọng lượng cơ thể con
người. Ðể sản xuất 1 tấn giấy cần 250 tấn nước, 1 tấn đạm cần 600 tấn nước và 1
tấn chất bột cần 1.000 tấn nước.
Ngoài chức năng tham gia vào chu trình sống trên, nước còn là chất mang
năng lượng (hải triều, thuỷ năng), chất mang vật liệu và tác nhân điều hoà khí hậu,
thực hiện các chu trình tuần hoàn vật chất trong tự nhiên. Có thể nói sự sống của
con người và mọi sinh vật trên trái đất phụ thuộc vào nước.
Tài nguyên nước ở trên thế giới theo tính toán hiện nay là 1,39 tỷ km 3, tập
trung trong thuỷ quyển 97,2% (1,35 tỷ km3), còn lại trong khí quyển và thạch
quyển. 94% lượng nước là nước mặn, 2% là nước ngọt tập trung trong băng ở hai
cực, 0,6% là nước ngầm, còn lại là nước sông và hồ. Lượng nước trong khí quyển
khoảng 0,001%, trong sinh quyển 0,002%, trong sông suối 0,00007% tổng lượng
nước trên trái đất. Lượng nước ngọt con người sử dụng xuất phát từ nước mưa
(lượng mưa trên trái đất 105.000km3/năm. Lượng nước con người sử dụng trong
một năm khoảng 35.000 km3, trong đó 8% cho sinh hoạt, 23% cho công nghiệp và
63% cho hoạt động nông nghiệp).
Tài nguyên nước của Việt Nam nhìn chung khá phong phú. Việt Nam là
nước có lượng mưa trung bình vào loại cao, khoảng 2000 mm/năm, gấp 2,6 lượng
mưa trung bình của vùng lục địa trên Thế giới. Tổng lượng mưa trên toàn bộ lãnh
thổ là 650 km3/năm, tạo ra dòng chảy mặt trong vùng nội địa là 324km 3/năm. Vùng
có lượng mưa cao là Bắc Quang 4.000-5.000mm/năm, tiếp đó là vùng núi cao
Hoàng Liên Sơn, Tiên Yên, Móng Cái, Hoành Sơn, Ðèo Cả, Bảo Lộc, Phú Quốc
1
3.000-4.000 mm/năm. Vùng mưa ít nhất là Ninh Thuận và Bình Thuận, vào khoảng
600-700 mm/năm.
Ngoài dòng chảy phát sinh trong vùng nội địa, hàng năm lãnh thổ Việt Nam
nhận thêm lưu lượng từ Nam Trung Quốc và Lào, với số lượng khoảng 550 km 3.
Do vậy, tài nguyên nước mặt và nước ngầm có thể khai thác và sử dụng ở Việt
Nam rất phong phú, khoảng 150 km3 nước mặt một năm và 10 triệu m3 nước ngầm
một ngày. Tuy nhiên, do mật độ dân số vào loại cao, nên bình quân lượng nước
sinh trong lãnh thổ trên đầu người là 4200m 3/người, vào loại trung bình thấp trên
Thế giới.
Tài nguyên nước ngọt, ở Việt Nam tương đối phong phú, đa dạng, nhưng lại
rất phức tạp về tính chất và đang có những diễn biến mà nếu không được quản lý
tích cực và kịp thời sẽ đem lại những khó khăn to lớn cho cuộc sống của người dân
và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
II. NỘI DUNG
1. Tài nguyên nước ở Việt Nam
1.1. Tài nguyên nước mặt
Về nước mặt, trung bình hàng năm lãnh thổ Việt Nam nhận được 1.944mm
nước mưa, trong đó bốc hơi trở lại không trung 1.000mm, còn lại 941mm hình
thành một lượng nước mặt khoảng 310 tỷ m 3. Tính bình quân, mỗi người dân Việt,
có thể hứng được một lượng nước bằng 3.870 m 3 mỗi năm; hoặc 10,6 m3 tức
10.600 lít nước mỗi ngày. Trong lúc tại các nước công nghiệp phát triển nhất, tổng
nhu cầu về nước trong một ngày bình quân theo đầu người, bao gồm cả nước sinh
hoạt, nước cung cấp cho nông nghiệp và công nghiệp cũng chỉ vào khoảng 7.400
lít/người.ngày; bao gồm 340 lít cho sinh hoạt, 2.540 lít cho nông nghiệp và 4.520
lít cho công nghiệp. Ở nước ta, tại các đô thị lớn, lượng nước sinh hoạt cấp cho mỗi
người/ngày hiện nay chỉ mới vào khoảng 100 - 150 lít. Mục tiêu của Chính phủ
Việt Nam là cung cấp cho nhân dân nông thôn khoảng 70 lít/người.ngày vào năm
2010 và 140 lít/người.ngày vào năm 2020. Ở một số vùng đặc biệt khan hiếm nước
2
vào mùa khô, như vùng Lục Khu thuộc tỉnh Cao Bằng, mục tiêu phấn đấu hiện nay
là cung cấp cho mỗi người, mỗi ngày 15 lít nước. Chỉ riêng nguồn nước ngọt từ
mưa tiềm năng đã vượt khá xa yêu cầu về cấp nước.
Ngoài nguồn nước mặt từ mưa, Việt Nam
hiện còn có nguồn nước rất lớn do các con sông
xuyên biên giới đem từ lãnh thổ các nước ngoài
vào như sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Mê
Công. Lượng nước này ước tính bằng 520 tỷ m 3,
gấp 1,7 lần lượng nước ngọt hình thành trong
nước. Một số sông xuyên biên giới như sông Kỳ
Cùng ở Lạng Sơn, Bằng Giang ở Cao Bằng, chuyển một lượng nước từ Việt Nam
qua lãnh thổ Trung Quốc. Tuy nhiên lượng này không đáng kể so với tổng lượng
nước hình thành trên lãnh thổ Việt Nam . Các phụ lưu của sông Mê Công, như
Nậm Rốm, Sê Kông, Sê Băng Hiêng, Sê San, Srê Pok chuyển một lượng nước khá
lớn từ lãnh thổ Việt Nam vào các nước láng giềng như Cộng hoà dân chủ nhân dân
Triều Tiên, Lào, Campuchia, nhưng rồi từ các nước này lượng nước đó lại chảy trở
lại vào Đồng bằng sông Cửu Long.
Tổng hợp hai nguồn nước mặt: nguồn hình thành trên lãnh thổ quốc gia và
nguồn từ nước ngoài chảy vào, nói một cách khái quát, Việt Nam có tổng lượng
nước mặt trung bình năm bằng khoảng 830 tỷ m 3. Trong đó phần hình thành trong
nước là 310 tỷ, chiếm 37%; phần từ nước ngoài vào là 520 tỷ, chiếm 63%.
Tài nguyên nước nói trên tồn tại dưới những dạng thức khác nhau như sông,
hồ, kênh, rạch, đầm phá, vừa lưu giữ, vận chuyển, chuyển hóa nước, vừa tạo nên tài
nguyên đa dạng sinh học và nguồn cảnh sắc thiên nhiên vô cùng phong phú và đa
dạng.
Về sông, nước ta có 2.360 con sông với
chiều dài từ 10km trở lên và 26 phân lưu của
các sông lớn. Trong đó, có 9 sông có lưu vực
3
lớn hơn 10.000km2 là sông Hồng, sông Thái Bình, sông Kỳ Cùng - Bằng Giang,
sông Mã, sông Cả, sông Thu Bồn, sông Ba, sông Srê Pok - Sê San, sông Đồng Nai
và sông Cửu Long. Theo lưu vực và yêu cầu quản lý nguồn nước, có thể phân chia
các sông Việt Nam thành ba nhóm: nhóm thượng nguồn ở nước ngoài, hạ nguồn ở
Việt Nam như sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Đồng Nai; nhóm thượng nguồn
ở Việt Nam, hạ nguồn ở ngoài nước như sông Kỳ Cùng, sông Bằng Giang; nhóm
có một số sông nhánh thượng nguồn ở Việt Nam, trung nguồn ở nước ngoài và hạ
nguồn sông chính ở Việt Nam như sông Mê Công.
Nước ta có nhiều hồ tự nhiên như hồ Ba Bể ở Bắc Kạn, với diện tích khoảng
5km2; Hồ Tây ở Hà Nội, 4,5km2; Biển Hồ ở Gia Lai, 8km 2; hồ Lắk ở Đắk Lắk,
10km2. Về hồ nhân tạo, có 750 hồ lớn và trung bình và hàng nghìn hồ nhỏ. Trong
đó có 7 hồ với dung tích trên 500 triệu m 3: Hòa Bình, 5.680 triệu m3; Trị An, 2.547
triệu m3; Thác Bà, 2160 triệu m3; Thác Mơ, 1311 triệu m3; Dầu Tiếng, 1.111 triệu
m3; Yaly, 779 triệu m3; Hàm Thuận - Đa Mi, 535 triệu m3. Một số đập và hồ lớn
hiện đang được xây dựng và chuẩn bị xây dựng trên sông Đà, sông Gâm, sông Sê
San, sông Đồng Nai.
Nước ta đã xây dựng khoảng 75 hệ thống thủy lợi vừa và lớn với diện tích
tưới tiêu của mỗi hệ thống từ 10.000ha đến 200.000ha, như các hệ thống: Bắc
Hưng Hải, sông Nhuệ, Thác Huống, Bắc Thái Bình, Đồng Cam, Ayun Hạ, Dầu
Tiếng.
Ven biển có nhiều đầm, phá, bàu, trằm. Nổi tiếng là đầm phá Tam Giang -
Cầu Hai (Thừa Thiên - Huế), có diện tích bằng 216km 2 mặt nước; Thị Nại (Bình
Định), 45km2; Trường Giang (Quảng Ngãi), 36,9km 2; Cù Mông (Phú Yên),
30,2km2; Nước Ngọt (Bình Định), 26,5km2; Thủy Triều (Khánh Hòa), 25,5km2; Ô
Loan (Phú Yên), 18,0km2; Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế), 16,0km2; Trà Ổ (Bình
Định), 14,4km2; Đầm Nại (Ninh Thuận), 12,0km2.
1.2. Tài nguyên nước ngầm
4
Về nước ngầm, tiềm năng của nước ta cũng tương đối lớn. Tổng trữ lượng có
tiềm năng khai thác được trên cả nước của các tầng trữ nước trên toàn lãnh thổ,
chưa kể phần hải đảo, ước tính gần 2000m 3/s, tương ứng khoảng 60 tỷ m3/năm. Trữ
lượng này thay đổi nhiều theo các vùng: dồi dào nhất ở Đồng bằng sông Hồng,
Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ; khá nhiều ở Tây Nguyên và ít hơn tại
các vùng núi Tây Bắc, Đông Bắc và duyên hải Bắc và Nam Trung Bộ.
Trữ lượng ở giai đoạn tìm kiếm và thăm dò sơ bộ mới đạt khoảng 8 tỷ
m3/năm, tức khoảng 13% tổng trữ lượng. Theo kết quả điều tra, khảo sát và nghiên
cứu đã có đến năm 1999 thì trữ lượng nước ngầm thuộc loại có thể khai thác ngay
với độ tin cậy cao (cấp A) vào khoảng 736.205m 3/ngày; thuộc loại có thể khai thác
với độ tin cậy khá (cấp B) vào khoảng 939.625m 3/ngày; thuộc loại đã được dự báo
là có khả năng khai thác (cấp C1), 2.007.165 và (C2), 10.848.451m 3/ngày. Tổng
lượng đã khai thác chỉ mới vào khoảng 5% tổng trữ lượng. Trong các năm tới
lượng khai thác có thể lên tới khoảng 12 tỷ m 3/năm. So sánh với thế giới trữ lượng
nước ngầm của Việt Nam ở vào mức trung bình.
Trữ lượng nước ngầm nhạt đã được đánh giá ở các vùng khác nhau trên
nước ta đến năm 1995
Nguồn: Nguyễn Kim Ngọc, Nguyễn Thượng Hùng, 2003
Việt Nam cũng có tài nguyên nước nóng và nước khoáng phong phú, đa
dạng về loại hình. Tài nguyên này được đánh giá có chất lượng tốt, có khả năng và
một phần đã được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau như: sản xuất nước
khoáng đóng chai; thủy lý trị liệu trong y học, khai thác khí CO 2; khai thác năng
5
lượng địa nhiệt. Theo số liệu điều tra tới năm 1999, cả nước có khoảng 400 nguồn
nước khoáng và nước nóng đã được khảo sát, trong đó 287 nguồn đã được công
nhận.
Xét theo những số liệu như đã nêu trên có thể nói rằng Việt Nam là một quốc
gia tương đối giàu tài nguyên nước. Theo tài liệu của Viện Tài nguyên thế giới
công bố năm 2002 - 2003, thì hiện nay hàng năm lượng tài nguyên nước ngọt tái
tạo được trên mặt trái đất là 40.594km 3, trung bình cho mỗi đầu người là 6.538m 3.
Trị số trung bình tương ứng của nước ta là 11.189m 3, gấp 1,7 lần trung bình của thế
giới. Tuy nhiên với lượng nước này nước ta cũng chỉ thuộc vào loại tương đối
phong phú về tài nguyên nước ngọt trên đầu người. Các nước nhiều nước như Lào
có tới 68.318m3/người; Campuchia, 30.561m3/người; Mianma 21.358m3/người.
Các quốc gia ít nước như Trung Quốc chỉ có 2.185m 3/người, Hàn Quốc,
1.471m3/người. Nhiều nước nghèo tài nguyên nước chỉ có khoảng 500m 3, thậm chí
50m3/người.năm.
Cũng như tại nhiều nơi khác trên thế giới, ở nước ta tài nguyên nước không
chỉ có giá trị về cấp nước cho nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, mà còn là nguồn năng
lượng sạch, nguồn vật liệu của rất nhiều ngành công nghiệp, thủ công nghiệp, cơ sở
thiên nhiên của các ngành thủy sản, giao thông, du lịch, giải trí, điều dưỡng, là
nhân tố quan trọng của sự tồn tại và phát triển của các hệ sinh thái, quyết định chất
lượng của cuộc sống vật chất và tinh thần của con người.
2. Những khó khăn và thách thức trong việc bảo vệ nguồn nước
2.1. 2/3 tổng lượng nước mặt của Việt Nam phụ thuộc vào nước ngoài
63% tổng lượng dòng chảy nước mặt trên lãnh thổ Việt Nam là từ các nước
láng giềng: Trung Quốc, Thái Lan, Mianma, Lào và Campuchia chảy vào. Các
nước này đều đang ở trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa,
phát triển nông nghiệp, dịch vụ một cách nhanh chóng. Quá trình phát triển này, dù
bằng cách nào cũng sẽ đặt ra cho các nước nói trên yêu cầu tận dụng hợp lý tài
nguyên nước sản sinh trên lãnh thổ của họ. Chế độ thủy văn của các dòng sông
6
xuyên biên giới chảy vào nước ta sẽ thay đổi. Dòng chảy nước sẽ được điều tiết
theo những chiều hướng có khi không phù hợp với yêu cầu kinh tế và sinh thái của
ta. Khối lượng nước cần cho sinh hoạt, canh tác, đẩy mặn, giao thông thủy vào mùa
khô có thể sẽ không còn như trước. Chất lượng nước của một số dòng sông sau khi
đã tiếp nhận xả thải từ nhiều đô thị, khu dân cư, khu nông nghiệp trên các vùng
thượng lưu sẽ không thể còn độ trong sạch như hiện nay.
Lấy sông Mê Công làm thí dụ. Mê Công là một con sông xuyên biên giới
quan trọng ở châu Á có tiềm năng rất lớn về các dạng tài nguyên nước. Từ những
năm cuối thập kỷ 50 của thế kỷ XX đã được các nước trong lưu vực và các tổ chức
quốc tế hết sức quan tâm việc quản lý hợp lý tài nguyên nước cùng các tài nguyên
thiên nhiên liên quan khác và các hoạt động phát triển trên lưu vực. Việc hợp tác
quản lý dòng sông quan trọng này được thực hiện trong khuôn khổ tổ chức hợp tác
quốc tế về phần hạ lưu sông Mê Công, cụ thể là của Ủy ban quốc tế về hạ lưu sông
Mê Công trước từ năm 1957 đến năm 1975, Ủy ban lâm thời hạ lưu sông Mê Công
từ năm 1975 đến năm 1995 và Ủy ban sông Mê Công (Mekong River Commission,
MRC) hiện nay. Qua nhiều đổi thay của lịch sử, thành viên của các Ủy ban này là
Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam . Địa phận quản lý của các Ủy ban chỉ là
phần "hạ lưu" sông Mê Công. Trung Quốc và Mianma không phải là thành viên
chính thức của Ủy ban và chỉ tham gia một cách không chính thức vào một số cuộc
họp của Ủy ban. Với đặc điểm như trên, sông Mê Công là một dòng sông liên quốc
gia. Theo thỏa thuận đã có giữa bốn quốc gia thuộc phần hạ lưu lưu vực sông Mê
Công là Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam, không nước nào được xây dựng
công trình trên dòng sông chính, việc xây dựng các công trình quan trọng trên các
sông nhánh lớn cũng cần thông báo và tham khảo ý kiến của nhau.
Cho tới nay, ở phần hạ lưu trên dòng sông chính không có công trình nào,
nhưng ở phần thượng lưu thuộc địa phận lãnh thổ Trung Quốc, một loạt công trình
thủy điện, với đập cao, hồ chứa lớn đã được hoàn thành, vận hành phát điện, điều
tiết nước, hoặc đang được xây dựng và chuẩn bị xây dựng. Thủy điện Manwan,
7
công suất lắp máy 1.500MW, đập cao 126m, đã hoàn thành và phát điện năm 1996
là một thí dụ. Trên các sông nhánh, Thái Lan, Lào và ở nước ta cũng đã và đang
xây dựng nhiều công trình phục vụ thủy điện và cấp nước cho nông nghiệp.
Vì vậy, nhìn một cách lâu dài, không thể khẳng định là nước ta sẽ luôn luôn
có tài nguyên nước phong phú với tổng lượng là 830 tỷ m3/năm, hay 10.375
m3/người.năm. Phần chắc chắn là phải dựa chủ yếu vào lượng nước hình thành trên
lãnh thổ là 310 tỷ m3/năm. Lượng nước có thể có trên đầu người sẽ phải tính theo
dân
số
ổn
định
xung quanh 100 triệu người.
8
2.2. Tài nguyên nước phân bố rất không đồng đều theo không gian và
thời gian
Lượng mưa, nhân tố chủ yếu hình thành tài nguyên nước trên lãnh thổ nước
ta, phân bố rất không đều theo không gian và thời gian. Bình quân toàn lãnh thổ
lượng mưa năm là 1.944mm. Tuy nhiên, lượng mưa này phân bố rất không đều
theo không gian. Có những nơi lượng mưa này đạt 8.000mm/năm như ở Bạch Mã
thuộc Thừa Thiên - Huế; 5.000mm/năm như ở Bắc Quang thuộc Hà Giang; Nam
Châu Lĩnh thuộc Quảng Ninh. Trong lúc có những nơi lại chỉ có 700mm/năm như
ở thị xã Phan Rang, Ninh Thuận, thậm chí chỉ có 400mm/năm như ở thị xã Phan Rí
thuộc Bình Thuận. Trong từng phạm vi lãnh thổ nhỏ hơn như tỉnh, huyện lượng
mưa phân bố cũng rất không đều. Trong năm 2002, nhiều tỉnh ở Tây Nguyên và
duyên hải Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long trong 3 - 4 tháng hầu như
không có giọt mưa nào. Trong năm 2003, nhiều tỉnh ở Tây Nguyên, duyên hải miền
Trung đều có tình trạng không có mưa suốt trong 3 tháng mùa hè .
Tại tất cả các vùng trong nước, hàng
năm lượng nước trong khoảng ba tháng mùa lũ
chiếm 75 - 85% tổng lượng nước trong năm.
Cùng với đó là mùa khô kéo dài từ 5 đến 6 tháng.
Trong mùa này, lượng dòng chảy trên rất nhiều
con sông chỉ vào cỡ 15 - 20% tổng lượng dòng
chảy năm.
Lượng dòng chảy trong sông, tổng hợp cả dòng chảy hình thành trong và
ngoài lãnh thổ, cũng phân bố rất không đều. Lấy theo số liệu của "Hồ sơ nguồn
nước, 2002" thì suất dòng chảy năm bình quân của cả nước ta là 2,642 triệu
m3/km2.năm. Vùng Đông Bắc với diện tích bằng 65.327km 2, có lượng dòng chảy
năm bằng 15,4 tỷ m3/năm, suất dòng chảy năm chỉ là 0,236 triệu m 3/km2. Vùng
Đồng bằng sông Cửu Long với diện tích bằng 39.706km 2 có lượng dòng chảy năm
9
bằng 507,9 tỷ m3/năm, suất dòng chảy năm khoảng 12,79m 3/km2, gấp 54 lần suất
dòng chảy của vùng Đông Bắc. Khác biệt giữa các vùng khác cũng tương đối lớn.
Trong bối cảnh chung cả nước như vậy, sự phân bố nước không đều theo
không gian và thời gian làm cho tình trạng thiếu nước về mùa khô và lũ lụt với lưu
lượng lớn, có sức tàn phá mạnh mẽ trở nên đặc biệt trầm trọng tại một số nơi. Tỷ lệ
giữa lưu lượng tối đa và lưu lượng tối thiểu của một số con sông lên tới 1.000, thậm
chí 10.000 lần.
2.3. Có nhiều thiên tai gắn liền với nước
Lũ lụt là thiên tai phổ biến nhất và ác liệt nhất ở nước ta. Theo tài liệu ghi
chép của các cơ quan quản lý nước thì trong thế kỷ XIX, chỉ riêng ở Đồng bằng
sông Hồng đã có khoảng 30 năm lụt rất lớn, trong đó 26 năm vỡ đê tả ngạn sông
Hồng, 18 năm đê hữu ngạn bị vỡ. Mỗi lần vỡ đê có thể gây thiệt hại cho hàng chục
vạn ha mùa màng, cuốn trôi hàng ngàn làng xóm với hàng ngàn sinh mệnh người
và gia súc, hủy hoại nhiều công trình công ích,
gây dịch bệnh trên nhiều vùng.
Trong thế kỷ XX, mặc dầu hệ thống đê điều đã
được tu bổ, kiên cố hóa nhưng do lũ lớn, đã có
23 năm có sự cố vỡ đê lớn gây tai họa và tổn
thất nghiêm trọng. Trận lũ vỡ đê năm 1971 trên
Đồng bằng sông Hồng đã gây thiệt hại khoảng 7 triệu tấn thóc, số dân bị ảnh hưởng
lên tới 2,71 triệu người. Lũ do bão gây ra ở miền Trung từ năm 1992 đến năm 1999
đã làm chết 2.716 người, bị thương 1.655 người, gây thiệt hại kinh tế trên 8.000 tỷ
đồng Việt Nam. Mười năm gần đây, từ năm 1986 đến năm 2002, đã lần lượt xảy ra
30 trận lũ đặc biệt lớn trên nhiều lưu vực sông trong cả nước.
Những trận lụt lớn này là hậu quả của những trận mưa cực lớn. Lượng mưa
ngày lớn nhất trong nhiều trường hợp lên tới 500 - 800mm. Trong một số trường
hợp đặc biệt lên tới 1.422mm/ngày (Huế), 1630mm/ngày (Truồi), 1138,5mm/ngày
(Tà Lương), 830,0mm/ngày (Can Lộc), 779,6mm/ngày (Thác Muối),
10
788,4mm/ngày (Đô Lương), 723,2mm/ngày (Giác Vực), 716,4mm/ngày (Trà My),
722,0mm/ngày (Phú Thọ), 731,5mm/ngày (Đông Sơn), 758,0mm/ngày (Ngọc Lạc),
735,0mm/ngày (Lang Chánh), 760,4mm/ngày (Bàu Nước), 767,0mm/ngày (Sơn
Giang), 753,0mm/ngày (A Lưới), 721,6mm/ngày (Phú Ốc).
Hạn hán cũng là thiên tai gây tác hại hết sức lớn, trên diện rộng cho sản xuất
nông, công nghiệp và sinh hoạt của nhân dân. Vào mùa khô tất cả các vùng sinh
thái trên nước ta từ đồng bằng, trung du đến miền núi đều có thể bị hạn nặng.
Trong những năm gần đây ở Tây Nguyên đã liên tiếp có 6 năm bị hạn 1994,
1995, 1996, 1997, 1998 và 2003. Đặc biệt năm 1998 diện tích cây công nghiệp, cây
ăn quả bị hạn là 111.000ha, bị chết là 19.300 ha, riêng cà phê bị hạn là 74.400ha, bị
chết là 13.800ha và hơn 770.000 người thiếu nước sinh hoạt.
Tại vùng Lục Khu thuộc tỉnh Cao Bằng nhân dân địa phương cho biết trong
các năm 1978, 1998 mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tận tháng 5 năm sau, nước
cho trồng trọt và chăn nuôi cạn kiệt, nước ăn uống, sinh hoạt cho nhân dân vô cùng
khan hiếm. Nhân dân phải bỏ hết mọi việc để đi tìm nước, "cõng" nước về nhà
phục vụ ăn uống với mức tối thiểu. Nhiều hộ hàng ngày phải đi xa 4 - 8km, vượt
núi cao, đèo sâu để “cõng” nước, nhưng cũng chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu
cầu tối thiểu. Trong những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, hàng trăm hộ dân
vùng này đã phải rời bỏ quê hương, di dân tự do vào Tây Nguyên để kiếm sống.
Tại các đô thị, thậm chí đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế
và một số thành phố duyên hải miền Trung về mùa khô cũng có nạn thiếu gay gắt
nước ăn uống sinh hoạt cho nhân dân, cũng như nước cho sản xuất công nghiệp.
2..4. Chất lượng nước đang giảm sút ở nhiều nơi
Theo Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) thì tỷ lệ tiếp cận
với nước sạch của nhân dân Việt Nam đã tăng 13% trong giai đoạn 1998 - 2000.
Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng nhanh nhất về tỷ lệ này trên thế
giới. So sánh với một số nơi trên thế giới thì nước sông ngòi phần thượng lưu và tại
một số hồ lớn ở Việt Nam còn tương đối sạch. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh
11
của công nghiệp hóa, đô thị hóa, gia tăng dân số ở nông thôn cũng như thành thị,
chất lượng nước mặt cũng như nước ngầm đã có những biểu hiện suy thoái khá
nghiêm trọng.
Mức độ ô nhiễm nước ở một số khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công
nghiệp tập trung đã rất lớn. Thí dụ tại Cụm Công nghiệp Tham Lương, thành phố
Hồ Chí Minh, ước tính mỗi ngày có khoảng hàng trăm nghìn m3 nước thải công
nghiệp từ các nhà máy giấy, hóa chất, dệt nhuộm thải ra, tuy đã có những cố gắng
khắc phục, nhưng nước kênh Tham Lương vẫn còn mầu đen, mùi hôi thối, hàm
lượng chất độc hại cao.Ở thành phố Thái Nguyên nước thải từ các cơ sở luyện
gang, thép, kim loại mầu, sản xuất giấy, khai thác than chưa được xử lý vẫn đổ ra
sông Cầu và chuyển về vùng hạ lưu là nơi dân cư đông đúc sản xuất nông, công
nghiệp phát triển. Hàng trăm làng nghề về sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, dệt
nhuộm, giấy với lượng nước thải hàng ngàn m3/ngày không qua xử lý cũng góp
phần gây ô nhiễm nguồn nước tại nhiều địa phương ở đồng bằng và trung du.
Ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều đô thị lớn và vừa vẫn còn tình
trạng nước thải sinh hoạt, lẫn lộn với nước thải công nghiệp không qua xử lý tập
trung, mà trực tiếp thải ra các sông, hồ, kênh, mương lộ thiên đi qua các khu dân cư
và sản xuất. Nước thải từ phần lớn các bệnh viện và cơ sở y tế cũng còn được thải
chung vào hệ nước thải công cộng. Độ ô nhiễm của phần lớn các vực nước tiếp
nhận nước thải đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Ô nhiễm nước ở nông thôn và các khu vực sản xuất nông nghiệp cũng rất
nghiêm trọng. Ở đây chưa có cơ sở hạ tầng tốt cho thoát nước thải, phần lớn chất
thải của con người và gia súc không được xử lý, bị rửa trôi theo dòng mặt, hoặc
thấm xuống đất, làm cho nguồn nước mặt cũng như nước ngầm bị ô nhiễm về mặt
hữu cơ và vi sinh. Môi trường nước nông thôn còn bị ô nhiễm do sử dụng không
hợp lý và đúng quy cách các hóa chất nông nghiệp, trong đó có không ít hóa chất
độc hại. Tỷ lệ số hộ ở nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh chỉ mới đạt khoảng
30 - 40%. Chỉ khoảng 28 - 30% số hộ có công trình vệ sinh đạt tiêu chuẩn.
12
2.5. Yêu cầu về nước đang tăng nhanh:
Ở nước ta với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, phát triển
nông nghiệp và nâng cao đời sống nhân dân ở nông thôn yêu cầu về nước đang
tăng lên với gia tốc. Theo tài liệu nghiên cứu về tài nguyên nước của Việt Nam do
Viện Quy hoạch thủy lợi hợp tác với Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Phát triển
châu Á thực hiện năm 1996 thì năm 1990 lượng tài nguyên nước được sử dụng ở
nước ta mới chỉ có 50 tỷ m3/năm, chỉ mới bằng khoảng 6% tổng tài nguyên. Trong
đó 92% được dùng cho nông nghiệp, 5% cho công nghiệp và 4% cho cấp nước đô
thị. Tài liệu này dự báo rằng lượng nước sử dụng sẽ tăng lên tới khoảng 65 tỷ
m3/năm vào năm 2000; 72 tỷ m3/năm vào năm 2010 (tức tăng khoảng 11%); 80 tỷ
m3/năm vào năm 2020 và 87 m3/năm vào năm 2030. Tỷ lệ nước dùng cho nông
nghiệp giảm xuống còn 75%, cho công nghiệp tăng lên 16% và cho sinh hoạt là
9%.
Những tài liệu nghiên cứu gần đây hơn đã đưa ra những yêu cầu cao hơn
nhiều về gia tăng dùng nước ở nước ta. So sánh với năm 2000 tổng lượng nước sử
dụng trong năm 2010 sẽ tăng 14%; năm 2020, 25% và năm 2030, 38%. Riêng cho
nông nghiệp, đến năm 2010, với diện tích tưới là 12 triệu ha, lượng nước cần dùng
đã là 88,8 tỷ m3/năm. Tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch hiện nay là 60%, dự
kiến sẽ đạt 80% năm 2005 và 95% năm 2010. Nhu cầu nước cho sinh hoạt đương
nhiên phải tăng theo. Với đà gia tăng được dự báo trên đây đến năm 2030 lượng
nước sử dụng sẽ có thể lên tới gần 90 tỷ m3/năm, tức bằng khoảng 11% tổng tài
nguyên nước, hoặc 29% tài nguyên nước hình thành trên lãnh thổ quốc gia.
3. Những vấn đề sử dụng hợp lý tài nguyên nước
3.1. Quản lý hiệu quả tài nguyên nước
Để tránh nguy cơ thiếu nước, phải xét đến những lợi ích toàn cục, quản lý
tổng hợp tài nguyên nước. Các cấp ngành cần phối hợp đồng bộ trong điều tiết
nguồn nước hợp lý, không nên vì các lợi ích cục bộ trước mắt. Bên cạnh đó, hệ
thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước ở nước ta còn bộ lộc những hạn chế, cần
13
I. KHÁI QUÁT
Nước là tài nguyên vật liệu quan trọng nhất của loài người và sinh vật trên
trái đất. Con người mỗi ngày cần 250 lít nước cho sinh hoạt, 1.500 lít nước cho
hoạt động công nghiệp và 2.000 lít cho hoạt động nông nghiệp. Nước chiếm 99%
trọng lượng sinh vật sống trong môi trường nước và 44% trọng lượng cơ thể con
người. Ðể sản xuất 1 tấn giấy cần 250 tấn nước, 1 tấn đạm cần 600 tấn nước và 1
tấn chất bột cần 1.000 tấn nước.
Ngoài chức năng tham gia vào chu trình sống trên, nước còn là chất mang
năng lượng (hải triều, thuỷ năng), chất mang vật liệu và tác nhân điều hoà khí hậu,
thực hiện các chu trình tuần hoàn vật chất trong tự nhiên. Có thể nói sự sống của
con người và mọi sinh vật trên trái đất phụ thuộc vào nước.
Tài nguyên nước ở trên thế giới theo tính toán hiện nay là 1,39 tỷ km 3, tập
trung trong thuỷ quyển 97,2% (1,35 tỷ km3), còn lại trong khí quyển và thạch
quyển. 94% lượng nước là nước mặn, 2% là nước ngọt tập trung trong băng ở hai
cực, 0,6% là nước ngầm, còn lại là nước sông và hồ. Lượng nước trong khí quyển
khoảng 0,001%, trong sinh quyển 0,002%, trong sông suối 0,00007% tổng lượng
nước trên trái đất. Lượng nước ngọt con người sử dụng xuất phát từ nước mưa
(lượng mưa trên trái đất 105.000km3/năm. Lượng nước con người sử dụng trong
một năm khoảng 35.000 km3, trong đó 8% cho sinh hoạt, 23% cho công nghiệp và
63% cho hoạt động nông nghiệp).
Tài nguyên nước của Việt Nam nhìn chung khá phong phú. Việt Nam là
nước có lượng mưa trung bình vào loại cao, khoảng 2000 mm/năm, gấp 2,6 lượng
mưa trung bình của vùng lục địa trên Thế giới. Tổng lượng mưa trên toàn bộ lãnh
thổ là 650 km3/năm, tạo ra dòng chảy mặt trong vùng nội địa là 324km 3/năm. Vùng
có lượng mưa cao là Bắc Quang 4.000-5.000mm/năm, tiếp đó là vùng núi cao
Hoàng Liên Sơn, Tiên Yên, Móng Cái, Hoành Sơn, Ðèo Cả, Bảo Lộc, Phú Quốc
1
3.000-4.000 mm/năm. Vùng mưa ít nhất là Ninh Thuận và Bình Thuận, vào khoảng
600-700 mm/năm.
Ngoài dòng chảy phát sinh trong vùng nội địa, hàng năm lãnh thổ Việt Nam
nhận thêm lưu lượng từ Nam Trung Quốc và Lào, với số lượng khoảng 550 km 3.
Do vậy, tài nguyên nước mặt và nước ngầm có thể khai thác và sử dụng ở Việt
Nam rất phong phú, khoảng 150 km3 nước mặt một năm và 10 triệu m3 nước ngầm
một ngày. Tuy nhiên, do mật độ dân số vào loại cao, nên bình quân lượng nước
sinh trong lãnh thổ trên đầu người là 4200m 3/người, vào loại trung bình thấp trên
Thế giới.
Tài nguyên nước ngọt, ở Việt Nam tương đối phong phú, đa dạng, nhưng lại
rất phức tạp về tính chất và đang có những diễn biến mà nếu không được quản lý
tích cực và kịp thời sẽ đem lại những khó khăn to lớn cho cuộc sống của người dân
và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
II. NỘI DUNG
1. Tài nguyên nước ở Việt Nam
1.1. Tài nguyên nước mặt
Về nước mặt, trung bình hàng năm lãnh thổ Việt Nam nhận được 1.944mm
nước mưa, trong đó bốc hơi trở lại không trung 1.000mm, còn lại 941mm hình
thành một lượng nước mặt khoảng 310 tỷ m 3. Tính bình quân, mỗi người dân Việt,
có thể hứng được một lượng nước bằng 3.870 m 3 mỗi năm; hoặc 10,6 m3 tức
10.600 lít nước mỗi ngày. Trong lúc tại các nước công nghiệp phát triển nhất, tổng
nhu cầu về nước trong một ngày bình quân theo đầu người, bao gồm cả nước sinh
hoạt, nước cung cấp cho nông nghiệp và công nghiệp cũng chỉ vào khoảng 7.400
lít/người.ngày; bao gồm 340 lít cho sinh hoạt, 2.540 lít cho nông nghiệp và 4.520
lít cho công nghiệp. Ở nước ta, tại các đô thị lớn, lượng nước sinh hoạt cấp cho mỗi
người/ngày hiện nay chỉ mới vào khoảng 100 - 150 lít. Mục tiêu của Chính phủ
Việt Nam là cung cấp cho nhân dân nông thôn khoảng 70 lít/người.ngày vào năm
2010 và 140 lít/người.ngày vào năm 2020. Ở một số vùng đặc biệt khan hiếm nước
2
vào mùa khô, như vùng Lục Khu thuộc tỉnh Cao Bằng, mục tiêu phấn đấu hiện nay
là cung cấp cho mỗi người, mỗi ngày 15 lít nước. Chỉ riêng nguồn nước ngọt từ
mưa tiềm năng đã vượt khá xa yêu cầu về cấp nước.
Ngoài nguồn nước mặt từ mưa, Việt Nam
hiện còn có nguồn nước rất lớn do các con sông
xuyên biên giới đem từ lãnh thổ các nước ngoài
vào như sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Mê
Công. Lượng nước này ước tính bằng 520 tỷ m 3,
gấp 1,7 lần lượng nước ngọt hình thành trong
nước. Một số sông xuyên biên giới như sông Kỳ
Cùng ở Lạng Sơn, Bằng Giang ở Cao Bằng, chuyển một lượng nước từ Việt Nam
qua lãnh thổ Trung Quốc. Tuy nhiên lượng này không đáng kể so với tổng lượng
nước hình thành trên lãnh thổ Việt Nam . Các phụ lưu của sông Mê Công, như
Nậm Rốm, Sê Kông, Sê Băng Hiêng, Sê San, Srê Pok chuyển một lượng nước khá
lớn từ lãnh thổ Việt Nam vào các nước láng giềng như Cộng hoà dân chủ nhân dân
Triều Tiên, Lào, Campuchia, nhưng rồi từ các nước này lượng nước đó lại chảy trở
lại vào Đồng bằng sông Cửu Long.
Tổng hợp hai nguồn nước mặt: nguồn hình thành trên lãnh thổ quốc gia và
nguồn từ nước ngoài chảy vào, nói một cách khái quát, Việt Nam có tổng lượng
nước mặt trung bình năm bằng khoảng 830 tỷ m 3. Trong đó phần hình thành trong
nước là 310 tỷ, chiếm 37%; phần từ nước ngoài vào là 520 tỷ, chiếm 63%.
Tài nguyên nước nói trên tồn tại dưới những dạng thức khác nhau như sông,
hồ, kênh, rạch, đầm phá, vừa lưu giữ, vận chuyển, chuyển hóa nước, vừa tạo nên tài
nguyên đa dạng sinh học và nguồn cảnh sắc thiên nhiên vô cùng phong phú và đa
dạng.
Về sông, nước ta có 2.360 con sông với
chiều dài từ 10km trở lên và 26 phân lưu của
các sông lớn. Trong đó, có 9 sông có lưu vực
3
lớn hơn 10.000km2 là sông Hồng, sông Thái Bình, sông Kỳ Cùng - Bằng Giang,
sông Mã, sông Cả, sông Thu Bồn, sông Ba, sông Srê Pok - Sê San, sông Đồng Nai
và sông Cửu Long. Theo lưu vực và yêu cầu quản lý nguồn nước, có thể phân chia
các sông Việt Nam thành ba nhóm: nhóm thượng nguồn ở nước ngoài, hạ nguồn ở
Việt Nam như sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Đồng Nai; nhóm thượng nguồn
ở Việt Nam, hạ nguồn ở ngoài nước như sông Kỳ Cùng, sông Bằng Giang; nhóm
có một số sông nhánh thượng nguồn ở Việt Nam, trung nguồn ở nước ngoài và hạ
nguồn sông chính ở Việt Nam như sông Mê Công.
Nước ta có nhiều hồ tự nhiên như hồ Ba Bể ở Bắc Kạn, với diện tích khoảng
5km2; Hồ Tây ở Hà Nội, 4,5km2; Biển Hồ ở Gia Lai, 8km 2; hồ Lắk ở Đắk Lắk,
10km2. Về hồ nhân tạo, có 750 hồ lớn và trung bình và hàng nghìn hồ nhỏ. Trong
đó có 7 hồ với dung tích trên 500 triệu m 3: Hòa Bình, 5.680 triệu m3; Trị An, 2.547
triệu m3; Thác Bà, 2160 triệu m3; Thác Mơ, 1311 triệu m3; Dầu Tiếng, 1.111 triệu
m3; Yaly, 779 triệu m3; Hàm Thuận - Đa Mi, 535 triệu m3. Một số đập và hồ lớn
hiện đang được xây dựng và chuẩn bị xây dựng trên sông Đà, sông Gâm, sông Sê
San, sông Đồng Nai.
Nước ta đã xây dựng khoảng 75 hệ thống thủy lợi vừa và lớn với diện tích
tưới tiêu của mỗi hệ thống từ 10.000ha đến 200.000ha, như các hệ thống: Bắc
Hưng Hải, sông Nhuệ, Thác Huống, Bắc Thái Bình, Đồng Cam, Ayun Hạ, Dầu
Tiếng.
Ven biển có nhiều đầm, phá, bàu, trằm. Nổi tiếng là đầm phá Tam Giang -
Cầu Hai (Thừa Thiên - Huế), có diện tích bằng 216km 2 mặt nước; Thị Nại (Bình
Định), 45km2; Trường Giang (Quảng Ngãi), 36,9km 2; Cù Mông (Phú Yên),
30,2km2; Nước Ngọt (Bình Định), 26,5km2; Thủy Triều (Khánh Hòa), 25,5km2; Ô
Loan (Phú Yên), 18,0km2; Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế), 16,0km2; Trà Ổ (Bình
Định), 14,4km2; Đầm Nại (Ninh Thuận), 12,0km2.
1.2. Tài nguyên nước ngầm
4
Về nước ngầm, tiềm năng của nước ta cũng tương đối lớn. Tổng trữ lượng có
tiềm năng khai thác được trên cả nước của các tầng trữ nước trên toàn lãnh thổ,
chưa kể phần hải đảo, ước tính gần 2000m 3/s, tương ứng khoảng 60 tỷ m3/năm. Trữ
lượng này thay đổi nhiều theo các vùng: dồi dào nhất ở Đồng bằng sông Hồng,
Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ; khá nhiều ở Tây Nguyên và ít hơn tại
các vùng núi Tây Bắc, Đông Bắc và duyên hải Bắc và Nam Trung Bộ.
Trữ lượng ở giai đoạn tìm kiếm và thăm dò sơ bộ mới đạt khoảng 8 tỷ
m3/năm, tức khoảng 13% tổng trữ lượng. Theo kết quả điều tra, khảo sát và nghiên
cứu đã có đến năm 1999 thì trữ lượng nước ngầm thuộc loại có thể khai thác ngay
với độ tin cậy cao (cấp A) vào khoảng 736.205m 3/ngày; thuộc loại có thể khai thác
với độ tin cậy khá (cấp B) vào khoảng 939.625m 3/ngày; thuộc loại đã được dự báo
là có khả năng khai thác (cấp C1), 2.007.165 và (C2), 10.848.451m 3/ngày. Tổng
lượng đã khai thác chỉ mới vào khoảng 5% tổng trữ lượng. Trong các năm tới
lượng khai thác có thể lên tới khoảng 12 tỷ m 3/năm. So sánh với thế giới trữ lượng
nước ngầm của Việt Nam ở vào mức trung bình.
Trữ lượng nước ngầm nhạt đã được đánh giá ở các vùng khác nhau trên
nước ta đến năm 1995
Nguồn: Nguyễn Kim Ngọc, Nguyễn Thượng Hùng, 2003
Việt Nam cũng có tài nguyên nước nóng và nước khoáng phong phú, đa
dạng về loại hình. Tài nguyên này được đánh giá có chất lượng tốt, có khả năng và
một phần đã được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau như: sản xuất nước
khoáng đóng chai; thủy lý trị liệu trong y học, khai thác khí CO 2; khai thác năng
5
lượng địa nhiệt. Theo số liệu điều tra tới năm 1999, cả nước có khoảng 400 nguồn
nước khoáng và nước nóng đã được khảo sát, trong đó 287 nguồn đã được công
nhận.
Xét theo những số liệu như đã nêu trên có thể nói rằng Việt Nam là một quốc
gia tương đối giàu tài nguyên nước. Theo tài liệu của Viện Tài nguyên thế giới
công bố năm 2002 - 2003, thì hiện nay hàng năm lượng tài nguyên nước ngọt tái
tạo được trên mặt trái đất là 40.594km 3, trung bình cho mỗi đầu người là 6.538m 3.
Trị số trung bình tương ứng của nước ta là 11.189m 3, gấp 1,7 lần trung bình của thế
giới. Tuy nhiên với lượng nước này nước ta cũng chỉ thuộc vào loại tương đối
phong phú về tài nguyên nước ngọt trên đầu người. Các nước nhiều nước như Lào
có tới 68.318m3/người; Campuchia, 30.561m3/người; Mianma 21.358m3/người.
Các quốc gia ít nước như Trung Quốc chỉ có 2.185m 3/người, Hàn Quốc,
1.471m3/người. Nhiều nước nghèo tài nguyên nước chỉ có khoảng 500m 3, thậm chí
50m3/người.năm.
Cũng như tại nhiều nơi khác trên thế giới, ở nước ta tài nguyên nước không
chỉ có giá trị về cấp nước cho nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, mà còn là nguồn năng
lượng sạch, nguồn vật liệu của rất nhiều ngành công nghiệp, thủ công nghiệp, cơ sở
thiên nhiên của các ngành thủy sản, giao thông, du lịch, giải trí, điều dưỡng, là
nhân tố quan trọng của sự tồn tại và phát triển của các hệ sinh thái, quyết định chất
lượng của cuộc sống vật chất và tinh thần của con người.
2. Những khó khăn và thách thức trong việc bảo vệ nguồn nước
2.1. 2/3 tổng lượng nước mặt của Việt Nam phụ thuộc vào nước ngoài
63% tổng lượng dòng chảy nước mặt trên lãnh thổ Việt Nam là từ các nước
láng giềng: Trung Quốc, Thái Lan, Mianma, Lào và Campuchia chảy vào. Các
nước này đều đang ở trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa,
phát triển nông nghiệp, dịch vụ một cách nhanh chóng. Quá trình phát triển này, dù
bằng cách nào cũng sẽ đặt ra cho các nước nói trên yêu cầu tận dụng hợp lý tài
nguyên nước sản sinh trên lãnh thổ của họ. Chế độ thủy văn của các dòng sông
6
xuyên biên giới chảy vào nước ta sẽ thay đổi. Dòng chảy nước sẽ được điều tiết
theo những chiều hướng có khi không phù hợp với yêu cầu kinh tế và sinh thái của
ta. Khối lượng nước cần cho sinh hoạt, canh tác, đẩy mặn, giao thông thủy vào mùa
khô có thể sẽ không còn như trước. Chất lượng nước của một số dòng sông sau khi
đã tiếp nhận xả thải từ nhiều đô thị, khu dân cư, khu nông nghiệp trên các vùng
thượng lưu sẽ không thể còn độ trong sạch như hiện nay.
Lấy sông Mê Công làm thí dụ. Mê Công là một con sông xuyên biên giới
quan trọng ở châu Á có tiềm năng rất lớn về các dạng tài nguyên nước. Từ những
năm cuối thập kỷ 50 của thế kỷ XX đã được các nước trong lưu vực và các tổ chức
quốc tế hết sức quan tâm việc quản lý hợp lý tài nguyên nước cùng các tài nguyên
thiên nhiên liên quan khác và các hoạt động phát triển trên lưu vực. Việc hợp tác
quản lý dòng sông quan trọng này được thực hiện trong khuôn khổ tổ chức hợp tác
quốc tế về phần hạ lưu sông Mê Công, cụ thể là của Ủy ban quốc tế về hạ lưu sông
Mê Công trước từ năm 1957 đến năm 1975, Ủy ban lâm thời hạ lưu sông Mê Công
từ năm 1975 đến năm 1995 và Ủy ban sông Mê Công (Mekong River Commission,
MRC) hiện nay. Qua nhiều đổi thay của lịch sử, thành viên của các Ủy ban này là
Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam . Địa phận quản lý của các Ủy ban chỉ là
phần "hạ lưu" sông Mê Công. Trung Quốc và Mianma không phải là thành viên
chính thức của Ủy ban và chỉ tham gia một cách không chính thức vào một số cuộc
họp của Ủy ban. Với đặc điểm như trên, sông Mê Công là một dòng sông liên quốc
gia. Theo thỏa thuận đã có giữa bốn quốc gia thuộc phần hạ lưu lưu vực sông Mê
Công là Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam, không nước nào được xây dựng
công trình trên dòng sông chính, việc xây dựng các công trình quan trọng trên các
sông nhánh lớn cũng cần thông báo và tham khảo ý kiến của nhau.
Cho tới nay, ở phần hạ lưu trên dòng sông chính không có công trình nào,
nhưng ở phần thượng lưu thuộc địa phận lãnh thổ Trung Quốc, một loạt công trình
thủy điện, với đập cao, hồ chứa lớn đã được hoàn thành, vận hành phát điện, điều
tiết nước, hoặc đang được xây dựng và chuẩn bị xây dựng. Thủy điện Manwan,
7
công suất lắp máy 1.500MW, đập cao 126m, đã hoàn thành và phát điện năm 1996
là một thí dụ. Trên các sông nhánh, Thái Lan, Lào và ở nước ta cũng đã và đang
xây dựng nhiều công trình phục vụ thủy điện và cấp nước cho nông nghiệp.
Vì vậy, nhìn một cách lâu dài, không thể khẳng định là nước ta sẽ luôn luôn
có tài nguyên nước phong phú với tổng lượng là 830 tỷ m3/năm, hay 10.375
m3/người.năm. Phần chắc chắn là phải dựa chủ yếu vào lượng nước hình thành trên
lãnh thổ là 310 tỷ m3/năm. Lượng nước có thể có trên đầu người sẽ phải tính theo
dân
số
ổn
định
xung quanh 100 triệu người.
8
2.2. Tài nguyên nước phân bố rất không đồng đều theo không gian và
thời gian
Lượng mưa, nhân tố chủ yếu hình thành tài nguyên nước trên lãnh thổ nước
ta, phân bố rất không đều theo không gian và thời gian. Bình quân toàn lãnh thổ
lượng mưa năm là 1.944mm. Tuy nhiên, lượng mưa này phân bố rất không đều
theo không gian. Có những nơi lượng mưa này đạt 8.000mm/năm như ở Bạch Mã
thuộc Thừa Thiên - Huế; 5.000mm/năm như ở Bắc Quang thuộc Hà Giang; Nam
Châu Lĩnh thuộc Quảng Ninh. Trong lúc có những nơi lại chỉ có 700mm/năm như
ở thị xã Phan Rang, Ninh Thuận, thậm chí chỉ có 400mm/năm như ở thị xã Phan Rí
thuộc Bình Thuận. Trong từng phạm vi lãnh thổ nhỏ hơn như tỉnh, huyện lượng
mưa phân bố cũng rất không đều. Trong năm 2002, nhiều tỉnh ở Tây Nguyên và
duyên hải Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long trong 3 - 4 tháng hầu như
không có giọt mưa nào. Trong năm 2003, nhiều tỉnh ở Tây Nguyên, duyên hải miền
Trung đều có tình trạng không có mưa suốt trong 3 tháng mùa hè .
Tại tất cả các vùng trong nước, hàng
năm lượng nước trong khoảng ba tháng mùa lũ
chiếm 75 - 85% tổng lượng nước trong năm.
Cùng với đó là mùa khô kéo dài từ 5 đến 6 tháng.
Trong mùa này, lượng dòng chảy trên rất nhiều
con sông chỉ vào cỡ 15 - 20% tổng lượng dòng
chảy năm.
Lượng dòng chảy trong sông, tổng hợp cả dòng chảy hình thành trong và
ngoài lãnh thổ, cũng phân bố rất không đều. Lấy theo số liệu của "Hồ sơ nguồn
nước, 2002" thì suất dòng chảy năm bình quân của cả nước ta là 2,642 triệu
m3/km2.năm. Vùng Đông Bắc với diện tích bằng 65.327km 2, có lượng dòng chảy
năm bằng 15,4 tỷ m3/năm, suất dòng chảy năm chỉ là 0,236 triệu m 3/km2. Vùng
Đồng bằng sông Cửu Long với diện tích bằng 39.706km 2 có lượng dòng chảy năm
9
bằng 507,9 tỷ m3/năm, suất dòng chảy năm khoảng 12,79m 3/km2, gấp 54 lần suất
dòng chảy của vùng Đông Bắc. Khác biệt giữa các vùng khác cũng tương đối lớn.
Trong bối cảnh chung cả nước như vậy, sự phân bố nước không đều theo
không gian và thời gian làm cho tình trạng thiếu nước về mùa khô và lũ lụt với lưu
lượng lớn, có sức tàn phá mạnh mẽ trở nên đặc biệt trầm trọng tại một số nơi. Tỷ lệ
giữa lưu lượng tối đa và lưu lượng tối thiểu của một số con sông lên tới 1.000, thậm
chí 10.000 lần.
2.3. Có nhiều thiên tai gắn liền với nước
Lũ lụt là thiên tai phổ biến nhất và ác liệt nhất ở nước ta. Theo tài liệu ghi
chép của các cơ quan quản lý nước thì trong thế kỷ XIX, chỉ riêng ở Đồng bằng
sông Hồng đã có khoảng 30 năm lụt rất lớn, trong đó 26 năm vỡ đê tả ngạn sông
Hồng, 18 năm đê hữu ngạn bị vỡ. Mỗi lần vỡ đê có thể gây thiệt hại cho hàng chục
vạn ha mùa màng, cuốn trôi hàng ngàn làng xóm với hàng ngàn sinh mệnh người
và gia súc, hủy hoại nhiều công trình công ích,
gây dịch bệnh trên nhiều vùng.
Trong thế kỷ XX, mặc dầu hệ thống đê điều đã
được tu bổ, kiên cố hóa nhưng do lũ lớn, đã có
23 năm có sự cố vỡ đê lớn gây tai họa và tổn
thất nghiêm trọng. Trận lũ vỡ đê năm 1971 trên
Đồng bằng sông Hồng đã gây thiệt hại khoảng 7 triệu tấn thóc, số dân bị ảnh hưởng
lên tới 2,71 triệu người. Lũ do bão gây ra ở miền Trung từ năm 1992 đến năm 1999
đã làm chết 2.716 người, bị thương 1.655 người, gây thiệt hại kinh tế trên 8.000 tỷ
đồng Việt Nam. Mười năm gần đây, từ năm 1986 đến năm 2002, đã lần lượt xảy ra
30 trận lũ đặc biệt lớn trên nhiều lưu vực sông trong cả nước.
Những trận lụt lớn này là hậu quả của những trận mưa cực lớn. Lượng mưa
ngày lớn nhất trong nhiều trường hợp lên tới 500 - 800mm. Trong một số trường
hợp đặc biệt lên tới 1.422mm/ngày (Huế), 1630mm/ngày (Truồi), 1138,5mm/ngày
(Tà Lương), 830,0mm/ngày (Can Lộc), 779,6mm/ngày (Thác Muối),
10
788,4mm/ngày (Đô Lương), 723,2mm/ngày (Giác Vực), 716,4mm/ngày (Trà My),
722,0mm/ngày (Phú Thọ), 731,5mm/ngày (Đông Sơn), 758,0mm/ngày (Ngọc Lạc),
735,0mm/ngày (Lang Chánh), 760,4mm/ngày (Bàu Nước), 767,0mm/ngày (Sơn
Giang), 753,0mm/ngày (A Lưới), 721,6mm/ngày (Phú Ốc).
Hạn hán cũng là thiên tai gây tác hại hết sức lớn, trên diện rộng cho sản xuất
nông, công nghiệp và sinh hoạt của nhân dân. Vào mùa khô tất cả các vùng sinh
thái trên nước ta từ đồng bằng, trung du đến miền núi đều có thể bị hạn nặng.
Trong những năm gần đây ở Tây Nguyên đã liên tiếp có 6 năm bị hạn 1994,
1995, 1996, 1997, 1998 và 2003. Đặc biệt năm 1998 diện tích cây công nghiệp, cây
ăn quả bị hạn là 111.000ha, bị chết là 19.300 ha, riêng cà phê bị hạn là 74.400ha, bị
chết là 13.800ha và hơn 770.000 người thiếu nước sinh hoạt.
Tại vùng Lục Khu thuộc tỉnh Cao Bằng nhân dân địa phương cho biết trong
các năm 1978, 1998 mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tận tháng 5 năm sau, nước
cho trồng trọt và chăn nuôi cạn kiệt, nước ăn uống, sinh hoạt cho nhân dân vô cùng
khan hiếm. Nhân dân phải bỏ hết mọi việc để đi tìm nước, "cõng" nước về nhà
phục vụ ăn uống với mức tối thiểu. Nhiều hộ hàng ngày phải đi xa 4 - 8km, vượt
núi cao, đèo sâu để “cõng” nước, nhưng cũng chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu
cầu tối thiểu. Trong những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, hàng trăm hộ dân
vùng này đã phải rời bỏ quê hương, di dân tự do vào Tây Nguyên để kiếm sống.
Tại các đô thị, thậm chí đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế
và một số thành phố duyên hải miền Trung về mùa khô cũng có nạn thiếu gay gắt
nước ăn uống sinh hoạt cho nhân dân, cũng như nước cho sản xuất công nghiệp.
2..4. Chất lượng nước đang giảm sút ở nhiều nơi
Theo Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) thì tỷ lệ tiếp cận
với nước sạch của nhân dân Việt Nam đã tăng 13% trong giai đoạn 1998 - 2000.
Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng nhanh nhất về tỷ lệ này trên thế
giới. So sánh với một số nơi trên thế giới thì nước sông ngòi phần thượng lưu và tại
một số hồ lớn ở Việt Nam còn tương đối sạch. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh
11
của công nghiệp hóa, đô thị hóa, gia tăng dân số ở nông thôn cũng như thành thị,
chất lượng nước mặt cũng như nước ngầm đã có những biểu hiện suy thoái khá
nghiêm trọng.
Mức độ ô nhiễm nước ở một số khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công
nghiệp tập trung đã rất lớn. Thí dụ tại Cụm Công nghiệp Tham Lương, thành phố
Hồ Chí Minh, ước tính mỗi ngày có khoảng hàng trăm nghìn m3 nước thải công
nghiệp từ các nhà máy giấy, hóa chất, dệt nhuộm thải ra, tuy đã có những cố gắng
khắc phục, nhưng nước kênh Tham Lương vẫn còn mầu đen, mùi hôi thối, hàm
lượng chất độc hại cao.Ở thành phố Thái Nguyên nước thải từ các cơ sở luyện
gang, thép, kim loại mầu, sản xuất giấy, khai thác than chưa được xử lý vẫn đổ ra
sông Cầu và chuyển về vùng hạ lưu là nơi dân cư đông đúc sản xuất nông, công
nghiệp phát triển. Hàng trăm làng nghề về sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, dệt
nhuộm, giấy với lượng nước thải hàng ngàn m3/ngày không qua xử lý cũng góp
phần gây ô nhiễm nguồn nước tại nhiều địa phương ở đồng bằng và trung du.
Ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều đô thị lớn và vừa vẫn còn tình
trạng nước thải sinh hoạt, lẫn lộn với nước thải công nghiệp không qua xử lý tập
trung, mà trực tiếp thải ra các sông, hồ, kênh, mương lộ thiên đi qua các khu dân cư
và sản xuất. Nước thải từ phần lớn các bệnh viện và cơ sở y tế cũng còn được thải
chung vào hệ nước thải công cộng. Độ ô nhiễm của phần lớn các vực nước tiếp
nhận nước thải đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Ô nhiễm nước ở nông thôn và các khu vực sản xuất nông nghiệp cũng rất
nghiêm trọng. Ở đây chưa có cơ sở hạ tầng tốt cho thoát nước thải, phần lớn chất
thải của con người và gia súc không được xử lý, bị rửa trôi theo dòng mặt, hoặc
thấm xuống đất, làm cho nguồn nước mặt cũng như nước ngầm bị ô nhiễm về mặt
hữu cơ và vi sinh. Môi trường nước nông thôn còn bị ô nhiễm do sử dụng không
hợp lý và đúng quy cách các hóa chất nông nghiệp, trong đó có không ít hóa chất
độc hại. Tỷ lệ số hộ ở nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh chỉ mới đạt khoảng
30 - 40%. Chỉ khoảng 28 - 30% số hộ có công trình vệ sinh đạt tiêu chuẩn.
12
2.5. Yêu cầu về nước đang tăng nhanh:
Ở nước ta với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, phát triển
nông nghiệp và nâng cao đời sống nhân dân ở nông thôn yêu cầu về nước đang
tăng lên với gia tốc. Theo tài liệu nghiên cứu về tài nguyên nước của Việt Nam do
Viện Quy hoạch thủy lợi hợp tác với Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Phát triển
châu Á thực hiện năm 1996 thì năm 1990 lượng tài nguyên nước được sử dụng ở
nước ta mới chỉ có 50 tỷ m3/năm, chỉ mới bằng khoảng 6% tổng tài nguyên. Trong
đó 92% được dùng cho nông nghiệp, 5% cho công nghiệp và 4% cho cấp nước đô
thị. Tài liệu này dự báo rằng lượng nước sử dụng sẽ tăng lên tới khoảng 65 tỷ
m3/năm vào năm 2000; 72 tỷ m3/năm vào năm 2010 (tức tăng khoảng 11%); 80 tỷ
m3/năm vào năm 2020 và 87 m3/năm vào năm 2030. Tỷ lệ nước dùng cho nông
nghiệp giảm xuống còn 75%, cho công nghiệp tăng lên 16% và cho sinh hoạt là
9%.
Những tài liệu nghiên cứu gần đây hơn đã đưa ra những yêu cầu cao hơn
nhiều về gia tăng dùng nước ở nước ta. So sánh với năm 2000 tổng lượng nước sử
dụng trong năm 2010 sẽ tăng 14%; năm 2020, 25% và năm 2030, 38%. Riêng cho
nông nghiệp, đến năm 2010, với diện tích tưới là 12 triệu ha, lượng nước cần dùng
đã là 88,8 tỷ m3/năm. Tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch hiện nay là 60%, dự
kiến sẽ đạt 80% năm 2005 và 95% năm 2010. Nhu cầu nước cho sinh hoạt đương
nhiên phải tăng theo. Với đà gia tăng được dự báo trên đây đến năm 2030 lượng
nước sử dụng sẽ có thể lên tới gần 90 tỷ m3/năm, tức bằng khoảng 11% tổng tài
nguyên nước, hoặc 29% tài nguyên nước hình thành trên lãnh thổ quốc gia.
3. Những vấn đề sử dụng hợp lý tài nguyên nước
3.1. Quản lý hiệu quả tài nguyên nước
Để tránh nguy cơ thiếu nước, phải xét đến những lợi ích toàn cục, quản lý
tổng hợp tài nguyên nước. Các cấp ngành cần phối hợp đồng bộ trong điều tiết
nguồn nước hợp lý, không nên vì các lợi ích cục bộ trước mắt. Bên cạnh đó, hệ
thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước ở nước ta còn bộ lộc những hạn chế, cần
13