Phương pháp xây dựng và tính chỉ số tổng hợp đánh giá chất lượng cuộc sống ở việt nam
- 177 trang
- file .pdf
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
--------
--------
NGUYỄN THỊ XUÂN MAI
PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG VÀ TÍNH CHỈ SỐ
TỔNG HỢP ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG
Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH KINH TẾ HỌC
HÀ NỘI - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
--------
--------
NGUYỄN THỊ XUÂN MAI
PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG VÀ TÍNH CHỈ SỐ
TỔNG HỢP ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: THỐNG KÊ KINH TẾ
Mã số: 9310101
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. TRẦN THỊ KIM THU
HÀ NỘI - 2018
i
CAM KẾT
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi cam
kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi phạm yêu
cầu về sự trung thực trong học thuật.
Xác nhận của người hướng dẫn khoa học Tác giả
PGS.TS. Trần Thị Kim Thu Nguyễn Thị Xuân Mai
ii
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, cho phép tôi được bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Trần Thị
Kim Thu - người hướng dẫn khoa học cũng là cô giáo trong nhiều năm của tôi. Cô là
người đã dạy tôi những kiến thức đầu tiên về thống kê và cũng là người đã giúp tôi phát
triển và thực hiện ý tưởng nghiên cứu này.
Tiếp theo, xin được gửi lời cảm ơn trân trọng tới các nhà khoa học, các chuyên gia
trong nhiều lĩnh vực đã cùng tham gia thảo luận, nhận xét và đóng góp những ý kiến
quý báu để Luận án được hoàn chỉnh hơn.
Xin cảm ơn các anh chị trong Tổng cục Thống kê và các cơ quan Bộ, ngành đã
nhiệt tình hỗ trợ tôi trong quá trình thu thập số liệu.
Xin được gửi lời cảm ơn tới ban lãnh đạo khoa Thống kê, các thầy cô và đồng
nghiệp trong khoa cũng như trường Đại học Kinh tế quốc dân vì đã động viên, giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình thực hiện Luận án.
Tôi xin cảm ơn Viện Sau đại học, trường Đại học Kinh tế quốc dân, đã luôn tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình tôi đã luôn quan tâm, động viên,
làm hậu phương vững chắc để tôi có thể yên tâm thực hiện nghiên cứu.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên, do khả năng có hạn nên luận án còn tồn tại
nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn của các nhà khoa học, các
thầy cô và bạn bè đồng nghiệp.
Trân trọng cảm ơn!
iii
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.................................................................................... vi
DANH MỤC BẢNG ...............................................................................................viii
DANH MỤC HÌNH .................................................................................................. ix
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 8
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 8
5. Những đóng góp mới của luận án ..................................................................... 9
6. Kết cấu của luận án ......................................................................................... 10
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG ................... 11
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về chất lượng cuộc sống ............................... 11
1.1.1. Các cách tiếp cận nghiên cứu chất lượng cuộc sống ............................... 11
1.1.2. Một số tranh luận xung quanh khái niệm chất lượng cuộc sống .............. 15
1.1.2.1. Cách tiếp cận đo lường chất lượng cuộc sống ................................... 16
1.1.2.2. Các thành phần của khái niệm chất lượng cuộc sống ........................ 19
1.1.3. Một số đo lường chất lượng cuộc sống của các tổ chức quốc tế và quốc gia
trên thế giới ............................................................................................ 24
1.2. Khung lý thuyết chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ................................... 31
1.2.1. Quan điểm phát triển và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam ... 32
1.2.2. Cách tiếp cận đo lường chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ...................... 34
1.2.3. Đề xuất khung lý thuyết chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ...................... 37
1.2.3.1. Khái niệm chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ................................... 37
1.2.3.2. Các thành phần của chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ..................... 38
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 45
iv
CHƯƠNG 2. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ ĐO LƯỜNG CHẤT LƯỢNG
CUỘC SỐNG Ở VIỆT NAM .................................................................................. 46
2.1. Một số vấn đề chung về xây dựng hệ thống chỉ tiêu đo lường chất lượng
cuộc sống .............................................................................................................. 46
2.1.1. Phương pháp xây dựng hệ thống chỉ tiêu đo lường chất lượng cuộc sống ... 46
2.1.2. Một số yêu cầu và nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường
chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ........................................................... 50
2.1.2.1. Yêu cầu của hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường chất lượng cuộc sống
ở Việt Nam ....................................................................................... 50
2.1.2.2. Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường chất lượng
cuộc sống ở Việt Nam ...................................................................... 50
2.1.3. Các tiêu chí lựa chọn chỉ tiêu thống kê đo lường chất lượng cuộc sống .. 52
2.1.4. Qui trình xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường chất lượng cuộc
sống ........................................................................................................ 54
2.2. Đề xuất hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường chất lượng cuộc sống ở Việt Nam . 55
2.2.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh điều kiện kinh tế................................................ 55
2.2.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh điều kiện nhà ở và cơ sở hạ tầng căn bản ......... 58
2.2.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh giáo dục............................................................ 60
2.2.4. Nhóm chỉ tiêu phản ánh điều kiện chăm sóc y tế và sức khỏe .................. 63
2.2.5. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quan hệ gia đình ............................................... 66
2.2.6. Nhóm chỉ tiêu phản ánh sự tham gia sinh hoạt cộng đồng và các hoạt động
văn hóa, giải trí ...................................................................................... 68
2.2.7. Nhóm chỉ tiêu phản ánh điều kiện môi trường tự nhiên ........................... 70
2.2.8. Nhóm chỉ tiêu phản ánh môi trường xã hội ............................................. 72
2.2.9. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quản trị............................................................. 74
2.2.10. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quyền chính trị................................................ 76
2.2.11. Nhóm chỉ tiêu phản ánh sự hài lòng với cuộc sống ............................... 78
2.2.12. Nhóm chỉ tiêu đánh giá tổng hợp về chất lượng cuộc sống ................... 79
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 84
v
CHƯƠNG 3. XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP TÍNH CHỈ SỐ TỔNG HỢP CHẤT
LƯỢNG CUỘC SỐNG Ở VIỆT NAM ................................................................... 86
3.1. Tổng quan về các phương pháp xây dựng chỉ số tổng hợp ....................... 86
3.1.1. Khái niệm và ưu, nhược điểm của chỉ số tổng hợp .................................. 86
3.1.2. Phương pháp tính chỉ số tổng hợp .......................................................... 88
3.1.3. Lựa chọn phương pháp tính chỉ số tổng hợp ........................................... 89
3.2. Đề xuất phương pháp tính chỉ số tổng hợp chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ... 93
3.2.1. Chuẩn hóa dữ liệu .................................................................................. 93
3.2.2. Xác định trọng số.................................................................................... 97
3.2.3. Xác định phương pháp tổng hợp ........................................................... 101
3.3. Tính thử nghiệm chỉ số tổng hợp chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ...... 104
3.3.1. Kết quả tính thử nghiệm chỉ số tổng hợp chất lượng cuộc sống ở Việt Nam 104
3.3.2. Một số vấn đề rút ra từ kết quả tính thử nghiệm .................................... 118
3.4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện phương pháp xây dựng và tính chỉ số
tổng hợp chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ...................................................... 119
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................. 122
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 124
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ ....................................................... 126
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 127
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 134
vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Tiếng Anh Tiếng Việt
AHP Analytic Hierarchy Processes Phân tích thứ bậc
BAP Budget Allocation Processes Quy trình phân bổ ngân sách
CECODES Center for Community Support Trung tâm nghiên cứu phát
Development Studies triển hỗ trợ cộng đồng
CLCS Chất lượng cuộc sống
EIU Economist Intelligence Unit Cơ quan Tình báo Kinh tế
FA Factor Analysis Phân tích nhân tố
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
GHI Green and Happiness Index Chỉ số Hạnh phúc và Xanh
GNH Gross National Happiness Tổng hạnh phúc quốc gia
HDI Human Development Index Chỉ số Phát triển con người
HPI Happy Planet Index Chỉ số Hành tinh hạnh phúc
IMR Infant Mortality Rate Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1
tuổi
KTXH Kinh tế xã hội
MCA Multi-Criteria Analysis Phân tích đa tiêu chí
MQL Malaysia Quality of Life Chỉ số chất lượng cuộc sống
của Malaysia
NEF New Economics Foundation Quỹ Kinh tế mới
OECD Organisation for Economic Tổ chức hợp tác và phát triển
Co-operation and kinh tế
Development
vii
Tiếng Anh Tiếng Việt
PAPI Provincial Governance and Chỉ số Hiệu quả quản trị và
Public Administration hành chính công
Performance Index
PCA Principal Component Analysis Phân tích thành phần chính
SDGs Sustainable Development Mục tiêu phát triển bền vững
Goals
SIPAS Satisfaction Index of Public Chỉ số hài lòng về sự phục vụ
Administrative Services hành chính
UNDP United Nation Development Chương trình Phát triển Liên
Programme hợp quốc
VSDGI Vietnam Sustainable Danh mục chỉ tiêu thống kê
Development Goal Indicators phát triển bền vững của Việt
Nam
WHI World Happiness index Chỉ số Hạnh phúc thế giới
WHO World Health Organisation Tổ chức Y tế Thế giới
viii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Ưu nhược điểm của các đo lường khách quan và đo lường chủ quan ......... 17
Bảng 1.2. Sự kết hợp các yếu tố chủ quan và khách quan trong đánh giá về CLCS .... 19
Bảng 1.3. Một số định nghĩa về chất lượng cuộc sống theo quan điểm đa chiều ......... 20
Bảng 1.4. Các lĩnh vực trọng tâm của CLCS theo quan điểm của một số học giả ....... 22
Bảng 1.5. Các thành phần của CLCS trong một số nghiên cứu của các tổ chức quốc tế
.................................................................................................................................. 26
Bảng 1.6. Các thành phần của CLCS trong một số nghiên cứu của các quốc gia trên
thế giới ...................................................................................................................... 29
Bảng 2.1. Hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS ở Việt Nam ............................ 80
Bảng 3.1. Khung giá trị của chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam ............................... 104
Bảng 3.2. Kết quả tính chỉ số riêng biệt ................................................................... 108
Bảng 3.3. Cơ cấu đặc điểm theo một số tiêu thức của các chuyên gia phỏng vấn ..... 112
Bảng 3.4. Điểm trung bình của các thành phần CLCS.............................................. 113
Bảng 3.5. Ma trận hệ số Sig của các so sánh cặp giá trị trung bình ........................... 114
Bảng 3.6. Trọng số của từng thành phần CLCS. ...................................................... 115
Bảng 3.7. Kết quả tính các chỉ số thành phần ........................................................... 116
Bảng 3.8. Kết quả tính chỉ số tổng hợp chất lượng cuộc sống ở Việt Nam năm 2016
................................................................................................................................ 117
ix
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Khung lý thuyết nghiên cứu chất lượng cuộc sống ở Việt Nam. ................. 44
Hình 2.1. Tổng quan quá trình xây dựng hệ thống chỉ tiêu. ........................................ 47
Hình 3.1. Sơ đồ lựa chọn phương pháp tốt nhất khi xây dựng chỉ số tổng hợp. .......... 92
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề chất lượng cuộc sống (CLCS) (tiếng anh là Quality of Life) và nâng cao
chất lượng cuộc sống của người dân là nội dung chủ yếu trong chiến lược phát triển con
người. Đây là mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội (KTXH) của
mọi quốc gia, là vấn đề được nhiều nước trên thế giới cũng như Việt Nam hết sức quan
tâm. Năm 2009, Ủy ban Đo lường hiệu quả kinh tế và tiến bộ xã hội bao gồm 22 chuyên
gia kinh tế và khoa học xã hội dưới sự điều hành của giáo sư Joseph Stiglitz, Nobel kinh
tế 2001, đã trình lên tổng thống Pháp một bản báo cáo hơn 300 trang về “Đo lường hiệu
quả kinh tế và tiến bộ xã hội”, được gọi tắt là báo cáo Stiglitz. Theo báo cáo này, mọi
người trong xã hội không được hưởng những thành tựu kinh tế như nhau. Do đó song
song với chỉ số tăng trưởng GDP, vốn được sử dụng để đo lường của cải mà một quốc
gia tạo ra trong năm, Ủy ban Stiglitz đề nghị một vài chỉ số khác chú trọng nhiều hơn
đến chất lượng đời sống và hạnh phúc con người, cũng như đến khả năng một nền kinh
tế duy trì được mức hạnh phúc đó một cách lâu dài. Theo đó, một chính phủ nên có hai
loại chỉ số, một chỉ số thuần túy kinh tế và bên cạnh đó là chỉ số chất lượng cuộc sống.
Tuy nhiên, không phải đến lúc này, vấn đề CLCS mới được đặt ra. Trên thực tế,
đây là vấn đề đã được thảo luận từ rất lâu. Theo Hagerty và cộng sự (2001), Plato và
Aristotle (384-322 trước Công nguyên) đã từng đề cập tới “good life - cuộc sống tốt” và
các chính sách công nhằm nuôi dưỡng nó. Theo Massam (2002), vào những năm 1930,
các nhà nghiên cứu bắt đầu có mối quan tâm thực sự đến chủ đề này. Các khái niệm, các
phép đo lường hay các cuộc điều tra liên quan đến CLCS được đưa ra. CLCS cũng đã
đi vào chương trình nghị sự mang tính chính trị. Năm 1933, nhà xã hội học William
Ogburns đã đưa ra một báo cáo hai tập “Recent Social Trends” trình bày về các xu hướng
xã hội thời bấy giờ - trong đó có vấn đề về CLCS. Đây là một sự kiện đóng vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy phong trào các chỉ tiêu xã hội (The Social Indicators
Movement) mà CLCS là một mối quan tâm lớn. Phong trào này đã phát triển ở Mỹ và
các quốc gia Scandinavia trong những năm 1960-1970 khi họ nhận thấy, chỉ riêng các
chỉ tiêu kinh tế là không đủ để phản ánh CLCS của người dân.
Cho đến những năm 1970, phong trào trở nên bùng nổ cùng với sự phát triển của
khoa học máy tính và sự hình thành các tạp chí chuyên ngành như Social Indicator
Research năm 1974. Nhiều năm sau, các nghiên cứu về CLCS đã phát triển nhanh chóng
với sự ủng hộ và chấp nhận của các chính phủ và cơ quan thuộc khu vực công khắp thế
2
giới nhằm xác định cách đo lường và so sánh sự thay đổi về CLCS giữa các cộng đồng,
các thành phố, vùng và các quốc gia.
Trong những năm qua, dựa trên nền những nghiên cứu về CLCS của các học giả
trên toàn thế giới, nhiều tổ chức quốc tế cũng như nhiều quốc gia đã đưa ra các quan
điểm, khái niệm hay định nghĩa khác nhau về CLCS, tùy thuộc vào trình độ phát triển,
quan niệm văn hóa xã hội, truyền thống của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Cùng với việc
xây dựng khái niệm về CLCS, các tổ chức quốc tế và các quốc gia cũng nghiên cứu và
xây dựng các hệ thống chỉ tiêu đo lường CLCS, mức độ hài lòng, hạnh phúc về cuộc
sống. Trên cơ sở các chỉ tiêu này, các tổ chức cũng như các quốc gia đã tính chỉ số tổng
hợp nhằm đánh giá CLCS của người dân, sự thay đổi CLCS qua thời gian hay so sánh
giữa các quốc gia, vùng, miền hay cộng đồng dân cư.
Các nghiên cứu của các tổ chức quốc tế thường hướng đến việc so sánh, đánh giá
CLCS giữa các quốc gia. Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organisation - WHO)
xây dựng hai công cụ đo lường CLCS là WHOQOL-100 (gồm 100 chỉ báo) và
WHOQOL-BREF (gồm 26 chỉ báo rút gọn từ WHOQOL-100) được sử dụng ở nhiều
bối cảnh khác nhau mà vẫn cho phép so sánh kết quả giữa các tổng thể hoặc các quốc
gia. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organisation for Economic Co-operation
and Development - OECD) đã tính chỉ số Cuộc sống tốt đẹp hơn (Better Life Index)
phản ánh CLCS cho 35 quốc gia thành viên và một số đối tác chính như Brazil, Nga và
Nam Phi. Cơ quan thống kê châu Âu (Eurostat) xây dựng ấn phẩm online “Chất lượng
cuộc sống ở châu Âu” (Quality of Life in Europe) nhằm cung cấp các số liệu thống kê
mới nhất về CLCS của các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu. Cơ quan Tình báo Kinh
tế (The Economist Intelligence Unit - EIU) đã xây dựng chỉ số CLCS (Quality of life
index) dựa trên phương pháp kết nối kết quả các cuộc điều tra sự hài lòng mang tính chủ
quan với cuộc sống và các yếu tố mang tính khách quan về CLCS ở các quốc gia. Đến
năm 2013, chỉ số này được đổi tên thành Nơi được sinh ra (Where-to-be-born index),
cho biết liệu quốc gia nào sẽ cung cấp những cơ hội tốt nhất cho một cuộc sống lành
mạnh, an toàn và thịnh vượng trong những năm tới. Quỹ Kinh tế mới (New Economics
Foundation - NEF) sử dụng chỉ số Hành tinh hạnh phúc (The Happy Planet Index - HPI)
nhằm đo lường sự hạnh phúc bền vững và tác động của môi trường. Trong bối cảnh
hạnh phúc ngày càng được coi là một thước đo thích hợp của tiến bộ xã hội và mục tiêu
của chính sách công, Liên hợp quốc đã tính chỉ số Hạnh phúc thế giới (World Happiness
index - WHI). Đây mới chỉ là một số ít kết quả nghiên cứu về CLCS của các tổ chức
quốc tế.
3
Không chỉ các tổ chức quốc tế mà nhiều quốc gia trên thế giới cũng nghiên cứu,
xây dựng hệ thống chỉ tiêu đo lường CLCS và tính chỉ số tổng hợp phản ánh CLCS hay
những khái niệm tương tự như thế. Có những chỉ số khá nổi tiếng trên thế giới như chỉ
số Tổng hạnh phúc quốc gia (Gross National Happiness - GNH), đang được sử dụng bởi
chính phủ Bhutan, là một chỉ số đo lường CLCS hay tiến bộ xã hội dưới giác độ tâm lý
học và triết học. Nhiều quốc gia khác như Anh, Pháp, New Zealand, Canada… đều thực
hiện các cuộc điều tra định kỳ nhằm thu thập thông tin phục vụ cho nghiên cứu về CLCS
ở quốc gia. Một số quốc gia lân cận với Việt Nam cũng đã nhiều năm nghiên cứu về
lĩnh vực này như chỉ số CLCS của Malaysia (Malaysia Quality of Life - MQL), chỉ số
Hạnh phúc và Xanh (Green and Happiness Index - GHI) của Thái Lan…
Sau nhiều năm theo đuổi mục tiêu phát triển kinh tế, càng ngày chúng ta càng nhận
thấy sự phát triển xã hội, phát triển con người phải được đặt lên hàng đầu. Chính vì thế,
vấn đề phát triển con người, quyền con người, nâng cao CLCS đã đi vào chương trình
nghị sự quốc gia trong nhiều năm nay. Chiến lược Phát triển KTXH 2011-2020 nêu rõ
cam kết của chính phủ Việt Nam nhằm: “Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân.”
Tuy nhiên, làm thế nào để đánh giá một cách rõ ràng sự cải thiện của CLCS nếu
không có một khái niệm và các tiêu chí cụ thể. Trên thực tế, khái niệm về CLCS kế thừa
từ những thay đổi của chuẩn mực xã hội, trong khi xã hội luôn hướng tới việc thoả mãn
những nhu cầu ngày càng tốt hơn so với những gì xã hội đã thừa nhận. CLCS của người
dân được cải thiện không ngừng cho thấy sự thành công của các chính sách quản lý
KTXH. Vì vậy, nâng cao CLCS của người dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu với các
nhà quản lý ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Với họ, các câu hỏi thường nảy sinh là: “Làm thế
nào để nâng cao CLCS của người dân?” hay “Quốc gia nào/Địa phương nào có CLCS
tốt nhất?”
Cùng với nhiều quốc gia khác, Việt Nam đã được một số tổ chức quốc tế đánh giá
và xếp hạng CLCS. Theo EIU, năm 2013, CLCS ở Việt Nam đứng thứ 68 trên 80 quốc
gia được xếp hạng. Năm 2015, theo xếp hạng của website Numbeo.com, Việt Nam nằm
trong tốp 10 quốc gia có CLCS thấp nhất trên thế giới, sau cả Campuchia và Lào. Tuy
nhiên, theo xếp hạng của NEF về chỉ số HPI năm 2016, Việt Nam được xếp vào hàng
thứ năm trên thế giới. Sự khác biệt về thứ hạng này là do sự khác biệt về quan điểm
hạnh phúc hay CLCS cũng như tiêu chí đánh giá, nguồn số liệu... của các tổ chức. Nhưng
vấn đề đặt ra là, liệu các tiêu chí, các chỉ tiêu thống kê dùng để đánh giá đã hoàn toàn
4
phù hợp với điều kiện và bối cảnh KTXH của Việt Nam chưa hay liệu đã phản ánh chính
xác CLCS ở Việt Nam chưa?
Nhiều năm qua, có rất nhiều nghiên cứu về CLCS được thực hiện trên thế giới.
Các nghiên cứu này đi từ việc xây dựng khái niệm CLCS đến việc đo lường CLCS và
so sánh, đánh giá CLCS. Tuy nhiên, ở Việt Nam, những nghiên cứu mang tính học thuật
về vấn đề này còn tương đối ít.
Liên quan đến khái niệm CLCS, đã có một số nghiên cứu, bài viết đề cập đến vấn
đề này. Nguyễn Thị Kim Thoa (2003) có bàn luận về khái niệm CLCS dựa trên cơ sở
tổng hợp nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau của các học giả trên thế giới. Tác giả đã
kết luận: “CLCS thể hiện ở mức sung túc về kinh tế, con người có giáo dục, sống khỏe
mạnh và trường thọ, được sống trong môi trường tự nhiên, xã hội, nhân tạo an toàn, bình
đẳng và được tôn trọng”. Vũ Mạnh Cường (2011) quan niệm CLCS được thể hiện trên
bốn nội dung: (1) Phát triển con người, (2) Phát triển văn hóa, (3) Công bằng xã hội và
(4) Xóa đói giảm nghèo. Như vậy, nâng cao CLCS chính là xây dựng con người toàn
diện có đời sống văn hoá và tinh thần cao, phát huy những giá trị sống và đạo đức tốt
đẹp trong xã hội; là tăng chỉ số Phát triển con người (Human Development Index - HDI);
là giảm dần tình trạng đói nghèo; và thực hành công bằng xã hội. Năm 2012, hội thảo
khoa học “Chất lượng cuộc sống của người dân thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh
kinh tế hiện nay” được tổ chức. Trình bày tại hội thảo, tác giả Nguyễn Hữu Nguyên
(2012) cho rằng, CLCS là tổng hòa của nhiều yếu tố trong đời sống vật chất và tinh thần
của con người, với ba nhóm chính gồm: (1) mức sống vật chất: ăn, ở, mặc, đi lại, điều
kiện và cường độ lao động… (2) mức sống tinh thần: trật tự, an toàn xã hội, bình đẳng,
công bằng xã hội, hưởng thụ văn hóa, hưởng thụ giáo dục… và (3) môi trường sinh thái
tự nhiên: khí hậu, thời tiết, mức độ ô nhiễm không khí, nguồn nước, mặt đất, tiếng ồn…
Theo tác giả, cần khảo sát tất cả các nội dung trên mới đủ cơ sở để đánh giá về CLCS.
Tác giả Hồ Bá Thâm (2012) cũng đưa ra một số bàn luận về khái niệm CLCS, các tiêu
chí để đánh giá và kết luận có 11 nhân tố tác động đến CLCS. Tuy nhiên, những bài viết
trên mới chỉ dừng lại ở mức độ gợi mở vấn đề chứ chưa bàn luận sâu vào cơ sở lý thuyết
và bối cảnh thực tế hình thành nên khái niệm.
Liên quan đến việc đo lường CLCS, ở Việt Nam hiện mới chỉ có một vài nghiên
cứu về CLCS của người cao tuổi và trẻ em.
Lê Hải Hà và cộng sự (2012) đã thực hiện một nghiên cứu nhằm xây dựng và
chuẩn hóa thang đo CLCS của người cao tuổi ở Việt Nam trong lĩnh vực y tế công cộng.
Nghiên cứu cho thấy, CLCS là một khái niệm trừu tượng, đa chiều trong đó tổng hợp
nhiều nhân tố khác nhau chứ không chỉ riêng mức sống. Bên cạnh đó, khái niệm CLCS
5
mang tính chủ quan cao do phụ thuộc vào cảm xúc của mỗi cá nhân. Từ kết quả nghiên
cứu định tính như tổng quan tư liệu, phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm, nhóm nghiên cứu
đã xây dựng thang đo CLCS cho người cao tuổi ở Việt Nam trên cơ sở kế thừa có điều
chỉnh công cụ đo lường CLCS của WHO (WHOQOL-100), gồm 6 thành phần: (1) sức
khỏe thể chất, (2) tâm lý xã hội, (3) quan hệ xã hội, (4) môi trường, (5) niềm tin/tín ngưỡng
và (6) kinh tế. Tuy nhiên, kết quả phân tích nhân tố cho thấy, CLCS của người cao tuổi ở
Việt Nam phải được đo lường trong các khía cạnh: (1) sức khỏe thể chất, (2) tinh thần/mối
quan hệ/hỗ trợ trong sinh hoạt, (3) khả năng lao động, (4) môi trường sống, (5) tín
ngưỡng/tâm linh và (6) kinh tế.
Ngô Thanh Huệ, Lê Thị Mai Liên (2013) đã thực hiện một nghiên cứu về CLCS
của trẻ em từ 6-11 tuổi bằng cách tiếp cận tâm lý học. Một nghiên cứu thực nghiệm trên
165 trẻ em từ 6-11 tuổi và phụ huynh thông qua bảng hỏi đánh giá CLCS (AUQUEI và
KINDL-R) nhằm thu thập những đánh giá của trẻ và phụ huynh về những cảm nhận về
cuộc sống của trẻ. Nghiên cứu cũng bước đầu bàn luận những vấn đề về mặt lý thuyết
(khái niệm, nội hàm…) cũng như phương pháp nghiên cứu đối với chủ đề này dưới góc
nhìn của ngành tâm lý học. Theo đó, “CLCS của trẻ tương ứng với mức độ hài lòng của
trẻ trong các khía cạnh khác nhau của cuộc sống bao gồm sự thoải mái về mặt thể chất,
xã hội và tâm lý”. Kết quả bước đầu đã chỉ ra được những lĩnh vực quan trọng trong
nhận thức của trẻ về CLCS mà trẻ có, đó là: mối quan hệ gia đình, bạn bè, môi trường
trường lớp, các hoạt động vui chơi hoặc sở thích. Khía cạnh kinh tế không phải là nhân
tố quan trọng trong nhận thức của trẻ. Ngoài ra nghiên cứu cũng đưa ra những gợi ý về
việc xây dựng các bảng hỏi đánh giá CLCS trẻ em bằng tiếp cận tâm lý học.
Bên cạnh đó, đã có một số nghiên cứu đề cập đến sự hạnh phúc, sự hài lòng với
cuộc sống. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Viện Chính sách và Chiến
lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Viện Khoa học Lao động Xã hội và nhóm nghiên
cứu kinh tế phát triển thuộc trường Đại học Tổng hợp Copenhagen đã thực hiện một
nghiên cứu về “Đặc điểm kinh tế nông thôn Việt Nam”, trong đó vấn đề hạnh phúc, sự
hài lòng của người dân nông thôn với CLCS đã được đề cập tới. Nghiên cứu này bắt đầu
từ năm 2002 và từ 2006 trở lại đây được thực hiện cứ 2 năm 1 lần. Trong lần gần nhất,
năm 2014, nghiên cứu thực hiện điều tra tại 3648 hộ gia đình ở nông thôn tại 12 tỉnh
trong cả nước. Kết quả điều tra cho thấy, 43,9% người được hỏi trả lời là có hạnh phúc
trong cuộc sống (năm 2012 tỷ lệ này là 49,3%). Bên cạnh đó, có mối quan hệ rõ ràng
giữa tình trạng nghèo đói và mức độ hạnh phúc, hài lòng với cuộc sống vì những hộ giàu
thường có mức hài lòng cao hơn trong khi phần lớn hộ nghèo lại không hài lòng. Các
yếu tố tác động tới sự hài lòng của người dân nông thôn về cuộc sống được sắp xếp theo
6
trình tự từ cao đến thấp là (1) sức khỏe, (2) thu nhập, (3) cuộc sống ổn định, (4) kết hôn,
(5) có con, (6) nghề nghiệp, (7) có hàng xóm và bạn bè tốt và (8) tự do (CIEM, 2014).
Kết quả này cho thấy, quan niệm của người dân nông thôn Việt Nam về hạnh phúc khá
đơn giản. Điều này cũng xuất phát từ đặc điểm của người dân nông thôn là rất coi trọng
gia đình, cuộc sống gắn chặt với làng xã, ít va chạm với bên ngoài, có trình độ học vấn
thấp, thu nhập thấp, ít được bảo đảm an sinh xã hội. Đây là một nghiên cứu khá toàn
diện về đặc điểm của nông thôn cũng như cuộc sống của người dân nông thôn Việt Nam
trong những năm qua. Tuy nhiên, nghiên cứu đã không xem xét tới một bộ phận dân cư
thành thị đang ngày càng tăng. Mặt khác, việc đánh giá mức độ hạnh phúc hay hài lòng
với cuộc sống được thực hiện rất đơn giản, chỉ bằng câu hỏi có/không và yêu cầu xếp
hạng các yếu tố ảnh hưởng đến hạnh phúc chứ chưa được thực hiện qua một thang đo
hoàn chỉnh.
Một trong những công trình nghiên cứu có qui mô lớn khác là đề án “Sự hài lòng
về cuộc sống” do nhóm nghiên cứu thuộc trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
- Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện vào năm 2011. Nghiên cứu đã tiến hành điều tra
2400 đối tượng tại 8 xã và 6 phường của 4 tỉnh/thành phố là Hải Dương, Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh và Bình Dương. Bảng hỏi sử dụng các câu hỏi với thang điểm Likert
5 bậc (1= hoàn toàn không hài lòng; 5= rất hài lòng). 22 khía cạnh của sự hài lòng cuộc
sống được đánh giá bao gồm: nghề nghiệp; việc làm; thu nhập; chi tiêu; học vấn; sức
khỏe; đời sống tinh thần; hôn nhân; số con mong muốn; học vấn của con; sức khỏe của
con; công ăn, việc làm của con; hôn nhân, gia đình của con; quan hệ cha mẹ - con cái,
loại nhà, kiểu nhà ở; diện tích nhà ở; tiện nghi gia đình; nước sinh hoạt; quan hệ hàng
xóm; an ninh, trật tự thôn xóm; vệ sinh thôn xóm và cơ sở hạ tầng.
Theo Hoàng Bá Thịnh (2012), bằng phân tích nhân tố khám phá, nghiên cứu đã rút
ra sự hài lòng với cuộc sống của người dân được thể hiện ở 4 thành phần: (1) sự hài lòng
về quan hệ gia đình, con cái; (2) sự hài lòng về cuộc sống của bản thân; (3) sự hài lòng
về điều kiện sinh hoạt của gia đình và (4) sự hài lòng về điều kiện sống nơi cư trú. Bên
cạnh đó, nghiên cứu cũng cho thấy, mức độ hài lòng của người dân Việt Nam cao nhất
ở các lĩnh vực hôn nhân, gia đình, con cái; mức độ hài lòng thấp nhất là về chi tiêu, học
vấn, thu nhập, cơ sở hạ tầng.
Cũng dựa trên dữ liệu của điều tra này, Dương Thị Thu Hương (2012) đã có một
nghiên cứu nhằm xác định các yếu tố tác động đến mức độ hài lòng về đời sống tinh
thần. Bên cạnh phân tích tương quan và so sánh giá trị trung bình, tác giả xây dựng các
mô hình hồi quy đơn biến và đa biến nhằm tìm hiểu ảnh hưởng tác động của các biến
độc lập đến mức độ hài lòng về đời sống tinh thần của người được hỏi. Kết quả cho thấy,
7
không có quá nhiều sự khác biệt hay chênh lệch về mức độ hài lòng về đời sống tinh
thần của những nhóm người khác nhau về đặc điểm nhân khẩu học và đặc điểm xã hội.
Tuy nhiên, yếu tố thực sự có tác động đáng kể đến mức độ hài lòng về đời sống tinh
thần chính là kinh tế của bản thân và gia đình (thu nhập, tài sản), đặc biệt là sự hài lòng
về thu nhập.
Đây là cuộc điều tra quy mô lớn đầu tiên về sự hài lòng của người dân về cuộc
sống ở Việt Nam. Tuy nhiên, cơ sở lý thuyết để xây dựng thang đo sự hài lòng về cuộc
sống chưa được nghiên cứu làm rõ. Các khía cạnh của sự hài lòng mới chỉ tập trung vào
các vấn đề hết sức cơ bản, có liên quan mật thiết đến cuộc sống hàng ngày của người
dân và được đo lường đơn chiều qua một chỉ báo. Đây là một nhược điểm lớn của nghiên
cứu này.
Mặc dù những nghiên cứu về CLCS trên thế giới là rất phong phú và đa dạng,
nhưng những nghiên cứu về CLCS ở nước ta hiện còn rất hạn chế. CLCS của Việt Nam
mới chỉ được quốc tế đánh giá và so sánh trên bình diện thế giới. Ở tầm quốc gia, chúng
ta mới dừng lại ở những cuộc luận bàn, trao đổi về khái niệm. Một số nghiên cứu khác
mới chỉ xem xét một phần của CLCS như sự hài lòng với cuộc sống hay đo lường CLCS
của từng nhóm người riêng biệt như trẻ em, người cao tuổi dưới góc độ tâm lý học, y
tế... Bản thân khái niệm và nội hàm của khái niệm CLCS ở Việt Nam hiện chưa được
làm rõ. Chính vì khái niệm chưa rõ ràng nên việc đo lường và đánh giá CLCS ở Việt
Nam cũng mơ hồ, tùy thuộc vào ý muốn chủ quan của người đánh giá. Các chỉ tiêu đo
lường CLCS nằm rải rác và không có hệ thống nên không cho phép đánh giá một cách
toàn diện về CLCS. Đây chính là khoảng trống nghiên cứu về CLCS ở Việt Nam.
Xuất phát từ cơ sở thực tiễn về mặt chính sách và khoảng trống nghiên cứu, việc
thực hiện luận án “Phương pháp xây dựng và tính chỉ số tổng hợp đánh giá chất lượng
cuộc sống ở Việt Nam” là hoàn toàn cần thiết. Luận án sẽ đáp ứng được về mặt lý luận
khi đề xuất được phương pháp xây dựng và tính chỉ số tổng hợp đánh giá CLCS ở Việt
Nam, đồng thời đáp ứng về mặt thực tiễn, khi là cơ sở thực hiện so sánh, đánh giá để
thấy được sự thay đổi, phát triển CLCS của người dân qua thời gian và không gian.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là trên cơ sở xác định khung khái niệm về CLCS,
xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS và phương pháp tính chỉ số tổng
hợp CLCS nhằm phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã hội và hoạt động
so sánh, đánh giá CLCS ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích trên, luận án phải trả lời được các câu hỏi nghiên cứu sau:
8
- Nghiên cứu về CLCS ở Việt Nam nên được thực hiện theo hướng nào?
- Khái niệm CLCS ở Việt Nam được hiểu như thế nào? Cấu trúc của khái niệm
CLCS bao gồm những thành phần gì?
- Hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS ở Việt Nam được xây dựng như thế
nào và sẽ bao gồm những chỉ tiêu gì?
- Chỉ số tổng hợp CLCS được xây dựng theo phương pháp luận nào? Trọng số và
phương pháp tổng hợp chỉ số được xác định như thế nào?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án là CLCS ở Việt Nam, hệ thống chỉ
tiêu thống kê đo lường CLCS và chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam.
Cụ thể hơn, phạm vi nghiên cứu về nội dung của luận án được xác định dựa trên
mục đích nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu như đã nêu. Trong đó, luận án sẽ tập trung
làm rõ cơ sở lý luận của CLCS để từ đó lựa chọn khái niệm CLCS phù hợp với bối cảnh
KTXH của Việt Nam hiện nay. Tiếp theo, luận án sẽ lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thống
kê đo lường CLCS ở Việt Nam. Đây là cơ sở để luận án đề xuất phương pháp tính chỉ
số tổng hợp đánh giá CLCS.
Tuy nhiên, do CLCS là một chủ đề nghiên cứu lớn trong khi nguồn số liệu còn
nhiều hạn chế nên luận án chỉ giới hạn trong đo lường khía cạnh khách quan mà tạm
thời chưa xem xét đến việc đo lường khía cạnh chủ quan của CLCS.
Số liệu năm 2016 sẽ được thu thập nhằm phục vụ cho việc tính thử nghiệm chỉ số
tổng hợp CLCS ở cấp quốc gia.
4. Phương pháp nghiên cứu
Do đây là một trong những vấn đề mới, chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam
nên phương pháp nghiên cứu định tính bao gồm tổng quan tài liệu và phỏng vấn chuyên
gia được sử dụng xuyên suốt nhằm tìm hiểu, khám phá vấn đề.
Phương pháp tổng quan tài liệu được sử dụng nhằm tìm hiểu các lý luận cơ bản về
CLCS ở trong nước và trên thế giới, cụ thể: các cách tiếp cận nghiên cứu CLCS; các
quan điểm và các tranh luận xung quanh khái niệm CLCS; các thành phần của CLCS;
cách thức đo lường CLCS; hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS; phương pháp
tính chỉ số tổng hợp; …
Phương pháp phỏng vấn chuyên gia được thực hiện thành hai giai đoạn.
9
Giai đoạn 1, song song với quá trình tổng quan tài liệu, tác giả thực hiện phỏng vấn
sâu 10 chuyên gia trong trong các lĩnh vực xã hội, dân số và phát triển, thống kê, nghiên
cứu chính sách… nhằm xác định hướng tiếp cận nghiên cứu CLCS; khái niệm CLCS cũng
như cấu trúc của khái niệm này ở Việt Nam. Ngoài ra, các vấn đề cơ bản liên quan đến đo
lường CLCS, xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS và phương pháp tính
chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam cũng được tham vấn ý kiến chuyên gia.
Giai đoạn 2, áp dụng trong quá trình xây dựng và tính chỉ số tổng hợp CLCS ở
Việt Nam. Phương pháp phỏng vấn chuyên gia được thực hiện nhằm xác định trọng số
cho các chỉ số thành phần của chỉ số tổng hợp CLCS. Do CLCS là vấn đề rộng, có liên
quan đến nhiều đối tượng, nhiều lĩnh vực nên tác giả đã gửi bảng hỏi (qua phiếu giấy
hoặc phiếu điện tử) tới hơn 100 chuyên gia là những nhà nghiên cứu, giảng viên, nhà
quản lý, công chức, tư vấn chính sách… đang công tác ở các viện, trung tâm nghiên cứu,
trường đại học, các Bộ, ngành, tổ chức quốc tế… Tuy nhiên, chỉ có 54 chuyên gia gửi
phản hồi trong đó có 02 ý kiến trả lời không hợp lệ. Phiếu phỏng vấn chuyên gia được
thiết kế bao gồm các câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Các câu hỏi đóng giúp cho việc tổng
hợp thông tin được dễ dàng, đảm bảo so sánh giữa các ý kiến trả lời. Các câu hỏi mở
giúp tác giả thu nhận thêm nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau, giúp cho việc đánh giá
CLCS được chính xác hơn.
Bên cạnh đó, luận án còn sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp để thu
thập thông tin phục vụ cho việc tính thử nghiệm chỉ số tổng hợp CLCS. Dữ liệu được
thu thập từ nhiều nguồn chính thức khác nhau như các cuộc điều tra thống kê, chế độ
báo cáo tổng hợp … của Tổng cục Thống kê, các Bộ, ngành và các cơ quan, tổ chức
khác. Đây đều là những nguồn dữ liệu có uy tín để đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy
của dữ liệu.
Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu được áp dụng trong tính thử nghiệm chỉ
số tổng hợp CLCS bao gồm: phương pháp chuẩn hóa dữ liệu, phương pháp tính số trung
bình, phương pháp kiểm định giả thuyết thống kê...
Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp so sánh, đánh giá trong nghiên cứu sự
ảnh hưởng của các thành phần đến CLCS nói chung.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án được thực hiện với mong muốn lấp đầy một góc nhỏ trong khoảng trống
nghiên cứu lớn về CLCS ở Việt Nam. Những đóng góp tri thức mới của luận án về lý
luận bao gồm:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
--------
--------
NGUYỄN THỊ XUÂN MAI
PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG VÀ TÍNH CHỈ SỐ
TỔNG HỢP ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG
Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH KINH TẾ HỌC
HÀ NỘI - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
--------
--------
NGUYỄN THỊ XUÂN MAI
PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG VÀ TÍNH CHỈ SỐ
TỔNG HỢP ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: THỐNG KÊ KINH TẾ
Mã số: 9310101
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. TRẦN THỊ KIM THU
HÀ NỘI - 2018
i
CAM KẾT
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi cam
kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi phạm yêu
cầu về sự trung thực trong học thuật.
Xác nhận của người hướng dẫn khoa học Tác giả
PGS.TS. Trần Thị Kim Thu Nguyễn Thị Xuân Mai
ii
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, cho phép tôi được bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Trần Thị
Kim Thu - người hướng dẫn khoa học cũng là cô giáo trong nhiều năm của tôi. Cô là
người đã dạy tôi những kiến thức đầu tiên về thống kê và cũng là người đã giúp tôi phát
triển và thực hiện ý tưởng nghiên cứu này.
Tiếp theo, xin được gửi lời cảm ơn trân trọng tới các nhà khoa học, các chuyên gia
trong nhiều lĩnh vực đã cùng tham gia thảo luận, nhận xét và đóng góp những ý kiến
quý báu để Luận án được hoàn chỉnh hơn.
Xin cảm ơn các anh chị trong Tổng cục Thống kê và các cơ quan Bộ, ngành đã
nhiệt tình hỗ trợ tôi trong quá trình thu thập số liệu.
Xin được gửi lời cảm ơn tới ban lãnh đạo khoa Thống kê, các thầy cô và đồng
nghiệp trong khoa cũng như trường Đại học Kinh tế quốc dân vì đã động viên, giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình thực hiện Luận án.
Tôi xin cảm ơn Viện Sau đại học, trường Đại học Kinh tế quốc dân, đã luôn tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình tôi đã luôn quan tâm, động viên,
làm hậu phương vững chắc để tôi có thể yên tâm thực hiện nghiên cứu.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên, do khả năng có hạn nên luận án còn tồn tại
nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn của các nhà khoa học, các
thầy cô và bạn bè đồng nghiệp.
Trân trọng cảm ơn!
iii
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.................................................................................... vi
DANH MỤC BẢNG ...............................................................................................viii
DANH MỤC HÌNH .................................................................................................. ix
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 8
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 8
5. Những đóng góp mới của luận án ..................................................................... 9
6. Kết cấu của luận án ......................................................................................... 10
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG ................... 11
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về chất lượng cuộc sống ............................... 11
1.1.1. Các cách tiếp cận nghiên cứu chất lượng cuộc sống ............................... 11
1.1.2. Một số tranh luận xung quanh khái niệm chất lượng cuộc sống .............. 15
1.1.2.1. Cách tiếp cận đo lường chất lượng cuộc sống ................................... 16
1.1.2.2. Các thành phần của khái niệm chất lượng cuộc sống ........................ 19
1.1.3. Một số đo lường chất lượng cuộc sống của các tổ chức quốc tế và quốc gia
trên thế giới ............................................................................................ 24
1.2. Khung lý thuyết chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ................................... 31
1.2.1. Quan điểm phát triển và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam ... 32
1.2.2. Cách tiếp cận đo lường chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ...................... 34
1.2.3. Đề xuất khung lý thuyết chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ...................... 37
1.2.3.1. Khái niệm chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ................................... 37
1.2.3.2. Các thành phần của chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ..................... 38
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 45
iv
CHƯƠNG 2. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ ĐO LƯỜNG CHẤT LƯỢNG
CUỘC SỐNG Ở VIỆT NAM .................................................................................. 46
2.1. Một số vấn đề chung về xây dựng hệ thống chỉ tiêu đo lường chất lượng
cuộc sống .............................................................................................................. 46
2.1.1. Phương pháp xây dựng hệ thống chỉ tiêu đo lường chất lượng cuộc sống ... 46
2.1.2. Một số yêu cầu và nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường
chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ........................................................... 50
2.1.2.1. Yêu cầu của hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường chất lượng cuộc sống
ở Việt Nam ....................................................................................... 50
2.1.2.2. Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường chất lượng
cuộc sống ở Việt Nam ...................................................................... 50
2.1.3. Các tiêu chí lựa chọn chỉ tiêu thống kê đo lường chất lượng cuộc sống .. 52
2.1.4. Qui trình xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường chất lượng cuộc
sống ........................................................................................................ 54
2.2. Đề xuất hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường chất lượng cuộc sống ở Việt Nam . 55
2.2.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh điều kiện kinh tế................................................ 55
2.2.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh điều kiện nhà ở và cơ sở hạ tầng căn bản ......... 58
2.2.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh giáo dục............................................................ 60
2.2.4. Nhóm chỉ tiêu phản ánh điều kiện chăm sóc y tế và sức khỏe .................. 63
2.2.5. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quan hệ gia đình ............................................... 66
2.2.6. Nhóm chỉ tiêu phản ánh sự tham gia sinh hoạt cộng đồng và các hoạt động
văn hóa, giải trí ...................................................................................... 68
2.2.7. Nhóm chỉ tiêu phản ánh điều kiện môi trường tự nhiên ........................... 70
2.2.8. Nhóm chỉ tiêu phản ánh môi trường xã hội ............................................. 72
2.2.9. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quản trị............................................................. 74
2.2.10. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quyền chính trị................................................ 76
2.2.11. Nhóm chỉ tiêu phản ánh sự hài lòng với cuộc sống ............................... 78
2.2.12. Nhóm chỉ tiêu đánh giá tổng hợp về chất lượng cuộc sống ................... 79
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 84
v
CHƯƠNG 3. XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP TÍNH CHỈ SỐ TỔNG HỢP CHẤT
LƯỢNG CUỘC SỐNG Ở VIỆT NAM ................................................................... 86
3.1. Tổng quan về các phương pháp xây dựng chỉ số tổng hợp ....................... 86
3.1.1. Khái niệm và ưu, nhược điểm của chỉ số tổng hợp .................................. 86
3.1.2. Phương pháp tính chỉ số tổng hợp .......................................................... 88
3.1.3. Lựa chọn phương pháp tính chỉ số tổng hợp ........................................... 89
3.2. Đề xuất phương pháp tính chỉ số tổng hợp chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ... 93
3.2.1. Chuẩn hóa dữ liệu .................................................................................. 93
3.2.2. Xác định trọng số.................................................................................... 97
3.2.3. Xác định phương pháp tổng hợp ........................................................... 101
3.3. Tính thử nghiệm chỉ số tổng hợp chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ...... 104
3.3.1. Kết quả tính thử nghiệm chỉ số tổng hợp chất lượng cuộc sống ở Việt Nam 104
3.3.2. Một số vấn đề rút ra từ kết quả tính thử nghiệm .................................... 118
3.4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện phương pháp xây dựng và tính chỉ số
tổng hợp chất lượng cuộc sống ở Việt Nam ...................................................... 119
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................. 122
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 124
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ ....................................................... 126
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 127
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 134
vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Tiếng Anh Tiếng Việt
AHP Analytic Hierarchy Processes Phân tích thứ bậc
BAP Budget Allocation Processes Quy trình phân bổ ngân sách
CECODES Center for Community Support Trung tâm nghiên cứu phát
Development Studies triển hỗ trợ cộng đồng
CLCS Chất lượng cuộc sống
EIU Economist Intelligence Unit Cơ quan Tình báo Kinh tế
FA Factor Analysis Phân tích nhân tố
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
GHI Green and Happiness Index Chỉ số Hạnh phúc và Xanh
GNH Gross National Happiness Tổng hạnh phúc quốc gia
HDI Human Development Index Chỉ số Phát triển con người
HPI Happy Planet Index Chỉ số Hành tinh hạnh phúc
IMR Infant Mortality Rate Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1
tuổi
KTXH Kinh tế xã hội
MCA Multi-Criteria Analysis Phân tích đa tiêu chí
MQL Malaysia Quality of Life Chỉ số chất lượng cuộc sống
của Malaysia
NEF New Economics Foundation Quỹ Kinh tế mới
OECD Organisation for Economic Tổ chức hợp tác và phát triển
Co-operation and kinh tế
Development
vii
Tiếng Anh Tiếng Việt
PAPI Provincial Governance and Chỉ số Hiệu quả quản trị và
Public Administration hành chính công
Performance Index
PCA Principal Component Analysis Phân tích thành phần chính
SDGs Sustainable Development Mục tiêu phát triển bền vững
Goals
SIPAS Satisfaction Index of Public Chỉ số hài lòng về sự phục vụ
Administrative Services hành chính
UNDP United Nation Development Chương trình Phát triển Liên
Programme hợp quốc
VSDGI Vietnam Sustainable Danh mục chỉ tiêu thống kê
Development Goal Indicators phát triển bền vững của Việt
Nam
WHI World Happiness index Chỉ số Hạnh phúc thế giới
WHO World Health Organisation Tổ chức Y tế Thế giới
viii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Ưu nhược điểm của các đo lường khách quan và đo lường chủ quan ......... 17
Bảng 1.2. Sự kết hợp các yếu tố chủ quan và khách quan trong đánh giá về CLCS .... 19
Bảng 1.3. Một số định nghĩa về chất lượng cuộc sống theo quan điểm đa chiều ......... 20
Bảng 1.4. Các lĩnh vực trọng tâm của CLCS theo quan điểm của một số học giả ....... 22
Bảng 1.5. Các thành phần của CLCS trong một số nghiên cứu của các tổ chức quốc tế
.................................................................................................................................. 26
Bảng 1.6. Các thành phần của CLCS trong một số nghiên cứu của các quốc gia trên
thế giới ...................................................................................................................... 29
Bảng 2.1. Hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS ở Việt Nam ............................ 80
Bảng 3.1. Khung giá trị của chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam ............................... 104
Bảng 3.2. Kết quả tính chỉ số riêng biệt ................................................................... 108
Bảng 3.3. Cơ cấu đặc điểm theo một số tiêu thức của các chuyên gia phỏng vấn ..... 112
Bảng 3.4. Điểm trung bình của các thành phần CLCS.............................................. 113
Bảng 3.5. Ma trận hệ số Sig của các so sánh cặp giá trị trung bình ........................... 114
Bảng 3.6. Trọng số của từng thành phần CLCS. ...................................................... 115
Bảng 3.7. Kết quả tính các chỉ số thành phần ........................................................... 116
Bảng 3.8. Kết quả tính chỉ số tổng hợp chất lượng cuộc sống ở Việt Nam năm 2016
................................................................................................................................ 117
ix
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Khung lý thuyết nghiên cứu chất lượng cuộc sống ở Việt Nam. ................. 44
Hình 2.1. Tổng quan quá trình xây dựng hệ thống chỉ tiêu. ........................................ 47
Hình 3.1. Sơ đồ lựa chọn phương pháp tốt nhất khi xây dựng chỉ số tổng hợp. .......... 92
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề chất lượng cuộc sống (CLCS) (tiếng anh là Quality of Life) và nâng cao
chất lượng cuộc sống của người dân là nội dung chủ yếu trong chiến lược phát triển con
người. Đây là mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội (KTXH) của
mọi quốc gia, là vấn đề được nhiều nước trên thế giới cũng như Việt Nam hết sức quan
tâm. Năm 2009, Ủy ban Đo lường hiệu quả kinh tế và tiến bộ xã hội bao gồm 22 chuyên
gia kinh tế và khoa học xã hội dưới sự điều hành của giáo sư Joseph Stiglitz, Nobel kinh
tế 2001, đã trình lên tổng thống Pháp một bản báo cáo hơn 300 trang về “Đo lường hiệu
quả kinh tế và tiến bộ xã hội”, được gọi tắt là báo cáo Stiglitz. Theo báo cáo này, mọi
người trong xã hội không được hưởng những thành tựu kinh tế như nhau. Do đó song
song với chỉ số tăng trưởng GDP, vốn được sử dụng để đo lường của cải mà một quốc
gia tạo ra trong năm, Ủy ban Stiglitz đề nghị một vài chỉ số khác chú trọng nhiều hơn
đến chất lượng đời sống và hạnh phúc con người, cũng như đến khả năng một nền kinh
tế duy trì được mức hạnh phúc đó một cách lâu dài. Theo đó, một chính phủ nên có hai
loại chỉ số, một chỉ số thuần túy kinh tế và bên cạnh đó là chỉ số chất lượng cuộc sống.
Tuy nhiên, không phải đến lúc này, vấn đề CLCS mới được đặt ra. Trên thực tế,
đây là vấn đề đã được thảo luận từ rất lâu. Theo Hagerty và cộng sự (2001), Plato và
Aristotle (384-322 trước Công nguyên) đã từng đề cập tới “good life - cuộc sống tốt” và
các chính sách công nhằm nuôi dưỡng nó. Theo Massam (2002), vào những năm 1930,
các nhà nghiên cứu bắt đầu có mối quan tâm thực sự đến chủ đề này. Các khái niệm, các
phép đo lường hay các cuộc điều tra liên quan đến CLCS được đưa ra. CLCS cũng đã
đi vào chương trình nghị sự mang tính chính trị. Năm 1933, nhà xã hội học William
Ogburns đã đưa ra một báo cáo hai tập “Recent Social Trends” trình bày về các xu hướng
xã hội thời bấy giờ - trong đó có vấn đề về CLCS. Đây là một sự kiện đóng vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy phong trào các chỉ tiêu xã hội (The Social Indicators
Movement) mà CLCS là một mối quan tâm lớn. Phong trào này đã phát triển ở Mỹ và
các quốc gia Scandinavia trong những năm 1960-1970 khi họ nhận thấy, chỉ riêng các
chỉ tiêu kinh tế là không đủ để phản ánh CLCS của người dân.
Cho đến những năm 1970, phong trào trở nên bùng nổ cùng với sự phát triển của
khoa học máy tính và sự hình thành các tạp chí chuyên ngành như Social Indicator
Research năm 1974. Nhiều năm sau, các nghiên cứu về CLCS đã phát triển nhanh chóng
với sự ủng hộ và chấp nhận của các chính phủ và cơ quan thuộc khu vực công khắp thế
2
giới nhằm xác định cách đo lường và so sánh sự thay đổi về CLCS giữa các cộng đồng,
các thành phố, vùng và các quốc gia.
Trong những năm qua, dựa trên nền những nghiên cứu về CLCS của các học giả
trên toàn thế giới, nhiều tổ chức quốc tế cũng như nhiều quốc gia đã đưa ra các quan
điểm, khái niệm hay định nghĩa khác nhau về CLCS, tùy thuộc vào trình độ phát triển,
quan niệm văn hóa xã hội, truyền thống của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Cùng với việc
xây dựng khái niệm về CLCS, các tổ chức quốc tế và các quốc gia cũng nghiên cứu và
xây dựng các hệ thống chỉ tiêu đo lường CLCS, mức độ hài lòng, hạnh phúc về cuộc
sống. Trên cơ sở các chỉ tiêu này, các tổ chức cũng như các quốc gia đã tính chỉ số tổng
hợp nhằm đánh giá CLCS của người dân, sự thay đổi CLCS qua thời gian hay so sánh
giữa các quốc gia, vùng, miền hay cộng đồng dân cư.
Các nghiên cứu của các tổ chức quốc tế thường hướng đến việc so sánh, đánh giá
CLCS giữa các quốc gia. Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organisation - WHO)
xây dựng hai công cụ đo lường CLCS là WHOQOL-100 (gồm 100 chỉ báo) và
WHOQOL-BREF (gồm 26 chỉ báo rút gọn từ WHOQOL-100) được sử dụng ở nhiều
bối cảnh khác nhau mà vẫn cho phép so sánh kết quả giữa các tổng thể hoặc các quốc
gia. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organisation for Economic Co-operation
and Development - OECD) đã tính chỉ số Cuộc sống tốt đẹp hơn (Better Life Index)
phản ánh CLCS cho 35 quốc gia thành viên và một số đối tác chính như Brazil, Nga và
Nam Phi. Cơ quan thống kê châu Âu (Eurostat) xây dựng ấn phẩm online “Chất lượng
cuộc sống ở châu Âu” (Quality of Life in Europe) nhằm cung cấp các số liệu thống kê
mới nhất về CLCS của các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu. Cơ quan Tình báo Kinh
tế (The Economist Intelligence Unit - EIU) đã xây dựng chỉ số CLCS (Quality of life
index) dựa trên phương pháp kết nối kết quả các cuộc điều tra sự hài lòng mang tính chủ
quan với cuộc sống và các yếu tố mang tính khách quan về CLCS ở các quốc gia. Đến
năm 2013, chỉ số này được đổi tên thành Nơi được sinh ra (Where-to-be-born index),
cho biết liệu quốc gia nào sẽ cung cấp những cơ hội tốt nhất cho một cuộc sống lành
mạnh, an toàn và thịnh vượng trong những năm tới. Quỹ Kinh tế mới (New Economics
Foundation - NEF) sử dụng chỉ số Hành tinh hạnh phúc (The Happy Planet Index - HPI)
nhằm đo lường sự hạnh phúc bền vững và tác động của môi trường. Trong bối cảnh
hạnh phúc ngày càng được coi là một thước đo thích hợp của tiến bộ xã hội và mục tiêu
của chính sách công, Liên hợp quốc đã tính chỉ số Hạnh phúc thế giới (World Happiness
index - WHI). Đây mới chỉ là một số ít kết quả nghiên cứu về CLCS của các tổ chức
quốc tế.
3
Không chỉ các tổ chức quốc tế mà nhiều quốc gia trên thế giới cũng nghiên cứu,
xây dựng hệ thống chỉ tiêu đo lường CLCS và tính chỉ số tổng hợp phản ánh CLCS hay
những khái niệm tương tự như thế. Có những chỉ số khá nổi tiếng trên thế giới như chỉ
số Tổng hạnh phúc quốc gia (Gross National Happiness - GNH), đang được sử dụng bởi
chính phủ Bhutan, là một chỉ số đo lường CLCS hay tiến bộ xã hội dưới giác độ tâm lý
học và triết học. Nhiều quốc gia khác như Anh, Pháp, New Zealand, Canada… đều thực
hiện các cuộc điều tra định kỳ nhằm thu thập thông tin phục vụ cho nghiên cứu về CLCS
ở quốc gia. Một số quốc gia lân cận với Việt Nam cũng đã nhiều năm nghiên cứu về
lĩnh vực này như chỉ số CLCS của Malaysia (Malaysia Quality of Life - MQL), chỉ số
Hạnh phúc và Xanh (Green and Happiness Index - GHI) của Thái Lan…
Sau nhiều năm theo đuổi mục tiêu phát triển kinh tế, càng ngày chúng ta càng nhận
thấy sự phát triển xã hội, phát triển con người phải được đặt lên hàng đầu. Chính vì thế,
vấn đề phát triển con người, quyền con người, nâng cao CLCS đã đi vào chương trình
nghị sự quốc gia trong nhiều năm nay. Chiến lược Phát triển KTXH 2011-2020 nêu rõ
cam kết của chính phủ Việt Nam nhằm: “Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân.”
Tuy nhiên, làm thế nào để đánh giá một cách rõ ràng sự cải thiện của CLCS nếu
không có một khái niệm và các tiêu chí cụ thể. Trên thực tế, khái niệm về CLCS kế thừa
từ những thay đổi của chuẩn mực xã hội, trong khi xã hội luôn hướng tới việc thoả mãn
những nhu cầu ngày càng tốt hơn so với những gì xã hội đã thừa nhận. CLCS của người
dân được cải thiện không ngừng cho thấy sự thành công của các chính sách quản lý
KTXH. Vì vậy, nâng cao CLCS của người dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu với các
nhà quản lý ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Với họ, các câu hỏi thường nảy sinh là: “Làm thế
nào để nâng cao CLCS của người dân?” hay “Quốc gia nào/Địa phương nào có CLCS
tốt nhất?”
Cùng với nhiều quốc gia khác, Việt Nam đã được một số tổ chức quốc tế đánh giá
và xếp hạng CLCS. Theo EIU, năm 2013, CLCS ở Việt Nam đứng thứ 68 trên 80 quốc
gia được xếp hạng. Năm 2015, theo xếp hạng của website Numbeo.com, Việt Nam nằm
trong tốp 10 quốc gia có CLCS thấp nhất trên thế giới, sau cả Campuchia và Lào. Tuy
nhiên, theo xếp hạng của NEF về chỉ số HPI năm 2016, Việt Nam được xếp vào hàng
thứ năm trên thế giới. Sự khác biệt về thứ hạng này là do sự khác biệt về quan điểm
hạnh phúc hay CLCS cũng như tiêu chí đánh giá, nguồn số liệu... của các tổ chức. Nhưng
vấn đề đặt ra là, liệu các tiêu chí, các chỉ tiêu thống kê dùng để đánh giá đã hoàn toàn
4
phù hợp với điều kiện và bối cảnh KTXH của Việt Nam chưa hay liệu đã phản ánh chính
xác CLCS ở Việt Nam chưa?
Nhiều năm qua, có rất nhiều nghiên cứu về CLCS được thực hiện trên thế giới.
Các nghiên cứu này đi từ việc xây dựng khái niệm CLCS đến việc đo lường CLCS và
so sánh, đánh giá CLCS. Tuy nhiên, ở Việt Nam, những nghiên cứu mang tính học thuật
về vấn đề này còn tương đối ít.
Liên quan đến khái niệm CLCS, đã có một số nghiên cứu, bài viết đề cập đến vấn
đề này. Nguyễn Thị Kim Thoa (2003) có bàn luận về khái niệm CLCS dựa trên cơ sở
tổng hợp nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau của các học giả trên thế giới. Tác giả đã
kết luận: “CLCS thể hiện ở mức sung túc về kinh tế, con người có giáo dục, sống khỏe
mạnh và trường thọ, được sống trong môi trường tự nhiên, xã hội, nhân tạo an toàn, bình
đẳng và được tôn trọng”. Vũ Mạnh Cường (2011) quan niệm CLCS được thể hiện trên
bốn nội dung: (1) Phát triển con người, (2) Phát triển văn hóa, (3) Công bằng xã hội và
(4) Xóa đói giảm nghèo. Như vậy, nâng cao CLCS chính là xây dựng con người toàn
diện có đời sống văn hoá và tinh thần cao, phát huy những giá trị sống và đạo đức tốt
đẹp trong xã hội; là tăng chỉ số Phát triển con người (Human Development Index - HDI);
là giảm dần tình trạng đói nghèo; và thực hành công bằng xã hội. Năm 2012, hội thảo
khoa học “Chất lượng cuộc sống của người dân thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh
kinh tế hiện nay” được tổ chức. Trình bày tại hội thảo, tác giả Nguyễn Hữu Nguyên
(2012) cho rằng, CLCS là tổng hòa của nhiều yếu tố trong đời sống vật chất và tinh thần
của con người, với ba nhóm chính gồm: (1) mức sống vật chất: ăn, ở, mặc, đi lại, điều
kiện và cường độ lao động… (2) mức sống tinh thần: trật tự, an toàn xã hội, bình đẳng,
công bằng xã hội, hưởng thụ văn hóa, hưởng thụ giáo dục… và (3) môi trường sinh thái
tự nhiên: khí hậu, thời tiết, mức độ ô nhiễm không khí, nguồn nước, mặt đất, tiếng ồn…
Theo tác giả, cần khảo sát tất cả các nội dung trên mới đủ cơ sở để đánh giá về CLCS.
Tác giả Hồ Bá Thâm (2012) cũng đưa ra một số bàn luận về khái niệm CLCS, các tiêu
chí để đánh giá và kết luận có 11 nhân tố tác động đến CLCS. Tuy nhiên, những bài viết
trên mới chỉ dừng lại ở mức độ gợi mở vấn đề chứ chưa bàn luận sâu vào cơ sở lý thuyết
và bối cảnh thực tế hình thành nên khái niệm.
Liên quan đến việc đo lường CLCS, ở Việt Nam hiện mới chỉ có một vài nghiên
cứu về CLCS của người cao tuổi và trẻ em.
Lê Hải Hà và cộng sự (2012) đã thực hiện một nghiên cứu nhằm xây dựng và
chuẩn hóa thang đo CLCS của người cao tuổi ở Việt Nam trong lĩnh vực y tế công cộng.
Nghiên cứu cho thấy, CLCS là một khái niệm trừu tượng, đa chiều trong đó tổng hợp
nhiều nhân tố khác nhau chứ không chỉ riêng mức sống. Bên cạnh đó, khái niệm CLCS
5
mang tính chủ quan cao do phụ thuộc vào cảm xúc của mỗi cá nhân. Từ kết quả nghiên
cứu định tính như tổng quan tư liệu, phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm, nhóm nghiên cứu
đã xây dựng thang đo CLCS cho người cao tuổi ở Việt Nam trên cơ sở kế thừa có điều
chỉnh công cụ đo lường CLCS của WHO (WHOQOL-100), gồm 6 thành phần: (1) sức
khỏe thể chất, (2) tâm lý xã hội, (3) quan hệ xã hội, (4) môi trường, (5) niềm tin/tín ngưỡng
và (6) kinh tế. Tuy nhiên, kết quả phân tích nhân tố cho thấy, CLCS của người cao tuổi ở
Việt Nam phải được đo lường trong các khía cạnh: (1) sức khỏe thể chất, (2) tinh thần/mối
quan hệ/hỗ trợ trong sinh hoạt, (3) khả năng lao động, (4) môi trường sống, (5) tín
ngưỡng/tâm linh và (6) kinh tế.
Ngô Thanh Huệ, Lê Thị Mai Liên (2013) đã thực hiện một nghiên cứu về CLCS
của trẻ em từ 6-11 tuổi bằng cách tiếp cận tâm lý học. Một nghiên cứu thực nghiệm trên
165 trẻ em từ 6-11 tuổi và phụ huynh thông qua bảng hỏi đánh giá CLCS (AUQUEI và
KINDL-R) nhằm thu thập những đánh giá của trẻ và phụ huynh về những cảm nhận về
cuộc sống của trẻ. Nghiên cứu cũng bước đầu bàn luận những vấn đề về mặt lý thuyết
(khái niệm, nội hàm…) cũng như phương pháp nghiên cứu đối với chủ đề này dưới góc
nhìn của ngành tâm lý học. Theo đó, “CLCS của trẻ tương ứng với mức độ hài lòng của
trẻ trong các khía cạnh khác nhau của cuộc sống bao gồm sự thoải mái về mặt thể chất,
xã hội và tâm lý”. Kết quả bước đầu đã chỉ ra được những lĩnh vực quan trọng trong
nhận thức của trẻ về CLCS mà trẻ có, đó là: mối quan hệ gia đình, bạn bè, môi trường
trường lớp, các hoạt động vui chơi hoặc sở thích. Khía cạnh kinh tế không phải là nhân
tố quan trọng trong nhận thức của trẻ. Ngoài ra nghiên cứu cũng đưa ra những gợi ý về
việc xây dựng các bảng hỏi đánh giá CLCS trẻ em bằng tiếp cận tâm lý học.
Bên cạnh đó, đã có một số nghiên cứu đề cập đến sự hạnh phúc, sự hài lòng với
cuộc sống. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Viện Chính sách và Chiến
lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Viện Khoa học Lao động Xã hội và nhóm nghiên
cứu kinh tế phát triển thuộc trường Đại học Tổng hợp Copenhagen đã thực hiện một
nghiên cứu về “Đặc điểm kinh tế nông thôn Việt Nam”, trong đó vấn đề hạnh phúc, sự
hài lòng của người dân nông thôn với CLCS đã được đề cập tới. Nghiên cứu này bắt đầu
từ năm 2002 và từ 2006 trở lại đây được thực hiện cứ 2 năm 1 lần. Trong lần gần nhất,
năm 2014, nghiên cứu thực hiện điều tra tại 3648 hộ gia đình ở nông thôn tại 12 tỉnh
trong cả nước. Kết quả điều tra cho thấy, 43,9% người được hỏi trả lời là có hạnh phúc
trong cuộc sống (năm 2012 tỷ lệ này là 49,3%). Bên cạnh đó, có mối quan hệ rõ ràng
giữa tình trạng nghèo đói và mức độ hạnh phúc, hài lòng với cuộc sống vì những hộ giàu
thường có mức hài lòng cao hơn trong khi phần lớn hộ nghèo lại không hài lòng. Các
yếu tố tác động tới sự hài lòng của người dân nông thôn về cuộc sống được sắp xếp theo
6
trình tự từ cao đến thấp là (1) sức khỏe, (2) thu nhập, (3) cuộc sống ổn định, (4) kết hôn,
(5) có con, (6) nghề nghiệp, (7) có hàng xóm và bạn bè tốt và (8) tự do (CIEM, 2014).
Kết quả này cho thấy, quan niệm của người dân nông thôn Việt Nam về hạnh phúc khá
đơn giản. Điều này cũng xuất phát từ đặc điểm của người dân nông thôn là rất coi trọng
gia đình, cuộc sống gắn chặt với làng xã, ít va chạm với bên ngoài, có trình độ học vấn
thấp, thu nhập thấp, ít được bảo đảm an sinh xã hội. Đây là một nghiên cứu khá toàn
diện về đặc điểm của nông thôn cũng như cuộc sống của người dân nông thôn Việt Nam
trong những năm qua. Tuy nhiên, nghiên cứu đã không xem xét tới một bộ phận dân cư
thành thị đang ngày càng tăng. Mặt khác, việc đánh giá mức độ hạnh phúc hay hài lòng
với cuộc sống được thực hiện rất đơn giản, chỉ bằng câu hỏi có/không và yêu cầu xếp
hạng các yếu tố ảnh hưởng đến hạnh phúc chứ chưa được thực hiện qua một thang đo
hoàn chỉnh.
Một trong những công trình nghiên cứu có qui mô lớn khác là đề án “Sự hài lòng
về cuộc sống” do nhóm nghiên cứu thuộc trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
- Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện vào năm 2011. Nghiên cứu đã tiến hành điều tra
2400 đối tượng tại 8 xã và 6 phường của 4 tỉnh/thành phố là Hải Dương, Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh và Bình Dương. Bảng hỏi sử dụng các câu hỏi với thang điểm Likert
5 bậc (1= hoàn toàn không hài lòng; 5= rất hài lòng). 22 khía cạnh của sự hài lòng cuộc
sống được đánh giá bao gồm: nghề nghiệp; việc làm; thu nhập; chi tiêu; học vấn; sức
khỏe; đời sống tinh thần; hôn nhân; số con mong muốn; học vấn của con; sức khỏe của
con; công ăn, việc làm của con; hôn nhân, gia đình của con; quan hệ cha mẹ - con cái,
loại nhà, kiểu nhà ở; diện tích nhà ở; tiện nghi gia đình; nước sinh hoạt; quan hệ hàng
xóm; an ninh, trật tự thôn xóm; vệ sinh thôn xóm và cơ sở hạ tầng.
Theo Hoàng Bá Thịnh (2012), bằng phân tích nhân tố khám phá, nghiên cứu đã rút
ra sự hài lòng với cuộc sống của người dân được thể hiện ở 4 thành phần: (1) sự hài lòng
về quan hệ gia đình, con cái; (2) sự hài lòng về cuộc sống của bản thân; (3) sự hài lòng
về điều kiện sinh hoạt của gia đình và (4) sự hài lòng về điều kiện sống nơi cư trú. Bên
cạnh đó, nghiên cứu cũng cho thấy, mức độ hài lòng của người dân Việt Nam cao nhất
ở các lĩnh vực hôn nhân, gia đình, con cái; mức độ hài lòng thấp nhất là về chi tiêu, học
vấn, thu nhập, cơ sở hạ tầng.
Cũng dựa trên dữ liệu của điều tra này, Dương Thị Thu Hương (2012) đã có một
nghiên cứu nhằm xác định các yếu tố tác động đến mức độ hài lòng về đời sống tinh
thần. Bên cạnh phân tích tương quan và so sánh giá trị trung bình, tác giả xây dựng các
mô hình hồi quy đơn biến và đa biến nhằm tìm hiểu ảnh hưởng tác động của các biến
độc lập đến mức độ hài lòng về đời sống tinh thần của người được hỏi. Kết quả cho thấy,
7
không có quá nhiều sự khác biệt hay chênh lệch về mức độ hài lòng về đời sống tinh
thần của những nhóm người khác nhau về đặc điểm nhân khẩu học và đặc điểm xã hội.
Tuy nhiên, yếu tố thực sự có tác động đáng kể đến mức độ hài lòng về đời sống tinh
thần chính là kinh tế của bản thân và gia đình (thu nhập, tài sản), đặc biệt là sự hài lòng
về thu nhập.
Đây là cuộc điều tra quy mô lớn đầu tiên về sự hài lòng của người dân về cuộc
sống ở Việt Nam. Tuy nhiên, cơ sở lý thuyết để xây dựng thang đo sự hài lòng về cuộc
sống chưa được nghiên cứu làm rõ. Các khía cạnh của sự hài lòng mới chỉ tập trung vào
các vấn đề hết sức cơ bản, có liên quan mật thiết đến cuộc sống hàng ngày của người
dân và được đo lường đơn chiều qua một chỉ báo. Đây là một nhược điểm lớn của nghiên
cứu này.
Mặc dù những nghiên cứu về CLCS trên thế giới là rất phong phú và đa dạng,
nhưng những nghiên cứu về CLCS ở nước ta hiện còn rất hạn chế. CLCS của Việt Nam
mới chỉ được quốc tế đánh giá và so sánh trên bình diện thế giới. Ở tầm quốc gia, chúng
ta mới dừng lại ở những cuộc luận bàn, trao đổi về khái niệm. Một số nghiên cứu khác
mới chỉ xem xét một phần của CLCS như sự hài lòng với cuộc sống hay đo lường CLCS
của từng nhóm người riêng biệt như trẻ em, người cao tuổi dưới góc độ tâm lý học, y
tế... Bản thân khái niệm và nội hàm của khái niệm CLCS ở Việt Nam hiện chưa được
làm rõ. Chính vì khái niệm chưa rõ ràng nên việc đo lường và đánh giá CLCS ở Việt
Nam cũng mơ hồ, tùy thuộc vào ý muốn chủ quan của người đánh giá. Các chỉ tiêu đo
lường CLCS nằm rải rác và không có hệ thống nên không cho phép đánh giá một cách
toàn diện về CLCS. Đây chính là khoảng trống nghiên cứu về CLCS ở Việt Nam.
Xuất phát từ cơ sở thực tiễn về mặt chính sách và khoảng trống nghiên cứu, việc
thực hiện luận án “Phương pháp xây dựng và tính chỉ số tổng hợp đánh giá chất lượng
cuộc sống ở Việt Nam” là hoàn toàn cần thiết. Luận án sẽ đáp ứng được về mặt lý luận
khi đề xuất được phương pháp xây dựng và tính chỉ số tổng hợp đánh giá CLCS ở Việt
Nam, đồng thời đáp ứng về mặt thực tiễn, khi là cơ sở thực hiện so sánh, đánh giá để
thấy được sự thay đổi, phát triển CLCS của người dân qua thời gian và không gian.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là trên cơ sở xác định khung khái niệm về CLCS,
xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS và phương pháp tính chỉ số tổng
hợp CLCS nhằm phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã hội và hoạt động
so sánh, đánh giá CLCS ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích trên, luận án phải trả lời được các câu hỏi nghiên cứu sau:
8
- Nghiên cứu về CLCS ở Việt Nam nên được thực hiện theo hướng nào?
- Khái niệm CLCS ở Việt Nam được hiểu như thế nào? Cấu trúc của khái niệm
CLCS bao gồm những thành phần gì?
- Hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS ở Việt Nam được xây dựng như thế
nào và sẽ bao gồm những chỉ tiêu gì?
- Chỉ số tổng hợp CLCS được xây dựng theo phương pháp luận nào? Trọng số và
phương pháp tổng hợp chỉ số được xác định như thế nào?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án là CLCS ở Việt Nam, hệ thống chỉ
tiêu thống kê đo lường CLCS và chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam.
Cụ thể hơn, phạm vi nghiên cứu về nội dung của luận án được xác định dựa trên
mục đích nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu như đã nêu. Trong đó, luận án sẽ tập trung
làm rõ cơ sở lý luận của CLCS để từ đó lựa chọn khái niệm CLCS phù hợp với bối cảnh
KTXH của Việt Nam hiện nay. Tiếp theo, luận án sẽ lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thống
kê đo lường CLCS ở Việt Nam. Đây là cơ sở để luận án đề xuất phương pháp tính chỉ
số tổng hợp đánh giá CLCS.
Tuy nhiên, do CLCS là một chủ đề nghiên cứu lớn trong khi nguồn số liệu còn
nhiều hạn chế nên luận án chỉ giới hạn trong đo lường khía cạnh khách quan mà tạm
thời chưa xem xét đến việc đo lường khía cạnh chủ quan của CLCS.
Số liệu năm 2016 sẽ được thu thập nhằm phục vụ cho việc tính thử nghiệm chỉ số
tổng hợp CLCS ở cấp quốc gia.
4. Phương pháp nghiên cứu
Do đây là một trong những vấn đề mới, chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam
nên phương pháp nghiên cứu định tính bao gồm tổng quan tài liệu và phỏng vấn chuyên
gia được sử dụng xuyên suốt nhằm tìm hiểu, khám phá vấn đề.
Phương pháp tổng quan tài liệu được sử dụng nhằm tìm hiểu các lý luận cơ bản về
CLCS ở trong nước và trên thế giới, cụ thể: các cách tiếp cận nghiên cứu CLCS; các
quan điểm và các tranh luận xung quanh khái niệm CLCS; các thành phần của CLCS;
cách thức đo lường CLCS; hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS; phương pháp
tính chỉ số tổng hợp; …
Phương pháp phỏng vấn chuyên gia được thực hiện thành hai giai đoạn.
9
Giai đoạn 1, song song với quá trình tổng quan tài liệu, tác giả thực hiện phỏng vấn
sâu 10 chuyên gia trong trong các lĩnh vực xã hội, dân số và phát triển, thống kê, nghiên
cứu chính sách… nhằm xác định hướng tiếp cận nghiên cứu CLCS; khái niệm CLCS cũng
như cấu trúc của khái niệm này ở Việt Nam. Ngoài ra, các vấn đề cơ bản liên quan đến đo
lường CLCS, xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS và phương pháp tính
chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam cũng được tham vấn ý kiến chuyên gia.
Giai đoạn 2, áp dụng trong quá trình xây dựng và tính chỉ số tổng hợp CLCS ở
Việt Nam. Phương pháp phỏng vấn chuyên gia được thực hiện nhằm xác định trọng số
cho các chỉ số thành phần của chỉ số tổng hợp CLCS. Do CLCS là vấn đề rộng, có liên
quan đến nhiều đối tượng, nhiều lĩnh vực nên tác giả đã gửi bảng hỏi (qua phiếu giấy
hoặc phiếu điện tử) tới hơn 100 chuyên gia là những nhà nghiên cứu, giảng viên, nhà
quản lý, công chức, tư vấn chính sách… đang công tác ở các viện, trung tâm nghiên cứu,
trường đại học, các Bộ, ngành, tổ chức quốc tế… Tuy nhiên, chỉ có 54 chuyên gia gửi
phản hồi trong đó có 02 ý kiến trả lời không hợp lệ. Phiếu phỏng vấn chuyên gia được
thiết kế bao gồm các câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Các câu hỏi đóng giúp cho việc tổng
hợp thông tin được dễ dàng, đảm bảo so sánh giữa các ý kiến trả lời. Các câu hỏi mở
giúp tác giả thu nhận thêm nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau, giúp cho việc đánh giá
CLCS được chính xác hơn.
Bên cạnh đó, luận án còn sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp để thu
thập thông tin phục vụ cho việc tính thử nghiệm chỉ số tổng hợp CLCS. Dữ liệu được
thu thập từ nhiều nguồn chính thức khác nhau như các cuộc điều tra thống kê, chế độ
báo cáo tổng hợp … của Tổng cục Thống kê, các Bộ, ngành và các cơ quan, tổ chức
khác. Đây đều là những nguồn dữ liệu có uy tín để đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy
của dữ liệu.
Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu được áp dụng trong tính thử nghiệm chỉ
số tổng hợp CLCS bao gồm: phương pháp chuẩn hóa dữ liệu, phương pháp tính số trung
bình, phương pháp kiểm định giả thuyết thống kê...
Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp so sánh, đánh giá trong nghiên cứu sự
ảnh hưởng của các thành phần đến CLCS nói chung.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án được thực hiện với mong muốn lấp đầy một góc nhỏ trong khoảng trống
nghiên cứu lớn về CLCS ở Việt Nam. Những đóng góp tri thức mới của luận án về lý
luận bao gồm: