Quan niệm lý khí của lê quý đôn qua tác phẩm vân đài loại ngữ

  • 26 trang
  • file .pdf
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
HOÀNG THỊ LIÊN
QUAN NIỆM LÝ - KHÍ CỦA LÊ QUÝ ĐÔN
QUA TÁC PHẨM VÂN ĐÀI LOẠI NGỮ
Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 60 22 80
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đà Nẵng - Năm 2013
Công trình được hoàn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN NGỌC ÁNH
Phản biện 1: PGS.TS. NGUYỄN TẤN HÙNG
Phản biện 2: PGS.TS. LÊ VĂN ĐÍNH
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận
văn tốt nghiệp thạc sỹ Khoa học Xã hội và Nhân văn họp
tại Đại học Đà Nẵng vào ngày 06 tháng 09 năm 2013
Có thể tìm luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỷ XVIII trong lịch sử Việt Nam là giai đoạn đầy biến
động và khốc liệt: đất nước bị chia cắt, chính trị rối ren, nhân dân lưu
tán. Tuy nhiên, xét trên phương diện học thuật, tư tưởng thì đây lại là
giai đoạn nở rộ của những trước tác đồ sộ chưa từng có với những
nhà tư tưởng, những tên tuổi lớn như: Nguyễn Huy Oánh, Ngô Thì
Nhậm, Ngô Thì Sĩ, Bùi Huy Bích… Trong số đó, chúng ta không thể
không kể đến một nhân vật tiêu biểu đã góp phần tạo nên diện mạo
tư tưởng thời kỳ này, đó là Lê Quý Đôn (1726 - 1784) - nhà bác học,
nhà tư tưởng Việt Nam thế kỉ XVIII.
Ông là người có vốn Hán học uyên thâm, là một nhà bách
khoa toàn thư, được mệnh danh là học giả tập đại thành thời bấy giờ.
Có thể nói, toàn bộ những tri thức cao nhất ở thế kỷ XVIII đều được
bao quát vào trong các tác phẩm của Lê Quý Đôn. Tác phẩm của ông
bao trùm mọi vấn đề về thiên nhiên, xã hội và con người, thể hiện tài
năng và trí tuệ của một danh nhân lỗi lạc về mọi mặt: triết học, xã
hội học, sử học, kinh tế học, chính trị học, văn học, nghệ thuật học.
Trên cơ sở nghiên cứu các lĩnh vực, Lê Quý Đôn đã đưa ra một số
quan điểm triết học làm phong phú và sinh động lịch sử tư tưởng của
dân tộc.
Trong số các tác phẩm của Lê Quý Đôn Vân đài loại ngữ là
một tác phẩm bao hàm nhiều vấn đề triết học quan trọng. Đặc biệt
quan niệm về lý – khí trong tác phẩm thể hiện vũ trụ quan và tư duy
sâu sắc của Lê Quý Đôn. Tuy nhiên, nhiều năm qua việc nghiên cứu
2
quan điểm lý – khí của Lê Quý Đôn vẫn còn nhiều thiếu sót chưa
xứng với tầm vóc, tư tưởng của ông.
Mặt khác, Việt Nam là đất nước có lịch sử phát triển lâu đời
nhưng lại chưa có một trình độ lí luận, một tư duy khái quát ngang
tầm với mỗi thời đại. Cho nên việc tìm hiểu lịch sử tư tưởng của dân
tộc thông qua tư tưởng triết học của các học giả tiêu biểu là việc làm
cần thiết để thấy được sự giao thoa văn hóa giữa các nước, đồng thời
khơi dậy niềm tự hào dân tộc.
Bên cạnh đó, nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy và
học tập bộ môn Lịch sử triết học Việt Nam ở các trường đại học và
cao đẳng thì việc nghiên cứu tư tưởng triết học của các nhà tư tưởng
Việt Nam trong dòng chảy lịch sử để thấy được sự phát triển của tư
tưởng dân tộc là không thể thiếu.
Xuất phát từ những lí do trên, việc nghiên cứu “Quan niệm lý
– khí của Lê Quý Đôn qua tác phẩm Vân đài loại ngữ” theo chúng
tôi là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết cả về lí luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn làm rõ thực chất quan niệm lý – khí của Lê Quý Đôn
được thể hiện trong tác phẩm Vân đài loại ngữ, và ý nghĩa của quan
niệm đó trong lịch sử tư tưởng triết học dân tộc, thế kỉ XVIII.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Quan niệm lý – khí của Lê Quý Đôn trong tác phẩm Vân đài
loại ngữ.
b. Phạm vi nghiên cứu
3
Vân đài loại ngữ tập hợp và sắp xếp những tri thức về triết
học, văn học, khoa học dưới chín đề mục, trong đó đề mục thứ nhất
có tên “Lý khí” (vũ trụ luận) gồm 54 điều.
Trong phạm vi, khuôn khổ nghiên cứu của đề tài, bản thân
chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu quan niệm về lý - khí ở đề mục
thứ nhất trong tác phẩm “Vân đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa Mác –
Lênin về lịch sử triết học, luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu
là: logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh và hệ thống hoá
nhằm tái hiện chân thực và đánh giá một cách khách quan quan niệm
về lý - khí mà Lê Quý Đôn trình bày trong Vân đài loại ngữ.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của Luận văn gồm 2
chương 5 tiết.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm “Vân đài
loại ngữ” cũng như nghiên cứu tư tưởng của Lê Quý Đôn theo nhiều
phương diện khác nhau. Trong đó phải kể đến những công trình
nghiên cứu quan trọng như:
“Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu”
của giáo sư Cao Xuân Huy, được nhà xuất bản Văn học xuất bản
năm 1995. Cuốn sách gồm ba phần, trong đó phần hai với tiêu đề
“Tư tưởng Việt Nam từ truyền thống tới canh tân”, nêu bốn nội dung
trong đó đáng chú ý là nội dung Lê Quý Đôn và học thuyết lý khí. Ở
phần này tác giả đã trình bày rất cụ thể quan điểm của Lê Quý Đôn
về vấn đề bản thể của thế giới, của vũ trụ. Tác giả đã chỉ rõ nguồn
4
gốc xuất phát tư tưởng của Lê Quý Đôn, vạch ra những điểm hạn chế
và tiến bộ của ông so với các nhà nho cùng thời.
“Lê Quý Đôn – nhà tư tưởng Việt Nam thế kỉ XVIII” của
GS.Hà Thúc Minh (NXB Giáo dục, 1999). Cuốn sách gồm 2 phần:
phần thứ nhất, tác giả đã mô tả, phân tích cuộc đời và sự nghiệp của
Lê Quý Đôn. Trên nền tảng ấy tác giả đã khảo sát và phân tích quan
điểm chính trị - xã hội, quan điểm triết học và quan niệm về bản sắc
văn hóa dân tộc của Lê Quý Đôn. Phần thứ hai của cuốn sách được
giành để giới thiệu một số tác phẩm của Lê Quý Đôn trong đó có tác
phẩm Vân đài loại ngữ. Tác giả của cuốn sách đã chọn, trích, dịch
và chú giải một số đoạn trong các tác phẩm có liên hệ đến nhiều vấn
đề. Đây là công trình nghiên cứu khái quát về Lê Quý Đôn trên mọi
phương diện, từ thân thế, sự nghiệp, những tác phẩm tiêu biểu cho
đến tư tưởng của Lê Quý Đôn. Với nội dung phong phú, cuốn sách
đã mang đến cho người đọc cái nhìn mới mẻ về nhà tư tưởng Lê Quý
Đôn.
Cuốn sách“Lê Quý Đôn – Cuộc đời và giai thoại” do Trần
Duy Phương biên soạn được NXB Văn hóa dân tộc xuất bản năm
2000. Cuốn sách giới thiệu đến độc giả tiểu sử của Lê Quý Đôn, cuộc
đời làm quan và sự nghiệp chính trị của ông. Cuốn sách cũng cung
cấp cho người đọc một khía cạnh khác của Lê Quý Đôn đó là sự
nghiệp sáng tác thơ văn của ông với rất nhiều tác phẩm được liệt kê
cùng với lời đề tựa của chính tác giả.
Luận văn Thạc sĩ Triết học “Tư tưởng triết học của Lê Quý
Đôn trong Vân đài loại ngữ” của Hoàng Văn Thảo do TS. Trần
Nguyên Việt trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn hướng
dẫn. Luận văn trình bày những tư tưởng triết học cơ bản trong Vân
5
đài loại ngữ, đó là quan niệm về bản thể của thế giới, quan niệm về
con đường nắm quyền lực. Luận văn đã chỉ ra nguồn gốc tư tưởng
của Lê Quý Đôn, sự kế thừa và phát triển những tư tưởng cơ bản của
Tống Nho.
Luận văn Thạc sĩ Triết học “Bước đầu tìm hiểu nhân sinh
quan Lê Quý Đôn” của Hoàng Thu Hương, trường Đại học Khoa học
xã hội và nhân văn do GS.TS Lê Văn Quán hướng dẫn năm 2009.
Luận văn đã trình bày những điều kiện hình thành nhân sinh quan Lê
Quý Đôn. Đồng thời nêu lên mối quan hệ giữa nhân sinh quan với
trách nhiệm cá nhân và sự phát triển xã hội. Luận văn đã nêu lên
được những đóng góp của Lê Quý Đôn trong dòng chảy lịch sử triết
học dân tộc.
Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu đăng trên
các báo, các diễn đàn, các hội thảo, tạp chí…Chẳng hạn như: bài viết
của Nguyễn Lộc và Trần Nho Thìn “Thực tiễn sáng tác và những
quan niệm văn học của thời đại, những quan niệm văn học của Lê
Quý Đôn” in trong kỉ yếu Lê Quý Đôn – Nhà bác học Việt Nam thế
kỉ XVIII – Sở văn hóa thông tin Thái Bình, 1976. Những bài viết của
Gs. Văn Tân: “Vài nét về Lê Quý Đôn nhà bác học lớn của Việt Nam
dưới thời phong kiến” và “Lê Quý Đôn, cuộc đời và sự nghiệp”
được đăng trên Tạp chí nghiên cứu lịch sử cũng là nguồn tư liệu
tham khảo quý giá. Bài viết “Luận lý khí của Lê Quý Đôn” của PGS.
Lâm Nguyệt Huệ, Viện nghiên cứu Văn – Triết, Viện Hàn Lâm
Sinica đăng trên Tạp chí triết học 2009. Bài viết “Nội hàm thông
diễn học trong “Vân đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn” của Lâm Duy
Kiệt, đăng trong Tạp chí triết học số 12, tháng 12 – 2009. Bài nghiên
cứu “Những tư tưởng chủ đạo của Lê Quý Đôn về vấn đề bản thể
6
luận và nhận thức luận” của Nguyễn Trọng Nghĩa, trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG - HCM đăng trên Tạp chí
phát triển KH&CN, tập 14, số X1 – 2011. Những bài viết của GS.
Nguyễn Tài Thư “Tư tưởng Lê Quý Đôn và khuynh hướng tư tưởng
của thời đại ông”, “Lê Quý Đôn trong lĩnh vực tư tưởng của dân tộc
ở thế kỷ XVIII”, “Lê Quý Đôn, nhà tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVIII”
được đăng tải trên tạp chí Triết học, cũng là những nguồn tư liệu
quan trọng khi nghiên cứu về Lê Quý Đôn.
Như vậy, có thể nói rằng những tài liệu trên đây là nguồn tư
liệu rất quý giá. Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã tham
khảo, sử dụng những tư liệu đó để hoàn thiện luận văn của mình.
CHƯƠNG 1
LÊ QUÝ ĐÔN VÀ TÁC PHẨM “VÂN ĐÀI LOẠI NGỮ”
1.1. LÊ QUÝ ĐÔN – CUỘC ĐỜI, SỰ NGHIỆP, TƯ TƯỞNG
1.1.1. Khái quát cuộc đời và sự nghiệp của Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn sinh ngày mồng 5 tháng 7 năm Bính Ngọ (tức
ngày 2/8/1726) ở phường Bích Câu, thành Thăng Long (phố Bích
Câu, Hà Nội ngày nay). Ngay từ nhỏ Lê Quý Đôn đã nổi tiếng thông
minh, có một trí nhớ đặc biệt, học đâu nhớ đấy.
Năm 1739, Lê Quý Đôn theo cha lên kinh đô để theo đòi cử
nghiệp. Năm 18 tuổi (1743), Lê Quý Đôn đỗ Giải nguyên khoa thi
Hương trường Sơn Nam. Năm 1752, Lê Quý Đôn đỗ đầu kỳ thi Hội,
rồi khi vào thi Đình, đỗ Bảng nhãn (tức đỗ đầu - khoa này không lấy
Trạng nguyên), thường gọi là Tam nguyên Bảng nhãn Lê Quý Đôn.
7
Trong suốt hơn 30 năm làm quan (1784 – 1752), Lê Quý Đôn
đã trải qua nhiều chức vụ khác nhau, nắm giữ những vị trí quan trọng
cả trong triều đình lẫn phủ chúa. Lê Quý Đôn đã bước vào con
đường chính sự một cách rất riêng và đưa ra những quan điểm rất
độc đáo về việc làm quan. Ngày 2-6-1784 (ngày 14 tháng Tư năm
Giáp Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45), Lê Quý Đôn đã trút hơi thở
cuối cùng khi đang còn tại chức.
Lê Quý Đôn là nhà bác học lớn của dân tộc ở thế kỷ XVIII, di
sản ông để lại rất đồ sộ. Theo thống kê thấy có trên 40 tác phẩm với
đủ các thể loại: văn, thơ, ký, luận, triết học, sử học, địa lý, ngôn ngữ,
chú giải kinh điển… và sự phong phú trong đề tài thể hiện, có thể kể
đến các tác phẩm tiêu biểu của ông như sau:
Về thơ văn, Lê Quý Đôn có các sáng tác như Quế Đường thi
tập, Quế Đường văn tập, Quế Đường di tập. Ngoài việc sáng tác, ông
còn có công lao trong việc sưu tầm, biên soạn và hoàn thành hai tác
phẩm Toàn việt thi lục và Hoàng Việt văn hải được đánh giá cao.
Về Sử học, ông có tác phẩm: Đại việt thông sử, Phủ biên tạp
lục, Bắc sứ thông lục, Kiến văn tiểu lục.
Về Triết học gồm có Quần thư khảo biện, Thánh mô hiền
phạm lục, Âm chất văn chú, Vân đài loại ngữ.
Trong số các tác phẩm đó, Vân đài loại ngữ là một tác phẩm
rất độc đáo. Tác phẩm tập hợp nhiều kiến thức khác nhau từ triết học,
sử học, văn học, địa lý cho đến những phong tục tập quán, sản vật tự
nhiên, xã hội, v.v.. Vân đài loại ngữ là tác phẩm được xem như một
loại “bách khoa thư” đồ sộ nhất thời Trung đại Việt Nam.
8
1.1.2. Lê Quý Đôn – nhà tư tưởng Việt Nam thế kỉ XVIII
Cùng với Ngô Thì Nhậm và Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu
Trác, Lê Quý Đôn là một trong ba gương mặt tiêu biểu của thế kỷ
XVIII. Ông không chỉ là một vị quan tận trung với triều đình phong
kiến Lê - Trịnh mà còn là nhà tư tưởng lớn trên các lĩnh vực: chính
trị - xã hội, bản sắc văn hóa dân tộc và tư tưởng về triết học.
1.Về quan điểm chính trị - xã hội: Theo ông, con đường duy
nhất là phải dùng pháp chế. Trong đó, vấn đề cơ cấu và cơ chế bộ
máy nhà nước được Lê Quý Đôn đặt lên hàng đầu. Lê Quý Đôn rất
quan tâm đến cơ cấu, đến hàng ngũ quan lại. Ông gọi đó là chính
sách sử dụng người hiền. Ngoài ra, Lê Quý Đôn còn rất quan tâm
đến việc tinh giản bộ máy nhà nước.
Tuy nhiên, trong chủ trương và quan điểm của ông, đối tượng
của luật pháp không phải chủ yếu là nhằm vào hàng ngũ quan lại mà
chính là nhằm vào dân, đặc biệt là "gian dân"- những người dám
đứng lên chống lại triều đình. Đây là một trong những hạn chế chủ
yếu của Lê Quý Đôn.
Như vậy, quan điểm chính trị của Lê Quý Đôn không phải
hoàn toàn dựa trên quan điểm của phái Pháp gia. Ở ông có sự kết hợp
giữa đức trị và pháp trị, coi đức trị là cái cơ bản, lấy pháp luật làm
công cụ để răn đe.
2. Quan niệm của Lê Quý Đôn về bản sắc văn hóa dân tộc:
Ông rất tự hào và trân trọng nền văn hóa Việt Nam và nhiều
lần khẳng định nền văn hiến nước ta là lâu đời không kém gì Trung
Quốc, thậm chí có điểm ở Trung Quốc không có.
Ông đã làm việc không mệt mỏi để xây dựng lòng tự hào và
tự tôn dân tộc, làm tăng thêm lòng yêu con người, yêu đất nước và
9
sản vật thiên nhiên ở mỗi người Việt Nam. Với những việc làm đó,
ông đã góp phần rất quan trọng vào việc xây dựng một nền văn hoá
phát triển và mang đậm bản sắc dân tộc.
3. Tư tưởng của Lê Quý Đôn về triết học. Ông đã nhìn sự vật
xung quang bằng con mắt vận động và cho rằng sự vật có vận động
mới phù hợp với lẽ tự nhiên của nó. Và chính quá trình vận động
không ngừng là điều kiện để sự vật hình thành và tồn tại. Chính nhờ
có quan điểm vận động, biến đổi của sự vật mà ông đã có con mắt
biện chứng khi xem xét các vấn đề về xã hội.
Đặc biệt khi nói đến quan điểm triết học của Lê Quý Đôn
không thể không nhắc đến quan niệm lý khí của ông. Đó là quan
niệm về “vũ trụ luận đặc sắc” rất riêng và độc đáo của Lê Quý Đôn.
Ngoài ra, Lê Quý Đôn còn có rất nhiều tư tưởng phong phú
trên các lĩnh vực: mỹ học, văn học, sử học, khảo cổ học, dân tộc học,
tâm lý học, đạo đức học… Ở lĩnh vực nào Lê Quý Đôn cũng có
những tư tưởng độc đáo thể hiện tài năng và trí tuệ uyên bác của
mình.
1.2. TÁC PHẨM “VÂN ĐÀI LOẠI NGỮ” CỦA LÊ QUÝ ĐÔN
1.2.1. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm
Vân đài loại ngữ là tác phẩm được Lê Quý Đôn viết trong
một thời gian dài, tác phẩm được hoàn thành vào cuối thu năm 1773.
Xã hội Việt Nam cuối thời Lê là một xã hội phong kiến đang
đi xuống, trong lòng xã hội chứa đầy mâu thuẫn. Vì mất mùa đói
kém nông dân nổi dậy khắp nơi. Những giá trị tinh thần và lòng tin bị
xói mòn, đảo lộn. Bên cạnh đó, những tri thức văn hoá, khoa học của
dân tộc được tích luỹ hàng nghìn năm tới nay, cần phải được tổng
kết, phải được hệ thống, phân loại. Thực tế đó cùng với niềm đam
10
mê của mình là động lực để Lê Quý Đôn hoàn thành tác phẩm Vân
đài loại ngữ .
Tác phẩm Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn được viết bằng
chữ Hán đến nay đã có nhiều tác giả biên dịch. Tuy nhiên, trong quá
trình sưu tầm tài liệu phục vụ cho việc làm luận văn của mình, chúng
tôi đã chọn bản dịch của dịch giả Trần Văn Giáp làm tài liệu nghiên
cứu.
1.2.2. Nội dung cơ bản của tác phẩm
Vân đài loại ngữ nghĩa là những lời nói thu thập được tại nơi
chứa sách và được sắp xếp theo từng loại.
Cuốn Vân đài loại ngữ là thành quả của quá trình học hỏi
sâu rộng của Lê Quý Đôn. Trong Vân đài loại ngữ, ông sử dụng
nhiều truyền kỳ, sự tích, có phần trích dẫn nhiều trước tác cổ điển,
có phần tự bình luận. Vân đài loại ngữ gồm chín cuốn, tập hợp và
sắp xếp những tri thức về triết học, văn học, sử học, địa lí, kỹ thuật,
khoa học,v.v… dưới chín đề mục khác nhau: Lý khí, Hình tượng,
Khu vũ, Vựng điển, Văn nghệ, Âm tự, Thư tịch, Sĩ quy, Phẩm vật.
Chín cuốn này có những ý nghĩa riêng, điều đó cũng cho thấy Lê
Quý Đôn biên soạn Vân đài loại ngữ có chủ ý, phản ánh khá rõ
khuynh hướng tư duy của ông.
Như vậy, tác phẩm Vân đài loại ngữ với 967 điều là bộ sách
đạt tới trình độ phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa khá cao, đánh
dấu một bước tiến bộ vượt bậc đối với nền khoa học Việt Nam thời
phong kiến.
11
CHƯƠNG 2
QUAN NIỆM TRIẾT HỌC VỀ LÝ – KHÍ CỦA LÊ QUÝ ĐÔN
QUA “VÂN ĐÀI LOẠI NGỮ”
2.1. NGUỒN GỐC QUAN NIỆM TRIẾT HỌC VỀ LÝ– KHÍ
CỦA LÊ QUÝ ĐÔN
2.1.1. Quan niệm lý – khí trong tư tưởng phương Đông cổ,
trung đại
a. Quan niệm lý – khí của Tống Nho
“Lý” và “khí” được coi là hai phạm trù triết học riêng rẽ, xuất
hiện rất sớm trong lịch sử triết học Trung Hoa. Lý - khí là một bộ
phận của cả hệ thống phạm trù lý học. Lý học phát triển qua nhiều
giai đoạn, quá trình đó bắt đầu từ Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên, Phạm
Trọng Yêm qua Trương Tải, Nhị Trình đến Chu Hy mới được hoàn
thành. Lý - khí được coi là nền tảng, tiền đề của cả hệ thống, có ý
nghĩa về thế giới quan. Phần lý - khí chủ yếu giải quyết vấn đề tồn tại
và phát triển của giới tự nhiên.
Người khai sáng ra vũ trụ luận của Tống Nho là Chu Đôn Di
(1017-1073), hiệu Liêm Khê. Theo Chu Đôn Di thì căn nguyên của
vũ trụ là Thái cực, nhưng bản chất của Thái cực là vô thủy vô chung,
vô hình vô tượng. Và ông đã chứng minh sự tồn tại hiện thực của
Thái cực bằng việc bổ sung thêm khái niệm Vô cực để khẳng định
Thái cực là có thật.
Mặc dù chưa trình bày một cách toàn diện phạm trù lý – khí
nhưng ông đã nêu lên được một số vấn đề quan trọng, đã gợi ra vấn
đề quan hệ giữa lý và khí khi nói lý không tồn tại riêng lẽ.
Trương Tải (1020 – 1077), hiệu Hoành Cừ là triết gia thời Bắc
Tống, đã xây dựng cơ sở triết học về Thuyết khí bản thể, lấy “khí”
12
làm phạm trù cao nhất, và phát triển mối quan hệ giữa lý và khí. Ông
đã xây dựng nên một vũ trụ luận rất đặc sắc. Trương Tải nêu quan
điểm khí là gốc, khẳng định mọi vật chỉ có một bản nguyên đó là khí.
Tuy có cùng nguồn gốc nhưng vạn vật có sự khác nhau là do bản
thân khí có sự khác biệt.
Về lý, vẫn chưa là phạm trù chủ yếu trong triết học của Trương
Tải, ông trình bày còn rất ít nhưng là người đầu tiên nêu vấn đề lý
dưới góc độ quan hệ lý - khí.
Nhị Trình - hai anh em Trình Hiệu (Minh Đạo) và Trình Di (Y
Xuyên) nâng “lý” lên thành phạm trù cao nhất, từ đó xây dựng nên
Thuyết lý bản. Theo quan điểm của Nhị Trình, lý được hiểu dưới ba
nghĩa khác nhau: lý là bản nguyên vũ trụ, là nguồn gốc sinh ra vạn
vật; lý là quy luật của sự vật, vạn vật đều có lý, nó có tính khách
quan, phổ biến; lý là đạo đức, là luân lý của con người.
Về khí, Nhị Trình nói không nhiều, các ông nêu ra khái niệm
về “khí hóa” và “hình hóa”. Đồng thời thừa nhận một cách chung
chung rằng khí hóa sản sinh ra muôn vật. Khí có nhiều loại khác
nhau, có khí trong, khí đục, khí thiện, khí ác....
Nhà tư tưởng phát triển đến đỉnh cao và hoàn thiện học thuyết
lý - khí của Tống Nho là Chu Hy (1130 – 1200). Ông đã tiến hành
một sự tổng hợp đại quy mô giữa thuyết “Thái cực” của Liêm Khê,
“Hư Khí” của Hoành Cừ, “Lý Khí” của Nhị Trình, đồng thời đưa ra
quan điểm đầy đủ hơn về mối quan hệ giữa lý và khí.
Theo ông, Thái cực là cái siêu việt, có thể dùng ngôn ngữ để
gọi là lý. Lý là cái xuất hiện trước khi sự vật hiện tượng xuất hiện. Lý
là đạo thuộc về hình nhi thượng, cái gốc sinh thành của sự vật. Còn
khí là cái thuộc về hình nhi hạ, cái vật dụng để sinh ra vật. Cho nên,
13
người và muôn vật có được là do đã bẩm cái lý ấy mà thành tính,
bẩm cái khí đó mà thành hình, lý thì vô hình, vô tượng, khí thì có
hình, chúng quan hệ chặt chẽ với nhau, không có khí nào mà không
có lý và ngược lại, không có lý nào mà không có khí. Không thể chỉ
thấy vật mà không thấy lý, lý là nguyên tắc của sự vật, ở sâu trong sự
vật, nó được biểu hiện ra thông qua vật. Đây chính là sự triển khai
thuyết “lý vô hình” của Nhị Trình. Lý của Chu Hy vừa là bản thể vũ
trụ, lại vừa là quy luật của sự vật.
Như vậy, quan điểm của Chu Hy cũng giống với quan điểm
của anh em họ Trình khi đứng trên lập trường duy tâm khách quan để
giải quyết mối quan hệ lý – khí. Điều đó cho thấy Chu Hy đã kế thừa,
chọn lọc và phát triển thuyết “lý bản thể” của Nhị Trình lên đỉnh cao
nhất.
b. Quan niệm lý – khí trong lịch sử tư tưởng dân tộc
Sự phát triển tư tưởng triết học Việt Nam trong cuộc đấu tranh
thời Bắc thuộc : giai đoạn tam giáo (Nho, Phật, Lão) truyền vào nước
ta, trong đó Phật giáo là nổi trội hơn cả. Ở một khía cạnh nào đó có
thể nói sự chuyển biến của Phật giáo thời Bắc thuộc là từ chủ nghĩa
duy tâm khách quan đi đến chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Tư tưởng triết học Việt Nam thế kỷ X - XIV: Đây là thời kỳ
các xu hướng tư tưởng triết học Việt Nam hình thành và phát triển
gắn liền với những chiến công xây dựng và bảo vệ đất nước. Triết
học Phật giáo (X- XIV), đặc biệt thời Lí Trần là triết học duy tâm
theo đúng nghĩa của nó.
Tư tưởng triết học Việt Nam thế kỷ XV trở đi: Do yêu cầu
muốn độc tôn Nho giáo nên Phật giáo ngày càng đi xuống, Nho giáo
là hệ tư tưởng chủ đạo. Đến Thời Mạc (1527-1592) xuất hiện nhà tư
14
tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm (1492-1585). Theo ông sự phát triển của
tự nhiên được gọi là đạo trời, tuân theo luật mà Chu Dịch đã vạch ra.
Sự vật có sinh thành, phát triển mà động lực của phát triển là ở trong
bản thân sự vật. Nhưng sự phát triển ở đây là sự phát triển tuần hoàn,
đi rồi lại lại, đó là lẽ thường của Lí. Chuyển hoá là một hình thức của
sự phát triển là điều kiện để sự vật này biến thành sự vật khác. Quan
niệm phát triển được gói gọn trong "Lí" quy lại hình vẽ trong Thái
cực đồ. Rõ ràng, ở Nguyễn Bỉnh khiêm, bản thể của vũ trụ là khí. Khí
hiểu theo nghĩa vật chất vẫn chưa có hình, nó là tiềm ẩn, tiềm năng
của thế giới hiện hữu.
2.1.2. Cơ sở thực tiễn và nhân tố chủ quan
a. Cơ sở thực tiễn
Trước cảnh nhiễu nhương của xã hội phong kiến Việt Nam thế
kỷ XVIII, nhân dân ngày càng mất lòng tin vào chính quyền phong
kiến, nhiều người thuộc tầng lớp nho sĩ thì lâm vào tâm trạng yếm
thế, bi quan. Vì thế khuynh hướng kết hợp Nho, Phật với Lão Trang
vào thế kỷ XVIII đã trở nên mạnh mẽ mà các học giả gọi đó là
khuynh hướng “Tam giáo đồng nguyên” trên cơ sở Nho giáo giữ vị
trí chủ đạo.
Lê Quý Đôn cũng ôm ấp một hoài bão là đi tìm một đường lối
trị nước nhằm ổn định xã hội, thời cuộc. Ông có điều kiện đi rất
nhiều, tiếp xúc với nhiều trí thức nổi tiếng của nhà Thanh, bàn luận
với họ những vấn đề sử học, triết học... Chính nhờ quá trình đi nhiều,
thấy nhiều, nghe nhiều, biết nhiều việc đời như vậy mà kiến thức Lê
Quý Đôn trở nên phong phú vô cùng.
Cùng với việc kế thừa di sản, Lê Quý Đôn còn tiếp thu những
kiến thức khoa học đầy đủ nhất của thời đại để suy nghĩ và hành
15
động. Ông tranh thủ mọi thời gian mình có để nghiên cứu, học tập,
ghi chép lại tất cả những gì đã quan sát được, từ đó suy nghiệm và
rút ra bài học.
Thói quen quan sát, ghi chép, tổng kết thực tế khiến ông có cơ
sở để đi sâu vào sự vật, để suy xét lại những nhận thức ban đầu của
mình, uốn nắn lại những chỗ mà mình thấy chưa hợp lý. Thực tế này
giúp ông phát hiện được một số chân lý của cuộc sống vượt ra khỏi
ảnh hưởng của Tống Nho và các nhà tư tưởng đương thời.
b. Nhân tố chủ quan
Gia đình, quê hương là môi trường, là những điều kiện, nhân
tố thuận lợi để tài năng, tư tưởng Lê Quý Đôn hình thành và phát
triển. Song, sẽ không thể có một người con xuất sắc, một vị quan tài
ba, một học giả uyên bác, nếu không có những nhân tố chủ quan tác
động tích cực vào hoàn cảnh. Đó chính là tài năng thiên bẩm cùng
với phương pháp làm việc khoa học, ý thức tự tôn dân tộc và tinh
thần ham học hỏi cùng với sự chăm chỉ rèn luyện của bản thân Lê
Quý Đôn.
2.2. NỘI DUNG QUAN NIỆM TRIẾT HỌC VỀ LÝ – KHÍ CỦA
LÊ QUÝ ĐÔN
2.2.1. Quan niệm về khí
Các nhà nho thời Tống cũng dùng Thái cực để lý giải nguồn
gốc của vũ trụ, Châu Đôn Di bên cạnh khái niệm Thái cực còn đưa ra
khái niệm Vô cực. Như vậy, Châu Đôn Di chứng minh sự tồn tại của
Thái cực bằng việc bổ sung thêm khái niệm Vô cực để khẳng định
Thái cực là có thật. Tiếp đó là Trương Tải, Trình Hạo, Chu Hy cũng
đều dùng Thái cực để lý giải nguồn gốc của thế giới, của vạn vật.
16
Lê Quý Đôn cũng lấy Thái cực để nói về sự sinh thành của vũ
trụ, tuy nhiên, quan điểm của ông có nét riêng. Lê Quý Đôn nhất
quán trong quan niệm nguồn gốc của vũ trụ, ông không sử dụng bất
cứ khái niệm nào khác để nói về Thái cực mà ông đứng hẳn về bên
“hữu”. Lê Quý Đôn không nhập nhằng trong vấn đề này, ông khẳng
định dứt khoát Thái cực chỉ có duy nhất một và sự tồn tại của nó là
hiện thực chứ không phải hư vô.
Theo Lê Quý Đôn, khí tồn tại cụ thể cảm tính, ta có thể nhìn
thấy nó trong khoảng không, dưới ánh sáng mặt trời thông qua các sự
vật mà nó sinh ra.
Cũng như Trương Tải, Lê Quý Đôn đã đứng trên lập trường
duy vật để giải quyết vấn đề bản thể của thế giới, đã coi khí là bản
nguyên vật chất đầu tiên, còn lý chỉ là thuộc tính phổ biến, khách
quan của khí mà thôi. Tuy nhiên, khác Trương Tải, Lê Quý Đôn
không coi khí là phạm trù trừu tượng tối cao, mà chỉ coi nó như là
một dạng vật chất cụ thể, có thể nhận thức bằng trực quan cảm tính.
Điểm này thể hiện quan điểm triết học duy vật thô sơ, cảm tính.
Khác Chu Hy, Trình Hạo, Trình Di lấy phạm trù lý làm gốc.
Lê Quý Đôn xem bản thể của vũ trụ là khí. Thái cực là khí mà khí là
vật chất, Thái cực là một khí hỗn nguyên, khí hỗn nguyên đó vận
động theo quy luật mà hình thành ra vạn vật. Khí là gốc của vạn vật
và nhờ có lý mà khí mới chuyển hóa thành sự vật muôn hình muôn
vẻ khác nhau. Trời đất đều có hình có khí, vạn vật thì bẩm khí ở trời
và thành hình ở đất.
Vậy khí hỗn nguyên này biến hoá như thế nào để thành được
vạn vật? Lê Quý Đôn khẳng định trong trời đất chỉ có khí âm dương,
17
ngũ hành. Chúng xung khắc, hoà hợp với nhau, biến hoá lẫn nhau và
là nguồn gốc sinh ra mọi hiện tượng.
Theo Lê Quý Đôn, chính nhờ sự đối lập nhau, xung khắc nhau,
hoà hợp nhau, hút đẩy lẫn nhau của hai khí âm và dương mà vạn vật
trong trời đất được hình thành.
Và trong Vân đài loại ngữ, ông còn đưa nhiều kiến văn sâu
rộng về thế giới bên ngoài cùng với những khám phá của họ để làm
cơ sở chứng minh quan điểm về khí của mình. Chỉ riêng điểm này,
ông đã vượt qua quan điểm về khí của các nhà Lí học thời Tống.
Tuy nhiên, do quá đề cao tính huyền diệu của khí nên Lê Quý
Đôn đã không giữ vững được khuynh hướng duy vật. Khí trong quan
niệm của Lê Quý Đôn đã chuyển từ khí cụ thể sang khí thần bí, mang
màu sắc của thuật phong thuỷ, của Đạo giáo.
Lê Quý Đôn đưa khí đến chỗ thần diệu hơn khi khẳng định
khí có sự sống. Theo Lê Quý Đôn, con người có thần và có khí, trời
đất cũng có thần và có khí. Người biết được thần khí của trời đất thì
tạo ra được vận mệnh của mình.
Do quá đề cao tính huyền diệu của khí nên ông không giữ
vững được lập trường duy vật của mình mà đi đến chỗ tin và biện hộ
cho một số phương diện duy tâm thần bí như thuật phong thuỷ, bói
toán, xem số, đoán mệnh, v.v.. Thậm chí ông còn đi đến quan niệm
về sự hưng vong, thịnh trị hay loạn lạc của xã hội cũng mang tính
tiền định. Đây là điểm hạn chế của Lê Quý Đôn.
2.2.2. Quan niệm về lý
Theo Chu Hy thì, lý phải có trước khí. Như ông nói: “Trước
khi chưa có trời đất thì chung quy cũng có “lý”.
Ngược lại với Chu Hy, Trương Tải cho rằng, lý là nói về sự tụ
18
tán của khí và phụ thuộc vào khí. Mặc dù có sự khác nhau trong quan
niệm lý có trước hay có sau khí, tuỳ theo lập trường triết học duy vật
hay duy tâm nhưng lý trong Lí học đời Tống đều có ý nghĩa là tinh
thần, ý thức đạo đức. Lý được xem xét về mặt bản thể luận, trong sự
đối lập với khí.
Lê Quý Đôn khẳng định dứt khoát lý là thuộc tính của khí.
Thuộc tính đó là cái mà ngày nay chúng ta gọi là tính quy luật. Tính
quy luật này tồn tại và biểu hiện thông qua các hiện tượng, sự vật cụ
thể, đồng thời là phương thức tồn tại của sự vật trong thế giới. Vì
vậy, Lê Quý Đôn khẳng định lý là thuộc tính không tách rời của khí.
Như vậy, Lê Quý Đôn coi lý là thuộc tính của một dạng vật chất cụ
thể là khí. Sự tồn tại của lý phụ thuộc vào khí. Đây là điểm tiến bộ
của Lê Quý Đôn so với các nho gia đương thời.
Theo Lê Quý Đôn, lý tồn tại hiện thực, dù rằng nó không có
hình dạng, không có màu sắc và chỉ tồn tại thông qua khí. Do vậy, lý
không nhìn thấy được nhưng ta có thể nhận thức được về nó thông
qua sự vật hiện tượng cụ thể. Thông qua sự vật cụ thể ta có thể thấy
được “thường độ”, thấy được “đường đi” của lý.
Lê Quý Đôn đã thoát khỏi Tống Nho và vạch ra rằng lý là
thuộc tính của khí, nương theo khí mà hiện lộ ra. Lý là ở trong khí.
Con người không dùng trực quan cảm tính để nhận biết được hình
dạng cụ thể của nó, nhưng thông qua sự khái quát của tư duy, con
người có thể biết được cái “thể” của nó, biết được cái “dụng” của nó,
biết được tính phổ biến, rộng khắp, sự nhiệm màu của lý.