Phát triển đội ngũ tri thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh lạng sơn thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

  • 109 trang
  • file .pdf
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời đại hiện nay là thời đại khoa học công nghệ, kinh tế tri thức và hội
nhập quốc tế đang phát triển mạnh mẽ. Đặc trưng nổi bật của thời đại này là
phát triển chủ yếu dựa vào tri thức và ứng dụng khoa học - công nghệ cao,
hiện đại vào quá trình sản xuất để tạo ra năng suất, hiệu quả cao và nâng cao
năng lực cạnh tranh của mỗi nhà sản xuất cũng như của quốc gia. Trong điều
kiện ấy, đội ngũ trí thức - với trình độ cao và khả năng sáng tạo ra những tri
thức mới, giá trị mới; với vai trò, trách nhiệm hướng dẫn, chuyển giao ứng
dụng khoa học - công nghệ cho xã hội trở thành lực lượng hết sức quan trọng
và cần thiết đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Do vậy, hiện nay đang
diễn ra sự cạnh tranh gay gắt để giành giật nguồn nhân lực chất lượng cao
giữa các nhà sản xuất và giữa các quốc gia trên tất cả các lĩnh vực.
Nhận thức rõ điều này nên tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Đảng ta coi phát triển nhanh nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước từ nay đến năm 2015. Đảng
ta khẳng định: “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp
ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong
hoạt động nghiên cứu sáng tạo. Trọng dụng trí thức,... có chính sách đặc biệt
đối với nhân tài của đất nước... Gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với
trí thức, giữa trí thức với Đảng, Nhà nước” [21, tr.241-242].
Quán triệt quan điểm của Đảng, những năm qua Lạng Sơn đã chú ý
đến phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ trí thức của tỉnh. Song
việc đầu tư cho lĩnh vực này chưa thoả đáng.
Là một tỉnh nằm ở cửa ngõ trọng yếu phía Bắc của Tổ quốc, bước
vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Lạng Sơn đang có những điều
1
kiện và cơ hội phát triển thuận lợi. Xu thế mở cửa hội nhập với các nước
trên thế giới và các nước trong khu vực ngày càng được đẩy mạnh. Quan
hệ hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam - Trung Quốc và các nước ASEAN
tiếp tục được củng cố và phát triển. Do đó triển vọng hợp tác, giao lưu
kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật… sẽ mở ra rất lớn, tạo điều kiện cho
Lạng Sơn thu hút các nguồn lực từ bên ngoài, đồng thời có cơ hội để phát
triển nhanh chóng các ngành công nghiệp, thương mại, du lịch, nhất là
phát triển kinh tế cửa khẩu.
Bên cạnh những lợi thế, cơ hội và điều kiện phát triển trên, Lạng
Sơn cũng đang đứng trước nhiều trở lực, thách thức. Nền kinh tế vẫn chủ
yếu là sản xuất nhỏ; công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế diễn ra với tốc độ chậm, năng lực cạnh tranh còn yếu kém,
nguồn nhân lực chất lượng còn thấp...
Để tận dụng được lợi thế phát triển và vượt qua được những khó
khăn thách thức, tất yếu Lạng Sơn phải phát triển nhanh nguồn nhân lực
chất lượng cao, mà trong đó, chủ lực là đội ngũ trí thức.
Song do đặc thù là một tỉnh miền núi có đông đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống, (hiện nay người dân tộc thiểu số chiếm 85% dân số
toàn tỉnh), và trí thức là người dân tộc thiểu số chiếm 48,1% tổng số trí
thức toàn tỉnh, trong đó nhiều người đang giữ những vị trí lãnh đạo, quản
lý chủ chốt trong các lĩnh vực của tỉnh, nên việc phải coi trọng phát triển
nhanh đội ngũ trí thức nói chung, đặc biệt là đội ngũ trí thức người dân
tộc thiểu số của tỉnh nói riêng trở thành yêu cầu cấp bách hiện nay đối với
Lạng Sơn.
Mặc dù chiếm gần một nửa tổng số trí thức toàn tỉnh, song số lượng
của đội trí thức người dân tộc thiểu số còn ít, nhất là trí thức có trình độ
từ thạc sĩ trở lên. Hiện nay, tỉnh chỉ có duy nhất một tiến sỹ là người dân
tộc thiểu số. Mặt khác, chất lượng của đội ngũ này về cơ bản chưa đáp
2
ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở Lạng Sơn.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Phát triển đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá" làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
đội ngũ trí thức với nhiều khía cạnh, trong đó có một số công trình khoa học
đã đề cập đến các góc độ mà đề tài cần tham khảo và kế thừa. Một số công
trình tiêu biểu đó là:
- Phạm Tất Dong (chủ biên): “Trí thức Việt Nam: thực tiễn và triển
vọng”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Đây là một công trình nghiên
cứu khá công phu, sâu sắc về đội ngũ trí thức Việt Nam. Các tác giả đã phân
tích quan niệm về trí thức. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng về số lượng, cơ
cấu… tâm trạng, nguyện vọng của đội ngũ trí thức, các tác giả đã đưa ra một
số khuyến nghị nhằm phát triển đội ngũ trí thức nước ta hiện nay.
- Phạm Tất Dong (chủ biên): “Định hướng phát triển đội ngũ trí thức
Việt Nam trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001. Các tác giả đã trình bày tổng quát những yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đối với đội ngũ trí thức nước ta, đồng
thời làm rõ vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức trong công cuộc xây dựng
nền kinh tế - xã hội hiện đại, góp phần sáng tạo văn hoá, giữ gìn nền tảng tinh
thần của xã hội, phát huy bản sắc dân tộc trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá; phân tích tương đối toàn diện thực trạng của đội ngũ trí thức
nước ta hiện nay, từ đó đề xuất những định hướng, chính sách xây dựng đội
ngũ trí thức Việt Nam trong những năm tới.
- Nguyễn Quốc Bảo - Đoàn Thị Lịch: “Trí thức trong công cuộc đổi
mới đất nước”, Nxb Lao động, Hà Nội, 1998. Thông qua tác phẩm, các tác
3
giả đã khái quát tình hình biến đổi của trí thức Việt Nam trong công cuộc đổi
mới; phân tích những ưu điểm, hạn chế của họ, trên cơ sở đó đề ra những giải
pháp nhằm xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới
đất nước.
- Trịnh Quang Cảnh: “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức người dân tộc
thiểu số ở nước ta trong sự nghiệp cách mạng hiện nay”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2005. Tác giả đã nghiên cứu khá công phu, sâu sắc về đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số trên phạm vi cả nước trong sự nghiệp cách mạng;
đồng thời đề xuất những giải pháp để phát huy hiệu quả vai trò của đội ngũ
này ở Việt Nam hiện nay.
- Nguyễn Đắc Hưng: “Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất
nước”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Tác giả làm rõ khái niệm,
nguồn gốc sự hình thành, vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong
thế kỷ XXI; nêu một số vấn đề đặt ra cho đội ngũ trí thức Việt Nam; đồng
thời đề xuất phương hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong tình
hình mới.
- Nguyễn Thanh Tuấn: “Một số vấn đề về trí thức Việt Nam”, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. Tác giả đã phân tích những đặc trưng chung
của trí thức với tư cách là một tầng lớp xã hội đặc thù; khái quát sự hình
thành, phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử;
từ đó, đề xuất một số phương hướng đổi mới công tác quản lý và xây dựng
chính sách đối với trí thức nước ta hiện nay.
- Ngô Huy Tiếp: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với trí
thức nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. Tác giả đã
phân tích phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với đội ngũ
trí thức, từ đó phân tích thực trạng phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
đội ngũ trí thức nước ta từ năm 1996 đến nay. Từ sự phân tích đó, tác giả đã
4
nêu ra mục tiêu, phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức.
- Bùi Thị Ngọc Lan: “Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã phân tích, làm rõ vai
trò của nguồn lực trí tuệ - bộ phận cơ bản làm nên chất lượng của nguồn nhân
lực, đồng thời đánh giá thực trạng của nguồn lực trí tuệ Việt Nam, từ đó đưa
ra các giải pháp cơ bản nhằm phát huy và sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn
lực đó trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
- Ngô Thị Phượng: “Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt
Nam trong sự nghiệp đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007. Tác
giả đã phân tích, làm rõ vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân
văn trong sự nghiệp đổi mới. Trong đó, tác giả phân tích rõ những thành tựu,
hạn chế của ngũ trí thức này trong sự nghiệp đổi mới đất nước, từ đó đề xuất
những quan điểm và các giải pháp để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức
khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài những công trình khoa học nêu trên, một số bài viết tiêu biểu về
đội ngũ trí thức được đăng tải trên các tạp chí như:
- Tạp chí Cộng sản, tháng 11/1999 "Bài học từ những quan điểm của chủ
nghĩa Mác về trí thức" trong cuốn "Học thuyết Mác với sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003 của PGS.TS. Phan Thanh
Khôi... Trong đó, tác giả đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề: bản chất giai cấp của
trí thức, chính sách sử dụng các chuyên gia tư sản, cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí
thức mới, xây dựng khối liên minh công - nông - trí, các giải pháp phát huy vai
trò của trí thức...
Bên cạnh đó, một số Luận án tiến sĩ đã nghiên cứu về vị trí, vai trò, đặc
điểm, động lực sáng tạo của trí thức trong quá trình cách mạng Việt Nam như:
"Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin trong các trường Đại học ở
nước ta hiện nay" của Phạm Văn Thanh, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội,
5
2001; "Phát huy vai trò nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong
quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Đình Minh, Luận án tiến
sĩ triết học, Hà Nội, 2003; "Vai trò của trí thức Thủ đô Hà Nội trong sự
nghiệp CNH, HĐH" của Nguyễn Xuân Phương, Luận án tiến sĩ triết học, Hà
Nội, 2004...
Dưới góc độ của tỉnh, nhận thức rõ sự cần thiết phải phát triển nguồn
nhân lực, những năm qua, tỉnh Lạng Sơn cũng đã ra một số văn bản quan
trọng có liên quan đến vấn đề này như:
- Định hướng quy hoạch tổng thể tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2001 - 2010.
- Quy hoạch tổng thể tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2010- 2020
- Quy hoạch phát triển giáo dục - đào tạo tỉnh Lạng Sơn đến năm 2010.
- Dự án đào tạo, bồi dưỡng, thu hút nguồn nhân lực tỉnh Lạng Sơn (giai
đoạn 2001- 2010).
- Quyết định số 04/2002/QĐ- UB về việc điều chỉnh mức hỗ trợ cho
cán bộ được cử đi học.
Các văn bản này một mặt khẳng định tầm quan trọng của việc phát
triển nguồn nhân lực nói chung, đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ trí thức
của tỉnh thông qua các chính sách phát triển giáo dục - đào tạo, chính sách sử
dụng và chế độ đãi ngộ đối với trí thức, song chưa có một văn bản nào bàn
riêng về trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh.
Như vậy, mặc dù đã nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đội ngũ
trí thức, song có thể khẳng định cho đến nay chưa có một công trình khoa học
nào nghiên cứu trực tiếp đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành
Chủ nghĩa xã hội khoa học với mong muốn góp phần vào việc xây dựng đội
ngũ trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của tỉnh.
6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở làm rõ những yếu tố tác động và thực trạng, vai trò của đội
ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn, luận văn đề xuất những
quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ này đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh.
* Nhiệm vụ của luận văn:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Trình bày một cách khái quát lý luận cơ bản về đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số, phân tích những đặc điểm cơ bản và vai trò của đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn.
+ Tìm hiểu những yếu tố tác động và đánh giá thực trạng đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số của tỉnh Lạng Sơn thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
+ Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát triển
đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở Tỉnh Lạng Sơn thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn:
Luận văn nghiên cứu đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh
Lạng Sơn thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn nghiên cứu đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh
Lạng Sơn trong khoảng thời gian từ Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng
sản Việt Nam (1996) đến nay - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
7
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận, thực tiễn của luận văn:
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam
về trí thức.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá của đất nước và của tỉnh Lạng Sơn; đồng thời là đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số ở tỉnh hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu của luận văn:
- Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê và điều tra xã hội học.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ thực trạng và vai trò của đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn hiện nay.
- Đề xuất một hệ thống quan điểm, giải pháp cơ bản phát triển đội
ngũ trí thức người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
của tỉnh.
- Luận văn cung cấp những cứ liệu thực tế về đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn và có thể được các cấp uỷ Đảng, chính
quyền của tỉnh tham khảo trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách
đối với đội ngũ trí thức này của tỉnh, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu
và giảng dạy những chuyên đề liên quan đến trí thức trong các môn lý luận
chính trị Mác-Lênin nói chung và môn Chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng.
8
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết:
Chƣơng 1: Trí thức người dân tộc thiểu số và mối quan hệ giữa phát
triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số với công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở tỉnh Lạng Sơn.
Chƣơng 2: Thực trạng và xu hướng phát triển đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chƣơng 3: Quan điểm và giải pháp phát triển đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
9
Chƣơng 1
TRÍ THỨC NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
VỚI CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH LẠNG SƠN
1.1. Trí thức và trí thức ngƣời dân tộc thiểu số
1.1.1. Quan niệm về trí thức
Hiện nay có khá nhiều định nghĩa khác nhau về trí thức, bởi vì, trong
từng giai đoạn phát triển của lịch sử, vị trí, vai trò của trí thức cũng có những
thay đổi rất đa dạng. Hơn nữa từ những cách tiếp cận khác nhau nên có thể
đưa ra những định nghĩa khác nhau về trí thức.
Theo quan niệm của Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa X: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ
học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập,
sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và
vật chất, có giá trị đối với xã hội” [20, tr.64].
Từ khái niệm này, ta thấy trí thức có một số đặc điểm nổi bật (những
đặc điểm này đã được nhiều công trình khoa học đi trước phân tích làm rõ, do
vậy, luận văn kế thừa và không đi sâu phân tích). Đó là:
Một là, lao động của trí thức thuộc loại lao động trí óc phức tạp,
sáng tạo. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của trí thức, lao động trí óc phức tạp
sáng tạo được trí thức thực hiện trong quá trình lao động, đồng thời là dấu
hiệu quan trọng để phân biệt trí thức với các lực lượng lao động khác trong
xã hội.
Lao động trí óc phức tạp, sáng tạo của người trí thức mang đậm dấu
ấn cá nhân và có tính độc lập cao. Sản phẩm lao động trí tuệ phức tạp của
trí thức là các giá trị lý luận, lý thuyết, các công trình khoa học… trong các
lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, văn học, nghệ
10
thuật, lãnh đạo, quản lý… Những tri thức khoa học, những sản phẩm tinh
thần mà người trí thức sáng tạo ra thường có ý nghĩa định hướng cho hoạt
động nhận thức, hoạt động thực tiễn góp phần thúc đẩy xã hôị phát triển.
Hai là, trí thức là những người có trình độ học vấn cao, trình độ
chuyên môn sâu và vững vàng.
Chính hoạt động lao động trí óc phức tạp, sáng tạo đòi hỏi trí thức
phải có trình độ học vấn cao và cần phải được trang bị kiến thức sâu về
chuyên môn, chuyên ngành, thường là đạt trình độ từ cao đẳng, đại học trở
lên. Đây là một trong những điều kiện cơ bản để đảm bảo cho hoạt động trí
tuệ diễn ra một cách thuận lợi, những kiến thức đó không chỉ được trang bị
trong nhà trường mà chủ yếu là kết quả của quá trình tự đào tạo, rèn luyện,
nghiên cứu và nỗ lực phấn đấu không ngừng mới thành.
Ba là, trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt và không có hệ tư
tưởng độc lập.
Khi nghiên cứu về trí thức, V.I.Lênin chỉ ra rằng: trí thức là một tầng
lớp xã hội đặc biệt. Tính chất “đặc biệt” của tầng lớp trí thức biểu hiện ở chỗ
trí thức không có quan hệ riêng và trực tiếp đối với sở hữu tư liệu sản xuất.
Do vậy trí thức không phải là một giai cấp độc lập mà chỉ là một tầng lớp xã
hội. Với tư cách là một tầng lớp xã hội, trí thức luôn gắn liền và đi theo phục
vụ một giai cấp nhất định. Do đó, về mặt tư tưởng, đội ngũ trí thức không có
hệ tư tưởng độc lập đại diện cho hệ tư tưởng của tầng lớp mình.
Nhưng do đặc thù lao động là loại lao động trí tuệ phức tạp sáng tạo,
nên trí thức có khả năng tổng kết, khái quát thực tiễn thành lý luận để xây
dựng hệ tư tưởng cho giai cấp cầm quyền. Do vậy, trong hầu hết mọi thời
đại, trí thức đều được giai cấp thống trị trọng dụng.
Bốn là, về quá trình hình thành trí thức vô sản
Sau khi tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và bắt
tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo
11
của Đảng cộng sản phải xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức của mình
bằng cách sử dụng, cải tạo đội ngũ trí thức của các chế độ cũ; đồng thời
phát triển đội ngũ trí thức mới của giai cấp công nhân, nhất là đào tạo mới
từ con em lao động, trong đó, nhiệm vụ xây dựng, phát triển đội ngũ trí
thức mới là cơ bản.
Trí thức vô sản có nhân sinh quan và thế giới quan Mácxít, gắn bó
với nhân dân lao động. Đó là cơ sở để khắc phục dần những hạn chế của trí
thức và đồng thời có điều kiện phát huy vai trò ngày càng cao trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Quan niệm về trí thức người dân tộc thiểu số và phát triển đội
ngũ trí thức người dân tộc thiểu số
- Về khái niệm
“Trí thức người dân tộc thiểu số” có những đặc điểm của trí thức nói
chung và là thuật ngữ dùng để chỉ một đối tượng trí thức đặc thù, với tiêu chí
cơ bản là có nguồn gốc xuất thân từ các dân tộc thiểu số so với dân tộc đa số
(chiếm số đông trong dân cư) của một quốc gia.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, dân tộc thiểu số là: “dân tộc có số
dân ít có thể là hàng trăm, hàng ngàn cho đến hàng triệu người cư trú trong
một quốc gia thống nhất có nhiều dân tộc, trong đó có một dân tộc có số dân
đông. Trong các quốc gia có nhiều thành phần dân tộc, mỗi dân tộc thành viên
có hai ý thức: ý thức về tổ quốc chung và ý thức về dân tộc mình. Những dân
tộc thiểu số có thể cư trú tập trung hoặc rải rác xen kẽ, thường ở những vùng
ngoại vi, vùng hẻo lánh, vùng điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Vì vậy, các
nhà nước tiến bộ thường thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc nhằm xoá bỏ
dần những chênh lệch trong sự phát triển kinh tế - xã hội giữa dân tộc đông
người và dân tộc thiểu số” [57, tr.655].
12
Như vậy, nét đặc thù của các dân tộc thiểu số là có số dân ít, cư trú
trong một quốc gia thống nhất, trong quốc gia đó có thể có 2, 3, 4 thậm chí
hàng chục dân tộc thiểu số. Chẳng hạn, như ở Việt Nam, Trung Quốc...
Dân tộc thiểu số có số dân ít song có tiếng nói riêng và có thể có chữ
viết riêng. Số dân của các dân tộc thiểu số có thể nhiều ít khác nhau, nhưng
mỗi dân tộc có bản sắc văn hoá riêng, góp phần tạo nên sự phong phú, đa
dạng của văn hoá Việt Nam. Ở nước ta, theo cách phân loại hiện nay có 54
thành phần tộc người, trong đó người Kinh được xem là dân tộc đa số, 53 tộc
người còn lại được xem là dân tộc thiểu số.
Khái niệm trí thức người dân tộc thiểu số được dùng khi so sánh với
khái niệm trí thức dân tộc đa số và được xem xét trên phạm vi toàn quốc, mặc
dù trong không gian hẹp (tỉnh, huyện, xã), có khi một dân tộc thiểu số nào đó
lại chiếm số đông.
Như vậy, trí thức người dân tộc thiểu số là những người xuất thân
từ các dân tộc ít người trong một quốc gia, họ là những người lao động
chủ yếu bằng phương thức lao động trí óc, có hiểu biết sâu rộng, có
trình độ từ cao đẳng, đại học và trên đại học, có năng lực sáng tạo, có
trình độ phát triển về trí tuệ, nhạy bén với những biến đổi của xã hội.
- Quan niệm về phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số
Phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số là quá trình làm
tăng lên về số lượng, chất lượng và xây dựng cơ cấu hợp lý làm tăng
nguồn lao động trí óc là người dân tộc thiểu số, nhằm đáp ứng ngày càng
tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là ở vùng núi, vùng dân
tộc thiểu số.
Phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số không phải là quan
điểm hay khái niệm trừu tượng mà gắn với phát triển về trình độ nhận thức,
về năng lực tư duy và trí tuệ của mỗi con người cụ thể. Đúng như C.Mác nói,
con người là yếu tố quan trọng nhất, cách mạng nhất trong các yếu tố cấu
13
thành lực lượng sản xuất. Người lao động trong lực lượng sản xuất phải là con
người ngày càng được phát triển cao về trí tuệ, khỏe mạnh về thể chất, trong
sáng về đạo đức, linh hoạt và văn minh trong ứng xử, có kinh nghiệm trong
sản xuất và có kỹ năng lao động cao. Do đó, phát triển đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số có mối quan hệ biện chứng với phát triển nguồn lực con
người. Vì, phát triển nguồn lực con người là quá trình phát triển toàn diện con
người cả về thể lực, trí lực, cả khai thác, sử dụng, tái tạo và phát triển tiềm
năng, năng lực của mỗi người, của cả cộng đồng người nhằm đóng góp nhiều
nhất vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, và quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
1.2. Mối quan hệ giữa phát triển đội ngũ trí thức ngƣời dân tộc
thiểu số với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Lạng Sơn
1.2.1. Đặc điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh và yêu cầu
đặt ra đối với việc phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở
tỉnh Lạng Sơn
Vài nét khái quát về tỉnh Lạng Sơn và đặc điểm công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của tỉnh
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi, giáp biên với Trung Quốc, tập trung
chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống (85% cư dân là người dân
tộc thiểu số). Trước năm 1990, do điều kiện địa lý, núi đồi hiểm trở, quanh
co, giao thông chưa phát triển nên Lạng Sơn là một tỉnh nghèo, lạc hậu, kinh
tế kém phát triển, trình độ dân trí thấp. Từ khi đổi mới đến nay, cùng với cả
nước. Lạng Sơn cũng đang tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Xét về điều kiện tự nhiên, Lạng Sơn là một tỉnh miền núi thuộc Đông
Bắc của tổ quốc. Phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía Nam giáp tỉnh Bắc
Giang, phía Đông Bắc giáp Trung Quốc, phía Đông Nam giáp tỉnh Quảng
Ninh, phía Tây Bắc giáp tỉnh Bắc Cạn, phía Tây Nam giáp tỉnh Thái Nguyên.
14
Lạng Sơn có nhiều tuyến đường quan trọng như tuyến đường nối liền với
Thủ đô Hà Nội (1A) và Cao Bằng (4A); nối với Quảng Ninh (3B); tuyến đường
sắt Hà Nội - Đồng Đăng - Bắc Kinh và các nước Châu Âu qua địa phận Lạng
Sơn. Lạng Sơn có đường biên giới với Trung Quốc dài 253 km (5 huyện và 21
xã biên giới), có 2 cửa khẩu quốc tế (Hữu Nghị, Ga Đồng Đăng), 2 cửa khẩu
quốc gia (Bình Nghi, Chi Ma) và 7 cặp chợ đường biên. Do là tỉnh miền núi, nên
Lạng Sơn có nhiều núi đá vôi (chiếm 14% diện tích) và nguồn khoáng sản khá
phong phú (quặng sắt, nhôm, bôxít, alít...). Đây là điều kiện thuận lợi để phát
triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng và công nghiệp khai khoáng, nhiệt
điện. Điều kiện khí hậu ẩm, ôn hòa và mát mẻ, rất thuận lợi cho phát triển du lịch
và nông nghiệp. Đây là điều kiện tự nhiên rất quan trọng để Lạng Sơn thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bên cạnh những thuận lợi đó, Lạng Sơn cũng gặp nhiều khó khăn.
Đó là, mặc dù người dân tộc thiểu số chiếm đa số trong dân cư của tỉnh,
song nhìn chung trình độ còn thấp, chưa có truyền thống sản xuất hàng
hóa và kinh doanh thương mại. Một bộ phận người dân có lối sống thụ
động và còn phụ thuộc vào khai thác tự nhiên. Nguồn tài nguyên phong
phú, đa dạng nhưng còn ở dạng tiềm năng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
chậm; chưa xác định được ngành, nghề mũi nhọn, đột phá trong từng
vùng, huyện, thị xã; quy mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, năng xuất lao động
thấp, giá thành sản phẩm cao. Quản lý nhà nước về du lịch và công tác
quảng bá du lịch còn hạn chế. Hoạt động xuất khẩu chưa trở thành động
lực thúc đẩy sản xuất phát triển, chủ yếu thực hiện gia công hàng hóa. Thị
trường nông thôn phát triển chưa đồng đều. Đầu tư xây dựng dàn trải, cơ
cấu chưa hợp lý, tỷ trọng đầu tư phát triển sản xuất thấp; thực hiện một số
chương trình dự án chậm. Như vậy, muốn khai thác cần có vốn đầu tư, có
khoa học công nghệ và đặc biệt là phải có nguồn nhân lực tương xứng,
trong đó vai trò của trí thức rất quan trọng.
15
Những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương và của
Đảng bộ tỉnh, nhân dân Lạng Sơn đã đoàn kết, nhất trí, khắc phục khó khăn,
phát huy những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, huy động nội
lực, tranh thủ ngoại lực, từng bước đưa Lạng Sơn thoát nghèo, tạo “thế và
lực” mới trong hội nhập và phát triển. Vì vậy, cùng với cả nước, Lạng Sơn
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà trọng tâm cấp bách là phải công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giải quyết một cách hợp lý
mối quan hệ giữa nông nghiệp - công nghiệp - thương mại - du lịch và dịch
vụ. Do vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Lạng Sơn hiện nay có những đặc
điểm sau:
Thứ nhất, trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Lạng Sơn tập trung chủ yếu vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn.
Trước yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, nước ta phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Thực hiện mục tiêu đó, Đại hội Đảng lần thứ X
của Đảng đã chỉ rõ: “... Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới... tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [19, tr.76].
Vận dụng quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng đề ta, Đại hội tỉnh
Đảng bộ lần thứ XIII của Lạng Sơn đã xây dựng chương trình, mục tiêu
nhiệm vụ, giải pháp nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn của tỉnh:
Tiếp tục giữ vững và phát huy sức mạnh đoàn kết nội bộ, thống nhất
trong Đảng, đoàn kết nhân dân các dân tộc trong tỉnh, khai thác có hiệu quả
mọi nguồn lực, tập trung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn, bảo đảm khai thác có hiệu quả các lợi thế, tiềm năng kinh
tế của địa phương, nhất là đất đai, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng,
16
chăn nuôi... đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, sớm đưa Lạng Sơn phát triển và
hội nhập [55, tr.120].
Vì vậy, từ năm 1990 đến nay được sự quan tâm của Trung ương, lãnh
đạo tỉnh và các cấp, các ngành hữu quan, ngành nông nghiệp Lạng Sơn đã có
chuyển biến rõ nét. Trong những năm đầu mới mở cửa khẩu, ngành nông
nghiệp Lạng Sơn chủ yếu sản xuất theo hướng tự cung tự cấp, tình trạnh thiếu
lương thực, thực phẩm, mất cân đối trong các sản phẩm nông nghiệp diễn ra
thường xuyên. Đặc biệt do đặc thù của một tỉnh miền núi nên có nhiều dân tộc
sinh sống và chủ yếu là làm nông nghiệp, hầu hết trình độ dân trí thấp, không
bắt kịp với tiến bộ khoa học kỹ thuật... nên sản xuất còn phụ thuộc vào tự nhiên.
Trước tình trạng đó, Lạng Sơn đã tiến hành khai hoang, cải tạo đồng
ruộng, chuyển đổi cơ cấu giống, áp dụng khoa học - kỹ thuật tiên tiến vào sản
xuất để tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. Đồng thời phát triển nông nghiệp,
nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa. Trong sản xuất lương thực, Lạng
Sơn tập trung chủ yếu vào cây lúa, ngô. Cùng với mở rộng diện tích, trình độ
thâm canh lúa của nông dân cũng được nâng cao nhờ áp dụng khoa học - kỹ
thuật, đặc biệt đưa giống mới vào canh tác. Bên cạnh đó, chú trọng phát triển
các cây công nghiệp như hồi, mía, sắn, vừng đen, vừng trắng,... cây ăn quả
theo mùa vụ như: na, quýt, lê, hồng Bảo Lâm... Đến nay về cơ bản, nhân dân
trong tỉnh đã thoát khỏi cảnh đói nghèo, đồng thời tạo ra sản phẩm có giá trị
kinh tế cao... tạo việc làm cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo
cho đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh.
Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Lạng Sơn diễn ra với tốc độ
chậm, quy mô nhỏ bé, sử dụng công nghệ, trang thiết bị lạc hậu là phổ biến
Những năm qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Lạng Sơn đã đạt được
những thành tựu bước đầu đáng kể. Tổng sản phẩm (GDP) bình quân hàng
năm tăng 13% (giai đoạn 2000 - 2005); tỷ trọng công nghiệp, xây dựng tăng
từ 11,23% lên 15,32%, thương mại dịch vụ tăng từ 27,02% lên 32,21%, nông
17
- lâm sản từ 33,31% giảm còn 30,33%. Thu ngân sách nhà nước đạt 298 tỷ
đồng/năm [60].
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Lạng Sơn tập trung theo hướng sản xuất
hàng hóa và có những chuyển biến tích cực. Công nghiệp xây dựng tăng trưởng
cao, nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp được xây dựng mới, mở rộng về quy mô.
Một số doanh nghiệp nước ngoài liên doanh đầu tư sản xuất kinh doanh và kinh
tế tư nhân đóng trên địa bàn tỉnh đã có sự đóng góp đáng kể vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần thu nguồn ngân sách và giải quyết
việc làm cho người lao động. Theo số liệu của Ủy ban nhân dân tỉnh, hiện nay
Lạng Sơn có hơn 450 doanh nghiệp, trong đó có 24 doanh nghiệp Nhà nước,
giải quyết hơn 12.000 lao động trong tỉnh. Ngoài các công trình thủy điện, thủy
lợi, giao thông do Trung ương đầu tư, đường biên giới, đường giao thông,
mạng lưới điện được tỉnh quan tâm xây dựng, nâng cấp, mạng lưới điện đến
100% số xã với trên 94,3% số hộ được sử dụng điện [60, tr.24].
Thương mại - dịch vụ có bước phát triển tăng đều qua các năm.
Tỉnh Lạng Sơn xác định đây là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Thị
trường xuất khẩu được mở rộng, hoạt động bưu chính, viễn thông có bước
chuyển biến mạnh trong việc hiện đại hóa trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ
thuật, góp phần nâng số dân được sử dụng điện thoại lên.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nhìn chung tốc độ tăng trưởng
kinh tế và tiến độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh diễn ra còn chậm; hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thấp kém; đầu tư manh mún, hiệu quả
thấp. Tính cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, chất lượng sản phẩm hàng hóa
chưa cao, chưa có những sản phẩm chủ lực, chưa có những doanh nghiệp
mạnh về sản xuất kinh doanh và trong lĩnh vực xuất - nhập khẩu. Cơ cấu kinh
tế chuyển dịch chậm, chưa phù hợp với đặc thù và thế mạnh của tỉnh. Tiềm
năng, lợi thế cây trồng, vật nuôi chưa được khai thác hiệu quả. Giá trị ngành
18
công nghiệp, dịch vụ đạt thấp, chưa đóng vai trò quan trọng và thúc đẩy phát
triển kinh tế.
Tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở
Lạng Sơn phát triển chậm, chưa có lĩnh vực đột phá. Nông nghiệp, lâm
nghiệp chưa phát huy được lợi thế, nhất là lợi thế vùng nguyên liệu và phát
triển chăn nuôi. Công tác trồng rừng được quan tâm, tuy nhiên công tác quản
lý rừng còn lỏng lẻo. Tình trạng phá rừng làm nương rẫy của đồng bào vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn diễn ra; chưa đảm bảo yêu
cầu tiêu thụ sản phẩm nông sản và kích thích sản xuất phát triển. Công tác
quy hoạch và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng các đô thị, các khu, cụm công
nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu, các tuyến điểm du lịch chưa được quan tâm
đúng mức. Việc đổi mới, sắp xếp, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp nhà nước, nhất là công tác cổ phần hóa còn rất chậm, lúng túng và gặp
nhiều khó khăn. Vì vậy, vấn đề tạo thêm việc làm cho người lao động, nhất là
lao động người dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn đối với tỉnh.
Đặc điểm này đặt ra yêu cầu cấp bách là phải coi trọng phát triển nguồn
nhân lực, đặc biệt là đội ngũ trí thức, nhất là đội ngũ trí thức người dân tộc
thiểu số để phát huy vai trò của đội ngũ này trong việc phát triển kinh tế - xã
hội vùng dân tộc thiểu số.
Thứ ba, trọng điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Lạng Sơn là
phát triển kinh tế cửa khẩu, thương mại và du lịch, tạo động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm tới
Do lợi thế của tỉnh là cửa ngõ vùng Đông Bắc Tổ quốc, có đường biên
giới khá dài với Trung Quốc và lợi thế về điều kiện tự nhiên nên những năm
gần đây, Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn xác định: phải coi trọng kinh tế cửa khẩu,
đẩy mạnh phát triển thương mại và du lịch, trong đó quán triệt quan điểm là:
tập trung phát triển vùng kinh tế động lực để phát triển các vùng kinh tế khác,
các khu vực cùng phát triển; ưu tiên cho các vùng có điều kiện phát triển
19
nhanh hơn, tạo cơ sở cho tăng trưởng nhanh, bền vững, tăng khả năng cạnh
tranh; quan tâm hỗ trợ và ưu tiên đầu tư cải thiện kết cấu hạ tầng, hỗ trợ phát
triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo ở các vùng khó khăn, biên giới.
Từ những đặc điểm trên, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
tỉnh Lạng Sơn đã xây dựng, qui hoạch và phát triển khu vực thành phố Lạng
Sơn, thị trấn Đồng Đăng và các khu kinh tế cửa khẩu thành trung tâm thương
mại, du lịch, dịch vụ của cả nước. Đây là vùng kinh tế động lực của tỉnh, có
vai trò đặc biệt quan trọng cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng an
ninh, là khu vực tập trung xuất nhập khẩu, du lịch và dịch vụ, các trung tâm
thương mại, du lịch, buôn bán, văn phòng đại diện... từ đó thu hút và tạo công
ăn việc làm cho hàng chục nghìn lao động ở tỉnh Lạng Sơn cũng như khu vực
Đông Bắc và cả nước, góp phần thực hiện xóa đói, giảm nghèo, giải quyết
việc làm, nâng cao đời sống vật chất - tinh thần của nhân dân tại địa phương.
Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với việc
phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lạng Sơn
Sự phát triển các vùng kinh tế như vậy đồng thời tạo ra cơ sở vững
chắc, điều kiện cần thiết để phát triển nhanh đội ngũ trí thức của tỉnh bao gồm
cả trí thức người dân tộc thiểu số, đồng thời thu hút trí thức và trí thức người
dân tộc thiểu số ở các nơi về làm việc tại tỉnh, góp phần quan trọng vào chiến
lược thu hút nguồn nhân lực của tỉnh trước mắt và lâu dài.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra yêu cầu trong thời gian
tới cần phải tập trung phát triển cả về số lượng và chất lượng đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số, nhất là chú trọng phát triển đội ngũ trí thức thuộc vùng
cao, vùng sâu, vùng xa, kết hợp với đội ngũ trí thức người Kinh trong tỉnh để
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra yêu cầu phải coi trọng phát
triển khoa học và công nghệ hướng mạnh vào việc thực hiện những nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhất là phát triển nông nghiệp,
20