Quản lý hải quan đối với hoạt động nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, nghiên cứu tại tỉnh đồng nai

  • 114 trang
  • file .pdf
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
---------------
TRẦN HỒ QUỐC THIỆN
QUẢN LÝ HẢI QUAN ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG NHẬP KHẨU NGUYÊN VẬT LIỆU
ĐỂ SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU,
NGHIÊN CỨU TẠI TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP.Hồ Chí Minh- Năm 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
---------------
TRẦN HỒ QUỐC THIỆN
QUẢN LÝ HẢI QUAN ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG NHẬP KHẨU NGUYÊN VẬT LIỆU
ĐỂ SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU,
NGHIÊN CỨU TẠI TỈNH ĐỒNG NAI
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính - Ngân hàng
Mã số : 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ THỦY TIÊN
TP.Hồ Chí Minh - Năm 2011
LỜI CAM ĐOAN
Kính thưa Quý thầy cô, Quý bạn đọc!
Tác giả luận văn: Tôi, Trần Hồ Quốc Thiện, học viên cao học khóa 16,
Khoa Tài chính Doanh nghiệp, xin cam đoan: Đề tài này là do tôi tự nghiên
cứu, không sao chép. Mọi số liệu, bản biểu được trích dẫn trong luận văn,
các tài liệu tham khảo để thực hiện luận văn đều được trích dẫn nguồn gốc rõ
ràng. Mọi sai trái tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Đồng Nai, ngày ___ tháng 12 năm 2011
Người cam đoan
TRẦN HỒ QUỐC THIỆN
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt
Danh mục bảng số liệu
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn ..........................................................................2
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của Luận văn ..........................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................................2
5. Bố cục của luận văn ................................................................................................3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HẢI QUAN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
NHẬP KHẨU NGUYÊN VẬT LIỆU SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU
1.1. Cơ sở luận về hoạt động nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu ..4
1.1.1. Khái niệm..........................................................................................................4
1.1.2. Phân biệt nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu và gia công XK ...7
1.1.3. Phân biệt chế độ miễn nộp thuế và chế độ miễn thuế .........................................7
1.1.4. Vai trò của hoạt động NSXXK đối với phát triển kinh tế .................................12
1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động NSXXK ............................................... 14
1.2. Cơ sở luận về quản lý hải quan đối với hoạt động NSXXK ................................ 16
1.2.1. Tính tất yếu của việc quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động NSXXK
..................................................................................................................................16
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động NSXXK ............... 18
1.2.2.1. Khái niệm ..................................................................................................... 19
1.2.2.2. Khuôn khổ pháp lý điều chỉnh quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động
NSXXK .................................................................................................................... 19
1.2.2.3. Nội dung quản lý của hải quan đối với nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất
hàng xuất khẩu .......................................................................................................... 21
1.3. Kinh nghiệm các nước trong quản lý hải quan đối với hoạt động NSXXK ......... 25
1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc ......................................................................... 26
1.3.2. Cộng đồng Châu Âu ........................................................................................ 28
1.3.3. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ................................................................................. 29
1.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .................................................................... 31
Kết luận chương 1 ..................................................................................................... 32
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HẢI QUAN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
NHẬP SẢN XUẤT XUẤT KHẨU TẠI TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Thực trạng hoạt động NSXXK trên địa bàn tỉnh Đồng Nai .................................33
2.1.1. Đặc điểm lợi thế của tỉnh Đồng Nai trong hoạt động NSXXK ......................... 33
2.1.2. Kết quả hoạt động NSXXK trên địa bàn tỉnh Đồng Nai ...................................34
2.2. Thực trạng quản lý Hải quan đối với hoạt động NSXXK tại Cục Hải quan Đồng
Nai ............................................................................................................................ 40
2.2.1. Kết quả khảo sát các doanh nghiệp hoạt động NSXXK trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai ............................................................................................................................ 41
2.2.1. Biện pháp quản lý nợ thuế đối với nguyên vật liệu nhập khẩu ......................... 48
2.3. Đánh giá tình hình gian lận thuế, gian lận thương mại trong lĩnh vực NSXXK ...53
2.3.1. Các hình thức gian lận ..................................................................................... 53
2.3.1.1. Gian lận do xuất ít hơn khai báo ...................................................................54
2.3.1.2. Gian lận do kê khai cao định mức.................................................................55
2.3.1.3. Gian lận thông qua tự ý tiêu thụ nguyên vật liệu tại thị tường nội địa ........... 56
2.3.2. Các hạn chế trong quản lý gian lận ..................................................................57
2.4. Đánh giá những hạn chế trong quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động
NSXXK .................................................................................................................... 60
2.4.1. Đối với quản lý định mức, quy đinh về sử dụng nguyên vật liệu nhập khẩu để
sản xuất hàng xuất khẩu ............................................................................................ 61
2.4.2. Đối với việc quản lý về thuế ............................................................................ 63
2.4.3. Đối với việc thanh khoản thuế ......................................................................... 66
2.4.4. Đối với việc giải quyết không thu thuế, hoàn thuế ........................................... 68
Kết luận chương 2 ..................................................................................................... 69
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ VỀ HẢI QUAN ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG NHẬP SẢN XUẤT XUẤT KHẨU
3.1. Dự báo về hoạt động NSXXK trên địa bàn tỉnh Đồng Nai ..................................71
3.1.1. Cơ hội ............................................................................................................. 73
3.1.2. Thách thức ...................................................................................................... 75
3.2. Quan điểm hoàn thiện quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động NSXXK
..................................................................................................................................73
3.3. Các giải pháp góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt
động NSXXK............................................................................................................ 74
3.3.1. Kiến nghị sửa đổi các văn bản pháp luật về thuế có liên quan .......................... 74
3.3.2. Kiến nghị đối với Tổng cục Hải quan hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ liên
quan .......................................................................................................................... 79
3.3.3. Kiến nghị đối với Cục Hải quan Đồng Nai ...................................................... 81
3.3.4. Kiến nghị khác nhằm phát huy tính tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp ........ 84
Kết luận chương 3 ..................................................................................................... 85
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 87
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN
(Association of Southeast Asia Nations) Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
KTSTQ Kiểm tra sau thông quan
Nhập khẩu nguyên vật liệu để sản
NSXXK xuất hàng xuất khẩu
WCO (World Customs Organization) Tổ chức Hải quan Thế giới
WTO (World Trade Organization) Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.1 Kim ngạch nhập khẩu từ năm 2006 - 2010 của tỉnh Đồng Nai.
Bảng 2.2 Kim ngạch xuất khẩu từ năm 2006 - 2010 của tỉnh Đồng Nai.
Kim ngạch nhập khẩu loại hình NSXXK từ năm 2006 - 2010 của
Bảng 2.3 doanh nghiệp chế xuất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Kim ngạch xuất khẩu loại hình SXXK từ năm 2006 - 2010 của
Bảng 2.4 doanh nghiệp chế xuất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Bảng 2.5 Tổng hợp các kết quả điều tra.
Số thuế phải thu đối với nguyên liệu NSXXK giai đoạn 2006 - 2010
Bảng 2.6 tại Cục Hải quan Đồng Nai.
Số thuế nhập khẩu đã thanh khoản giai đoạn 2006 – 2010 tại Cục
Bảng 2.7 Hải quan Đồng Nai.
Số thu thuế nộp Ngân sách nhà nước từ năm 2006 - 2010 tại Cục
Bảng 2.8 Hải quan Đồng Nai.
9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để khuyến khích xuất khẩu nhằm mục tiêu phát triển kinh tế đồng thời tạo công
ăn việc làm cho người lao động, khai thác nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, Nhà
nước đã có những chính sách ưu đãi đối với hoạt động xuất nhập khẩu, trong đó việc
cho hưởng thời gian ân hạn nộp thuế và được giải quyết hoàn thuế đối với nguyên vật
liệu nhập khẩu để sản xuất sản phẩm xuất khẩu là một trong những chính sách khuyến
khích xuất khẩu. Chính sách này đã tạo động lực góp phần gia tăng hoạt động xuất
nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm
xuất khẩu nói riêng.
Thực hiện chính sách trên, hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta liên tục phát
triển, kim ngạch xuất nhập khẩu liên tục tăng. Tuy nhiên do cơ chế chính sách quản lý
của Nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu
chưa thống nhất và đồng bộ đã gây nhiều cản trở cho sự phát triển của phương thức
này, tạo sơ hở cho một số doanh nghiệp lợi dụng trốn thuế và làm phát sinh nhiều
vướng mắc trong khi thực hiện chế độ quản lý của cơ quan Hải quan. Đồng thời, Nghị
quyết 25/NQ-CP của Chính phủ về việc đơn giản một số thủ tục hành chính của các
Bộ, ngành trong đó có ngành Hải quan cũng đòi hỏi cơ quan hải quan cũng phải thay
đổi cách quản lý theo hướng tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp nhưng vẫn không
buông lỏng quản lý.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu đánh giá đúng thực trạng hoạt động nhập
khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện
chế độ quản lý Nhà nước về hải quan đối với các lĩnh vực này có một ý nghĩa rất quan
trọng. do vậy đề tài “HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ HẢI QUAN ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU NGUYÊN VẬT LIỆU ĐỂ SẢN XUẤT HÀNG XUẤT
KHẨU, NGHIÊN CỨU TẠI TỈNH ĐỒNG NAI” được nghiên cứu nhằm đưa ra một
10
số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý và tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp xuất
nhập khẩu đối với hoạt động này.
2. Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là tìm ra những giải pháp hoàn thiện quản lý
nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất, những giải
pháp đơn giản hóa thủ tục hành chính để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt
động xuất nhập khẩu nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và thế giới trên lĩnh vực
kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động hải quan nói riêng; khuyến khích và tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư, hoạt động xuất nhập khẩu phát triển mạnh mẽ,
đúng hướng; đồng thời chống gian lận thuế, gian lận thương mại, tạo sự công bằng,
bình đẳng cho các chủ thể tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu.
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu một số vấn đề lý
luận cơ bản về hoạt động nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, nội dung
quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động này; phần cơ bản của luận văn tập
trung vào nghiên cứu đánh giá thực trạng quản lý hoạt động nhập khẩu nguyên liệu để
sản xuất hàng xuất khẩu trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt phân tích làm rõ những hạn
chế, tồn tại trên cơ sở đó đề ra các giải pháp phù hợp.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của Luận văn
Phạm vi nghiên cứu : Luận văn nghiên cứu chủ yếu hoạt động nhập khẩu
nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Đối tượng nghiên cứu : phân tích các vấn đề liên quan đến việc quản lý nhà
nước đối với hoạt động nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai trong khoảng thời gian từ khi Luật Thương mại năm 2005, Luật Thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005, Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005 có
hiệu lực từ ngày 01/01/2006 và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành.
4. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, trong đó
11
vận dụng các quan điểm khách quan, khảo sát thực tiễn hoạt động áp dụng các quy
định về nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu để xác định thuận
lợi, bất cập khi áp dụng quy định pháp luật; thống kê số liệu liên quan đến vụ việc vi
phạm và kết quả hoạt động xuất nhập khẩu của loại hình nhập khẩu nguyên vật liệu để
sản xuất hàng hóa xuất khẩu để đánh giá thực tiễn thực hiện.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương :
Chương 1 : Cơ sở luận về quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động nhập khẩu
nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu.
Chương 2 : Thực trạng quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động nhập khẩu
nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu tại tỉnh Đồng Nai.
Chương 3 : Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động nhập
khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu.
12
CHƯƠNG 1 :
CƠ SỞ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HẢI QUAN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG NHẬP
KHẨU NGUYÊN LIỆU ĐỂ SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU
1.1. Cơ sở luận về hoạt động nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm
Khi sản xuất ngày càng phát triển, nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng
tăng cao, đáp ứng nhu cầu đó và cũng nhằm phát huy tối đa lợi thế so sánh giữa các
quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau cùng với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận mà các
thương nhân luôn tìm kiếm phương thức kinh doanh mới.
Khởi đầu với hạn chế về vốn, công nghệ, thị trường tiêu thụ các thương nhân
chỉ dùng phương thức kinh doanh theo dạng gia công xuất khẩu, tức là bên đặt gia
công là thương nhân ở nước ngoài so với thương nhân nhận gia công, theo đó thương
nhân nước ngoài cung cấp nguyên vật liệu, ý tưởng sản xuất (mẫu hàng), máy móc
thiết bị, đưa ra yêu cầu sản xuất (đơn hàng), và trực tiếp tổ chức quản lý sản xuất và
nhận về sản phẩm hoàn chỉnh, bên nhận gia công sản xuất sản phẩm theo yêu cầu và
được nhận tiền công gia công [4]. Gia công có thể được xem là hình thức ban đầu của
phương thức sản xuất hàng hóa mang tính quốc tế, nhiều nước đang phát triển đã nhờ
vận dụng tốt phương thức gia công quốc tế mà có được một nền công nghiệp hiện đại
như Hàn Quốc, Thái Lan, Xingapo. [11]
Một khi nền kinh tế các quốc gia lớn mạnh, phân công lao động xã hội mang
tính quốc tế ngày càng sâu rộng, đi cùng với nó là khoa học công nghệ phát triển, và
xu thế khách quan của thương mại toàn cầu, các thương nhân có điều kiện tích lũy về
vốn, làm chủ được công nghệ đã từng bước thay đổi phương thức sản xuất, không
dừng lại ở gia công và nhận tiền công thuần túy, các thương nhân bắt đầu tự mình
nhập khẩu nguyên vật liệu, tiến hành tổ chức sản xuất, tạo ra sản phẩm hàng hóa, trực
13
tiếp xuất khẩu thu lợi nhuận, đây chính là khởi đầu của phương thức kinh doanh nhập
khẩu nguyên vật liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
Pháp luật hải quan của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ có giải thích rõ về sản xuất:
“Sản xuất tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi, tuy nhiên không phải sự thay đổi nào cũng là
sản xuất, mọi sự thay đổi trong sản phẩm hoàn chỉnh chính là kết quả của quá trình xử
lý và sự thao tác của người lao động. Điều quan trọng hơn là sản xuất phải dẫn đến sự
biến đổi, một sản phẩm mới phải được tạo ra có định danh, có tính chất và công dụng
mới so với hàng hóa trước khi đưa vào sản xuất. [9]
Pháp luật hải quan của Cộng đồng Châu âu cũng có phần định nghĩa về hoạt
động sản xuất như sau: “Hoạt động sản xuất” có nghĩa là các công việc có liên quan
đến hàng hóa bao gồm cả lắp đặt, lắp ráp theo dây chuyền, hoặc lắp chúng vào các
hàng hóa khác; việc sản xuất hàng hoá, việc tiêu hủy hàng hoá, việc sửa chữa hàng hoá
bao gồm cả việc khôi phục lại chúng là sản xuất hàng hóa theo định nghĩa này, và
cũng được xem là hoạt động sản xuất/chế biến khi sử dụng các hàng hóa, mà các hàng
này có thể không cấu thành trong sản phẩm hoàn chỉnh nhưng chúng cho phép hay tạo
điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất ra sản phẩm hoàn chỉnh (như các phụ liệu sản
xuất). [3]
Việc xác định quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm có ý nghĩa quyết định trước
khi tiến hành xem xét đến việc hoàn thuế nhập khẩu, chỉ những sản phẩm hoàn chỉnh
nào đã trải qua quá trình sản xuất được hiểu theo nghĩa “biến đổi” như trên thì nguyên
vật liệu đầu vào mới được xem là nguyên vật liệu nhập khẩu theo loại hình nhập khẩu
nguyên vật liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Theo đó các trường hợp nhập khẩu
hàng hóa chỉ qua công đoạn đơn giản là đóng gói, dán nhãn mác, làm sạch, chia chiết
thành sản phẩm bán lẽ, … thì không được xem là sản xuất. Trên thực tế pháp luật hiện
hành cho phép nhiều trường hợp các sản phẩm hoàn chỉnh nhập khẩu để đóng chung
với sản phẩm xuất khẩu thành sản phẩm đồng bộ, hoặc phụ tùng, linh kiện để bảo hành
cho sản phẩm xuất khẩu cũng được xem xét hưởng chỉnh sách ưu đãi của loại hình này,
14
vì trên thực tế sản phẩm hoàn chỉnh xuất khẩu đã hội đủ điều kiện của quá trình sản
xuất.
Từ các phân tích trên tác giả có thể đưa ra khái niệm về nhập khẩu nguyên vật
liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu như sau: nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất
hàng hóa xuất khẩu là một phương thức kinh doanh thương mại, theo đó nguyên vật
liệu có nguồn gốc nhập khẩu được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa, và hàng hóa này
được xuất khẩu nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Theo thông lệ quốc tế có đề cập đến vấn đề nhập khẩu nguyên vật liệu để sản
xuất, chế biến hàng hóa xuất khẩu thì tại Công ước quốc tế về hài hoà hoá và đơn giản
hoá thủ tục hải quan năm 1999 (còn gọi là Công ước Kyoto sửa đổi ) tại Phụ lục
chuyên đề F, chương 1, mục 2 có nêu: “inward processing means the Customs
procedure under which certain goods can be brought into a Customs territory
conditionally relieved from payment of import duties and taxes, on the basis that such
goods are intended for manufacturing, processing or repair and subsequent
exportation” [17] tạm dịch là “chế biến trong nước là thủ tục hải quan theo đó hàng
hoá nhất định có thể đưa vào một lãnh thổ hải quan được miễn giảm có điều kiện đối
với thuế nhập khẩu và các loại thuế khác trên cơ sở hàng hoá đó được dự tính dùng để
sản xuất, chế biến hoặc sửa chữa và sau đó xuất khẩu”.
Như vậy định nghĩa về nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất hàng hóa xuất
khẩu trong Công ước Kyoto sửa đổi chú trọng đến việc quản lý giám sát hải quan và
chính sách thuế đối với nguyên vật liệu, vật tư nhập khẩu.
Có thể nói toàn bộ các chuẩn mực và khuyến nghị của Công ước Kyoto sửa đổi
quy định tại Phụ lục chuyên đề F về “chế biến, sản xuất” là một tiền đề rất quan trọng
để từ đó các quy định về thủ tục hải quan liên quan đến nhập khẩu nguyên vật liệu để
sản xuất hàng hóa xuất khẩu được nội luật hóa trên cơ sở các chuẩn mực này, góp
phần quan trọng để pháp luật nước ta phù hợp với các luật lệ, chuẩn mực quốc tế.
15
Trong điều kiện thực tế ở Việt Nam nói chung và ở Đồng Nai nói riêng, tuy
trình độ khoa học công nghệ còn hạn chế, nhưng có lực lượng lao động dồi dào và giá
nhân công rẻ do vậy phương thức kinh doanh này ngày càng phát triển.
1.1.2. Phân biệt nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu (NSXXK) và
gia công xuất khẩu
Giữa NSXXK và gia công xuất khẩu giống nhau trước hết ở bản chất và quy
trình hoạt động :
- Về bản chất cả hai đều là xuất khẩu lao động tại chỗ.
- Về quy trình hoạt động đều trải qua các công đoạn : nhập khẩu nguyên vật
liệu - sản xuất chế biến sản phẩm - xuất khẩu.
Nhưng giữa NSXXK và gia công xuất khẩu khác nhau ở những điểm cơ bản
sau:
- Về tính độc lập tự chủ của chủ thể kinh doanh: trong phương thức gia công
xuất khẩu bên nhận gia công phụ thuộc vào bên đặt gia công. Còn trong phương thức
NSXXK giữa người mua với người bán hoàn toàn độc lập, nhà nhập khẩu có quyền
nhập khẩu nguyên vật liệu của những doanh nghiệp ở những nước khác nhau và xuất
khẩu bán sản phẩm của mình cho một hay nhiều doanh nghiệp khác nhau ở những
nước khác nhau.
- Trên góc độ vĩ mô thể hiện ở chính sách tài chính, chính sách thuế quan của
Việt Nam xác định gia công thương mại với nội dung là giao nguyên liệu thu hồi thành
phẩm (không chuyển giao quyền sở hữu) và cho phép miễn thuế nhập khẩu đối với
nguyên liệu nhập khẩu để gia công hàng xuất khẩu. Còn đối với tất cả các hình thức
mua bán nguyên vật liệu, sản phẩm hàng hóa có thanh toán quốc tế (trong đó có nhập
khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu) đều phải chịu thuế xuất nhập khẩu.
1.1.3. Phân biệt chế độ miễn nộp thuế (duty relief) và chế độ miễn thuế
(exemption)
16
Miễn nộp thuế (duty relief), theo tài liệu Sổ tay hiện đại hoá hải quan thì miễn
nộp thuế (cũng có tài liệu gọi chế độ miễn nộp thuế là tạm miễn thuế, hay loại hình
bảo thuế) là chế độ dành cho hàng hoá được bảo thuế (suspension of duty) cho tới khi
tái xuất. Miễn nộp thuế chỉ việc miễn thuế hải quan và thuế khác cho hàng hóa tạm
nhập hoặc chỉ việc hoàn trả số thuế nhập khẩu và thuế khác đã được nộp khi nhập
khẩu nguyên vật liệu sản xuất, gia công với điều kiện phải tái xuất sản phẩm làm ra từ
nguyên vật liệu đã nhập khẩu. Các đối tượng được hưởng chế độ này bao gồm hàng
gia công xuất khẩu, hàng sản xuất xuất khẩu (manufacturing under bond), hàng thuộc
khu chế xuất, hàng tạm nhập tái xuất nguyên trạng, hàng trong kho ngoại quan và hàng
quá cảnh. [16]
Vì sao lại có chế độ miễn nộp thuế, cơ sở kinh tế của việc áp dụng miễn nộp
thuế cho các nhà sản xuất xuất khẩu khi nhập nguyên liệu được dựa trên nguyên tắc
đánh thuế tại điểm đến của hàng hóa (destination principle of taxation), theo đó không
có loại thuế gián thu nào được đánh vào hàng hóa không dùng cho tiêu dùng nội địa.
Việc đánh thuế hàng hóa nhập khẩu cùng lúc phải thỏa hai điều kiện, thứ nhất phải có
hành vi mang hàng hóa có nguồn gốc từ nước ngoài được phép nhập khẩu vào lãnh thổ
quốc gia, thứ hai hàng hoá này phải được tiêu thụ trên thị trường trong nước.
Hàng tạm nhập tái xuất, hàng gia công xuất khẩu, hàng nhập khẩu nguyên liệu
để sản xuất hàng xuất khẩu không có hành vi tiêu thụ trong thị trường nước nhập khẩu,
vì lẽ đó chúng phải được hưởng chính sách miễn nộp thuế.
Công ước Kyoto sửa đổi đã đưa ra các nguyên tắc pháp lý chung cũng như hàng
loạt các chuẩn mực và khuyến nghị đã được thống nhất nhằm đơn giản và hài hòa các
chính sách và thủ tục hải quan hướng đến mục tiêu tạo thuận lợi thương mại, trong đó
phần Phụ lục chuyên đề F là chuyên đề riêng hướng dẫn chi tiết về “sản xuất, gia
công” trong và ngoài nước kèm theo đó là vấn đề miễn thuế, hoàn thuế cho loại hình
này. Cụ thể chuẩn mực 2-chương 1 “hàng hóa được phép gia công chế biến, sản xuất
xuất khẩu được miễn nộp thuế hoàn toàn”, định nghĩa E1-chương 3 “hoàn thuế là
17
hoàn trả số tiền thuế nhập khẩu theo thủ tục hoàn trả lại tiền thuế đã nộp”, định nghĩa
E2-chương 3 “thủ tục hoàn trả là khi hàng hóa xuất theo thủ tục hải quan quy định,
việc hoàn trả lại được áp dụng cho toàn bộ hay từng phần đối với thuế nhập khẩu và
các loại thuế khác đã nộp cho hàng hóa, cho nguyên vật liệu có trong hàng hóa hoặc
chi phí sản xuất” [17]
Như vậy theo Công ước Kyoto thì có hai phương thức áp dụng chế độ miễn nộp
thuế. Thứ nhất miễn nộp thuế bằng hình thức không phải nộp thuế cho hàng hóa tại
thời điểm nhập khẩu với điều kiện chúng được tái xuất sau khi được sản xuất, gia công,
chế biến (hình thức này thường được gọi là tạm nhập sản xuất). Thứ hai miễn nộp thuế
bằng hình thức hoàn thuế, theo đó thuế hải quan đã nộp cho hàng hóa tại thời điểm
nhập khẩu sẽ được hoàn trả tại thời điểm tái xuất sản phẩm đã được sản xuất, gia công,
chế biến có sử dụng nguyên liệu nhập khẩu đó.
Pháp luật của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cũng có định nghĩa riêng về hoàn thuế
áp dụng cho loại hình nhập nguyên vật liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu như sau:
Hoàn thuế (drawback) có nghĩa là việc trả lại tiền thuế nhờ vào việc xuất khẩu sản
phẩm được sản xuất tại Hoa Kỳ có sử dụng hàng hóa có nguồn gốc nhập khẩu đã chịu
thuế. Sản phẩm hoàn chỉnh phải được xuất khẩu trong thời gian 05 năm kể từ ngày
nhập khẩu hàng hóa đã chịu thuế. Tổng số tiền hoàn thuế tương đương 99% nghĩa vụ
thuế đối với hàng hóa nhập khẩu để sản xuất sản phẩm xuất khẩu. [9]
Theo Sổ tay hiện đại hoá hải quan thì “hoàn thuế” (drawback) là hoàn trả số
tiền thuế nhập khẩu và thuế khác đã nộp cho nguyên liệu nhập khẩu được sử dụng để
sản xuất hàng xuất khẩu. Hoàn thuế không phải là một biện pháp trợ cấp xuất khẩu nếu
khi số hoàn thuế không vượt số thuế phải nộp và điều này hoàn toàn phù hợp với các
quy tắc của Tổ chức thương mại thế giới WTO [16]. (Tổ chức thương mại thế giới
WTO chấp nhận các quốc gia quy định chế độ hoàn thuế nhập khẩu với điều kiện số
thuế được hoàn không lớn hơn số thuế phải nộp). Chế độ hoàn thuế quy định phải nộp
18
thuế hải quan/thuế khác tại thời điểm nhập khẩu. Sau đó số thuế đã nộp sẽ được hoàn
trả khi đã tái xuất thành phẩm [10].
Ở đây có hai thuật ngữ cần xem xét: “Hoàn trả lại thuế” (Refund) là việc hoàn
trả các khoản thuế nhập khẩu đã nộp đối với hàng hóa nhập khẩu nói chung và nó
không liên quan gì đến hoạt động gia công, sản xuất hàng hóa xuất khẩu, trong khi đó
“Hoàn thuế” (Drawback) là việc hoàn trả thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu trong
hoạt động sản xuất hàng hóa xuất khẩu [5]. Tuy nhiên thực tế có một số nước dùng
thuật ngữ hoàn thuế (drawback) để chỉ việc hoàn trả các khoản thuế hải quan đã nộp
cho tất cả hàng hóa nhập khẩu sau đó được xuất khẩu không qua gia công, sản xuất,
thật ra thuật ngữ hải quan phù hợp trong trường hợp này phải là hoàn trả lại thuế
(refund). [16]
Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành của nước ta quy định tất cả các
trường hợp được hoàn thuế chung trong một điều luật, bao gồm hoàn trả lại thuế (hàng
tạm nhập tái xuất, nộp thuế thừa, ….) và hoàn thuế (nguyên vật liệu sản xuất xuất khẩu)
[7].
Trong hai phương thức miễn nộp thuế (miễn nộp thuế trước và hoàn thuế), tuy
có chung mục tiêu nhưng khác nhau phương thức vận hành. Mỗi phương thức phù hợp
cho một đối tượng xuất khẩu nhất định. Nhìn chung, chế độ miễn nộp thuế trước được
các nhà xuất khẩu ưa thích hơn chế độ hoàn thuế. Song miễn nộp thuế trước lại đem lại
rủi ro thu ngân sách lớn hơn cho Chính phủ nếu hàng nhập khẩu hoặc thành phẩm
được sản xuất từ hàng nhập khẩu bị lọt ra thị trường nội địa mà không chịu thuế nhập
khẩu.
Trái lại, phương thức hoàn thuế tuy mang lại rủi ro ít hơn cho công tác thu ngân
sách song lại có nhược điểm là nhà sản xuất phải nộp thuế trước rồi sau đó đợi trong
một khoảng thời gian đáng kể để được hoàn thuế. Điều này làm giảm lượng vốn lưu
động của nhà sản xuất. Việc hoàn thuế chậm và không chắc chắn cũng có thể là tác
19
nhân làm nản lòng các nhà xuất khẩu, buộc họ phải quy các yếu tố này vào giá thành
sản phẩm và bởi vậy làm giảm tính cạnh tranh của sản phẩm tại thị trường nước ngoài.
Miễn thuế (exemption) là chế độ ưu đãi thuế nhập khẩu, trong đó hàng hóa được
miễn một phần hay toàn bộ thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu vì những lý do
không liên quan đế xuất khẩu hay tái xuất. Các chế độ miễn thuế được áp dụng để thực
hiện nhiều mục đích chính sách khác nhau của chính phủ hay thực hiện các cam kết
trong khuôn khổ các công ước và hiệp định quốc tế. Các đối tượng miễn thuế chủ yếu
bao gồm hàng đầu tư xây dựng nhà máy, xí nghiệp, mua sắm chính phủ, các dự án đầu
tư nước ngoài, các cơ quan đại diện ngoại giao, hàng cứu trợ và hàng nhập khẩu vì
mục đích từ thiện, mục đích văn hóa, giáo dục hay tôn giáo, hàng là tài sản di chuyển
của người lao động nhập cư, của người định cư hay công dân hồi hương, hành lý
khách nhập cảnh trong giới hạn cho phép. [16]
Công ước Kyoto định nghĩa miễn thuế như sau: “Miễn thuế là từ bỏ, một phần
hoặc toàn bộ các khoản thuế hải quan và/hoặc các loại thuế khác thông thường phải trả
cho hàng hoá nhập khẩu. Các chương trình miễn thuế thường được đưa ra nhằm hỗ trợ
quốc gia và thường phải tuân theo các điều kiện rất khắt khe. Miễn thuế toàn bộ hay
một phần thuế xuất nhập khẩu và các loại thuế khác phải bao gồm các trường hợp mà
trong đó hải quan sẽ miễn một và không phải toàn bộ các loại thuế hải quan và/hoặc
các loại thuế khác đối với hàng hóa phải áp dụng cho ít nhất là một loại thuế” [17].
Thực chất miễn thuế nhập khẩu là việc Nhà nước từ bỏ một khoản tiền thuế
nhập khẩu mà lẽ ra phải thu vào ngân sách nhà nước từ hàng hóa nhập khẩu. Việc
miễn thuế được pháp luật quy định nhằm hướng đến mục tiêu nhất định, như thu hút
đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội, tạo công ăn việc làm hoặc thực hiện các cam kết
quốc tế.
Pháp luật nước ta không phân biệt chế độ miễn nộp thuế và chế độ miễn thuế, vì
vậy chỉ có thể tìm thấy các hình thức miễn nộp thuế và miễn thuế trong các quy định
về đối tượng không chịu thuế, các trường hợp được miễn thuế. Theo đó thì nguyên vật
20
liệu nhập khẩu để gia công xuất khẩu thuộc đối tượng miễn thuế. Trong khi đó nguyên
vật liệu nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu là đối tượng phải chịu thuế, tuy nhiên đối với
các trường hợp hàng thuộc đối tượng chịu thuế, và thực tế đã nộp thuế nhưng đáp ứng
các điều kiện quy định thì được hoàn thuế, và theo đó loại hình nhập khẩu nguyên vật
liệu để sản xuất xuất khẩu được xem xét hoàn thuế khi có sản phẩm xuất khẩu từ
nguyên vật liệu nhập khẩu. [7]
Xét dưới góc độ tạo thuận lợi cho thương mại, phù hợp với nguyên tắc đánh
thuế tại điểm đến hàng hóa, một quy tắc đã được thừa nhận rộng rãi thì hoàn toàn có
thể áp dụng chế độ miễn nộp thuế trước đối với nguyên vật nhập khẩu để gia công xuất
khẩu và nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu. Tuy nhiên pháp luật nước ta
đã lựa chọn chế độ miễn nộp thuế thông qua hình thức hoàn thuế đối với nguyên vật
liệu nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu và miễn thuế (miễn nộp thuế trước) đối với
nguyên vật liệu nhập khẩu để gia công xuất khẩu.
Theo Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành tại Việt Nam thì đối với
nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu là đối tượng chịu thuế nhập
khẩu nhưng được phép ân hạn chưa nộp thuế trong vòng 275 ngày kể từ ngày nhập
khẩu, nếu có sản phẩm xuất khẩu trong thời hạn 275 ngày thì sẽ được xem xét không
thu thuế, nếu quá 275 ngày chưa xuất khẩu sản phẩm thì phải nộp thuế, khi thực xuất
khẩu sản phẩm thì được xem xét hoàn thuế.
Ở Việt Nam khái niệm nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu xuất
hiện từ sau khi có chủ trương của Đảng “mở cửa”, “đổi mới” nền kinh tế. Phương thức
nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu chính thức được ghi trong văn bản
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được ban hành ngày 04/01/1992 và Nghị định số
110-HĐBT ngày 31/03/1992 của Hội đồng Bộ trưởng.
1.1.4. Vai trò của hoạt động NSXXK đối với phát triển kinh tế
Hoạt động NSXXK tại Việt Nam hiện nay đang phát triển mạnh mẽ cả quy mô
và tốc độ đã đem lại những lợi ích nhiều mặt về kinh tế, xã hội. Trong điều kiện nền