So sánh vấn đề đọc hiểu văn bản trong chương trình giáo dục phổ thông môn ngữ văn của việt nam và một số nước trên thế giới [tt]

  • 27 trang
  • file .pdf
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
--------------------
PHẠM THỊ THU HIỀN
SO SÁNH VẤN ĐỀ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
TRONG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
MÔN NGỮ VĂN CỦA VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học bộ môn Văn-Tiếng Việt
Mã số: 6214.0111
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Hà Nội, 2014
Công trình được hoàn thành tại : Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống
Phản biện 1: ....................................................................
...................................................................
Phản biện 2: ....................................................................
...................................................................
Phản biện 3: ....................................................................
...................................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện họp tại
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, 101 Trần Hưng Đạo, Hà Nội
Vào hồi ..... giờ ..... ngày ..... tháng .... năm.....
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Viện Khoa học giáo dục Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Chương trình giáo dục phổ thông (CTGDPT) môn Ngữ văn1 của hầu hết
các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến việc hình thành năng lực (NL) sử
dụng ngôn ngữ cho học sinh (HS) thông qua 4 kĩ năng cơ bản, gồm: nghe
(listening), nói (speaking), đọc (reading), viết (writing). Một số nước còn chú
ý thêm kĩ năng quan sát (viewing) và trình bày (presenting). Các kĩ năng trên
là cơ sở quan trọng để hình thành và rèn luyện cho HS năng lực giao tiếp
bằng ngôn ngữ với nhiều cấp độ khác nhau. Trong đó, đọc, đặc biệt là đọc
hiểu (ĐH) được chú ý nhiều hơn cả. Vì thế, đối với việc xây dựng chương
trình (CT) môn Ngữ văn cho nhà trường phổ thông của tất cả các nước, trong
đó có Việt Nam, vấn đề đọc hiểu văn bản (ĐHVB) không thể không được
quan tâm từ mục tiêu, văn bản, chuẩn kiến thức kĩ năng đến phương pháp
dạy học (PPDH) và kiểm tra đánh giá (KTĐG) ...
1.2. Vào năm 1997, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thế giới
(OECD) đã đề xuất Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA), trong
đó ĐH được coi là một trong ba NL chủ yếu để xác định trình độ của HS ở
giai đoạn cuối của giáo dục (GD) bắt buộc (HS ở độ tuổi 15) bởi đây là NL
cần cho suốt cuộc đời của mỗi con người. Nhưng định nghĩa về đọc và ĐH
có sự thay đổi theo thời gian và điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội của từng
quốc gia. Khái niệm học và đặc biệt là học suốt đời đòi hỏi phải mở rộng
cách hiểu về ĐH. Quan niệm và yêu cầu của PISA về ĐH không dựa theo
một CTGDPT của một quốc gia đặc biệt nào. Nhưng, tính đến năm 2012, đã
có 70 nước tham gia PISA và làm theo yêu cầu của CT đánh giá HS quốc tế
này. Việt Nam đã tham gia PISA vào năm 2012. Điều đó chứng tỏ, trong xu
thế hội nhập quốc tế hiện nay, các nước đang xích lại gần nhau, thống nhất
một quan niệm và những yêu cầu chung về ĐHVB. “Chủ động hội nhập
quốc tế” là một trong những giải pháp và nhiệm vụ quan trọng mà nghị quyết
TW 8 (khóa XI) đã nêu lên nhằm đổi mới căn bản toàn diện GD &ĐT. Đổi
mới CT dạy học môn Ngữ văn không thể không chú ý tới yêu cầu hội nhập
này.
1.3. Trong Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn hiện hành
của Việt Nam, ĐHVB là một nội dung chính, số lượng bài học chiếm tỉ lệ
lớn hơn các bài học về Tiếng Việt và Làm văn, nhất là ở những lớp/cấp
học cao hơn. Dạy học (DH) và KTĐG về ĐHVB của HS cũng chiếm nhiều
thời gian hơn trong phân phối chương trình. Tuy nhiên, quan niệm về ĐH
1
Luận án sử dụng thuật ngữ Ngữ văn để gọi chung tên môn học ở các nước khác tương ứng với môn Ngữ văn trong nhà
trường phổ thông của Việt Nam, ví dụ: Hoa Kỳ gọi môn học này là “English-Language Arts”, Singapore gọi là “English
Language” , Hàn Quốc gọi là “Korean language”…
1
và yêu cầu của ĐHVB ở nhà trường phổ thông nước ta hiện nay chưa có
nhiều thay đổi so với quan niệm giảng văn trong các CTGD trước đây;
đồng thời, còn có nhiều điểm khác biệt so với quan niệm và yêu cầu về
ĐHVB của nhiều nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, trong đó có
yêu cầu của PISA. Do đó, để có cơ sở đổi mới vấn đề ĐHVB, cần đối
chiếu CTGDPT môn Ngữ văn của Việt Nam và một số nước trong trong
khu vực và trên thế giới, từ đó phát huy những việc đã làm tốt; đồng thời
tiếp thu, điều chỉnh lại những gì còn bất cập, góp phần đổi mới chương
trình (CT) và sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn phổ thông ở nước ta, đáp ứng
yêu cầu hiện đại hóa và hội nhập với xu thế quốc tế về GD phổ thông.
1.4. Ở một phương diện khác, CTGDPT nói chung, CT môn Ngữ văn
từ Tiểu học đến Trung học phổ thông (THPT) của nước ta nói riêng đã
được xây dựng từ trước và sau năm 2000. Theo Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ XI, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang khẩn trương chuẩn bị xây
dựng CTGDPT cho những năm sau 2015. Để có những đổi mới “căn bản,
toàn diện” ở môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông, trong đó có
ĐHVB, cần có những nhìn nhận, đánh giá tổng quát về vấn đề này trên cơ
sở so sánh với vấn đề ĐHVB trong CTGD của một số nước trên thế giới.
Từ đó, đưa ra những đề xuất, định hướng để góp phần xây dựng được một
CT môn Ngữ văn hiện đại, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và hội
nhập được với quốc tế, nhằm hình thành và phát triển NL đọc hiểu cho HS
phổ thông.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài So sánh vấn đề
đọc hiểu văn bản trong chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn của Việt
Nam và một số nước trên thế giới để làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: vấn đề đọc hiểu văn bản được trình bày trong
CT và chuẩn chương trình (CCT) môn Ngữ văn của Việt Nam và một số
nước như Hàn Quốc, Singapore, Hoa Kỳ (bang California).
2.2. Phạm vi nghiên cứu: luận án sẽ xem xét chung về các văn bản CT và
CCT của các nước/bang đã chọn, nhưng tập trung chủ yếu vào vấn đề
ĐHVB ở các khía cạnh: mục tiêu, VB, chuẩn, PPDH và ĐGKQ đọc hiểu.
3. Tổng quan các công trình có liên quan tới vấn đề nghiên cứu
Qua việc khảo sát tất cả các tài liệu, có thể thấy vấn đề ĐHVB được
nước ngoài quan tâm nghiên cứu từ rất lâu và ngày càng đạt được nhiều
thành tựu. Đây là một năng lực cốt lõi cần được trang bị, hình thành và
phát triển cho HS, gắn với cả cuộc đời mỗi con người. Ở Việt Nam, vấn đề
ĐHVB đã được quan tâm từ CTGDPT năm 2000, nhưng còn nhiều điểm
khác biệt so với xu thế quốc tế, cần có sự điều chỉnh nhất định trong thời
2
gian tới. Gần đây đã có một số công trình so sánh về CT nói chung và CT
môn Ngữ văn nói riêng của Việt Nam và một số trên thế giới. Nhưng chưa
có công trình nào nghiên cứu, so sánh một cách đầy đủ, toàn diện về CT
(và CCT) môn Ngữ văn của Việt Nam và các nước trên thế giới (từ Tiểu
học đến THPT) để xem xét vấn đề ĐHVB giữa nước ta và các nước khác,
từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, những nhận xét và kiến nghị cho
việc xây dựng CT (và CCT), đồng thời xác định rõ quan niệm, yêu cầu về
PPDH và cách thức KTĐG kết quả ĐHVB của HS phổ thông của Việt
Nam trong thời gian tới theo xu thế hội nhập quốc tế.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích: Thấy được những điểm giống nhau và khác nhau trong
quan niệm và yêu cầu về ĐHVB trong CTGDPT môn Ngữ văn của Việt
Nam và một số nước trên thế giới; Từ đó, phân tích, đánh giá để nêu lên
một số đề xuất về việc biên soạn phần ĐHVB trong CTGDPT môn Ngữ
văn của Việt Nam nhằm đổi mới CTGDPT ở nước ta trong thời gian tới.
4.2. Nhiệm vụ: Xác định cơ sở lí luận và thực tiễn của việc so sánh vấn đề
ĐHVB trong CTGDPT môn Ngữ văn của Việt Nam và một số nước; Mô
tả và phân tích những điểm giống và khác nhau trong quan niệm và yêu
cầu về ĐHVB qua CTGDPT môn Ngữ văn của Việt Nam và một số nước
ở một số bình diện chủ yếu; Đề xuất hướng điều chỉnh, thay đổi về việc
biên soạn phần ĐHVB trong CTGDPT của Việt Nam, góp phần vào công
cuộc đổi mới GD phổ thông nước ta.
5. Phương pháp nghiên cứu: phương pháp nghiên cứu lí luận, phương
pháp khảo sát thực tiễn, phương pháp hồi cứu tư liệu, phương pháp chuyên
gia, phương pháp so sánh, phương pháp tiếp cận tổng hợp.
6. Giả thuyết khoa học: Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào
so sánh một bình diện mang tính quốc tế - vấn đề đọc hiểu văn bản trong
chương trình và chuẩn chương trình môn Ngữ văn của Việt Nam và một số
nước trên thế giới. Nếu tiến hành so sánh, chỉ ra được những điểm tương
đồng và khác biệt trong quan niệm và yêu cầu đọc hiểu thể hiện trong văn
bản chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn của Việt Nam và một
số nước thì sẽ rút ra được xu thế chung về vấn đề đọc hiểu văn bản; từ đó
đề xuất được những điều chỉnh hợp lý đối với việc biên soạn phần đọc
hiểu văn bản trong chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn của
Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
7. Những đóng góp mới của luận án:
a) Luận án là công trình đầu tiên đề xuất vấn đề so sánh CT và CCT Ngữ
văn ở một bình diện mang tính quốc tế - vấn đề đọc hiểu văn bản thông
qua CT và CCT của Việt Nam và một số nước trên thế giới.
3
b) Tác giả luận án đã dịch và cung cấp cho người đọc một khối tư liệu khá
phong phú, cụ thể, chi tiết về quan niệm và yêu cầu ĐHVB được nêu trong
CT và CCT môn Ngữ văn của Việt Nam và các nước Hàn Quốc,
Singapore, bang California (Hoa Kỳ) cũng như Chương trình đánh giá học
sinh quốc tế (PISA).
c) Luận án đã hệ thống hóa và nêu khá đầy đủ quan niệm và yêu cầu
ĐHVB trong CT và CCT Ngữ văn của mỗi nước; đề xuất được phương
pháp, nội dung, đối tượng, cách thức so sánh; rút ra được xu thế chung
mang tính quốc tế.
d) Luận án bước đầu đã chỉ ra được những điểm tương đồng và khác biệt
trong quan niệm và yêu cầu về ĐHVB thể hiện qua CT và CCT môn Ngữ
văn của Việt Nam và một số nước. Từ đó đề xuất được một số đổi mới về
việc biên soạn phần ĐHVB trong CTGDPT môn Ngữ văn của Việt Nam
thời gian tới.
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, luận án
gồm 3 chương chính: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài;
Chương 2: Đọc hiểu văn bản trong chương trình môn Ngữ văn của Việt
Nam, Hàn Quốc, Singapore và bang California qua cái nhìn so sánh;
Chương 3: Một số đề xuất về vấn đề đọc hiểu văn bản cho chương trình
giáo dục phổ thông Việt Nam.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Một số vấn đề về chương trình, chuẩn chương trình
1.1.1.1. Về “chương trình”: Luận án xem xét các khía cạnh về CT như:
định nghĩa “chương trình”, cấu trúc của CT, phân loại CT.
1.1.1.2. Về “chuẩn chương trình”: Luận án tìm hiểu định nghĩa “chuẩn
chương trình”, chức năng và những yêu cầu cơ bản của CCT, cách trình
bày của CCT.
1.1.1.3. Về chương trình và chuẩn chương trình môn Ngữ văn
a) Tên môn học: Luận án sử dụng thuật ngữ Ngữ văn để gọi chung tên
môn học ở các nước khác tương ứng với môn Ngữ văn trong nhà trường
phổ thông của Việt Nam, ví dụ: Hoa Kỳ gọi môn học này là “English
Language Arts” (môn Tiếng Anh), Singapore gọi là “English Language”
(Tiếng Anh), Hàn Quốc gọi là “Korean Language” (Tiếng Hàn). Điểm
chung của hầu hết các VB chương trình và CCT này là đều lấy tên môn
học là tên ngôn ngữ chính của quốc gia.
4
b) Vị trí của chương trình và chuẩn chương trình môn Ngữ văn:
Trong hệ thống CTGDPT của các nước trên thế giới, CT và CCT môn Ngữ
văn luôn có một vị trí đặc biệt, hướng tới mục tiêu trang bị cho HS năng
lực sử dụng thành thạo ngôn ngữ. Ngoài ra, môn Ngữ văn còn góp phần
hình thành nhiều NL chung, cốt lõi khác, ví dụ như NL tư duy, NL sáng
tạo, NL văn hóa và liên văn hóa… Tùy thuộc vào quan niệm xây dựng CT,
CCT Ngữ văn của từng nước, thành tố “Vị trí của môn Ngữ văn” có xuất
VB chương trình hay không.
c) Mục tiêu của chương trình và chuẩn chương trình môn Ngữ văn:
Tùy thuộc vào quan niệm, định hướng xây dựng xây dựng CT và CCT
Ngữ văn, mỗi nước có cách nêu mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên, CT môn
Ngữ văn của các nước đều hướng tới một số nhiệm vụ chủ yếu, đó là: giúp
HS phổ thông có khả năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết) tốt, thấy được
cái hay cái đẹp của các TPVH, tích lũy tri thức, bồi dưỡng tâm hồn…
d) Các mạch nội dung trong chương trình và chuẩn chương trình môn
Ngữ văn: Tương ứng với mỗi định hướng xây dựng CT và CCT sẽ xây
dựng các mạch nội dung (bao gồm các lĩnh vực kiến thức và kĩ năng liên
quan đến ngôn ngữ và văn học) mà CT cần hình thành và bồi dưỡng cho
HS. CT và CCT nào cũng có mạch “đọc” nhưng “đọc” (chủ yếu là đọc
hiểu) ở mỗi CT và CCT lại có đặc trưng riêng.
e) Cách trình bày chương trình và chuẩn chương trình môn Ngữ văn:
Nhiều nước xây dựng CT và CCT là một chỉnh thể xuyên suốt từ Tiểu học
đến THPT nhưng cũng có nước xây dựng theo kiểu “cắt khúc”, có sự khác
biệt cơ bản giữa Tiểu học và THCS, THPT về hình thức và cách diễn đạt.
1.1.2. Một số vấn đề về đọc hiểu văn bản trong chương trình và chuẩn
chương trình giáo dục phổ thông
1.1.2.1. Khái niệm đọc hiểu: Gần đây, quan niệm của PISA và UNESCO
về ĐH được nhiều người tán thành. Hai quan niệm này đã mở rộng thêm
nội hàm của “hiểu” so với quan niệm của các nhà nghiên cứu trong nước.
Mặc dù quan niệm của PISA về đọc hiểu và NL đọc hiểu không dựa vào
các yêu cầu của CT môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông của một
nước cụ thể nào mà xuất phát từ yêu cầu của xã hội đối với hệ thống giáo
dục, những kĩ năng cần thiết cho cuộc sống tương lai của HS... nhưng
những yêu cầu của PISA có liên quan mật thiết với việc dạy học Ngữ văn
trong nhà trường phổ thông của nhiều nước trên thế giới.
1.1.2.2. Mục tiêu của đọc hiểu: để hình thành NL đọc cho HS.
1.1.2.3. Chuẩn đọc hiểu: là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ
năng mà HS cần phải và có thể đạt được sau khi ĐH; là thước đo NL đọc
hiểu của người đọc. Ở mỗi cấp/lớp và mỗi loại VB sẽ có những chuẩn ĐH
5
riêng. Việc xác định chuẩn ĐH cho thấy quan niệm và yêu cầu về ĐHVB của
mỗi CT và CCT. Cách diễn đạt chuẩn ĐH cho thấy hướng tiếp cận của CT,
giúp định hướng PPDH và KTĐG kết quả ĐHVB của HS. Xu thế quốc tế
hiện nay tán thành quan niệm của PISA về các mức độ để xác định chuẩn
ĐHVB.
1.1.2.4. Đối tượng đọc hiểu: là VB, được chia làm hai loại: văn bản thông
tin (VBTT) và văn bản văn học (VBVH). Hai loại VB này được trình bày
dưới nhiều dạng “ngôn ngữ” khác nhau.
1.1.2.5. Phương pháp dạy học đọc hiểu: là hệ thống những cách thức mà
GV sử dụng để hướng dẫn HS đọc hiểu VB. Tuy nhiên, nên thống nhất là
với mỗi mục đích đọc, tùy theo đối tượng HS, sẽ có PPDH đọc hiểu khác
nhau. Song, dạy học ĐH theo phương pháp nào cũng bao gồm hệ thống
những cách thức mà GV hướng dẫn HS giải mã các yếu tố ngôn từ của văn
bản; phân tích, đánh giá để hiểu nội dung và hình thức của VB; vận dụng
những gì đã đọc vào thực tiễn đời sống của cá nhân theo những mục đích
nhất định.
1.1.2.6. Đánh giá kết quả đọc hiểu: là khâu cuối cùng nhưng nhưng lại có
ảnh hưởng to lớn đến quá trình dạy học, đi đôi với PPDH đọc hiểu. Hiện
nay, người ta thường dựa vào các nấc thang nhận thức của mà Benjamin
Bloom nêu ra hoặc dựa vào các mức độ ĐH đối với từng loại VB mà PISA
đề xuất.
1.1.3. Một số vấn đề về giáo dục so sánh, vận dụng vào so sánh chương
trình và chuẩn chương trình giáo dục phổ thông
Luận án tìm hiểu về: khái niệm“giáo dục so sánh”, đối tượng nghiên
cứu, mục đích nghiên cứu, nguyên tắc nghiên cứu, các cách tiếp cận
nghiên cứu và tiêu chí so sánh. Luận án kế thừa những nghiên cứu của một
số tác giả như Nguyễn Tiến Đạt, Bùi Đức Thiệp, Đỗ Ngọc Thống về mặt lí
luận, chỉ rõ sự vận dụng vào việc giải quyết đề tài nghiên cứu của luận án,
nhất là trong việc xác định bộ tiêu chí so sánh (bao gồm: mục tiêu ĐH; văn
bản ĐH; chuẩn ĐH; PPDH và KTĐG kết quả ĐH. Các tiêu chí trên chính là
các yếu tố liên quan đến vấn đề ĐH, xuất hiện trực tiếp hoặc gián tiếp trong
các văn bản CT và CCT mà luận án khảo sát).
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Định hướng tiếp cận năng lực trong xây dựng chương trình giáo
dục phổ thông môn Ngữ văn của Việt Nam
1.2.1.1. Về chương trình và thực hiện chương trình Ngữ văn hiện hành
a) Về chương trình: Sau một thời gian áp dụng, CT Ngữ văn hiện
hành của Việt Nam đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. CT nặng về hướng
triển khai kiến thức, chưa cụ thể hóa được mục tiêu NL; nội dung chương
6
trình phù hợp với những tri thức có tính hệ thống và cập nhật của ngành
Ngữ văn, tuy nhiên, càng lên lớp trên, tính hàn lâm càng nặng, khả năng
tác động đến sự phát triển và hoàn thiện NL của HS càng yếu; chưa có sự
phân hóa cho phù hợp với điều kiện vùng miền, HS... Đặc biệt, số lượng
VBVH rất nhiều. Khi dạy đọc, đa số GV chỉ coi trọng VBVH, nhiều GV
coi nhẹ hoặc bỏ qua các văn bản nhật dụng (VBND), nhất là ở các lớp
THPT. Ngoài ra, CT quy định chi tiết cả tên tác phẩm, thậm chí từng trích
đoạn tác phẩm mặc dù đáp ứng được một số yêu cầu nhất định về quản lí
nhưng tạo ra một CT khép kín, xa rời thời sự văn học, không phù hợp với
tâm lí và xu hướng đọc sách của HS hiện nay, do đó không khơi gợi được
hứng thú học tập của các em. Vì vậy, sau khi học xong CTGDPT môn Ngữ
văn, HS của Việt Nam đã được trang bị một khối lượng kiến thức về Văn
học rất lớn. Tuy nhiên, NL đọc và vận dụng những tri thức đã ĐH được
vào thực tế của của HS lại rất hạn chế.
b) Về thực hiện chương trình Ngữ văn hiện hành:
* Sách giáo khoa: về cơ bản, SGK thống nhất với CT và được biên
soạn theo tinh thần tích hợp. Tuy nhiên cách trình bày bài học trong SGK
của cấp Tiểu học và cấp trung học cơ sở (THCS), THPT có sự khác nhau.
Sách Tiếng Việt của Tiểu học xây dựng hệ thống bài học theo chủ đề,
trong mỗi chủ đề có sự tích hợp chặt chẽ các mạch nghe, nói, đọc, viết.
Sách Ngữ văn THCS và THPT xây dựng hệ thống bài học theo tuần, ở mỗi
tuần thường có một bài ĐHVB, một bài tiếng Việt và một bài làm văn;
nhưng tính tích hợp giữa các nội dung trong một tuần, càng lên các khối
lớp cao hơn càng yếu. Cách trình bày một bài ĐHVB trong SGK hiện hành
(nhất là ở bậc THCS và THPT) không khác so với sách Văn học trước đây.
Hệ thống câu hỏi – thực chất là những chỉ dẫn về PPDH nhưng chưa có sự
khác biệt trong cách hỏi, nội dung hỏi với sách Văn học. Mặc dù các VB
đọc hiểu được xếp theo cụm thể loại, tuy nhiên, hệ thống câu hỏi và bài tập
ở mỗi bài chưa thể hiện nhất quán nguyên tắc dạy ĐHVB theo đặc trưng
thể loại, chưa thấy được sự tăng dần mức độ khó ở bài sau so với bài
trước, cũng chưa thể hiện rõ quan điểm dạy đọc văn theo hướng hình thành
cách đọc, phương pháp đọc, NL đọc cho HS.
* Sách giáo viên và tài liệu tham khảo: Sách giáo viên (SGV) được
coi là một tài liệu tham khảo chính của GV. Song, thay vì đưa ra những
hướng dẫn về mặt PPDH, SGV hiện nay lại chủ yếu đi vào trả lời các câu
hỏi cụ thể ở mỗi bài ĐHVB trong SGK hoặc trình bày những nội dung cơ
bản của bài giảng hay tập trung phân tích tác phẩm theo quan điểm của
người viết… So với SGV Văn học trước đây, SGV Ngữ văn hiện hành
cũng chưa có những sự đổi khác trong việc hướng dẫn GV dạy học. Các
7
tài liệu tham khảo khác, về cơ bản, đều bám sát CT và SGK để minh họa,
hướng dẫn GV và HS đọc hiểu VB cụ thể trong CT. Cách viết của các tài
liệu tham khảo hầu như không chỉ ra các phương pháp ĐH mà thường là
những bài viết hoàn chỉnh, thể hiện kết quả ĐHVB của người biên soạn.
Cũng có cuốn sách bám vào hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài trong
SGK để hướng dẫn HS trả lời. Song, thực chất những cách làm này đều là
cách “đọc hộ, hiểu hộ” của các nhà nghiên cứu. Xét về mặt định hướng
PPDH, các tài liệu ấy chưa chỉ ra cho GV và HS thấy rõ cách thức dạy và
học ĐH, chưa kiểm sóat được sự hiểu của HS và hướng dẫn HS tự học,
vận dụng những điều đã hiểu vào cuộc sống. Do đó, chúng không khác so
với các tài liệu dành cho “giảng văn” trước đây.
* Phương pháp dạy học: Hiện nay, các tài liệu hướng dẫn thực hiện CT,
SGK Ngữ văn và tài liệu tham khảo chưa đưa ra được những PPDH đọc
hiểu cụ thể, rõ ràng nên cho đến nay, hoạt động đọc của HS trong giờ đọc
hiểu VB thường chỉ dừng lại ở chỗ đọc thành tiếng, đọc diễn cảm, nghĩa là
đọc chiếu lệ trước khi GV giảng bài... Phần lớn thời gian của giờ học, nhất là
ở những khối lớp của cấp THPT, GV thường "đọc hộ", "cảm thụ hộ" HS
bằng việc nêu lên hệ thống nội dung của bài học (đã được chuẩn bị sẵn trong
giáo án) và đưa ra những câu hỏi hướng vào việc làm sáng tỏ những nội dung
ấy. Do áp lực thi cử nên trong giờ đọc hiểu VB, nhiệm vụ chính của GV là
giảng văn, "đọc – chép", "chiếu – chép", nhiệm vụ của HS là "nghe – chép"
hoặc "nhìn – chép"... Như vậy, việc dạy học ĐHVB trong nhà trường phổ
thông của Việt Nam, đặc biệt là ở cấp THCS và THPT chưa đạt được mục
tiêu hình thành NL đọc mà CT đã đề ra.
* Kiểm tra đánh giá: Về cơ bản, KTĐG trong nhà trường phổ thông
của Việt Nam hiện nay chưa phát huy được NL đọc hiểu của HS, nhất là ở
THCS và THPT. Các đề thi vẫn nặng về kiểm tra kiến thức văn học,
thường kiểm tra lại kiến thức về các VBVH đã được học chính trong CT.
Hầu như không có sự xuất hiện của các VB đọc thêm hay VB cùng thể loại
nằm ngoài CT và SGK. Các câu hỏi trong đề thi thường chỉ dừng lại ở
mức “nhận biết” và “thông hiểu”, chưa kiểm tra được khả năng “vận
dụng” của HS. Đề thi chủ yếu theo dạng tự luận. Để làm tốt bài kiểm tra và
các bài thi lớn, HS phải chú ý “nghe giảng” và “học thuộc lòng” nội dung
bài giảng của thầy cô. Cách thức kiểm tra, đánh giá như vậy không khuyến
khích được việc dạy học ĐHVB theo đúng tinh thần của nó. Điều này
khiến cho nhiều HS học xong CT Ngữ văn nhưng chưa có NL đọc hiểu,
chưa có khả năng ĐH tốt một VB mới (không có trong CT và SGK) …
8
1.2.1.2. Định hướng xây dựng Chương trình giáo dục phổ thông môn
Ngữ văn theo hướng tiếp cận năng lực
Phát triển NL người học trong xây dựng và phát triển CTGDPT là xu
thế đổi mới CTGD của nhiều nước trên thế giới, cũng là một yêu cầu bức
thiết nhằm chuyển quá trình GD từ chủ yếu nặng về ứng thí, sính bằng cấp
sang thực học, thực làm, coi trọng NL. Đây cũng là vấn đề mà Chiến lược
phát triển GD Việt Nam từ năm 2011 đến năm 2020 đã đặt ra. Theo đó,
CT môn Ngữ văn sẽ hình thành và phát triển cho HS NL chung, cốt lõi
(NL giao tiếp bằng ngôn ngữ, bao gồm hai bình diện: tiếp nhận (đọc, nghe,
quan sát/xem) và tạo lập (viết, nói, trình bày) và những NL chuyên biệt
(cảm thụ văn học).
1.2.2. Xu thế chú trọng năng lực đọc hiểu văn bản trong chương trình
giáo dục phổ thông môn Ngữ văn
Nhiều nước trên thế giới đã đăng kí tham gia các CT đánh giá HS
quốc tế có uy tín như PISA, TIMSS, PIRLS, READ… Các CT này đều
đưa ra những tiêu chí và cách thức đánh giá chung ở một số lĩnh vực để
xác định thứ bậc của giáo dục mỗi nước trong bản đồ giáo dục của khu vực
và thế giới. Việt Nam đã tham gia PISA vào năm 2012 và tuân thủ quy
định, cách thức tổ chức kiểm tra, đánh giá NL của HS, trong đó có NL đọc
hiểu VB của PISA. Dựa trên kết quả mà HS đạt được, sẽ có sự điều chỉnh,
định hướng lại việc dạy học ĐHVB ở trường phổ thông. Song PISA không
phải là một CT dạy học, cũng không phải là tài liệu chính thống về PPDH.
PISA cũng mới chỉ đề cập đến ĐH với tư cách là một NL chung cốt lõi,
chưa đề cập đến các NL chuyên biệt... Vì thế, ngoài việc tham khảo cách
làm của PISA, cần nghiên cứu CTGDPT của các nước trên thế giới để tìm
hiểu để đề xuất những thành tố cốt lõi của NL này, vừa đáp ứng đặc điểm
của Việt Nam, vừa phản ánh xu thế quốc tế về ĐHVB. Từ đó, cụ thể hóa
thành chuẩn ĐH cho HS Việt Nam trong thời gian tới. Trước mắt, có thể
kế thừa nghiên cứu của PGS.TS. Nguyễn Thị Hạnh về "Xây dựng chuẩn
năng lực đọc hiểu cho môn Ngữ văn của chương trình giáo dục phổ thông
sau 2015 ở Việt Nam". Theo đó, chuẩn NL đọc hiểu sẽ gồm các nhóm yếu tố
sau: Yếu tố tri thức về văn bản, về chiến lược đọc; Yếu tố kĩ năng thực hiện
các hoạt động, hành động, thao tác đọc hiểu; Yếu tố sự sẵn sàng thực hiện
các nhiệm vụ học tập, các nhiệm vụ trong đời sống yêu cầu dùng đến hoạt
động đọc hiểu. Luận án coi đây là các tiêu chí để đánh giá về các khía cạnh
khác nhau của vấn đề ĐHVĐ, đặc biệt là chuẩn ĐH trong CT Ngữ văn của
các nước được khảo sát.
9
CHƯƠNG 2
ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TRONG CHƯƠNG TRÌNH
MÔN NGỮ VĂN CỦA VIỆT NAM, HÀN QUỐC, SINGAPORE
VÀ BANG CALIFORNIA QUA CÁI NHÌN SO SÁNH
2.1. MỤC TIÊU ĐỌC HIỂU
* Điểm tương đồng: Các CT và CCT đều coi trọng đọc hiểu như một kĩ
năng giao tiếp quan trọng – kĩ năng tiếp nhận ngôn ngữ mà HS cần được
hình thành và phát triển trong những năm học phổ thông, góp phần hình
thành NL đọc nói riêng và NL giao tiếp nói chung. Các CT và CCT đều coi
việc hình thành và phát triển kĩ năng đọc hiểu VB giúp cho HS hoàn thành
các nhiệm vụ học tập ở trường học; có những hiểu biết về tự nhiên, xã hội,
con người, văn hóa, văn học; bồi dưỡng nhân cách, tâm hồn; đáp ứng những
nhu cầu của đời sống để tồn tại, làm việc và phát triển. Các CT và CCT đều
cho rằng dạy học đọc hiểu VB không chỉ chú trọng cung cấp kiến thức mà
còn hình thành và củng cố các kĩ năng, thái độ, hành vi, nghĩa là thể hiện sự
coi trọng cả hai yếu tố: lí thuyết và thực hành. CT và CCT của bốn nước
đều xem việc dạy đọc hiểu VB ở Tiểu học là việc hình thành những kĩ năng,
chiến lược, hành vi, thái độ ban đầu, nền tảng của việc đọc hiểu VB. Ở
THCS, các CT và CCT đều đặt ra mục tiêu nâng cao thêm một bước NL
đọc hiểu VB đã được hình thành ở Tiểu học, đồng thời bồi dưỡng cho HS
năng lực tiếp nhận những loại VB cụ thể. Ở THPT, Các CT và CCT đều
hướng tới mục tiêu nâng cao NL đọc hiểu VB, đặc biệt là NL tiếp nhận văn
học, cảm thụ thẩm mĩ, phương pháp đọc, khả năng đọc độc lập và có tính
phê bình, ứng dụng những điều đã học vào đời sống. Ngoài ra, các CT và
CCT đều trực tiếp hoặc gián tiếp hướng đến việc dạy học đọc hiểu VB phù
hợp với cá tính, hứng thú và sở trường của từng HS, nghĩa là có sự phân hóa
trong yêu cầu về nội dung và phương pháp dạy học.
* Sự khác biệt cơ bản: Mỗi CT và CCT quan niệm riêng về mục tiêu và
cách diễn giải mục tiêu đọc hiểu VB. CT của Việt Nam chú trọng mục tiêu
hình thành NL tiếp nhận văn học, các CT và CCT còn lại hướng tới việc
hình thành NL đọc hiểu VB nói chung. Trong khi mục tiêu ĐHVB của CT
và CCT của các nước/bang có sự thống nhất và sự tiếp nối ở tất cả các cấp
học thì mục tiêu này của CT Việt Nam lại chưa có sự nhất quán giữa tiểu
học và các cấp học cao hơn.
2.2. CHUẨN ĐỌC HIỂU
2.2.1. Chuẩn đọc hiểu chung
* Điểm tương đồng: Việc nêu hay không nêu những chuẩn chung, khái
quát cho ĐHVB phụ thuộc vào VB được khảo sát là CT hay CCT. Hai VB
của Singapore và bang California đều nêu chuẩn chung cốt lõi hoặc kết
10
quả đầu ra cho ĐHVB, từ đó, cụ thể hóa thành các chuẩn cho từng khối
lớp. Các chuẩn được nêu đều có thể được xếp vào 3 nhóm yếu tố cấu thành
NL đọc hiểu như đã nói ở mục 1.2.2 của Chương 1.
* Điểm khác biệt cơ bản: Vì không xác định những chuẩn khái quát chung
nên ở từng khối lớp cụ thể, các chuẩn ĐH cần đạt mà CT của Việt Nam và
Hàn Quốc trình bày chưa có sự nhất quán, chặt chẽ. Về vấn đề này, luận án
sẽ trình bày kĩ hơn ở những mục sau (khi đề cập đến chuẩn ĐH của từng
cấp/lớp). Cách diễn đạt chuẩn chung trong CT của Singapore và CCT của
bang California mang đặc trưng của chuẩn thể hiện, trong đó CCT của
bang Califronia rõ nét hơn. CCT này đã tạo được mô hình chuẩn chung cốt
lõi, chuẩn của các lớp học, bậc học đều được diễn đạt theo mô hình này.
2.2.2. Chuẩn đọc hiểu ở các lớp tiểu học: Phần này chỉ so sánh chuẩn
đọc hiểu của lớp 1 và lớp 5.
* Điểm tương đồng: Các CT và CCT đều nêu các chuẩn riêng cho ĐHVB
ở từng khối lớp. Một số chuẩn đã được xác định ở lớp 1 có thể lặp lại ở lớp
5. Ở lớp 5 xuất hiện một số chuẩn mới. Các CT và CCT đều xác định các
chuẩn vào đọc các VB cùng loại. Tuy nhiên, mức độ của từng lớp có sự
khác nhau. Vì trong phần nêu đối tượng ĐH, các CT và CCT không nêu bất
cứ một VB nào bắt buộc HS phải ĐH (mà chỉ có gợi ý các chủ đề, tên VB
để GV và HS chọn lựa), nên khi nêu chuẩn, các CT và CCT không nêu
chuẩn ĐH đối với bất kì một VB cụ thể nào. Thay vào đó, nếu có, các CT
và CCT chỉ nêu chuẩn ĐH với từng loại VB (văn học hoặc thông tin).
Trong cách trình bày, “mức độ cần đạt” với “các chuẩn cần đạt”, “diễn
giải” với “các ví dụ về nội dung (đạt chuẩn)” trong CT của Việt Nam và
Hàn Quốc có sự giống nhau về tính chất.
* Sự khác biệt cơ bản: Cách xác định và nêu chuẩn ĐHVB ở các khối lớp
tiểu học phản ánh quan niệm của các nhà làm CT và CCT của các quốc
gia/bang về NL đọc hiểu VB của HS. Những đặc điểm riêng về chuẩn ĐH
ở tiểu học của từng nước/bang đã nêu trên cho thấy mức độ ĐHVB ở khối
lớp 1 và lớp 5 giữa các nước/bang không đều nhau, gián tiếp cho thấy yêu
cầu và khả năng ứng dụng những kiến thức, kĩ năng ĐH vào thực tế đời
sống của HS. Chuẩn ĐH cho các lớp tiểu học ở California, Singapore, Hàn
Quốc có đầy đủ các thành tố tạo thành NL đọc hiểu. Chuẩn ĐH của Việt
Nam, về cơ bản, chưa có đầy đủ các thành tố này. Tuy nhiên, theo sự quan
sát của chúng tôi, trên thực tế, trong giờ học ĐHVB, HS tiểu học ở Việt
Nam không chỉ sử dụng những kĩ năng mà CT xác định; ngoài ra, trong
đời sống, các em còn đọc thêm rất nhiều VB (văn học và thông tin) không
có trong CT. Vậy, nếu chúng ta chỉ xác định các chuẩn cần đạt như CT đã
nêu thì có phản ánh đúng NL đọc của HS Việt Nam hay không? Phải
11
chăng việc vận dụng những kiến thức và kĩ năng đã học trong nhà trường
vào thực tế đời sống là không cần thiết đối với HS Việt Nam?
2.2.3. Chuẩn đọc hiểu ở các lớp trung học: Phần này chỉ so sánh chuẩn
đọc hiểu đối với HS lớp 9 - giai đoạn cuối của GD bắt buộc và lớp 12.
* Điểm tương đồng: Các CT và CCT đều liệt kê chuẩn ĐH từng loại VB
đối với HS ở các lớp trung học. Số lượng và mức độ của các chuẩn đều
tăng so với các lớp tiểu học và các lớp dưới của bậc THCS để đáp ứng
mục tiêu rèn luyện, bồi dưỡng và nâng cao thêm một bước NL đọc hiểu
VB cho HS. Cách trình bày và diễn đạt chuẩn của các CT của Singapore,
của Hàn Quốc và bang California có sự nhất quán với tiểu học. Cách trình
bày và diễn đạt chuẩn của các CT của Singapore, của Hàn Quốc và bang
California có sự nhất quán với Tiểu học và có đầy đủ các yếu tố cấu thành
NL đọc hiểu.
* Sự khác biệt cơ bản:
Do quan niệm và cách diễn đạt của CTGDPT môn Ngữ văn của Việt
Nam nên dễ nhận thấy CT mới chỉ đặt ra chuẩn ĐH cho từng VB cụ thể,
trong đó các VBVH chiếm đa số. Tuy nhiên, mức độ cần đạt về mặt kĩ
năng đọc VBVH mà CT của Việt Nam đặt ra với HS lớp 9 và lớp 12 mang
tính chung chung, chưa cụ thể thành những chuẩn thực hiện để đo trình độ
đọc của HS như các nước Singapore, Hàn Quốc và bang California. Cách
trình bày và diễn đạt chuẩn trong CT Việt Nam không nhất quán với tiểu
học nhưng giống nhau ở các lớp THCS và THPT; chưa có nhóm yếu tố thứ
3 để tạo thành NL đọc hiểu.
Ở các lớp THPT, số lượng VBND (có một số VB có thể được xếp
vào nhóm VBTT) trong CT của Việt Nam ngày càng ít đi, trong khi đó,
như đã đề cập, các VBTT ở CT và CCT của các nước Singapore, Hàn
Quốc, bang California ngày càng tăng. Các chuẩn đặt ra đối với việc đọc
các VBTT trong CT và CCT của các nước này ngày càng cao với sự đa
dạng về thể loại và các kĩ năng đọc tương ứng với từng thể loại ấy.
Riêng với VBTT, luận án xem xét yêu cầu của PISA về bản chất của
từng mức độ và đối chiếu với cách diễn đạt của từng CT và CCT để đi đến
khẳng định về trình độ ĐH của HS ở lứa tuổi 15 tại các nước/bang có CT,
CCT mà luận án khảo sát. Tuy nhiên, luận án chỉ đối chiếu mức độ ĐHVB in
chứ không đề cập đến mức độ ĐHVB kĩ thuật số vì CT của Việt Nam không
có loại VB này. Cụ thể như sau:
- Đạt mức độ 6: Singapore, bang California
- Đạt mức độ 5: Singapore, bang California
- Đạt mức độ 4: Singapore, Hàn Quốc, bang California
- Đạt mức độ 3, 2, 1a, 1b: Cả 4 nước/bang.
12
Từ mức độ 4 trở lên, PISA yêu cầu HS phải vận dụng các kĩ năng để
đọc được những “ngữ cảnh mới” hay “một VB có nội dung hoặc hình thức
mới” hoặc “một VB có tính tổng hợp/đa dạng về chủ đề và hình thức thể
hiện”. Như vậy, theo cách diễn đạt của CT, HS Việt Nam chưa đạt được mức
độ này. Tuy nhiên, cũng như đối với HS các lớp tiểu học, chúng tôi nhận
thấy hàng ngày HS các lớp THCS và THPT vẫn đọc nhiều VB không có
trong CT, SGK. Việc CT không đề cập đến nhóm yếu tố thứ 3 (sự sẵn sàng
thực hiện các nhiệm vụ học tập, các nhiệm vụ trong đời sống yêu cầu dùng
đến hoạt động đọc hiểu) là chưa phản ánh đúng NL đọc của HS.
Tóm lại, chuẩn ĐH là yếu tố quan trọng trong vấn đề ĐHVB. Chuẩn
ĐH phản ánh trình độ/khả năng ĐHVB của HS (bao gồm cả kĩ năng đọc
VB trong nhà trường và ứng dụng kĩ năng đó vào hoạt động đọc trong đời
sống). Việc xác định và diễn đạt chuẩn cho thấy quan niệm và yêu cầu của
mỗi nước trong việc đánh giá trình độ của HS. Qua việc đối chiếu với CT
và CCT của một số nước, có thể thấy, chuẩn ĐHVB mà CT Việt Nam quy
định còn chung chung, chưa cụ thể và sinh động như thực tiễn ĐHVB của
HS trong nhà trường và ngoài xã hội. Đặc biệt, chuẩn chưa chi tiết để trở
thành định hướng về PPDH và KTĐG kết quả đọc hiểu như trong CT và
CCT của các nước được khảo sát.
2.3. VĂN BẢN ĐỌC HIỂU
2.2.1. Văn bản đọc hiểu chung
* Điểm tương đồng: Việc nêu văn bản của ĐH trong các CT và CCT đều
là sự thể hiện, cụ thể hóa mục tiêu và chuẩn ĐHVB trong nhà trường phổ
thông của mỗi quốc gia/bang. Các CT và CCT đều lấy hai loại VBVH và
VBTT/VB nhật dụng làm đối tượng của ĐH trong nhà trường phổ thông.
VBVH bao gồm các thể loại khác nhau, ở những thời kì phát triển khác
nhau của văn học. Cách gọi tên các VB phi văn học có sự khác nhau
nhưng đều là những VB có nhiệm vụ cung cấp thông tin hoặc được dùng
vào những chức năng nhất định. Việc coi trọng loại VB nào cũng phụ
thuộc vào mục tiêu và chuẩn ĐHVB của CT và CCT.
* Sự khác biệt cơ bản: Các CT và CCT có quan niệm khác nhau về tỉ lệ
giữa các loại VB, tính chất và nguồn cung cấp VB đọc hiểu trong nhà
trường phổ thông. Trong CT của Việt Nam, VBVH chiếm đa số. Điều này
thống nhất với mục tiêu của dạy học ĐHVB trong CT nước ta. CT của
Việt Nam chưa có VB đa phương tiện. Đặc trưng của các VB trong CT là
tất cả đều được in bằng chữ trên giấy, chỉ có một số VB có sự kết hợp giữa
tranh ảnh và ngôn từ, song số lượng tranh ảnh không nhiều, các tranh ảnh
này cũng chưa phát huy được giá trị của chúng trong việc minh họa hoặc bổ
sung, phối hợp thể hiện nội dung của VB. Các VB không được in mầu nên
13
chưa sinh động, hấp dẫn. Các CT và CCT còn lại coi trọng cả hai loại VB,
đồng thời khai thác nhiều nguồn cung cấp VB khác nhau, mở rộng quan
niệm về ngôn ngữ và hình thức trình bày của VB.
2.3.2. Văn bản đọc hiểu ở các lớp tiểu học
* Điểm tương đồng: CT và CCT của tất cả các nước đều diễn giải đặc
điểm của VB – đối tượng được ĐH ở tiểu học. Các nước đều quan niệm
giống nhau ở chỗ VB đọc hiểu ở cấp học này phải là những VB ngắn, có
nội dung và hình thức phù hợp với nhu cầu, NL, hứng thú của HS tiểu học.
Cách diễn giải này giúp cho GV dễ dàng lựa chọn VB để phục vụ cho việc
dạy học ĐH.
CT và CCT của các nước đều coi trọng cả hai loại VBVH và VBTT,
nêu rõ các tiểu loại của hai loại VB này, đồng thời, có sự diễn giải sơ lược
hoặc cụ thể về đặc điểm của các VB (về nguồn gốc, chức năng, hình thức,
nội dung…).
CT và CCT của tất cả các nước đều có sự phân bố cụ thể loại VB đọc
hiểu ở từng khối lớp, rất dễ nhận thấy các VB khó hơn được đọc ở những
lớp trên, những lớp dưới thường đọc những VB đơn giản hơn.
CT của Việt Nam và Hàn Quốc cùng có hai mạch nội dung Đọc/Kĩ năng
đọc và Kiến thức văn học/Văn học nên có sự phân biệt giữa hai loại đối tượng
của hai mạch nội dung này. Cả hai CT này đều đề cập đến chủ đề của các loại
VB.
Nói một cách khái quát, theo cách diễn đạt của CT và CCT, ở bậc tiểu
học, tất cả các nước đều không áp đặt các VB cụ thể mà HS phải đọc hiểu,
có độ “mở” cho phép người biên soạn SGK hoặc GV có thể linh hoạt lựa
chọn VB đọc hiểu ở từng khối lớp cho HS.
* Sự khác biệt cơ bản: So với CT và CCT của các nước, CT của Việt Nam
diễn đạt khá rõ về chủ đề của các VB được yêu cầu để ĐH ở tiểu học. Số
lượng VBVH khá nhiều, chưa có VB đa phương tiện. HS tiểu học trên cả
nước, về cơ bản, cùng ĐH các VB giống nhau. Ở các nước Singapore, Hàn
Quốc và bang California, HS đọc hiểu cả hai loại VB; đồng thời các VB
đọc hiểu là những VB phù hợp với đặc điểm trình độ và khuynh hướng của
HS ở từng địa phương.
2.3.3. Văn bản đọc hiểu ở các lớp trung học
* Điểm tương đồng:
Cũng như bậc tiểu học, CT và CCT của tất cả các nước đều diễn
giải đặc điểm của VB – đối tượng được ĐH ở THCS và THPT. Các
nước đều quan niệm giống nhau ở chỗ VB đọc hiểu ở 2 cấp học này
phải là những VB có nội dung và hình thức phù hợp với nhu cầu, NL,
hứng thú của học sinh THCS. Cách diễn giải này giúp cho GV dễ dàng
14
lựa chọn VB để phục vụ cho DH đọc hiểu. CT và CCT của các nước đều
xác định VB đọc hiểu là cả hai loại VBVH và VBTT/VBND, nêu rõ các
tiểu loại của hai loại VB này, đồng thời, có sự diễn giải sơ lược hoặc cụ
thể về đặc điểm của các VB (về nguồn gốc, chức năng, hình thức, nội
dung…). CT và CCT của tất cả các nước đều có sự phân bố cụ thể loại VB
đọc hiểu ở từng khối lớp. Trong CT của Singapore, Hàn Quốc, bang
California, rất dễ nhận thấy các VB khó hơn, phức tạp hơn được đọc ở
những lớp trên, những lớp dưới thường đọc những VB đơn giản hơn. CT
và CCT ở bậc THCS của Hàn Quốc, Singapore, bang California đều không
áp đặt các VB cụ thể mà HS phải đọc hiểu, có độ “mở” cho phép người
biên soạn SGK hoặc GV có thể linh hoạt lựa chọn đối tượng đọc hiểu ở
từng khối lớp cho HS.
* Sự khác biệt cơ bản: So với CT của Hàn Quốc, Singapore và CCT của
bang California, CT Việt Nam chưa có sự nhất quán trong cách nêu VB
đọc hiểu so với tiểu học. CT đưa vào rất nhiều VBVH, đồng thời quy định
rõ VB nào được VB ở khối lớp nào. Nhìn toàn bộ VB đọc hiểu ở THCS và
THPT trong CT của Việt Nam, có thể thấy ở lớp dưới (lớp 7, lớp 10), HS
phải ĐH những VB khó hơn so với các lớp trên (lớp 8, lớp 9) do CT sắp
xếp các VBVH theo tiến trình lịch sử. Như vậy, cách xác định VB đọc
hiểu như thế này chưa phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi và trình độ của HS.
Ngoài ra, số lượng VBND không nhiều, chưa đa dạng về đề tài, chủ đề.
Song, cách xác định VB đọc hiểu như thế này là sự tuân thủ mục tiêu mà
CT đã đặt ra đối với ĐHVB (để hình thành và phát triển NL tiếp nhận văn
học cho HS). CT và CCT của các nước/bang còn lại đều coi trọng cả hai
loại VB và không nêu tên VB bắt buộc phải DH đọc hiểu. Việc phân bố
đối tượng ĐH ở các khối lớp được cho là phù hợp với sự phát triển về trình
độ ĐH của HS.
Tóm lại, theo chúng tôi, VB đọc hiểu là một yếu tố quan trọng trong
vấn đề ĐH, cho thấy khả năng ứng dụng những tri thức và kĩ năng được
hình thành và bồi dưỡng ở nhà trường phổ thông vào thực tiễn của HS là
nhiều hay ít, khả thi hay không khả thi… Với việc coi trọng VBVH, CT
của Việt Nam đã cung cấp một khối lượng tri thức lớn về văn học cho HS,
nhằm mục đích hình thành ở HS năng lực tiếp nhận văn học. Tuy nhiên,
khả năng ứng dụng những điều đã học (gồm kiến thức và kĩ năng văn học)
vào thực tiễn chưa cao. Trên thực tế, HS chưa phát huy được NL tiếp nhận
VBVH vào đời sống. Bởi rất nhiều HS, sau khi tốt nghiệp THPT, không
làm những công việc có liên quan đến văn học. Năng lực đọc các
VBTT/VBND rất cần thiết, nhưng tiếc là NL này chưa được rèn luyện
nhiều ở nhà trường phổ thông. Hơn nữa, việc quy định cụ thể và nghiêm
15
ngặt các VB cần đọc trong CT của Việt Nam gắn với cách tiếp cận nội
dung của CT đã dẫn đến lối dạy áp đặt, học máy móc diễn ra trong một
thời gian dài.
2.4. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐỌC HIỂU
a) Điểm tương đồng : Các văn bản CT và CCT đều có những hướng dẫn
chung về PPDH bộ môn. Điểm gặp gỡ trong cách diễn giải về PPDH bộ môn
giữa các quốc gia là: đề cao vai trò tích cực, chủ động của người học; tổ chức
hoạt động dạy học phù hợp với đặc trưng bộ môn; dạy tích hợp; dạy học có
sự phân hóa (theo độ tuổi, theo khả năng của HS); đa dạng hóa các hình thức
tổ chức dạy học (lớp, nhóm, cá nhân); không tuyệt đối hóa một phương pháp
hoặc hình thức tổ chức nào; sử dụng các loại thiết bị dạy học…
CT của nước Singapore, Hàn Quốc và CCT bang California đều trực
tiếp và gián tiếp nêu lên PPDH đọc hiểu VB nói chung, dạy ĐH từng loại
VB nói riêng. CT của Singapore và bang California còn nêu cách dạy
ĐHVB cho từng cấp học và từng mục đích đọc hiểu cụ thể. Tuy có sự khác
nhau trong cách diễn đạt, nhưng có thể thấy CT của Singapore và CCT của
bang California rất giống nhau trong quan niệm về dạy ĐH các loại VB và
mục đích ĐH cụ thể.
b) Sự khác biệt cơ bản: So với các CT và CCT của các nước/bang được
khảo sát, CT của Việt Nam chỉ nêu định hướng chung về PPDH Ngữ văn,
tuy nhiên vẫn chưa thấy thật rõ đặc thù của PPDH bộ môn này và chưa nêu
cụ thể PPDH đọc hiểu từng loại VB, từng cấp học và từng mục đích ĐH
khác nhau. Mặc dù trên thực tế có rất nhiều những tài liệu tham khảo để
dạy ĐHVB trong nhà trường (như đã trình bày ở mục 1.2.1) nhưng vì
không có những chỉ dẫn cụ thể về phương pháp trong CTGDPT nên việc
dạy học ĐHVB vẫn không có sự khác biệt so với “giảng văn” trước đây.
Thêm vào đó, các chuẩn ĐH (như đã trình bày ở mục 2.2) chưa được
cụ thể hóa thành những kĩ năng, thao tác nên khi dạy ĐHVB, GV phổ
thông của Việt Nam còn lúng túng về mặt phương pháp. Cho đến nay, vẫn
còn nhiều GV chưa nắm được thế nào là DH đọc hiểu; việc hướng dẫn HS
đọc hiểu những VB không có trong SGK (cũng đồng nghĩa với việc không
có tài liệu hướng dẫn GV) còn gặp nhiều khó khăn.
2.5. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐỌC HIỂU
a) Sự tương đồng: Các CT và CCT đều không nêu riêng cách ĐGKQ đọc
hiểu VB mà chỉ nêu những vấn đề liên quan đến ĐGKQ học tập nôn Ngữ
văn nói chung, nhưng có thể hiểu việc ĐGKQ đọc hiểu VB cũng phải tuân
thủ theo các hướng dẫn ấy. Các CT của Việt Nam, Singapore, Hàn Quốc
đều đề cập đến các vấn đề như: vai trò của đánh giá, mục tiêu đánh giá, nội
dung đánh giá, phương thức đánh giá, tiêu chuẩn đánh giá, công cụ đánh
16
giá, chủ thể đánh giá. Không đưa ra một thang đánh giá cụ thể nào, các CT
và CCT đều coi chuẩn đọc hiểu là căn cứ để đánh giá NL đọc hiểu VB của
HS.
b) Sự khác biệt cơ bản: Do CT không có những chỉ dẫn cụ thể, các chuẩn
ĐH chỉ được nêu một cách khái quát nên việc ĐGKQ đọc hiểu VB trong
nhà trường phổ thông Việt Nam có sự khác biệt so với các nước/bang được
khảo sát. Mục tiêu đánh giá hiện nay chủ yếu để cho điểm và xếp loại học
lực của HS. Các công cụ đánh giá chủ yếu kiểm tra kiến thức và NL cảm
thụ văn học. Các nhà trường tiến hành đánh giá thường xuyên và định kì
theo quy định của Bộ GD và ĐT (Bộ có quy định số đầu điểm cụ thể tối
thiểu cho từng cấp học để dựa vào đó xây dựng phân phối CT cho môn học
ở từng cấp). Đề kiểm tra chủ yếu theo hình thức tự luận (ở bậc TrH). GV
là chủ thể đánh giá, HS chưa được tự đánh giá.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ VẤN ĐỀ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
CHO CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG VIỆT NAM
3.1. THỐNG NHẤT QUAN NIỆM VỀ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
3.1.1. Mục tiêu đọc hiểu văn bản
Ttrong thời gian tới, CT môn Ngữ văn của Việt Nam cần được xây
dựng "theo định hướng hướng phát triển NL học sinh" như "Chiến lược
phát triển giáo dục 2011-2020" đã xác định. Theo đó, CT sẽ tập trung vào
xác định các lĩnh vực kĩ năng ngôn ngữ cần hình thành và bồi dưỡng cho
HS phổ thông (như nghe, nói, đọc, viết, quan sát, trình bày…) để phát triển
NL giao tiếp bằng ngôn ngữ cho các em. Với mỗi lĩnh vực, CT cần đề ra
mục tiêu cụ thể để từ đó cụ thể hóa thành những chuẩn kiến thức và kĩ
năng mà HS cần đạt được ở mỗi cấp/lớp cụ thể. Riêng về lĩnh vực kĩ năng
đọc, CT Ngữ văn mới cần đặc biệt coi trọng đọc hiểu VB. Theo chúng tôi,
mục tiêu của đọc hiểu VB trong thời gian tới sẽ là hình thành và bồi dưỡng
những kĩ năng đọc các VBVH và VBTT lấy từ nhiều nguồn khác nhau để
giúp HS trở thành người có NL đọc, đồng thời biết ứng dụng NL đó vào
thực tiễn học tập và sinh hoạt của bản thân. Cùng với những NL ngôn ngữ
khác như nghe, nói, viết, quan sát, trình bày… HS bồi dưỡng và phát triển
được NL giao tiếp bằng ngôn ngữ. Từ mục tiêu khái quát trên, cần cụ thể
hóa mục tiêu ĐH từng loại VB (văn học và thông tin).
3.1.2. Văn bản đọc hiểu : Cần thay đổi quan niệm về VB đọc hiểu. Cụ thể là:
- Xác định VB đọc hiểu là VBVH và VBTT. Phải gia tăng số lượng
các VBTT so với hiện nay để rèn luyện kĩ năng đọc và tăng cường tính
thiết thực, khả năng ứng dụng kiến thức, kĩ năng đọc loại VB này vào đời
17
sống; tạo hứng thú cho HS và phù hợp với trình độ, khuynh hướng của các
em.
- Không chỉ sử dụng các VB thuần túy được viết bằng ngôn từ như
hiện nay mà cần đưa thêm các VB được trình bày dưới dạng đồ họa, hình
vẽ, biểu tượng, kí hiệu, hình ảnh … ở cả hai hình thức in và kĩ thuật số.
- Không chỉ là những VB trong CT và SGK môn Ngữ văn mà còn là
những VB trong CT và SGK các môn KHTN và KHXH được dạy học trong
nhà trường phổ thông.
- Không nên quy định cụ thể tên VB được ĐH trong CT mà chỉ quy
định các thể loại của VB được ĐH trong CT cũng như phân bố các thể loại
được đọc ở từng khối lớp cụ thể. Nên xây dựng phụ lục VB đọc hiểu cho
từng cấp. Ở mỗi cấp sẽ có các VB được gợi ý để các nhà viết SGK, các GV
và HS chọn lựa, phục vụ cho việc dạy học ĐH, phù hợp với đặc điểm của
từng đối tượng HS hoặc từng địa phương.
- Việc lựa chọn VB để DH đọc hiểu phải dựa trên những tiêu chí nhất
định. Ngoài ra, nên quy định các VB đọc hiểu phải là những VB hoàn
chỉnh, là một chỉnh thể độc lập. Đối với HS nhỏ tuổi, nên chọn các VB
ngắn; với HS lớn, nên đưa vào CT các VB dài hơn để HS có cái nhìn hoàn
chỉnh về VB. Không nên đưa vào quá nhiều VB, chạy theo số lượng mà
chỉ chọn những VB tiêu biểu, điển hình cho từng cụm thể loại. Tùy vào
mục đích của bài đọc mà GV chọn lựa, hướng dẫn HS đọc hiểu cả VB hay
đi sâu vào những đoạn tiêu biểu, song dứt khoát phải cho HS tiếp cận với
toàn bộ VB. Tất cả các VB được chọn đều phải có chất lượng cao và phù
hợp với tâm sinh lí lứa tuổi và chuẩn kiến thức, kĩ năng đặt ra đối với HS.
3.1.3. Chuẩn đọc hiểu: Xu hướng của nhiều nước trên thế giới hiện nay là
xác định và trình bày chuẩn ĐH theo hình thức của "chuẩn thể hiện". Nên
tham khảo cách làm của Singapore trong vấn đề này một cách có chọn lọc,
phù hợp với HS Việt Nam. Mặt khác, cần nghiên cứu để đặt ra các chuẩn
ĐHVB trong các môn KHXH, KHTN và kĩ thuật. Khi đề xuất các chuẩn cụ
thể, nên tham khảo cách làm của PISA trong việc nêu lên 5 mức độ ĐH và
kết quả nghiên cứu của PGS.TS. Nguyễn Thị Hạnh (Tlđd).
3.2. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
3.2.1. Phương pháp dạy đọc hiểu văn bản trong môn Ngữ văn
3.2.1.1. Phương pháp dạy đọc hiểu văn bản nói chung
ĐHVB đề cao vai trò chủ thể tích cực, sáng tạo của HS trong hoạt
động đọc. Tùy thuộc vào loại VB, mục đích đọc, đối tượng HS..., nên để
cho GV được tự do lựa chọn bất kì phương tiện giảng dạy và cách hướng
dẫn nào mà họ muốn. Tuy nhiên, dù sử dụng phương pháp và phương tiện
nào, GV cũng cần thiết kế các hoạt động sao cho có thể giúp HS tự đọc VB,
18