Skkn một số tình huống thường gặp khi làm thí nghiệm và cách làm sạch ống nghiệm (hóa học thcs)

  • 15 trang
  • file .doc
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“MỘT SỐ TÌNH HUỐNG THƯỜNG GẶP KHI LÀM THÍ NGHIỆM
VÀ CÁCH LÀM SẠCH ỐNG NGHIỆM”
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hóa học là môn khoa học thực nghiệm, trong đó có nhiều khái niệm khó và
trừu tượng. Cho nên, một trong những định hướng đổi mới dạy học hóa học là: khai
thác đặc thù môn hóa học, tạo ra các hình thức hoạt động đa dạng, phong phú cho học
sinh trong tiết học. Cụ thể là tăng cường sử dụng thí nghiệm hóa học, các phương tiện
trực quan, phương tiện kĩ thuật hiện đại trong dạy học hóa học. Có thể nói việc sử
dụng thí nghiệm trong dạy học hóa học là việc làm hết sức cần thiết để nâng cao hiệu
quả bài lên lớp và phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Thí nghiệm hóa học có
vai trò rất quan trọng vì chúng không chỉ là phương tiện, công cụ lao động của hoạt
động dạy học mà thông qua đó giúp cho quá trình khám phá, lĩnh hội tri thức khoa
học của học sinh trở nên sinh động và hiệu quả hơn.
Qua thí nghiệm hóa học, những kiến thức lý thuyết về hóa học trở thành hiện
thực. Thí nghiệm hóa học được sử dụng theo những cách khác nhau để giúp học sinh
thu thập và xử lý thông tin nhằm hình thành khái niệm, tính chất chung và tính chất
của các chất vô cơ, hữu cơ cụ thể.
Tuy nhiên trong quá trình làm thực hành có những tình huống, những hiện
tượng xảy ra ngoài ý muốn do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Đôi khi
bản thân giáo viên cũng cảm thấy lúng túng trước những câu hỏi và thắc mắc của học
sinh. Điều quan trọng hơn ở đây là nó làm cho học sinh hoài nghi về kết quả và vênh
giữa lý thuyết và thực tế, dẫn đến học sinh thiếu tin tưởng vào khoa học.
hiểu kĩ hơn về các yếu tố dẫn đến tình huống đó, bản thân đã tích luỹ được một số
Qua nhiều năm làm thí nghiệm thực hành môn Hoá học, bản thân tôi cũng đã gặp một
số tình huống không mong muốn đó. Ban đầu tôi cũng thấy rất lúng túng và nhiều khi
cũng không thể giải thích kịp thời cho các em hiểu. Qua nhiều lần xảy ra cùng một
hiện tượng thí nghiệm, tôi tìm thí nghiệm thường xảy ra thêm những hiện tượng đặc
biệt, từ đó giải thích để các em có thể hiểu vì sao lại không phải như kiến thức lí
1
thuyết và như hình ảnh minh hoạ từ sách giáo khoa. Cũng chính từ những vấn đề phát
sinh đó giáo viên có thể khắc sâu và mở rộng cho học sinh, đặc biệt là những học sinh
yêu thích bộ môn và luôn có ý thức tìm tòi sáng tạo.
Ngoài ra trong quá trình làm thực hành có những thí nghiệm tôi đã mạnh dạn
thay thế một số hoá chất để kết quả được tốt hơn, học sinh hiểu lý thuyết nhanh
hơn…
Một vấn đề trở ngại nhất của giáo viên sau mỗi giờ thực hành là việc sắp xếp,
lau chùi dụng cụ thực hành. Trong thực tế, công việc này đều do giáo viên dạy thực
hành đảm nhận vì học sinh chỉ có 5 phút ra chơi nên chỉ có đủ thời gian di chuyển về
phòng học cho tiết kế tiếp. Mặt khác, nhiều thí nghiệm sau khi làm xong ống nghiệm
rất khó làm sạch lại như ban đầu, cho nên nhiều lần phải bỏ ống nghiệm đó không
dùng lại cho lần sau (hoặc nếu dùng thì ống nghiệm cũng có thể gây nhiễu cho thí
nghiệm sau). Trong khi ống nghiệm và các dụng cụ thực hành ngày một đắt đỏ và sử
dụng cho nhiều lớp nhiều lượt thực hành, việc lau chùi và làm sạch nó là một việc rất
cần thiết của mỗi giáo viên và cán bộ thiết bị đặc biệt là những buổi có nhiều lớp thực
hành. Mặt khác, đó cũng là bài học để giáo dục học sinh tính tiết kiệm và bảo vệ đồ
dùng của công….
Từ những trăn trở đó, bản thân tôi đã tìm ra được một số phương pháp để xử lý
các ống nghiệm, dụng cụ thực hành nhằm khắc phục tối đa những tồn tại trên. Trong
khuôn khổ của đề tài này tôi cũng mạnh dạn chia sẻ một số kinh nghiệm xử lý làm
sạch ống nghiệm, dụng cụ thực hành… có thể phần nào đó giúp được cho các đồng
nghiệp và đặc biệt giảm bớt các trở ngại khi làm thực hành, tạo sự yêu thích và hưng
phấn hơn khi dạy các tiết có thí nghiệm thực hành. Cũng thông qua đây giáo viên
cũng cố thêm một số kiến thức và khích lệ các em có ý thức tìm tòi sáng tạo giải
quyết các tình huống phát sinh trong thực tế …
Đề tài “Một số tình huống thường gặp khi làm thí nghiệm
và cách làm sạch ống nghiệm”
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận:
2
Trong chương trình hoá học THCS có khá nhiều bài thực hành và tiết học có
thí nghiệm thực hành, mỗi thí nghiệm được lựa chọn đều có ý nghĩa nhất định trong
việc hình thành hoặc cũng cố kiến thức và rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Mỗi thí
nghiệm trong sách giáo khoa đều có hoá chất và dụng cụ tương ứng giúp giáo viên và
các em có thể tiến hành một cách khá đơn giản, nhanh gọn trong khuôn khổ thời gian
cho phép. Quá trình làm thực hành còn hiệu quả hơn khi cơ sở vật chất được xây
dựng và bài trí khoa học đúng quy chuẩn.
Tuy nhiên, trong thực tế có rất nhiều vấn đề tồn tại gây trở ngại và khó khăn
cho giáo viên trực tiếp giảng dạy. Sự tồn tại này tuỳ thuộc vào mỗi cơ sở, mỗi giáo
viên và mỗi tiết học… Thế nên cần ở giáo viên cách thích ứng kịp thời cùng với sự
chịu khó nhất định để có cách giải quyết tốt nhất cho mỗi tình huống, đặc biệt là các
tình huống xảy ra trong thực tế.
2. Cơ sở thực tiễn:
Là một giáo viên dạy môn thực nghiệm thì điều cần nhất là tích luỹ kĩ năng
tiến hành thí nghiệm và giải thích kịp thời các hiện tượng xảy ra khi làm thực hành,
giúp các em kiểm chứng được lý thuyết thông qua thực tế và từ đó các em có thể phát
triển năng lực toàn diện.
Trong chương trình Hoá học lớp 8 và lớp 9 có khá nhiều thí nghiệm thực hành,
hoá chất, dụng cụ sẵn có phù hợp với khả năng làm việc của giáo viên và học sinh
trong khuôn khổ một tiết học hoặc tiết thực hành. Tuy nhiên qua nhiều năm trực tiếp
dạy tôi vẫn thấy có một số những bất cập hoặc các tình huống phát sinh không mong
muốn xảy ra như một số thí nghiệm sau :
PHẦN I: MỘT SỐ TÌNH HUỐNG THƯỜNG GẶP KHI LÀM THÍ NGHIỆM
THỰC HÀNH HOÁ HỌC
A. Hoá học lớp 8
1. Thí nghiệm đo nhiệt độ nóng chảy của lưu huỳnh (Tiết 3,4 Hoá học lớp 8)
Thí nghiệm này về mặt lý thuyết thì thực hiện rất dễ dàng và không tốn mấy thời
gian, nhưng trong thực tế do nhiệt kế thuỷ ngân chỉ đo tối đa ghi là 110 oC mà nhiệt độ
3
nóng chảy thực tế của lưu huỳnh là trên 113 o C, do đó khi làm thí nghiệm thường xảy
ra nổ nhiệt kế, dẫn đến hiện tượng thuỷ ngân phóng ra ngoài vô cùng nguy hiểm trong
khi vẫn chưa đo được nhiệt độ nóng chảy của lưu huỳnh là bao nhiêu. Thực ra lúc đầu
giáo viên làm thí nghiệm cũng không lường trước được tình huống này, sau vài thí
nghiệm giáo viên mới nhận ra được sự bất cập của dụng cụ và yêu cầu của kiến thức
nên phải dừng lại và đành mô tả thí nghiệm và thông báo kết quả cho học sinh (về sau
chương trình có hướng dẫn giảm tải thí nghiệm này).
2. Thí nghiệm chứng minh sự lan toả của Amoniac (NH3) – Bài thực hành 2.
Thí nghiệm này nhằm mục đích chứng minh và cũng cố kiến thức về nguyên tử và
phân tử, các nguyên tử và phân tử (hạt hợp thành của chất) dù ở trạng thái nào thì
luôn luôn chuyển động đó là sự lan toả của chất…
Trong sách giáo khoa hướng dẫn là dùng giấy quỳ tím để làm thí nghiệm. Giấy quỳ
tím ẩm đặt ở dưới đáy ống nghiệm, bông tẩm dung dịch NH 3 để trên miệng ống
nghiệm sau đó đậy nút ống nghiệm lại và quan sat. Tuy nhiên, sự chuyển màu của
giấy quỳ tím diễn ra rất chậm và khó quan sát vì màu xanh của giấy quỳ khi có môi
trường kiềm và màu tím nhạt của giấy quỳ tím vốn dĩ gần giống nhau. Mặt khác do
dung dịch NH3 được hướng dẫn để trên miệng nên khí NH 3 khó lan toả xuống phía
dưới.
Để thí nghiệm này thành công hơn, tôi đã thay giấy quỳ tím bằng dung dịch
phenolphtalein không màu và thay đổi vị trí của bông tẩm dd NH 3 như sau: cho một
mẫu bông vào đáy ống nghiệm, từ từ nhỏ dung dịch NH3 cẩn thận xuống mẫu bông,
sau đó cho một mẫu bông khác trên miệng ống nghiệm và nhỏ vài giọt dung dịch
phenolphtalein vào cẩn thận để nó không bị rơi xuống đáy hoặc thành ống nghiệm.
Đậy nút cao su và quan sát, chỉ trong vài ba phút sau đã thấy mẫu bông có thấm dung
dịch phenolphtalein không màu chuyển dần sang màu hồng rất dễ quan sát. Từ đó
giáo viên giải thích hiện tượng và chứng minh được sự lan toả của amoniac.
3. Thí nghiệm hà hơi vào dung dịch nước vôi trong – Bài thực hành 3.
Theo yêu cầu của thí nghiệm này là cho HS dùng ống hút thổi vào ống nghiệm đựng
nước vôi trong và quan sát sẻ thấy dung dịch từ trong suốt sang vẫn đục chứng tỏ có
4
phản ứng xảy ra, từ đó HS thấy được dấu hiệu của phản ứng này là xuất hiện chất rắn
không tan (hay kết tủa). Tuy nhiên, khi học sinh làm thí nghiệm do thổi lâu nên một
thời gian lại không thấy xuất hiện kết tủa nữa (dung dịch trong trở lại) dẫn đến việc
giữa các nhóm làm thực hành kết quả không giống nhau và giải thích các hiện tượng
cũng không khác nhau. Từ thực tế này, giáo viên nên lưu ý vấn đề này với các em
trước khi tiến hành thí nghiệm. Còn trong khi các em làm thí nghiệm thì GV phải
quan sát đều các nhóm, đồng thời yêu cầu các em dừng một thời điểm. Thông thường
tôi cho 4 đại diện của 4 nhóm đứng một hàng và thổi để cùng quan sát và so sánh.
Mặt khác, kỉ thuật thổi cũng phải hướng dẫn trước cho HS nếu không các em sẻ thổi
trào ra ngoài hoặc hít ngược vào miệng.
4. Thí nghiệm đốt khí H2 trong không khí – Bài “Tính chất và ứng dụng của
hiđro”; Bài thực hành 5.
Theo lý thuyết thì khi ta đốt khí H2 từ vòi dẫn khí bằng không khí thì tạo ra ngọn lửa
màu xanh nhạt. Nhưng trong thực tế học sinh luôn quan sát thấy ngọn lửa có màu
vàng nhạt. Vậy có phải đã làm sai thí nghiệm không hay khí đang đốt không phải là
H2. Nhiều khi giáo viên cũng rất lúng túng với tình huống này. Qua một số lần làm thí
nghiệm với sự thay đổi hoá chất và dụng cụ làm thực hành tôi đã thấy có sự khác
nhau về ngọn lửa. Tôi đã rút ra được một số nguyên nhân làm cho ngọn lửa đốt khí
H2 có màu vàng nhạt đó là:
- Lượng khí H2 sinh ra không nhiều;
- Tiết diện ống đốt lớn nên làm cho mật độ khí khi tiếp xúc với không khí ít;
- Trong luồng khí H2 thoát ra còn có các tạp chất dạng khí và dạng hơi khác như hơi
nước, khí HCl (nếu ta dùng dd axit HCl)… nên hiệu suất của phản ứng đốt cháy này
thấp và làm cho ngọn lửa không xanh mà chuyển sang màu vàng nhạt…(điều này như
trong thực tế ta đốt khí ga cũng thấy đôi khi ngọn lửa có màu vàng trong tình huống
khí ga sắp hết hoặc do trào thức ăn, khí ga có lẫn tạp chất hoặc có nhiều hơi nước
trong không khí…)
Để khắc phục vấn đề này ta có thể thay bằng dd H 2SO4 nồng độ loãng phù hợp và tạo
phản ứng với tốc độ mạnh để được nhiều H2, dùng ống vuốt có tiết diện nhỏ… khi đốt
5
ngọn lửa sẻ dài và xanh hơn nhiều. Nếu ta đốt trong bình khí oxi thu sẵn thì ngọn lửa
rất xanh.
B. Hoá học lớp 9
Hoá học lớp 9 cũng có khá nhiều thí nghiệm khi ta tiến hành cũng phát sinh một số
tình huống đặc biệt như
1. Kim loại Cu tác dụng với dung dịch H 2SO4 đặc nóng – Bài “Một số axit quan
trọng”
Mục đích của thí nghiệm này là cho HS biết axit H 2SO4 đặc (nóng) có phản ứng với
kim loại Cu và đối chứng với thí nghiệm Cu không phản ứng với dd H 2SO4 loãng.
Theo mô tả trong hình 10. 1- SGK thì Cu tan và dung dịch từ không màu chuyển
thành màu xanh lam, khí thoát ra là khí SO 2. Tuy nhiên, khi làm thí nghiệm này, lúc
đầu khi đang đun thì dung dịch chuyển từ không màu sang màu xanh lam nhưng sau
đó lại chuyển dần thành màu đen, đặc biệt là ngay sau khi tắt đèn cồn dung dịch trở
nên đen ngòm. Tại sao lại như vậy, qua một số lần tiến hành thí nghiệm này tôi đã
nhận thấy khi cho Cu tác dụng với H 2SO4 đặc và đun nóng thì còn có khí H2S sinh ra.
Khi tắt đèn cồn thì một lượng khí H2S không thoát ra được mà bị hút trở ngược vào
ống nghiệm có chứa dung dịch CuSO4 (do áp suất trong ống nghiệm giảm xuống đột
ngột) sinh ra phản ứng tạo CuS (kết tủa màu đen) làm cho dung dịch chuyển sang
màu đen che mất màu xanh ban đầu của CuSO4.
CuSO4 + H2S CuS + H2SO4
Vậy khi tiến hành thí nghiệm này giáo viên cho HS quan sát và giải thích hiện tượng
ngay khi có khí thoát ra và dung dịch chuyển thành màu xanh, để đèn cồn nhỏ lửa và
còn đỏ thì tháo ngay vòi dẫn sẻ hạn chế được sự tác dụng ngược của H 2S với dung
dịch CuSO4. Mặt khác, qua đây cũng khắc sâu thêm hiện tượng đặc biệt của axit H 2S
với dung dịch muối đồng – axit yếu có thể tác dụng với dung dịch muối của axit
mạnh (trường hợp ngoại lệ của tính chất axit với muối).
2. Thí nghiệm cho dd BaCl2 vào dd NaHCO3 – đây là thí nghiệm khắc sâu và
cũng cố thêm về tính chất của muối axit NaHCO3
6
Theo lí thuyết thì 2 chất này không tác dụng được với nhau, tuy nhiên hoá chất có
trong phòng thí nghiệm lại cho hiện tượng ngược lại đó là có xuất hiện kết tủa trắng.
Khi tôi cho HS làm thí nghiệm nhận biết 1 số dung dịch có NaHCO 3, học sinh luôn bị
nhiễu và không thể nhận ra chính xác được NaHCO 3 vì hiện tượng gần giống như
Na2CO3. Qua tìm hiểu một số thí nghiệm tương tự, tôi nhận ra nguyên nhân là do hoá
chất NaHCO3 không được tinh khiết mà có lẫn Na 2CO3 nên khi cho dd BaCl2 vào sẻ
tạo ra kết tủa.
Để chứng minh không có phản ứng xảy ra giữa BaCl 2 với NaHCO3 tôi đã tiến hành
như sau: lấy một ít dung dịch NaHCO 3 từ hoá chất trên, cho một giọt dung dịch
phenolphtalein vào thấy dung dịch chuyển sang màu hồng (theo lý thuyết thì không
có), sục đến dư khí CO2 vào thấy màu hồng sẻ nhạt dần và biến mất, nhỏ một ít giọt
dung dịch BaCl2 vào thấy không xuất hiện kết tủa. Như vậy chứng minh được
NaHCO3 không tác dụng với dung dịch BaCl2 và hoá chất NaHCO3 không tinh khiết.
3. Thí nghiệm nung hỗn hợp bột Al và S sau đó cho nước vào sản phẩm sau phản
ứng.
Đây là thí nghiệm chứng minh tính chất hoá học của nhôm với phi kim trong bài
“Nhôm”
Thông thường trong 2 thí nghiệm của Al với Cl 2 và S thì ta chọn làm thí nghiệm này
bởi vì S có sẵn trong phòng thí nghiệm (còn khí clo phải điều chế và tiến hành phức
tạp và độc hơn). Giáo viên hướng dẫn HS trộn bột Al và bột S theo tỉ lệ thể tích phù
hợp, cho hỗn hợp vào bát sứ và đun trên ngọn lửa đèn cồn (trên kiềng và lưới tản
nhiệt) và quan sát. Khi nào hỗn hợp bùng cháy lên thì coi như phản ứng đã xảy ra và
tạo ra sản phẩm là Al2S3. Sản phẩm này khi để ở trạng thái rắn thì nó tồn tại tuy nhiên
khi HS cho nước vào thì có khí mùi trứng thối sinh ra. Đối với HS đây là hiện tượng
khá bất ngờ với các em, vì các muối khác cho vào nước thì chúng tan hoặc không tan
(hiện tượng vật lý) còn đây lại có phản ứng hoá học xảy ra. Trong tình huống này
giáo viên sử dụng kiến thức trong bảng tính tan để giải thích và khắc sâu cho các em.
Muối Al2S3 và một số muối khác là muối không tồn tại khi cho vào nước (có thể bị
7
thuỷ phân) trong bảng tính tan đánh dấu (-) cho nên khi HS cho nước vào có phản
ứng : Al2S3 + 6H2O 2Al(OH)3 + 3H2S
Mùi trứng thối là mùi của khí H2S.
Như vậy, qua đây giáo viên còn cũng cố và khắc sâu thêm một số tính chất đặc biệt
của muối. HS được quan sát thực tế sẻ nhớ lâu và giải thích thêm được một số hiện
tượng tương tự của muối khác như muối sắt(III)…
4. Thí nghiệm đốt khí axetilen (C2H2) – Bài “Axetilen”; Bài thực hành 5.
Thí nghiệm này tiến hành nhằm chứng minh tính chất hoá học của axetilen với oxi
thuộc bài ‘Axetilen” và tiết thực hành rèn kĩ năng sau đó. Theo lí thuyết được mô tả
trong bài học “Axetilen” và hình ảnh minh hoạ trong bài thực hành (trang 134 – SGK
Hoá lớp 9) thì khí axetilen cháy trong không khí có ngọn lửa xanh, sáng, toả nhiều
nhiệt và tạo ra hai sản phẩm là khí CO2 và H2O.
2C2H2 + 5O2 4CO2 + 2H2O
Tuy nhiên, khi tiến hành làm thí nghiệm đốt khí C 2H2 trong phòng thí nghiệm được
điều chế từ CaC2 (đất đèn) thì ngọn lửa màu vàng, có mùi hắc và đặc biệt là khói đen
(muội than) rất nhiều. Hiện tượng này rất nhiều em học sinh thắc mắc (đặc biệt là các
em khá giỏi). Vậy tình huống này được giải thích như thế nào? Theo tôi, trong đất
đèn (chủ yếu được mua ở tiệm hàn xì) có rất nhiều tạp chất nên khi cho vào nước,
ngoài khí C2H2 còn có các khí khác trong đó có khí của nguyên tố lưu huỳnh, nên ta
ngửi thấy mùi như mùi trứng thối… các khí này được tạo ra cản trở quá trình phản
ứng của C2H2 với oxi trong không khí, dẫn đến sự cháy xảy ra không hoàn toàn. Mặt
khác một lượng hơi nước cũng được bốc hơi (do sôi rất mạnh), oxi trong không khí
cũng không đủ để đốt cháy hết lượng khí C 2H2 thoát ra ở đầu ống vuốt nhọn, dẫn đến
hiện tượng ta quan sát được là ngọn lửa màu vàng, nhiều khói đen sinh ra. Điều này
cũng giống như trong thực tế khi ta đun bếp ga, nếu ta cho lượng ga thoát ra nhiều thì
ngọn lửa không xanh mà màu hơi vàng và đáy nồi có nhiều muội than bám vào, nếu
có hơi nước trào ra trên ngọn lửa thì ngọn lửa cũng có màu vàng.
PHẦN II. MỘT SỐ CÁCH LÀM SẠCH ỐNG NGHIỆM SAU KHI LÀM THỰC
HÀNH.
8
Đối với giáo viên dạy thực hành môn hoá học, để chuẩn bị một tiết thực hành
tốn rất nhiều công sức. Nếu trong một buổi có 2 tiết thực hành xen kẻ như 1,3 hoặc 2,
4… thì giáo viên còn có thời gian chuẩn bị và chùi dọn những đồ dùng vừa thực hành
xong. Còn nếu diễn ra liên tục thì quả là một áp lực và sự vất vả lại càng tăng lên rất
nhiều. Chính vì thế kĩ năng chuẩn bị, sắp xếp, làm sạch đồ dùng, ống nghiệm sau mỗi
giờ thực hành luôn là một yếu tố quan trọng giúp giáo viên triển khai thực hành
nhanh, hiệu quả, tiết kiệm được hoá chất, bảo quả tốt các thiết bị và tạo hứng thú cho
chính giáo viên khi tiến hành những tiết học vất vả này…. Bên cạnh đó còn giáo dục
cho học sinh biết lao động, ý thức bảo quả thiết bị, hoá chất, kĩ năng sắp xếp vệ sinh
phòng thực hành sau mỗi tiết học ở phòng thí nghiệm. Cũng qua đây học sinh càng
được trau dồi thêm kiến thức môn học và sự khéo léo trong mỗi thao tác thực hành thí
nghiệm.
Thực tế thì nhiều thí nghiệm sau khi làm xong chỉ cần dụng cụ đơn giản, nước sạch
và dầu rửa bình thường là làm sạch được dụng cụ thuỷ tinh như cốc, ống nghiệm, lọ
thuỷ tinh, thìa, muỗng…
Nhưng cũng có những thí nghiệm, đặc biệt là những thí nghiệm xảy ra sau khi đun
hoặc nung ở nhiệt độ cao thì các thiết bị sau khi làm xong rất khó chùi rửa hoặc rất
khó sạch như ban đầu, dẫn đến chúng ta thường phải loại các ống nghiệm hoặc thiết
bị đó. Đây là điều không mong muốn vì thiết bị ngày càng đắt đỏ và tốn kém rất
nhiều. Mặt khác, với một giáo viên dạy thực hành thì đây là điều không nên xảy ra.
Qua những trăn trở như thế, dựa vào một số kinh nghiệm tích luỹ được trong rất
nhiều tiết dạy thực hành, tôi xin giới thiệu một số kinh nghiệm làm sạch ống nghiệm
ở một số thí nghiệm sau đây:
1. Làm sạch ống nghiệm sau khi đo nhiệt độ nóng chảy của Parafin (nến) – Bài
thực hành 1 – Hoá học lớp 8
Khi tiến hành thí nghiệm đo nhiệt độ nóng chảy của nến (Parafin) giáo viên thường
cho các nhóm làm vào ống nghiệm vì khi tiến hành trong ống nghiệm thì việc đo
bằng nhiệt kế thực hiện dễ dàng hơn và cũng tốn ít Parafin hơn. Tuy nhiên khi làm
xong thì rất khó làm sạch được ống nghiệm vì nến nóng chảy ở nhiệt độ thấp (khoảng
9
trên 400C), do đó nó cũng dễ đông đặc khi nhiệt độ hạ xuống. Vì vậy rất khó để lấy
được hết nến trong ống nghiệm khi mà nó cũng không tan trong nước hay tan trong
các nước rửa thông thường. Tôi đã khắc phục bằng cách cho nước vào và đun nóng
lên đồng thời dùng đũa khuấy để nó bong và chảy lỏng ra rồi đổ nhanh khi nước còn
nóng. Phải thực hiện một số lần như vậy và kết hợp với nước rửa chén trong lần cuối
cùng để làm trơn ống nghiệm và chùi bằng chổi thì nó mới sạch. Một cách khắc phục
khác là ta có thể cho học sinh tiến hành trong cốc thuỷ tinh nhỏ thì việc chùi cũng
tiến hành tương tự nhưng dễ làm hơn vì cốc thuỷ tinh thì tay ta có thể làm sạch dễ
dàng.
2. Làm sạch ống nghiệm sau khi điều chế khí oxi bằng cách nung thuốc tím
(KMnO4) – Bài thực hành 3, Bài “Oxi”, Bài thực hành 4, Bài “Tính chất và
ứng dụng của Hiđro”, Bài thực hành 5 – Hoá học lớp 8.
Như vậy nung thuốc tím là một trong những thí nghiệm được tiến hành nhiều nhất
trong chương trình Hoá học lớp 8. Ngoài ra, trong chương trình lớp 9 một số thực
hành cũng cần điều chế khí oxi. Cho nên số lượng ống nghiệm hoặc thiết bị để nung
thuốc tím cần rất nhiều. Tuy nhiên các ống nghiệm hoặc thiết bị sau khi làm thí
nghiệm này xong rất khó làm sạch, hầu như nó luôn bị đen hoặc nâu phía dưới đáy
ống nghiệm mà xử lý bằng dụng cụ thông thường thì không thể sạch được. Kết quả là
nếu không có cách nào thì sau một năm học số ống nghiệm phải loại đi rất lớn vì nhìn
nó bẩn và khó quan sát khi làm các thí nghiệm hoá học khác. Chưa nói đến việc nung
thuốc tím và một số thí nghiệm nung và đun khác rất dễ làm vỡ ống nghiệm nếu
không tiến hành đúng quy trình và chọn ống nghiệm chịu nhiệt tốt. Vậy cho nên, việc
bảo quản và xử lý làm sạch nó càng cần thiết. Qua một thời gian dài làm thí nghiệm
và cũng trải qua không ít lần phải sử dụng lại ống nghiệm không sạch của thí nghiệm
nung thuốc tím, tôi đã tìm hiểu được rằng, chất cặn bám vào ống nghiệm sau khi
nung thuốc tím mà chùi bằng cách thông thường không sạch thì nó sẻ được làm sạch
dễ dàng bằng dung dịch muối sắt (II) (xảy ra phản ứng hoá học giữa muối sắt (II) với
các chất có tính oxi hoá trong chất rắn của phản ứng nung thuốc tím như KMnO 4,
K2MnO4, MnO2 có trong cặn bẩn). Trước khi làm thí nghiệm điều chế khí oxi bằng
10
thuốc tím tôi luôn luôn điều chế sẵn một lọ dung dịch muối sắt(II), như sắt(II) clorua
(FeCl2) bằng cách cho bột sắt dư vào dung dịch HCl hoặc vào dung dịch FeCl 3 rồi lọc
lấy dung dịch FeCl2 (màu vàng chanh). Ống nghiệm điều chế thuốc tím sau khi được
xử lý giai đoạn đầu với nước, tôi cho vào đó một ít dung dịch muối FeCl 2 và quan sát,
chỉ trong một thời gian ngắn sau cặn bẩn tan sạch, chỉ chùi lại với nước là ống
nghiệm mới như ban đầu. Đây là một cách khắc phục đơn giản và sử dụng lại được
các ống nghiệm chịu nhiệt nên nó càng bền hơn.
3. Làm sạch thiết bị sau khi thử tính chất của khí H 2 với CuO – Bài “Tính chất và
ứng dụng của H2”, Bài thực hành 5 – Hoá học lớp 8.
Thí nghiệm này thường được tiến hành đơn giản nhờ ống thuỷ tinh chữ Z (loại nhỏ).
Nhưng khi làm thí nghiệm xong thì rất khó làm sạch cặn sản phẩm bám trong thành
ống thuỷ tinh vì nó rất bé và cong. Nếu không làm sạch thì ống thuỷ tinh đó chỉ dùng
được 1 lần, vì màu của nó sẻ làm nhiễu kết quả của thí nghiệm sau. Tôi đã khắc phục
bằng cách ngâm thiết bị này vào dung dịch hỗn hợp NaNO 3 và HCl (đây là 2 dung
dịch sẵn có trong phòng thực hành) hoặc ngâm trong dung dịch HNO 3. Một thời gian
sau màu đỏ (Cu và một phần nhỏ Cu 2O) ở phẩn cong của thiết bị tan dần do phản ứng
hoá học xảy ra
Cu2O + 2HCl 2CuCl + H2O
hoặc Cu2O + 2HCl CuCl2 + Cu + H2O
3Cu + 8HCl + 2NaNO3 2NaCl + 3CuCl2 + 2NO + 4H2O
Trong quá trình làm thực hành ngoài các kĩ năng và kinh nghiệm lau dọn, làm sạch
đồ dùng sau khi thực hành xong thì một yếu tố cũng rất quan trọng làm cho giáo viên
dạy bộ môn thực hành đỡ tốn thời gian trong khâu chuẩn bị và tìm kiếm hoá chất
dụng cụ đó là sắp xếp bố trí một cách khoa học kho hoá chất, tủ đổ dùng để khi chuẩn
bị được nhanh và tiết kiệm tối đa thời gian, thậm chí giáo viên hướng dẫn cho HS có
thể các em cũng làm được, nhất là khi mà ngày càng coi trọng các kĩ năng thực hành
và các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong phương pháp dạy học hiện đại.
Bằng sự tìm tòi và tích luỹ kinh nghiệm trong quá trình dạy thực hành thí nghiệm cho
HS, trong một số năm lại đây tôi đã thấy mình yêu thích hơn công việc tưởng chừng
11
rất trở ngại này, đó cũng là động lực để dạy tốt hơn và đưa lý thuyết ngày càng sát
với thực tế. Qua đó tôi cũng đã truyền được cảm hứng thích tìm tòi khám phá cho
nhiều em học sinh trong bộ môn Hoá học. Kết quả là ngày càng có nhiều em yêu
thích bộ môn, số lượng học sinh khá giỏi cũng được tăng lên, kết quả của các đợt giao
lưu học sinh giỏi các lớp, các đơn vị bạn rất khả quan.
Một số kết quả được khảo sát trong vài năm gần đây:
2014 - 2015 2015-2016 2016 -2017
Khối 8 Loại TB 56% 42% 36%
Loại khá 30% 31% 35%
Loại giỏi 14% 27% 29%
Khối 9 Loại TB 64% 51% 32%
Loại khá 24% 28% 35%
Loại giỏi 12% 21% 33%
Ngoài chất lượng học tập của các em nâng lên, số học sinh giỏi tăng lên thì một vấn
đề cũng đáng được lưu ý đó là tiết kiệm được khá nhiều ngân sách trong việc mua
sắm thiết bị cho thực hành hoá học, giáo dục được các em học sinh trong việc tiết
kiệm và bảo vệ của công. Tôi đã tổng kết được một số ưu điểm nổi bật từ khi tiến
hành áp dụng những kinh nghiệm của bản thân vào dạy học trong thời gian qua :
- Học sinh hứng thú học tập và chờ đợi được học tiết thực hành hơn nhiều. Đặc biệt
qua tiết thực hành các em không chỉ chứng minh được lý thuyết, cũng cố được kiến
thức đã học mà còn mở rộng và giải thích thêm các hiện tượng mới phát sinh trong
quá trình làm thực hành.
- Học sinh được giáo dục cao về ý thức tiết kiệm, kĩ năng hoạt động nhóm, sáng tạo
trong trong lao động, ý thức giữ gìn môi trường.
- Học sinh được rèn luyện kĩ năng làm các bài tập gắn với thực tế, giải thích các hiện
tượng xảy ra trong thực tế, trong gia đình các em...
12