Pháp luật về hợp đồng cho thuê bắc cầu ở việt nam
- 131 trang
- file .pdf
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THÚY QUỲNH
Ph¸p luËt vÒ hîp ®ång
cho thuª b¾c cÇu ë ViÖt Nam
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGÔ HUY CƢƠNG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thúy Quỳnh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG
CHO THUÊ BẮC CẦU .................................................................................6
1.1. Một số vấn đề lý luận về hợp đồng cho thuê bắc cầu..................................6
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động cho thuê bắc cầu ...................6
1.1.2. Thuê bắc cầu trong cấu trúc cho thuê tài chính .............................................11
1.1.3. Khái quát về quy trình cho thuê bắc cầu ........................................................16
1.1.4. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng cho thuê bắc cầu ................................21
1.2. Phân biệt cho thuê bắc cầu và cho thuê hợp vốn ......................................27
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHO THUÊ
BẮC CẦU Ở VIỆT NAM ............................................................................32
2.1. Tổng quan pháp luật điều chỉnh Hợp đồng cho thuê bắc cầu .................32
2.1.1. Khái quát các quy định của pháp luật về hợp đồng cho thuê bắc cầu ...........33
2.1.2. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng cho thuê bắc cầu ở Việt Nam ....................35
2.1.3. Nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng cho thuê bắc cầu ...........................37
2.1.4. Về chủ thể hợp đồng cho thuê bắc cầu ..........................................................41
2.2. Giao kết hợp đồng cho thuê bắc cầu ..........................................................52
2.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng cho thuê bắc cầu .................................................52
2.2.2. Trình tự, thủ tục ký kết hợp đồng cho thuê bắc cầu .......................................55
2.3. Nội dung của hợp đồng cho thuê bắc cầu ..................................................58
2.3.1. Điều khoản thương mại ..................................................................................58
2.3.2. Điều khoản kỹ thuật .......................................................................................63
2.3.3. Các điều khoản pháp lý ..................................................................................64
2.4. Các quy định về thực hiện hợp đồng cho thuê bắc cầu ............................68
2.4.1. Hiệu lực của hợp đồng cho thuê bắc cầu .......................................................68
2.4.2. Xử lý hợp đồng cho thuê bắc cầu chấm dứt trước hạn ..................................72
2.4.3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng cho thuê bắc cầu ......................75
2.4.4. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng cho thuê bắc cầu ....................................78
2.5. Vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cho thuê bắc cầu ........80
2.5.1. Các tranh chấp phát sinh từ quá trình thực hiện hợp đồng cho thuê
bắc cầu ...........................................................................................................81
2.5.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp từ hợp đồng cho thuê bắc cầu .............82
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP
ĐỒNG CHO THUÊ BẮC CẦU Ở VIỆT NAM.........................................87
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cho thuê bắc cầu.......87
3.1.1. Những vấn đề đặt ra đối với hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng cho thuê bắc cầu ở Việt Nam
hiện nay ..........................................................................................................89
3.1.2. Cơ hội phát triển hoạt động cho thuê bắc cầu ở Việt Nam và yêu cầu
hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh ......................................................95
3.1.3. Một số nguyên tắc cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
cho thuê bắc cầu ...........................................................................................100
3.2. Một số định hƣớng cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
cho thuê bắc cầu ở Việt Nam và nâng cao hiệu quả việc áp dụng các
quy định này ................................................................................................102
3.2.1. Mở rộng đối tượng của hợp đồng cho thuê cho thuê bắc cầu ......................102
3.2.2. Quy định về giới hạn cho phép giao dịch trong hợp đồng cho thuê bắc cầu........104
3.2.3. Xây dựng mẫu hợp đồng cho thuê bắc cầu ..................................................105
3.2.4. Một số giải pháp cụ thể khác nhằm áp dụng hiệu quả các quy định của
pháp luật trong đàm phán, ký kết hợp đồng cho thuê bắc cầu .....................106
3.3. Hoàn thiện các quy định về chính sách thuế áp dụng đối với hợp
đồng cho thuê bắc cầu .................................................................................111
KẾT LUẬN ............................................................................................................113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................115
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Tiếng Việt
BLDS 2005 Bộ Luật dân sự Việt Nam năm 2005
CTTC Cho thuê tài chính
MMTB Máy móc thiết bị
Nghị định 39/2014/NĐ-CP ngày 07/05 về hoạt động
Nghị định 39/2014/NĐ-CP
của công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính.
NHTM Ngân hàng thương mại
TCTD Tổ chức tín dụng
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ở Việt Nam, hoạt động CTTC chỉ mới xuất hiện sau những năm thực hiện
công cuộc đổi mới nền kinh tế (1995). Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, nhu cầu về vốn đầu tư, đổi mới máy móc trang thiết bị, dây chuyền
công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh là khá lớn. Sự ra đời của các công
ty CTTC đã đóng góp một phần quan trọng trong việc cung ứng vốn sản xuất cho
nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu về vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp trong thời kỳ
đó. Nguồn vốn đầu tư thông qua các hợp đồng CTTC góp phần gián tiếp đẩy nhanh
quá trình đổi mới máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại, dần
bắt nhịp với nền công nghiệp hiện đại – tự động hóa của thế giới. Trong điều kiện
kinh tế hiện nay, khả năng tiếp cận nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp còn hạn
chế, gặp nhiều khó khăn, việc tiếp cận vốn thông qua các hợp đồng cho thuê bắc
cầu (Leveraged Lease) – một hình thức tài trợ vốn trung, dài hạn là một kênh hữu
hiệu nhằm giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp và cho cả nền kinh tế Việt
Nam sau thời kỳ đổi mới. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng
Khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề ra mục tiêu:
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI – Chiến
lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp”.
Ngoài ra, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX còn khẳng định:
“Phát triển thị trường vốn và tiền tệ, nhất là thị trường vốn trung và dài hạn,
thu hút các nguồn vốn bên ngoài, đa dạng hóa các công cụ và hình thức tổ
chức tài chính, tiền tệ phi Ngân hàng và các quỹ đầu tư nhằm động viên các
nguồn lực cho phát triển kinh tế, xã hội [20, tr.192-194].
Nhờ đó, nền kinh tế Việt Nam đã từng bước đạt được sự tăng trưởng ổn định,
quan hệ kinh tế giữa các lĩnh vực và với các quốc gia khác ngày càng được mở rộng
và phát triển, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xã hội từng bước được cải thiện và ngày càng
được nâng cao.
1
Sau khi được hình thành và gia nhập thị trường kinh tế ở Việt Nam, hoạt
động CTTC đã thực sự mang lại nhiều hiệu quả thiết thực về đẩy mạnh đổi mới
trình độ khoa học kỹ thuật, mở rộng cơ hội sản xuất kinh doanh cho các doanh
nghiệp. Suốt một thời gian dài từ năm 1995 đến hết năm 2013, các quy định của
pháp luật liên quan đến CTTC chỉ được đề cập và được điều chỉnh trực tiếp bởi
Luật các TCTD Luật số 47/2010/QH12, Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày
02/05/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty CTTC, Nghị định số
65/2005/ NĐ-CP ngày 19/05/2005 của Chính phủ và Nghị định 95/2008/ NĐ-CP
ngày 25/08/2008 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Nghị định 16/2001/NĐ-CP và
các văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản nói trên. Đến năm 2014, hoạt động
CTTC đã quy định ở các văn bản trên được sửa đổi tại Nghị định 39/2014/NĐ-CP
ngày 07/05/2014 của Chính phủ về hoạt động của công ty tài chính và công ty
CTTC. Do thực trạng không có một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh đồng bộ, chưa có một hành lang pháp lý vững chắc, các văn bản pháp luật
điều chỉnh trực tiếp có giá trị pháp lý không cao, thiếu linh hoạt nên hoạt động
CTTC chưa phát triển tương xứng với vai trò, tầm vóc và gặp không ít khó khăn.
Thêm vào đó, cơ sở pháp lý cho việc giao kết các Hợp đồng CTTC chỉ được điều
chỉnh bằng các văn bản khung như: BLDS (năm 1995 và năm 2005), Luật Thương
mại năm 2005 trong khi đó còn tồn tại rất nhiều các quy định không còn phù hợp
với thực tế phát triển của nền kinh tế. Một số các văn bản pháp luật trên chưa có các
quy định cụ thể về việc giao kết, thực hiện, giải quyết các tranh chấp phát sinh từ
các hợp đồng CTTC, nhất là loại hợp đồng cho thuê bắc cầu – là hình thức thuê
thường được sử dụng đối với những dự án đầu tư lớn hoặc có nhiều rủi ro có thể
xảy ra từ phía người thuê đã làm chậm lại sự phát triển của thị trường CTTC và
phần nào làm mất đi cơ hội được khai thác nhiều loại tài sản có giá trị lớn mà các
nền kinh tế khác trên thế giới đang thực hiện. Xuất phát từ những vướng mắc và bất
cập kể trên, nền kinh tế Việt Nam hiện nay đòi hỏi cần phải có một hệ thống cơ sở
pháp lý hoàn chỉnh, thống nhất có tính đồng bộ và có hiệu lực điều chỉnh cao nhất
để đảm bảo thực thi và thúc đẩy thị trường CTTC phát triển. Việc xây dựng và hoàn
2
thiện khung pháp lý về hợp đồng CTTC, nhất là cho thuê bắc cầu là một tất yếu
khách quan để thúc đẩy hoạt động CTTC phát triển an toàn đạt hiệu quả cao và theo
kịp xu hướng phát triển kinh tế hiện đại hóa, tự động hóa trên toàn cầu. Xuất phát từ
những yêu cầu của lý luận và thực tiễn, tác giả luận văn lựa chọn nghiên cứu đề tài:
“Pháp luật về hợp đồng cho thuê bắc cầu ở Việt Nam” để làm để tài luận văn tốt
nghiệp chương trình đào tạo thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở Việt Nam đã có một số công trình khoa học, bài viết nghiên cứu, tìm hiểu
cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động CTTC như: Luận án Tiến sĩ Luật
học của tác giả Doãn Hồng Nhung (2006) về "Những vấn đề pháp lý về hợp đồng
thuê mua ở Việt Nam", Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Lê Hoàng Oanh (1998)
về "Điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động thuê mua tài chính ở Việt Nam", Luận
văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Lê Thị Thảo (2002) về "Một số vấn đề pháp lý về
hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam", Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Đinh
Bá Tuấn (2006) về "Pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam", Luận văn
Thạc sĩ Luật học của tác giả Đỗ Anh Tuấn (2008) về “Hợp đồng thuê khai thác tàu
bay trong lĩnh vực hàng không dân dụng tại Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học
của tác giả Huỳnh Ngọc Nghiêm (2011) về “Pháp luật về thành lập và hoạt động của
Công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế của tác giả Tống
Thiện Phước (2006) về "Giải pháp phát triển thị trường cho thuê tài chính ở Việt
Nam trong quá trình hội nhập tài chính, tiền tệ quốc tế", Luận án Tiến sĩ Kinh tế của
tác giả Bùi Hồng Đới (2003) về "Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty
cho thuê tài chính ở Việt Nam"; Luận án Tiến sĩ Kinh tế của tác giả Hoàng Thị Thanh
Hằng (2013) về “Năng lực cạnh tranh của các công thuê tài chính thành phố Hồ Chí
Minh”; cùng một số bài viết như: "Rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính" của tác
giả Hoàng Ngọc Tiến (2004), "Pháp luật về cho thuê tài chính - một số vấn đề cần
hoàn thiện" của ThS. Trần Vũ Hải, “Nghị định 39/2014/NĐ-CP: Đảm bảo an toàn
cho thị trường tài chính – tiền tệ” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Cúc. Từ những
thống kê trên cho thấy, các quy định của pháp luật điều chỉnh trực tiếp đến loại hình
3
cho thuê bắc cầu và hợp đồng cho thuê bắc cầu còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế.
Một số các văn bản pháp lý hiện hành chỉ đang điều chỉnh một phần về hoạt động
CTTC mà chưa có quy định pháp luật điều chỉnh, chuyên sâu về cho thuê bắc cầu.
Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu luật học đáng kể nào về hợp đồng
cho thuê bắc cầu ở các cấp độ khác nhau.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Về tổng quát, đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm mục
đích: Hệ thống hóa những kiến thức pháp lý về hợp đồng CTTC hiện hành và phân
tích một số vấn đề lý luận trọng yếu của hợp đồng cho thuê bắc cầu; tìm hiểu và
đánh giá thực tiễn hoạt động CTTC thông qua hợp đồng cho thuê bắc cầu, chỉ ra
những bất cập và đề xuất các giải pháp cho việc thực thi và hoàn thiện các quy định
của pháp luật về hợp đồng cho thuê bắc cầu.
Với các nhiệm vụ cụ thể, đề tài cần (1) Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn
các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng cho thuê bắc cầu. (2) Tìm hiểu,
phân tích những quy định của pháp luật về hợp đồng cho thuê bắc cầu còn chưa
thống nhất và thiếu các quy định chi tiết. (3) Lập luận, trình bày một số kỹ năng
thực tiễn về giao kết và thực hiện hợp đồng cho thuê bắc cầu ở Việt Nam hiện nay
và (4) Đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật
về hợp đồng cho thuê bắc cầu, tạo tiền đề cho hoạt động cho thuê bắc cầu ở Việt
Nam phát triển.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để triển khai trình bày luận văn của mình, tác giả đã sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: Phân tích, thống kê, điều tra – đánh giá -
hệ thống hóa, tổng hợp và đặc biệt là phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ
sự khác biệt giữa Hợp đồng thuê bắc cầu với các hợp đồng CTTC khác, cũng như
đánh giá mức độ tương thích của các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp
đồng cho thuê bắc cầu với các quy định của pháp luật của một số quốc gia trên thế
giới. Ngoài ra, cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề tài là là quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
4
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn kết cấu thành 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng cho thuê bắc cầu
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng cho thuê bắc cầu ở Việt Nam
Chƣơng 3: Định hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cho thuê bắc cầu
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ HỢP ĐỒNG CHO THUÊ BẮC CẦU
1.1 . Một số vấn đề lý luận về hợp đồng cho thuê bắc cầu
1.1.1 . Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động cho thuê bắc cầu
Cho thuê bắc cầu (Leveraged Lease) là một trong bốn hình thức cơ bản của
hoạt động CTTC, mà hoạt động CTTC đã trở thành ngành công nghiệp, đạt trình độ
phát triển bậc cao của hoạt động cho thuê tài sản trong tiến trình phát triển của các
hình thái kinh tế - xã hội của nhân loại.
Hoạt động cho thuê tài sản xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử văn minh nhân
loại, đã xuất hiện từ khoảng 2000 năm trước Công nguyên với việc người Sumerian
tiến hành các giao dịch cho thuê gồm: các công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật
kéo, quyền sử dụng nước, ruộng đất nhà cửa. Khoảng từ 400 trước Công nguyên, tại
Nuppur - Babylon, gia đình Murashu đã tiến thiết lập ra một ngân hàng và nhà cho
thuê nổi tiếng, đánh dấu sự ra đời chính thức của hoạt động CTTC trên thế giới. Tuy
nhiên các giao dịch cho thuê thời cổ đại chủ yếu thuộc hình thức thuê mua kiểu
truyền thống giản đơn mà ngày nay chúng ta gọi là cho thuê vận hành hoặc thuê
khai thác (Traditional Lease) [6, tr.10].
Với mục đích đáp ứng được nhu cầu về vốn trong trung và dài hạn, loại hình
CTTC bắt đầu xuất hiện và phát triển ở Hoa Kỳ từ thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai
của thế kỷ 20. Hoạt động CTTC hiện đại được khởi sự bởi Công ty United States
Leasing Corporation (Hoa Kỳ) vào năm 1952 với tên gọi là thuê tài chính (Finance
Lease....), bắt đầu bằng hình thức thực hiện các nghiệp vụ tín dụng thuê mua. Tại
Mỹ, quốc gia mà hình thức CTTC hiện đại lần đầu tiên xuất hiện và phát triển mạnh
mẽ nhất, người ta cho thuê tài sản gồm nhiều chủng loại khác nhau như: phương
tiện vận tải gồm máy bay, xe hơi, xe tải, tàu hoả và tàu thuỷ đến những thiết bị có
giá trị nhỏ như các thiết bị văn phòng, máy vi tính, máy photocopy,… Nhưng loại
tài sản được đầu tư để cho thuê phổ biến nhất tại quốc gia này là máy bay, được biết
6
đến là lĩnh vực kinh doanh chính của các hãng là AirFrance, General Electric
Capital Aviation Service và International Lease Finance Corporation.
Sau đó, loại hình kinh doanh CTTC nhanh chóng lan rộng sang các nước ở
Châu Âu, chính thức được ghi nhận trong Luật thuê mua của Pháp vào năm 1960
với tên gọi là “Cridit Bail”. Hoạt động CTTC này sau khi hình thành và xác lập đã
phát triển mạnh mẽ tại Đức, Anh, Pháp, Thụy Điển..... và chính thức xuất hiện dưới
hình thức Hợp đồng thuê mua ở Anh từ những năm 1960. Tín dụng thuê mua cũng
phát triển ở châu Á và nhiều khu vực khác trên thế giới từ đầu thập kỷ 70 (như Nhật
Bản, Úc). Tuy nhiên, cơ sở pháp lý cho hoạt động CTTC chỉ được hai quốc gia là
Hàn Quốc và Philippines ghi nhận và ban hành thành Luật Leasing, các quốc gia
khác tuy có sự xuất hiện của mô hình kinh doanh phức hợp này nhưng chỉ được
điều chỉnh bởi các ngành luật khác như Luật thương mại, Luật đầu tư…. Sang đầu
thế kỷ 21, hoạt động CTTC đã xuất hiện, phát triển và ngày càng mở rộng phạm vi
hoạt động ở trên 80 quốc gia trên thế giới. Những thông tin sau đây về lịch sử hoạt
động CTTC và cho thuê bắc cầu sẽ làm rõ hơn những thành tựu nổi bật mà loại hình
tín dụng này mang đến cho nền kinh tế trên toàn cầu.
Hoạt động CTTC ở Hoa Kỳ: Từ khi bắt đầu xuất hiện từ những năm đầu thế
kỷ 19, do có sự năng động và có kế hoạch kinh doanh mang tầm chiến lược dài hạn,
hiệu quả nên các thương nhân ở Hoa Kỳ đã biết kế thừa và phát huy các giá trị từ
các hoạt động cho thuê tài sản truyền thống sẵn có. Do có sự tác động của nền nền
kinh tế hàng hóa cùng với thành tựu khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ thì số
lượng và chủng loại tài sản cho thuê có sự gia tăng đáng kể về số lượng và phong
phú hơn về chủng loại, hoạt động cho thuê tài sản thực sự trở thành một ngành công
nghiệp với tốc độ phát triển mạnh mẽ và ngày càng ổn định trong nhiều năm sau đó.
Sang đến thế kỷ 20, xuất phát điểm có một nền kinh tế phát triển tốc độ cao, các
thành tựu về khoa học kỹ thuật phát triển vượt bậc thì các nhà sản xuất của Hoa Kỳ
luôn có nhu cầu và khả năng mở rộng phạm vi hoạt động sang lĩnh vực tài trợ, cung
ứng chính sản phẩm mà họ đã sản xuất dần dần hình thành nên hoạt động tín dụng
trả dần. Ở thời kỳ này, các nhà sản xuất đều có kế hoạch và mục tiêu cho việc thúc
7
đẩy tiêu thụ có hiệu quả hơn các sản phẩm do họ sản xuất ra. Họ bắt đầu lên kế
hoạch về việc cung cấp các loại MMTB đã xác lập được đơn đặt hàng cùng với lộ
trình chi trả khoản tài trợ hợp lý để khách hàng của họ có thể được sử dụng tài sản
đó vào chu trình sản xuất kinh doanh. Trong khoảng thời gian từ sau thế chiến thứ
hai, hoạt động tài trợ vốn cho người thuê thông qua chính người bán hoặc nhà sản
xuất đã chính thức phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Thêm vào đó, người sản xuất luôn luôn muốn bảo mật về công nghệ sản xuất hoặc
các thành tựu về khoa học công nghệ của mình, nên họ luôn xem xét việc cho thuê
(trái ngược với các hợp đồng mua bán đơn thuần) là cách thức giữ gìn bí mật kinh
doanh của chính họ. Đến những năm 50 của thế kỷ này, giao dịch thuê mua đó có
những bước nhảy vọt, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn, nghiệp vụ tín
dụng thuê mua hay còn gọi là thuê tài chính được sáng tạo ra vào năm 1952. Về
phương diện tài sản thuê, cùng với cách lĩnh vực kinh doanh khác thì các giao dịch
thuê phương tiện giao thông vận tải bắt đầu phát triển mạnh, nhất là trong lĩnh vực
cho thuê máy bay dân dụng. Tính đến giữa thập kỷ 90 thế kỷ 20, có khoản ½ số
lượng xe hơi mới được tiêu thụ bằng con đường CTTC. Ngày nay, có đến hơn
30% tổng số thiết bị trong các doanh nghiệp ở Hoa Kỳ đều xuất phát từ các hợp
đồng thuê tài chính. Hoạt động CTTC đã thực sự phát triển thành một ngành công
nghiệp có thành tựu quan trọng và có một câu nói nổi tiếng của Paul Getty – một
trong các nhà tỷ phú đầu tiên trên thế giới là “Cái gì tăng giá thì hãy mua – cái gì
sẽ mất giá thì hãy thuê”.
Từ thực tế các chủ thể cho thuê luôn phải đảm bảo tính an toàn cao trong
hoạt động đầu tư vốn vào các tài sản thuê, thêm vào đó trên thị trường luôn thường
trực một lực lượng có tiềm lực tài chính lớn là các NHTM hay các định chế tài
chính sẵn sàng tham gia vào các giao dịch CTTC. Hoạt động cho thuê dần dần phát
triển lên thành các hợp đồng cho thuê mang tính bắc cầu chính thức ra đời sau khi
xuất hiện các công ty cho thuê độc lập. Hợp đồng cho thuê bắc cầu ở Hoa Kỳ được
ghi nhận và thực thi nhiều nhất ở hai hình thức: Hợp đồng thuê mua đơn thuần (Non
Leverage Lease) và Hợp đồng thuê mua sử dụng kỹ thuật đòn bẩy (Leverage
8
Lease). Việc các bên lựa chọn áp dụng hợp đồng cho thuê bắc cầu góp phần làm
cho ngành công nghiệp CTTC ở Hoa Kỳ luôn có bước tiến dài tiến trình phát triển
cả ở nội địa và vươn tầm quốc tế với sự tăng trưởng ấn tượng về thị phần hàng năm
[Xem thêm Phụ lục 3] và [77, tr.5].
Tại Vương Quốc Anh: Trong lịch sử chế định hợp đồng CTTC tại Vương
quốc Anh bắt đầu hình thành từ năm 1284, ở Xứ Wales – một phần thuộc Liên Hiệp
Anh và Bắc Ailen có một đạo luật ra đời cho phép các thương nhân được thực hiện
các giao dịch về thuê động sản.
Đến đầu thế kỷ 19, nhu cầu sử dụng thiết bị trong các ngành nông nghiệp và
công nghiệp nặng bắt đầu gia tăng, cùng với nó là nhu cầu về MMTB trong ngành
vận tải (hỏa xa) là rất lớn. Do đó hoạt động cho thuê tài sản phát triển mạnh, bằng
chứng là có sự xuất hiện của các công ty cho thuê thiết bị hỏa xa chuyên nghiệp và
nhanh chóng lan rộng ra các ngành nghề, lĩnh vực khác. Cùng với sự hình thành và
phát triển của hình thức CTTC truyền thống, tại Anh, ngay từ khi xuất hiện thì trong
cấu trúc Hợp đồng cho thuê bắc cầu (U.S Leveraged Lease) thường có sự tham gia
của một bên đại diện để dàn xếp các giao dịch, gọi là các “Indenture Trustee”. Quy
trình giao kết hợp đồng cho thuê bắc cầu ở Anh thường bắt đầu từ việc bên cho thuê
thông qua các Indenture Trustee kế hợp với bên thuê cùng tiến hành thương lượng,
dàn xếp các hợp đồng mua bán tài sản cho thuê, và theo quy định của pháp luật
Anh, bên cho thuê cũng chỉ cần đảm bảo có khoản đầu tư tương đương 20% tổng
giá trị tài sản thuê để bắt đầu giao dịch cho thuê bắc cầu.
Tại Nhật Bản: Hoạt động CTTC xuất hiện tại Nhật Bản từ những năm 1960,
hoạt động cho thuê tài chính xuất hiện trong mạng lưới kinh doanh của các ngân
hàng, doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp sản xuất…. Đến năm năm 1981,
Nhật Bản có 105 doanh nghiệp hoạt động trọng lĩnh vực này và hiện nay, có khoảng
hơn 300 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực này.
Tương tự như các hình thức của hợp đồng CTTC ở Hoa Kỳ, tại Nhật Bản,
hình thức thuê (Leasing) phổ biến nhất trong nền kinh tế của họ thường có hai loại
cơ bản: (1) Thuê tiêu dùng (Operating Lease) hay còn gọi là thuê vận hành và (2)
9
thuê tài chính (Financial Leasing), còn gọi theo một số cách thức chuyển ngữ là
“thuê để mua lại”, trong các văn bản pháp lý của Ngân hàng trung ương gọi tên hình
thức thuê này là “hoạt động tín dụng trung và dài hạn”. Về hình thức pháp lý, ở
Nhật Bản ghi nhận và phát triển cả hai hình thức cho thuê bắc cầu theo Hợp đồng
thuê mua đơn thuần và Hợp đồng thuê mua sử dụng kỹ thuật đòn bẩy nợ (Janpanese
Leveraged Lease, thường được viết tắt là JLL). Trong cả hai cấu trúc cho thuê bắc
cầu của Nhật Bản, luôn luôn phải đảm bảo có hai hợp đồng để các bên ký kết và
thực hiện gồm: Hợp đồng CTTC (hợp đồng thứ nhất) và hợp đồng tài trợ vốn (hợp
đồng thứ hai). Trong hợp đồng thuê mua đơn thuần, có sự xuất hiện của nhóm các
chủ thể gồm bên cho thuê, bên đi thuê, nhà sản xuất và lắp ráp bảo trì MMTB là tài
sản thuê. Ở hợp đồng thuê mua sử dụng kỹ thuật đòn bẩy, gồm các bên là một
NHTM hoặc nhóm người cho vay và nhà bảo lãnh của bên thuê. Thời hạn cho thuê
theo các hợp đồng JLL được xác định là khoảng 120% trên tổng số vòng khấu hao
của tài sản, MMTB. Cấu trúc của một hợp đồng JLL bao gồm thành tố nợ tài trợ
vốn không vượt quá 80% và phần vốn tự có của bên được tài trợ không được thấp
dưới 20% tổng giá trị tài sản cho thuê [Xem thêm Phụ lục 4].
Tại Châu Á, do có một số nền kinh tế mới nổi phát triển rất năng động và
mạnh mẽ góp phần tạo nên doanh thu từ hoạt động CTTC trên toàn thế giới ngày
càng có nhiều dấu hiện khả thi, nổi bật là ở các thị trường đạt doanh thu trung bình
hàng năm của ngành ở Hàn Quốc là 17 tỷ USD, ở Thái Lan khoảng 2 tỷ USD… Sau
một thời gian dài phát triển thành ngành công nghiệp thuê mua, tổng sản lượng của
ngành có giá trị trao đổi khoảng 350 tỷ USD vào năm 1994, ngày nay, tổng doanh
thu hàng năm của ngành công nghiệp CTTC trên thế giới ước đạt trên 500 tỷ USD,
với đà tăng trưởng ở tốc độ trung bình 7%/năm. Hiện nay ở Mỹ, ngành thuê mua
thiết bị chiếm khoảng 25-30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị
hàng năm. Nguyên nhân chính thúc đẩy các hoạt động CTTC phát triển nhanh là do
bản chất của hoạt động này thể hiện là hình thức tài trợ vốn trong trung và dài hạn
có tính chất an toàn cao, tiện lợi và hiệu quả cho các bên tham gia giao dịch. Như
vậy, xét về mặt lý thuyết thì CTTC là một loại hình cấp vốn khá phổ biến trên thế
10
giới hiện đại và có nhiều lợi thế cạnh tranh so với các hình thức cấp vốn khác cho
các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hoạt động CTTC giúp các
doanh nghiệp này thỏa mãn nhu cầu về tài chính để tiến hành các kế hoạch sản xuất
kinh doanh kịp thời, hiện đại hóa sản xuất và bắt nhịp với tốc độ phát triển của nền
khoa học công nghệ mới.
Trong quá trình phát triển, khi thực hiện các giao dịch CTTC có giá trị cao
hoặc tài sản cho thuê là các máy móc thiết bị tân tiến lần đầu xuất hiện ở thị
trường, đặc biệt là ở các tập đoàn tài chính đa quốc gia, khi bên cho thuê không
có khả năng hoặc không muốn tài trợ toàn bộ vốn cho người thuê thì sẽ huy động
thêm nguồn vốn của bên cho thuê khác hoặc từ các NHTM. Lúc này, loại hình
cho thuê bắc cầu chính thức ra đời và ngày càng phổ biến trong các giao dịch
CTTC quan trọng, giá trị thương mại lớn. Trong ngành công nghiệp máy bay,
hoạt động cho thuê ướt tàu bay (aircraft) theo điều kiện ACMI rất phổ biến và
ngày càng đạt được tỷ trọng tăng trưởng cao.
1.1.2 . Thuê bắc cầu trong cấu trúc cho thuê tài chính
CTTC là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê
MMTB, phương tiện vận tải – vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp
đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua tài sản cho
thuê theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho
thuê. Bên thuê tài sản được quyền khai thác, vận hành, sử dụng tài sản thuê và phải
thanh toán tiền thuê, tiền lãi (nếu có) trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa
thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản đã
thuê hoặc tiếp tục gia hạn thời hạn thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong các
hợp đồng CTTC. Tổng số tiền thuê một loại tài sản được quy định tại hợp đồng,
nhưng phải thỏa mãn điều kiện ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại
thời điểm ký hợp đồng. Xét về góc độ kinh tế, CTTC là một hoạt động tín dụng
trung – dài hạn, bản chất bên cho thuê là đơn vị cấp vốn, bên thuê là người vay vốn.
Người cho thuê là chủ sở hữu về mặt pháp lý của tài sản nhưng họ không trực tiếp
sử dụng và khai thác tài sản bởi quyền lợi đó thuộc về người đi thuê. Bên đi thuê là
11
chủ sở hữu về mặt kinh tế của tài sản thể hiện ở quyền được phản ánh giá trị tài sản
cố định thuê tài chính trong Bảng tổng kết tài sản. Về mặt pháp lý, CTTC nêu ra các
quan hệ cơ bản trong giao dịch để làm cơ sở ràng buộc nghĩa vụ và bảo vệ quyền lợi
của các bên tham gia giao dịch CTTC trên cơ sở hợp đồng. Nội dung cơ bản nhất
của hợp đồng CTTC là chuyển giao gần như tất cả rủi ro và lợi ích gắn với quyền sở
hữu từ bên cho thuê sang bên thuê, mặc dù tài sản cho thuê từ khi hình thành cho
đến mọi thời điểm của giao dịch hợp đồng CTTC đều vẫn thuộc quyền sở hữu của
người cho thuê. Bên thuê tài chính chỉ có quyền sử dụng tài sản mà không được sử
dụng bất kỳ quyền gì trong việc định đoạt tài sản thuê tài chính. Trong suốt quá
trình thực hiện hợp đồng, chỉ cần bên cho thuê chứng minh được bên thuê đã vi
phạm một trong các nghĩa vụ đã quy ước thì có thể thu hồi tài sản CTTC ngay lập
tức với cương vị là chủ sở hữu đối với tài sản cho thuê.
Từ các phân tích trên, định nghĩa CTTC được quy định tại Nghị định
34/2014/NĐ-CP ngày 07/05/2014 ghi rằng:
Cho thuê tài chính là hoạt động cấp tín dụng trung, dài hạn trên cơ
sở hợp đồng cho thuê tài chính giữa bên cho thuê tài chính với bên thuê
tài chính. Bên cho thuê tài chính cam kết mua tài sản cho thuê tài chính
theo yêu cầu của bên thuê tài chính và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài
sản cho thuê tài chính trong suốt thời hạn cho thuê. Bên thuê tài chính sử
dụng tài sản thuê tài chính và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn
thuê quy định trong hợp đồng cho thuê tài chính [15, Điều 3].
Từ định nghĩa trên, hoạt động CTTC được nhận diện bởi các đặc trưng
cơ bản mà thiếu một trong các đặc điểm này sẽ không cấu thành hoạt động
CTTC, bao gồm:
i. Hoạt động cho thuê tài chính là hoạt động không thể hủy ngang: người
thuê vẫn phải trả tiền thuê kể cả trong trường hợp đã từ bỏ hoặc không sử dụng tài
sản thuê. Hợp đồng cho thuê tài chính có tính ràng buộc chặt chẽ buộc bên thuê
phải trả tiền thuê theo định kỳ trong thời hạn thuê cơ bản.
ii. Tiền thuê được tính nhằm đảm bảo khoản chi trả khoản đầu tư gốc mà
12
người cho thuê đã đầu tư tạo lập tài sản cộng với khoản lãi (mức thu nhập) đã được
xác định trước.
iii. Trong thời gian thực hiện hợp đồng CTTC, mọi rủi ro đối với tài sản thuê
do bên thuê gánh chịu và khắc phục hậu quả. Bên thuê phải thực hiện nghĩa vụ bảo
trì tài sản mặc dù quyền sở hữu vẫn thuộc bên cho thuê.
iv. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng CTTC, bên thuê có thể được
mua lại quyền sở hữu tài sản cho thuê với giá hợp lý hoặc tiếp tục thuê theo thỏa
thuận của hai bên đã dự liệu trước trong hợp đồng. Ngoài ra, bên thuê được quyền
ưu tiên mua tài sản cho thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài
sản cho thuê tại thời điểm mua lại.
v. Thời hạn cho thuê một tài sản phải ít nhất bằng 60% thời gian hữu dụng
của tài sản cho thuê đó. Thông thường, thời hạn của hợp đồng CTTC được ấn định
bằng tổng thời gian hao mòn tự nhiên của tài sản.
vi. Tổng số tiền cho thuê một tài sản quy định tại hợp đồng CTTC ít nhất bằng
giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
vii. Giá trị tài sản thuê tài chính được hạch toán vào Bảng tổng kết tài sản của
bên thuê. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của hoạt động CTTC, có ý nghĩa then chốt
khi phân biệt với các loại thuê tài sản khác [Xem Phụ lục 1].
Hiện nay, tùy thuộc vào cách thức nhận biết hoặc nhằm khái quát chung cho
các giao dịch mà xuất hiện nhiều tiêu chí phân loại các hình thức CTTC. Tuy nhiên,
phân chia theo tính chất giao dịch là một tiêu chí phân chia rất khoa học. Dựa trên
tiêu chí này, hình thức CTTC được phân chia thành các hình thức cơ bản, bao gồm:
(1) Thuê tài chính trực tiếp (Direct Finacing Lease), (2) Thuê liên kết (Syndicated
Lease), (3) Thuê bắc cầu hay còn gọi là Thuê đòn bẩy (Leveraged Lease), (4) Bán
và cho thuê lại (Sale and Leaseback Lease).
+ Hình thức cho thuê trực tiếp (Direct Finacing Lease)
Đây là hình thức CTTC mà bên cho thuê sử dụng chính các loại tài sản của
họ sẵn có (đang sở hữu) trực tiếp để cho thuê. Bên cho thuê có thể là các hãng sản
xuất ra tài sản thuê, do không muốn chuyển giao các thành tựu khoa học công nghệ,
13
họ không bán tài sản mà chỉ cho thuê dưới dạng các hợp đồng CTTC. Ngoài ra, một
số các định chế tài chính, NHTM hoặc các công ty CTTC có tiềm lực nguồn vốn
dồi dào đã mua sắm sẵn các tài sản thuê nhằm mục đích cho thuê, họ cũng sử dụng
hình thức cho thuê này. Trong giao dịch CTTC trực tiếp, chủ thể của hợp đồng
CTTC chỉ bao gồm bên thuê và bên cho thuê.
Đặc trưng cơ bản của hình thức cho thuê trực tiếp được nhận dạng khi chúng
có đầy đủ hoặc một vài các hình thức sau: tài sản cho thuê thường có giá trị không
quá lớn và thông thường chỉ là các MMTB hoặc dây chuyền sản xuất có đặc tính kỹ
thuật giản đơn; chủ thể của hợp đồng chỉ có sự tham gia trực tiếp của hai bên là bên
thuê và bên cho thuê; nguồn vốn tạo lập tài sản hoàn toàn do bên cho thuê đầu tư;
bên cho thuê có thể được quyền mua lại thiết bị khi chúng bị lạc hậu so với công
nghệ sản xuất tại từng thời điểm trong hợp đồng thuê.
Ngoài ra, thêm một tính ưu việt của hình thức cho thuê trực tiếp để nó
thường được các nhà sản xuất sử dụng để đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm do chính
họ sản xuất ra. Nghĩa là, việc sử dụng các sản phẩm thành tài sản thuê trong các hợp
đồng CTTC cũng là một kênh phân phối sản phẩm hữu hiệu, có tính bền vững. Bên
cạnh đó, do luôn luôn cập nhật những công nghệ mới để chế tạo các loại MMTB
nên các nhà sản xuất có thể sẵn sàng mua lại những thiết bị lạc hậu về công nghệ để
tiếp tục cung cấp những máy móc mới, hiện đại do chính họ chế tạo ra.
+ Hình thức cho thuê liên kết (Syndicated Lease)
Cho thuê liên kết là loại hợp đồng gồm nhiều bên cho thuê cùng thực hiện
một hoạt động tài trợ vốn cho một bên thuê. Sự liên kết này có thể xảy ra theo chiều
ngang hoặc theo chiều dọc tùy thuộc vào tính chất của tài sản thuê, hoặc khả năng
tài chính của các nhà cho thuê. Trong trường hợp tài sản có giá trị lớn, nhiều định
chế tài chính (gồm các NHTM hay nhiều công ty CTTC) hay các hãng sản xuất
cùng nhau hợp tác cho một người thuê tạo thành sự liên kết theo chiều ngang. Điều
đặc biệt là đối với hình thức cho thuê liên kết theo chiều ngang, các chế định tài
chính phải là các công ty cho thuê độc lập (Independent Leasing Conpanies), các
công ty này độc lập với bất kỳ nhà sản xuất nào, họ muc MMTB từ các nhà sản xuất
khác nhau, rồi cho thuê chúng với cùng một người thuê hoặc những người sử dụng
14
cuối cùng. Đây là đặc trưng căn bản để phân loại hợp đồng thuê độc lập hay phụ
thuộc trong hai hình thức cho thuê liên kết.
Ngược lại, thuê liên kết theo chiều dọc là khi các hãng chế tạo hoặc các định
chế tài chính lớn giao tài sản cho các công ty con, chi nhánh hoặc đơn vị trực thuộc
của chính họ để thực hiện giao dịch cho thuê cho một khách hàng. Các chế định tài
chính này thường là các tổ chức tài trợ phụ thuộc (Capive Finance Organizations).
Cùng loại hình thức cho thuê này, trong những trường hợp mà tài sản thuê có giá trị
hoặc quy mô lớn, cần phải huy động một lượng vốn đầu tư ban đầu vượt ngưỡng
cho phép đảm bảo an toàn tín dụng, hoặc tài sản thuê có tính rủi ro cao thì các chế
định tài chính này có sự phân công chuyên môn hóa ở cấp độ cao hơn. Người ta gọi
hình thức cho thuê của tổ hợp tài chính theo ngành dọc này là thuê mua liên kết, nó
cũng có thể được gọi với một cái tên khác là thuê tín thác (Trust Lease). Hình thức
thuê mua này tạo điều kiện thúc đẩy việc hợp tác kinh doanh giữa các nhà sản xuất
và các định chế tài chính như giữa công ty mẹ và công ty con hoặc giữa các công ty
thành viên thuộc các tập đoàn đa quốc gia.
+ Hình thức cho thuê bắc cầu (Leveraged Lease)
Cho thuê bắc cầu là một thuật ngữ được diễn giải từ ngôn ngữ tiếng Anh
“Leveraged Lease”, một số tài liệu khoa học diễn giải là “đòn bẩy” hoặc “cho thuê
tài chính hợp tác”, được hiểu là một phương thức CTTC. Theo đó, bên đi thuê sử
dụng phần lớn vốn vay (có thể lên tới 80%) chi phí mua sắm tài sản cho thuê từ một
hoặc nhiều định chế tài chính với việc thế chấp tài sản cho thuê là tài sản bảo đảm
cho hợp đồng vay vốn. Tiền cho thuê nhận được theo quy định của các kỳ hạn trả
nợ chính là nguồn tiền để trả nợ cho các tổ chức tài chính đã thu xếp vốn đầu tư có
tính chất bắc cầu. Hình thức CTTC này giúp cho bên cho thuê tăng năng lực tài
chính để ký kết các hợp đồng cho thuê vượt xa khả năng nguồn vốn tự có của họ.
Trình tự, thủ tục và quy trình giao dịch cấu trúc cho thuê bắc cầu sẽ được
phân tích diễn giải chi tiết ở Mục 1.1.3 của Luận văn này.
+ Hình thức bán và cho thuê lại (Sale and Leaseback Lease)
Đây là hình thức CTTC thường áp dụng đối với các nhà sản xuất hoặc người
15
KHOA LUẬT
NGUYỄN THÚY QUỲNH
Ph¸p luËt vÒ hîp ®ång
cho thuª b¾c cÇu ë ViÖt Nam
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGÔ HUY CƢƠNG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thúy Quỳnh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG
CHO THUÊ BẮC CẦU .................................................................................6
1.1. Một số vấn đề lý luận về hợp đồng cho thuê bắc cầu..................................6
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động cho thuê bắc cầu ...................6
1.1.2. Thuê bắc cầu trong cấu trúc cho thuê tài chính .............................................11
1.1.3. Khái quát về quy trình cho thuê bắc cầu ........................................................16
1.1.4. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng cho thuê bắc cầu ................................21
1.2. Phân biệt cho thuê bắc cầu và cho thuê hợp vốn ......................................27
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHO THUÊ
BẮC CẦU Ở VIỆT NAM ............................................................................32
2.1. Tổng quan pháp luật điều chỉnh Hợp đồng cho thuê bắc cầu .................32
2.1.1. Khái quát các quy định của pháp luật về hợp đồng cho thuê bắc cầu ...........33
2.1.2. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng cho thuê bắc cầu ở Việt Nam ....................35
2.1.3. Nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng cho thuê bắc cầu ...........................37
2.1.4. Về chủ thể hợp đồng cho thuê bắc cầu ..........................................................41
2.2. Giao kết hợp đồng cho thuê bắc cầu ..........................................................52
2.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng cho thuê bắc cầu .................................................52
2.2.2. Trình tự, thủ tục ký kết hợp đồng cho thuê bắc cầu .......................................55
2.3. Nội dung của hợp đồng cho thuê bắc cầu ..................................................58
2.3.1. Điều khoản thương mại ..................................................................................58
2.3.2. Điều khoản kỹ thuật .......................................................................................63
2.3.3. Các điều khoản pháp lý ..................................................................................64
2.4. Các quy định về thực hiện hợp đồng cho thuê bắc cầu ............................68
2.4.1. Hiệu lực của hợp đồng cho thuê bắc cầu .......................................................68
2.4.2. Xử lý hợp đồng cho thuê bắc cầu chấm dứt trước hạn ..................................72
2.4.3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng cho thuê bắc cầu ......................75
2.4.4. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng cho thuê bắc cầu ....................................78
2.5. Vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cho thuê bắc cầu ........80
2.5.1. Các tranh chấp phát sinh từ quá trình thực hiện hợp đồng cho thuê
bắc cầu ...........................................................................................................81
2.5.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp từ hợp đồng cho thuê bắc cầu .............82
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP
ĐỒNG CHO THUÊ BẮC CẦU Ở VIỆT NAM.........................................87
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cho thuê bắc cầu.......87
3.1.1. Những vấn đề đặt ra đối với hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng cho thuê bắc cầu ở Việt Nam
hiện nay ..........................................................................................................89
3.1.2. Cơ hội phát triển hoạt động cho thuê bắc cầu ở Việt Nam và yêu cầu
hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh ......................................................95
3.1.3. Một số nguyên tắc cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
cho thuê bắc cầu ...........................................................................................100
3.2. Một số định hƣớng cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
cho thuê bắc cầu ở Việt Nam và nâng cao hiệu quả việc áp dụng các
quy định này ................................................................................................102
3.2.1. Mở rộng đối tượng của hợp đồng cho thuê cho thuê bắc cầu ......................102
3.2.2. Quy định về giới hạn cho phép giao dịch trong hợp đồng cho thuê bắc cầu........104
3.2.3. Xây dựng mẫu hợp đồng cho thuê bắc cầu ..................................................105
3.2.4. Một số giải pháp cụ thể khác nhằm áp dụng hiệu quả các quy định của
pháp luật trong đàm phán, ký kết hợp đồng cho thuê bắc cầu .....................106
3.3. Hoàn thiện các quy định về chính sách thuế áp dụng đối với hợp
đồng cho thuê bắc cầu .................................................................................111
KẾT LUẬN ............................................................................................................113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................115
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Tiếng Việt
BLDS 2005 Bộ Luật dân sự Việt Nam năm 2005
CTTC Cho thuê tài chính
MMTB Máy móc thiết bị
Nghị định 39/2014/NĐ-CP ngày 07/05 về hoạt động
Nghị định 39/2014/NĐ-CP
của công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính.
NHTM Ngân hàng thương mại
TCTD Tổ chức tín dụng
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ở Việt Nam, hoạt động CTTC chỉ mới xuất hiện sau những năm thực hiện
công cuộc đổi mới nền kinh tế (1995). Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, nhu cầu về vốn đầu tư, đổi mới máy móc trang thiết bị, dây chuyền
công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh là khá lớn. Sự ra đời của các công
ty CTTC đã đóng góp một phần quan trọng trong việc cung ứng vốn sản xuất cho
nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu về vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp trong thời kỳ
đó. Nguồn vốn đầu tư thông qua các hợp đồng CTTC góp phần gián tiếp đẩy nhanh
quá trình đổi mới máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại, dần
bắt nhịp với nền công nghiệp hiện đại – tự động hóa của thế giới. Trong điều kiện
kinh tế hiện nay, khả năng tiếp cận nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp còn hạn
chế, gặp nhiều khó khăn, việc tiếp cận vốn thông qua các hợp đồng cho thuê bắc
cầu (Leveraged Lease) – một hình thức tài trợ vốn trung, dài hạn là một kênh hữu
hiệu nhằm giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp và cho cả nền kinh tế Việt
Nam sau thời kỳ đổi mới. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng
Khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề ra mục tiêu:
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI – Chiến
lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp”.
Ngoài ra, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX còn khẳng định:
“Phát triển thị trường vốn và tiền tệ, nhất là thị trường vốn trung và dài hạn,
thu hút các nguồn vốn bên ngoài, đa dạng hóa các công cụ và hình thức tổ
chức tài chính, tiền tệ phi Ngân hàng và các quỹ đầu tư nhằm động viên các
nguồn lực cho phát triển kinh tế, xã hội [20, tr.192-194].
Nhờ đó, nền kinh tế Việt Nam đã từng bước đạt được sự tăng trưởng ổn định,
quan hệ kinh tế giữa các lĩnh vực và với các quốc gia khác ngày càng được mở rộng
và phát triển, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xã hội từng bước được cải thiện và ngày càng
được nâng cao.
1
Sau khi được hình thành và gia nhập thị trường kinh tế ở Việt Nam, hoạt
động CTTC đã thực sự mang lại nhiều hiệu quả thiết thực về đẩy mạnh đổi mới
trình độ khoa học kỹ thuật, mở rộng cơ hội sản xuất kinh doanh cho các doanh
nghiệp. Suốt một thời gian dài từ năm 1995 đến hết năm 2013, các quy định của
pháp luật liên quan đến CTTC chỉ được đề cập và được điều chỉnh trực tiếp bởi
Luật các TCTD Luật số 47/2010/QH12, Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày
02/05/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty CTTC, Nghị định số
65/2005/ NĐ-CP ngày 19/05/2005 của Chính phủ và Nghị định 95/2008/ NĐ-CP
ngày 25/08/2008 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Nghị định 16/2001/NĐ-CP và
các văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản nói trên. Đến năm 2014, hoạt động
CTTC đã quy định ở các văn bản trên được sửa đổi tại Nghị định 39/2014/NĐ-CP
ngày 07/05/2014 của Chính phủ về hoạt động của công ty tài chính và công ty
CTTC. Do thực trạng không có một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh đồng bộ, chưa có một hành lang pháp lý vững chắc, các văn bản pháp luật
điều chỉnh trực tiếp có giá trị pháp lý không cao, thiếu linh hoạt nên hoạt động
CTTC chưa phát triển tương xứng với vai trò, tầm vóc và gặp không ít khó khăn.
Thêm vào đó, cơ sở pháp lý cho việc giao kết các Hợp đồng CTTC chỉ được điều
chỉnh bằng các văn bản khung như: BLDS (năm 1995 và năm 2005), Luật Thương
mại năm 2005 trong khi đó còn tồn tại rất nhiều các quy định không còn phù hợp
với thực tế phát triển của nền kinh tế. Một số các văn bản pháp luật trên chưa có các
quy định cụ thể về việc giao kết, thực hiện, giải quyết các tranh chấp phát sinh từ
các hợp đồng CTTC, nhất là loại hợp đồng cho thuê bắc cầu – là hình thức thuê
thường được sử dụng đối với những dự án đầu tư lớn hoặc có nhiều rủi ro có thể
xảy ra từ phía người thuê đã làm chậm lại sự phát triển của thị trường CTTC và
phần nào làm mất đi cơ hội được khai thác nhiều loại tài sản có giá trị lớn mà các
nền kinh tế khác trên thế giới đang thực hiện. Xuất phát từ những vướng mắc và bất
cập kể trên, nền kinh tế Việt Nam hiện nay đòi hỏi cần phải có một hệ thống cơ sở
pháp lý hoàn chỉnh, thống nhất có tính đồng bộ và có hiệu lực điều chỉnh cao nhất
để đảm bảo thực thi và thúc đẩy thị trường CTTC phát triển. Việc xây dựng và hoàn
2
thiện khung pháp lý về hợp đồng CTTC, nhất là cho thuê bắc cầu là một tất yếu
khách quan để thúc đẩy hoạt động CTTC phát triển an toàn đạt hiệu quả cao và theo
kịp xu hướng phát triển kinh tế hiện đại hóa, tự động hóa trên toàn cầu. Xuất phát từ
những yêu cầu của lý luận và thực tiễn, tác giả luận văn lựa chọn nghiên cứu đề tài:
“Pháp luật về hợp đồng cho thuê bắc cầu ở Việt Nam” để làm để tài luận văn tốt
nghiệp chương trình đào tạo thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở Việt Nam đã có một số công trình khoa học, bài viết nghiên cứu, tìm hiểu
cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động CTTC như: Luận án Tiến sĩ Luật
học của tác giả Doãn Hồng Nhung (2006) về "Những vấn đề pháp lý về hợp đồng
thuê mua ở Việt Nam", Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Lê Hoàng Oanh (1998)
về "Điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động thuê mua tài chính ở Việt Nam", Luận
văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Lê Thị Thảo (2002) về "Một số vấn đề pháp lý về
hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam", Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Đinh
Bá Tuấn (2006) về "Pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam", Luận văn
Thạc sĩ Luật học của tác giả Đỗ Anh Tuấn (2008) về “Hợp đồng thuê khai thác tàu
bay trong lĩnh vực hàng không dân dụng tại Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học
của tác giả Huỳnh Ngọc Nghiêm (2011) về “Pháp luật về thành lập và hoạt động của
Công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế của tác giả Tống
Thiện Phước (2006) về "Giải pháp phát triển thị trường cho thuê tài chính ở Việt
Nam trong quá trình hội nhập tài chính, tiền tệ quốc tế", Luận án Tiến sĩ Kinh tế của
tác giả Bùi Hồng Đới (2003) về "Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty
cho thuê tài chính ở Việt Nam"; Luận án Tiến sĩ Kinh tế của tác giả Hoàng Thị Thanh
Hằng (2013) về “Năng lực cạnh tranh của các công thuê tài chính thành phố Hồ Chí
Minh”; cùng một số bài viết như: "Rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính" của tác
giả Hoàng Ngọc Tiến (2004), "Pháp luật về cho thuê tài chính - một số vấn đề cần
hoàn thiện" của ThS. Trần Vũ Hải, “Nghị định 39/2014/NĐ-CP: Đảm bảo an toàn
cho thị trường tài chính – tiền tệ” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Cúc. Từ những
thống kê trên cho thấy, các quy định của pháp luật điều chỉnh trực tiếp đến loại hình
3
cho thuê bắc cầu và hợp đồng cho thuê bắc cầu còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế.
Một số các văn bản pháp lý hiện hành chỉ đang điều chỉnh một phần về hoạt động
CTTC mà chưa có quy định pháp luật điều chỉnh, chuyên sâu về cho thuê bắc cầu.
Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu luật học đáng kể nào về hợp đồng
cho thuê bắc cầu ở các cấp độ khác nhau.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Về tổng quát, đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm mục
đích: Hệ thống hóa những kiến thức pháp lý về hợp đồng CTTC hiện hành và phân
tích một số vấn đề lý luận trọng yếu của hợp đồng cho thuê bắc cầu; tìm hiểu và
đánh giá thực tiễn hoạt động CTTC thông qua hợp đồng cho thuê bắc cầu, chỉ ra
những bất cập và đề xuất các giải pháp cho việc thực thi và hoàn thiện các quy định
của pháp luật về hợp đồng cho thuê bắc cầu.
Với các nhiệm vụ cụ thể, đề tài cần (1) Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn
các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng cho thuê bắc cầu. (2) Tìm hiểu,
phân tích những quy định của pháp luật về hợp đồng cho thuê bắc cầu còn chưa
thống nhất và thiếu các quy định chi tiết. (3) Lập luận, trình bày một số kỹ năng
thực tiễn về giao kết và thực hiện hợp đồng cho thuê bắc cầu ở Việt Nam hiện nay
và (4) Đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật
về hợp đồng cho thuê bắc cầu, tạo tiền đề cho hoạt động cho thuê bắc cầu ở Việt
Nam phát triển.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để triển khai trình bày luận văn của mình, tác giả đã sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: Phân tích, thống kê, điều tra – đánh giá -
hệ thống hóa, tổng hợp và đặc biệt là phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ
sự khác biệt giữa Hợp đồng thuê bắc cầu với các hợp đồng CTTC khác, cũng như
đánh giá mức độ tương thích của các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp
đồng cho thuê bắc cầu với các quy định của pháp luật của một số quốc gia trên thế
giới. Ngoài ra, cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề tài là là quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
4
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn kết cấu thành 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng cho thuê bắc cầu
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng cho thuê bắc cầu ở Việt Nam
Chƣơng 3: Định hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cho thuê bắc cầu
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ HỢP ĐỒNG CHO THUÊ BẮC CẦU
1.1 . Một số vấn đề lý luận về hợp đồng cho thuê bắc cầu
1.1.1 . Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động cho thuê bắc cầu
Cho thuê bắc cầu (Leveraged Lease) là một trong bốn hình thức cơ bản của
hoạt động CTTC, mà hoạt động CTTC đã trở thành ngành công nghiệp, đạt trình độ
phát triển bậc cao của hoạt động cho thuê tài sản trong tiến trình phát triển của các
hình thái kinh tế - xã hội của nhân loại.
Hoạt động cho thuê tài sản xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử văn minh nhân
loại, đã xuất hiện từ khoảng 2000 năm trước Công nguyên với việc người Sumerian
tiến hành các giao dịch cho thuê gồm: các công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật
kéo, quyền sử dụng nước, ruộng đất nhà cửa. Khoảng từ 400 trước Công nguyên, tại
Nuppur - Babylon, gia đình Murashu đã tiến thiết lập ra một ngân hàng và nhà cho
thuê nổi tiếng, đánh dấu sự ra đời chính thức của hoạt động CTTC trên thế giới. Tuy
nhiên các giao dịch cho thuê thời cổ đại chủ yếu thuộc hình thức thuê mua kiểu
truyền thống giản đơn mà ngày nay chúng ta gọi là cho thuê vận hành hoặc thuê
khai thác (Traditional Lease) [6, tr.10].
Với mục đích đáp ứng được nhu cầu về vốn trong trung và dài hạn, loại hình
CTTC bắt đầu xuất hiện và phát triển ở Hoa Kỳ từ thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai
của thế kỷ 20. Hoạt động CTTC hiện đại được khởi sự bởi Công ty United States
Leasing Corporation (Hoa Kỳ) vào năm 1952 với tên gọi là thuê tài chính (Finance
Lease....), bắt đầu bằng hình thức thực hiện các nghiệp vụ tín dụng thuê mua. Tại
Mỹ, quốc gia mà hình thức CTTC hiện đại lần đầu tiên xuất hiện và phát triển mạnh
mẽ nhất, người ta cho thuê tài sản gồm nhiều chủng loại khác nhau như: phương
tiện vận tải gồm máy bay, xe hơi, xe tải, tàu hoả và tàu thuỷ đến những thiết bị có
giá trị nhỏ như các thiết bị văn phòng, máy vi tính, máy photocopy,… Nhưng loại
tài sản được đầu tư để cho thuê phổ biến nhất tại quốc gia này là máy bay, được biết
6
đến là lĩnh vực kinh doanh chính của các hãng là AirFrance, General Electric
Capital Aviation Service và International Lease Finance Corporation.
Sau đó, loại hình kinh doanh CTTC nhanh chóng lan rộng sang các nước ở
Châu Âu, chính thức được ghi nhận trong Luật thuê mua của Pháp vào năm 1960
với tên gọi là “Cridit Bail”. Hoạt động CTTC này sau khi hình thành và xác lập đã
phát triển mạnh mẽ tại Đức, Anh, Pháp, Thụy Điển..... và chính thức xuất hiện dưới
hình thức Hợp đồng thuê mua ở Anh từ những năm 1960. Tín dụng thuê mua cũng
phát triển ở châu Á và nhiều khu vực khác trên thế giới từ đầu thập kỷ 70 (như Nhật
Bản, Úc). Tuy nhiên, cơ sở pháp lý cho hoạt động CTTC chỉ được hai quốc gia là
Hàn Quốc và Philippines ghi nhận và ban hành thành Luật Leasing, các quốc gia
khác tuy có sự xuất hiện của mô hình kinh doanh phức hợp này nhưng chỉ được
điều chỉnh bởi các ngành luật khác như Luật thương mại, Luật đầu tư…. Sang đầu
thế kỷ 21, hoạt động CTTC đã xuất hiện, phát triển và ngày càng mở rộng phạm vi
hoạt động ở trên 80 quốc gia trên thế giới. Những thông tin sau đây về lịch sử hoạt
động CTTC và cho thuê bắc cầu sẽ làm rõ hơn những thành tựu nổi bật mà loại hình
tín dụng này mang đến cho nền kinh tế trên toàn cầu.
Hoạt động CTTC ở Hoa Kỳ: Từ khi bắt đầu xuất hiện từ những năm đầu thế
kỷ 19, do có sự năng động và có kế hoạch kinh doanh mang tầm chiến lược dài hạn,
hiệu quả nên các thương nhân ở Hoa Kỳ đã biết kế thừa và phát huy các giá trị từ
các hoạt động cho thuê tài sản truyền thống sẵn có. Do có sự tác động của nền nền
kinh tế hàng hóa cùng với thành tựu khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ thì số
lượng và chủng loại tài sản cho thuê có sự gia tăng đáng kể về số lượng và phong
phú hơn về chủng loại, hoạt động cho thuê tài sản thực sự trở thành một ngành công
nghiệp với tốc độ phát triển mạnh mẽ và ngày càng ổn định trong nhiều năm sau đó.
Sang đến thế kỷ 20, xuất phát điểm có một nền kinh tế phát triển tốc độ cao, các
thành tựu về khoa học kỹ thuật phát triển vượt bậc thì các nhà sản xuất của Hoa Kỳ
luôn có nhu cầu và khả năng mở rộng phạm vi hoạt động sang lĩnh vực tài trợ, cung
ứng chính sản phẩm mà họ đã sản xuất dần dần hình thành nên hoạt động tín dụng
trả dần. Ở thời kỳ này, các nhà sản xuất đều có kế hoạch và mục tiêu cho việc thúc
7
đẩy tiêu thụ có hiệu quả hơn các sản phẩm do họ sản xuất ra. Họ bắt đầu lên kế
hoạch về việc cung cấp các loại MMTB đã xác lập được đơn đặt hàng cùng với lộ
trình chi trả khoản tài trợ hợp lý để khách hàng của họ có thể được sử dụng tài sản
đó vào chu trình sản xuất kinh doanh. Trong khoảng thời gian từ sau thế chiến thứ
hai, hoạt động tài trợ vốn cho người thuê thông qua chính người bán hoặc nhà sản
xuất đã chính thức phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Thêm vào đó, người sản xuất luôn luôn muốn bảo mật về công nghệ sản xuất hoặc
các thành tựu về khoa học công nghệ của mình, nên họ luôn xem xét việc cho thuê
(trái ngược với các hợp đồng mua bán đơn thuần) là cách thức giữ gìn bí mật kinh
doanh của chính họ. Đến những năm 50 của thế kỷ này, giao dịch thuê mua đó có
những bước nhảy vọt, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn, nghiệp vụ tín
dụng thuê mua hay còn gọi là thuê tài chính được sáng tạo ra vào năm 1952. Về
phương diện tài sản thuê, cùng với cách lĩnh vực kinh doanh khác thì các giao dịch
thuê phương tiện giao thông vận tải bắt đầu phát triển mạnh, nhất là trong lĩnh vực
cho thuê máy bay dân dụng. Tính đến giữa thập kỷ 90 thế kỷ 20, có khoản ½ số
lượng xe hơi mới được tiêu thụ bằng con đường CTTC. Ngày nay, có đến hơn
30% tổng số thiết bị trong các doanh nghiệp ở Hoa Kỳ đều xuất phát từ các hợp
đồng thuê tài chính. Hoạt động CTTC đã thực sự phát triển thành một ngành công
nghiệp có thành tựu quan trọng và có một câu nói nổi tiếng của Paul Getty – một
trong các nhà tỷ phú đầu tiên trên thế giới là “Cái gì tăng giá thì hãy mua – cái gì
sẽ mất giá thì hãy thuê”.
Từ thực tế các chủ thể cho thuê luôn phải đảm bảo tính an toàn cao trong
hoạt động đầu tư vốn vào các tài sản thuê, thêm vào đó trên thị trường luôn thường
trực một lực lượng có tiềm lực tài chính lớn là các NHTM hay các định chế tài
chính sẵn sàng tham gia vào các giao dịch CTTC. Hoạt động cho thuê dần dần phát
triển lên thành các hợp đồng cho thuê mang tính bắc cầu chính thức ra đời sau khi
xuất hiện các công ty cho thuê độc lập. Hợp đồng cho thuê bắc cầu ở Hoa Kỳ được
ghi nhận và thực thi nhiều nhất ở hai hình thức: Hợp đồng thuê mua đơn thuần (Non
Leverage Lease) và Hợp đồng thuê mua sử dụng kỹ thuật đòn bẩy (Leverage
8
Lease). Việc các bên lựa chọn áp dụng hợp đồng cho thuê bắc cầu góp phần làm
cho ngành công nghiệp CTTC ở Hoa Kỳ luôn có bước tiến dài tiến trình phát triển
cả ở nội địa và vươn tầm quốc tế với sự tăng trưởng ấn tượng về thị phần hàng năm
[Xem thêm Phụ lục 3] và [77, tr.5].
Tại Vương Quốc Anh: Trong lịch sử chế định hợp đồng CTTC tại Vương
quốc Anh bắt đầu hình thành từ năm 1284, ở Xứ Wales – một phần thuộc Liên Hiệp
Anh và Bắc Ailen có một đạo luật ra đời cho phép các thương nhân được thực hiện
các giao dịch về thuê động sản.
Đến đầu thế kỷ 19, nhu cầu sử dụng thiết bị trong các ngành nông nghiệp và
công nghiệp nặng bắt đầu gia tăng, cùng với nó là nhu cầu về MMTB trong ngành
vận tải (hỏa xa) là rất lớn. Do đó hoạt động cho thuê tài sản phát triển mạnh, bằng
chứng là có sự xuất hiện của các công ty cho thuê thiết bị hỏa xa chuyên nghiệp và
nhanh chóng lan rộng ra các ngành nghề, lĩnh vực khác. Cùng với sự hình thành và
phát triển của hình thức CTTC truyền thống, tại Anh, ngay từ khi xuất hiện thì trong
cấu trúc Hợp đồng cho thuê bắc cầu (U.S Leveraged Lease) thường có sự tham gia
của một bên đại diện để dàn xếp các giao dịch, gọi là các “Indenture Trustee”. Quy
trình giao kết hợp đồng cho thuê bắc cầu ở Anh thường bắt đầu từ việc bên cho thuê
thông qua các Indenture Trustee kế hợp với bên thuê cùng tiến hành thương lượng,
dàn xếp các hợp đồng mua bán tài sản cho thuê, và theo quy định của pháp luật
Anh, bên cho thuê cũng chỉ cần đảm bảo có khoản đầu tư tương đương 20% tổng
giá trị tài sản thuê để bắt đầu giao dịch cho thuê bắc cầu.
Tại Nhật Bản: Hoạt động CTTC xuất hiện tại Nhật Bản từ những năm 1960,
hoạt động cho thuê tài chính xuất hiện trong mạng lưới kinh doanh của các ngân
hàng, doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp sản xuất…. Đến năm năm 1981,
Nhật Bản có 105 doanh nghiệp hoạt động trọng lĩnh vực này và hiện nay, có khoảng
hơn 300 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực này.
Tương tự như các hình thức của hợp đồng CTTC ở Hoa Kỳ, tại Nhật Bản,
hình thức thuê (Leasing) phổ biến nhất trong nền kinh tế của họ thường có hai loại
cơ bản: (1) Thuê tiêu dùng (Operating Lease) hay còn gọi là thuê vận hành và (2)
9
thuê tài chính (Financial Leasing), còn gọi theo một số cách thức chuyển ngữ là
“thuê để mua lại”, trong các văn bản pháp lý của Ngân hàng trung ương gọi tên hình
thức thuê này là “hoạt động tín dụng trung và dài hạn”. Về hình thức pháp lý, ở
Nhật Bản ghi nhận và phát triển cả hai hình thức cho thuê bắc cầu theo Hợp đồng
thuê mua đơn thuần và Hợp đồng thuê mua sử dụng kỹ thuật đòn bẩy nợ (Janpanese
Leveraged Lease, thường được viết tắt là JLL). Trong cả hai cấu trúc cho thuê bắc
cầu của Nhật Bản, luôn luôn phải đảm bảo có hai hợp đồng để các bên ký kết và
thực hiện gồm: Hợp đồng CTTC (hợp đồng thứ nhất) và hợp đồng tài trợ vốn (hợp
đồng thứ hai). Trong hợp đồng thuê mua đơn thuần, có sự xuất hiện của nhóm các
chủ thể gồm bên cho thuê, bên đi thuê, nhà sản xuất và lắp ráp bảo trì MMTB là tài
sản thuê. Ở hợp đồng thuê mua sử dụng kỹ thuật đòn bẩy, gồm các bên là một
NHTM hoặc nhóm người cho vay và nhà bảo lãnh của bên thuê. Thời hạn cho thuê
theo các hợp đồng JLL được xác định là khoảng 120% trên tổng số vòng khấu hao
của tài sản, MMTB. Cấu trúc của một hợp đồng JLL bao gồm thành tố nợ tài trợ
vốn không vượt quá 80% và phần vốn tự có của bên được tài trợ không được thấp
dưới 20% tổng giá trị tài sản cho thuê [Xem thêm Phụ lục 4].
Tại Châu Á, do có một số nền kinh tế mới nổi phát triển rất năng động và
mạnh mẽ góp phần tạo nên doanh thu từ hoạt động CTTC trên toàn thế giới ngày
càng có nhiều dấu hiện khả thi, nổi bật là ở các thị trường đạt doanh thu trung bình
hàng năm của ngành ở Hàn Quốc là 17 tỷ USD, ở Thái Lan khoảng 2 tỷ USD… Sau
một thời gian dài phát triển thành ngành công nghiệp thuê mua, tổng sản lượng của
ngành có giá trị trao đổi khoảng 350 tỷ USD vào năm 1994, ngày nay, tổng doanh
thu hàng năm của ngành công nghiệp CTTC trên thế giới ước đạt trên 500 tỷ USD,
với đà tăng trưởng ở tốc độ trung bình 7%/năm. Hiện nay ở Mỹ, ngành thuê mua
thiết bị chiếm khoảng 25-30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị
hàng năm. Nguyên nhân chính thúc đẩy các hoạt động CTTC phát triển nhanh là do
bản chất của hoạt động này thể hiện là hình thức tài trợ vốn trong trung và dài hạn
có tính chất an toàn cao, tiện lợi và hiệu quả cho các bên tham gia giao dịch. Như
vậy, xét về mặt lý thuyết thì CTTC là một loại hình cấp vốn khá phổ biến trên thế
10
giới hiện đại và có nhiều lợi thế cạnh tranh so với các hình thức cấp vốn khác cho
các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hoạt động CTTC giúp các
doanh nghiệp này thỏa mãn nhu cầu về tài chính để tiến hành các kế hoạch sản xuất
kinh doanh kịp thời, hiện đại hóa sản xuất và bắt nhịp với tốc độ phát triển của nền
khoa học công nghệ mới.
Trong quá trình phát triển, khi thực hiện các giao dịch CTTC có giá trị cao
hoặc tài sản cho thuê là các máy móc thiết bị tân tiến lần đầu xuất hiện ở thị
trường, đặc biệt là ở các tập đoàn tài chính đa quốc gia, khi bên cho thuê không
có khả năng hoặc không muốn tài trợ toàn bộ vốn cho người thuê thì sẽ huy động
thêm nguồn vốn của bên cho thuê khác hoặc từ các NHTM. Lúc này, loại hình
cho thuê bắc cầu chính thức ra đời và ngày càng phổ biến trong các giao dịch
CTTC quan trọng, giá trị thương mại lớn. Trong ngành công nghiệp máy bay,
hoạt động cho thuê ướt tàu bay (aircraft) theo điều kiện ACMI rất phổ biến và
ngày càng đạt được tỷ trọng tăng trưởng cao.
1.1.2 . Thuê bắc cầu trong cấu trúc cho thuê tài chính
CTTC là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê
MMTB, phương tiện vận tải – vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp
đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua tài sản cho
thuê theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho
thuê. Bên thuê tài sản được quyền khai thác, vận hành, sử dụng tài sản thuê và phải
thanh toán tiền thuê, tiền lãi (nếu có) trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa
thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản đã
thuê hoặc tiếp tục gia hạn thời hạn thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong các
hợp đồng CTTC. Tổng số tiền thuê một loại tài sản được quy định tại hợp đồng,
nhưng phải thỏa mãn điều kiện ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại
thời điểm ký hợp đồng. Xét về góc độ kinh tế, CTTC là một hoạt động tín dụng
trung – dài hạn, bản chất bên cho thuê là đơn vị cấp vốn, bên thuê là người vay vốn.
Người cho thuê là chủ sở hữu về mặt pháp lý của tài sản nhưng họ không trực tiếp
sử dụng và khai thác tài sản bởi quyền lợi đó thuộc về người đi thuê. Bên đi thuê là
11
chủ sở hữu về mặt kinh tế của tài sản thể hiện ở quyền được phản ánh giá trị tài sản
cố định thuê tài chính trong Bảng tổng kết tài sản. Về mặt pháp lý, CTTC nêu ra các
quan hệ cơ bản trong giao dịch để làm cơ sở ràng buộc nghĩa vụ và bảo vệ quyền lợi
của các bên tham gia giao dịch CTTC trên cơ sở hợp đồng. Nội dung cơ bản nhất
của hợp đồng CTTC là chuyển giao gần như tất cả rủi ro và lợi ích gắn với quyền sở
hữu từ bên cho thuê sang bên thuê, mặc dù tài sản cho thuê từ khi hình thành cho
đến mọi thời điểm của giao dịch hợp đồng CTTC đều vẫn thuộc quyền sở hữu của
người cho thuê. Bên thuê tài chính chỉ có quyền sử dụng tài sản mà không được sử
dụng bất kỳ quyền gì trong việc định đoạt tài sản thuê tài chính. Trong suốt quá
trình thực hiện hợp đồng, chỉ cần bên cho thuê chứng minh được bên thuê đã vi
phạm một trong các nghĩa vụ đã quy ước thì có thể thu hồi tài sản CTTC ngay lập
tức với cương vị là chủ sở hữu đối với tài sản cho thuê.
Từ các phân tích trên, định nghĩa CTTC được quy định tại Nghị định
34/2014/NĐ-CP ngày 07/05/2014 ghi rằng:
Cho thuê tài chính là hoạt động cấp tín dụng trung, dài hạn trên cơ
sở hợp đồng cho thuê tài chính giữa bên cho thuê tài chính với bên thuê
tài chính. Bên cho thuê tài chính cam kết mua tài sản cho thuê tài chính
theo yêu cầu của bên thuê tài chính và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài
sản cho thuê tài chính trong suốt thời hạn cho thuê. Bên thuê tài chính sử
dụng tài sản thuê tài chính và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn
thuê quy định trong hợp đồng cho thuê tài chính [15, Điều 3].
Từ định nghĩa trên, hoạt động CTTC được nhận diện bởi các đặc trưng
cơ bản mà thiếu một trong các đặc điểm này sẽ không cấu thành hoạt động
CTTC, bao gồm:
i. Hoạt động cho thuê tài chính là hoạt động không thể hủy ngang: người
thuê vẫn phải trả tiền thuê kể cả trong trường hợp đã từ bỏ hoặc không sử dụng tài
sản thuê. Hợp đồng cho thuê tài chính có tính ràng buộc chặt chẽ buộc bên thuê
phải trả tiền thuê theo định kỳ trong thời hạn thuê cơ bản.
ii. Tiền thuê được tính nhằm đảm bảo khoản chi trả khoản đầu tư gốc mà
12
người cho thuê đã đầu tư tạo lập tài sản cộng với khoản lãi (mức thu nhập) đã được
xác định trước.
iii. Trong thời gian thực hiện hợp đồng CTTC, mọi rủi ro đối với tài sản thuê
do bên thuê gánh chịu và khắc phục hậu quả. Bên thuê phải thực hiện nghĩa vụ bảo
trì tài sản mặc dù quyền sở hữu vẫn thuộc bên cho thuê.
iv. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng CTTC, bên thuê có thể được
mua lại quyền sở hữu tài sản cho thuê với giá hợp lý hoặc tiếp tục thuê theo thỏa
thuận của hai bên đã dự liệu trước trong hợp đồng. Ngoài ra, bên thuê được quyền
ưu tiên mua tài sản cho thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài
sản cho thuê tại thời điểm mua lại.
v. Thời hạn cho thuê một tài sản phải ít nhất bằng 60% thời gian hữu dụng
của tài sản cho thuê đó. Thông thường, thời hạn của hợp đồng CTTC được ấn định
bằng tổng thời gian hao mòn tự nhiên của tài sản.
vi. Tổng số tiền cho thuê một tài sản quy định tại hợp đồng CTTC ít nhất bằng
giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
vii. Giá trị tài sản thuê tài chính được hạch toán vào Bảng tổng kết tài sản của
bên thuê. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của hoạt động CTTC, có ý nghĩa then chốt
khi phân biệt với các loại thuê tài sản khác [Xem Phụ lục 1].
Hiện nay, tùy thuộc vào cách thức nhận biết hoặc nhằm khái quát chung cho
các giao dịch mà xuất hiện nhiều tiêu chí phân loại các hình thức CTTC. Tuy nhiên,
phân chia theo tính chất giao dịch là một tiêu chí phân chia rất khoa học. Dựa trên
tiêu chí này, hình thức CTTC được phân chia thành các hình thức cơ bản, bao gồm:
(1) Thuê tài chính trực tiếp (Direct Finacing Lease), (2) Thuê liên kết (Syndicated
Lease), (3) Thuê bắc cầu hay còn gọi là Thuê đòn bẩy (Leveraged Lease), (4) Bán
và cho thuê lại (Sale and Leaseback Lease).
+ Hình thức cho thuê trực tiếp (Direct Finacing Lease)
Đây là hình thức CTTC mà bên cho thuê sử dụng chính các loại tài sản của
họ sẵn có (đang sở hữu) trực tiếp để cho thuê. Bên cho thuê có thể là các hãng sản
xuất ra tài sản thuê, do không muốn chuyển giao các thành tựu khoa học công nghệ,
13
họ không bán tài sản mà chỉ cho thuê dưới dạng các hợp đồng CTTC. Ngoài ra, một
số các định chế tài chính, NHTM hoặc các công ty CTTC có tiềm lực nguồn vốn
dồi dào đã mua sắm sẵn các tài sản thuê nhằm mục đích cho thuê, họ cũng sử dụng
hình thức cho thuê này. Trong giao dịch CTTC trực tiếp, chủ thể của hợp đồng
CTTC chỉ bao gồm bên thuê và bên cho thuê.
Đặc trưng cơ bản của hình thức cho thuê trực tiếp được nhận dạng khi chúng
có đầy đủ hoặc một vài các hình thức sau: tài sản cho thuê thường có giá trị không
quá lớn và thông thường chỉ là các MMTB hoặc dây chuyền sản xuất có đặc tính kỹ
thuật giản đơn; chủ thể của hợp đồng chỉ có sự tham gia trực tiếp của hai bên là bên
thuê và bên cho thuê; nguồn vốn tạo lập tài sản hoàn toàn do bên cho thuê đầu tư;
bên cho thuê có thể được quyền mua lại thiết bị khi chúng bị lạc hậu so với công
nghệ sản xuất tại từng thời điểm trong hợp đồng thuê.
Ngoài ra, thêm một tính ưu việt của hình thức cho thuê trực tiếp để nó
thường được các nhà sản xuất sử dụng để đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm do chính
họ sản xuất ra. Nghĩa là, việc sử dụng các sản phẩm thành tài sản thuê trong các hợp
đồng CTTC cũng là một kênh phân phối sản phẩm hữu hiệu, có tính bền vững. Bên
cạnh đó, do luôn luôn cập nhật những công nghệ mới để chế tạo các loại MMTB
nên các nhà sản xuất có thể sẵn sàng mua lại những thiết bị lạc hậu về công nghệ để
tiếp tục cung cấp những máy móc mới, hiện đại do chính họ chế tạo ra.
+ Hình thức cho thuê liên kết (Syndicated Lease)
Cho thuê liên kết là loại hợp đồng gồm nhiều bên cho thuê cùng thực hiện
một hoạt động tài trợ vốn cho một bên thuê. Sự liên kết này có thể xảy ra theo chiều
ngang hoặc theo chiều dọc tùy thuộc vào tính chất của tài sản thuê, hoặc khả năng
tài chính của các nhà cho thuê. Trong trường hợp tài sản có giá trị lớn, nhiều định
chế tài chính (gồm các NHTM hay nhiều công ty CTTC) hay các hãng sản xuất
cùng nhau hợp tác cho một người thuê tạo thành sự liên kết theo chiều ngang. Điều
đặc biệt là đối với hình thức cho thuê liên kết theo chiều ngang, các chế định tài
chính phải là các công ty cho thuê độc lập (Independent Leasing Conpanies), các
công ty này độc lập với bất kỳ nhà sản xuất nào, họ muc MMTB từ các nhà sản xuất
khác nhau, rồi cho thuê chúng với cùng một người thuê hoặc những người sử dụng
14
cuối cùng. Đây là đặc trưng căn bản để phân loại hợp đồng thuê độc lập hay phụ
thuộc trong hai hình thức cho thuê liên kết.
Ngược lại, thuê liên kết theo chiều dọc là khi các hãng chế tạo hoặc các định
chế tài chính lớn giao tài sản cho các công ty con, chi nhánh hoặc đơn vị trực thuộc
của chính họ để thực hiện giao dịch cho thuê cho một khách hàng. Các chế định tài
chính này thường là các tổ chức tài trợ phụ thuộc (Capive Finance Organizations).
Cùng loại hình thức cho thuê này, trong những trường hợp mà tài sản thuê có giá trị
hoặc quy mô lớn, cần phải huy động một lượng vốn đầu tư ban đầu vượt ngưỡng
cho phép đảm bảo an toàn tín dụng, hoặc tài sản thuê có tính rủi ro cao thì các chế
định tài chính này có sự phân công chuyên môn hóa ở cấp độ cao hơn. Người ta gọi
hình thức cho thuê của tổ hợp tài chính theo ngành dọc này là thuê mua liên kết, nó
cũng có thể được gọi với một cái tên khác là thuê tín thác (Trust Lease). Hình thức
thuê mua này tạo điều kiện thúc đẩy việc hợp tác kinh doanh giữa các nhà sản xuất
và các định chế tài chính như giữa công ty mẹ và công ty con hoặc giữa các công ty
thành viên thuộc các tập đoàn đa quốc gia.
+ Hình thức cho thuê bắc cầu (Leveraged Lease)
Cho thuê bắc cầu là một thuật ngữ được diễn giải từ ngôn ngữ tiếng Anh
“Leveraged Lease”, một số tài liệu khoa học diễn giải là “đòn bẩy” hoặc “cho thuê
tài chính hợp tác”, được hiểu là một phương thức CTTC. Theo đó, bên đi thuê sử
dụng phần lớn vốn vay (có thể lên tới 80%) chi phí mua sắm tài sản cho thuê từ một
hoặc nhiều định chế tài chính với việc thế chấp tài sản cho thuê là tài sản bảo đảm
cho hợp đồng vay vốn. Tiền cho thuê nhận được theo quy định của các kỳ hạn trả
nợ chính là nguồn tiền để trả nợ cho các tổ chức tài chính đã thu xếp vốn đầu tư có
tính chất bắc cầu. Hình thức CTTC này giúp cho bên cho thuê tăng năng lực tài
chính để ký kết các hợp đồng cho thuê vượt xa khả năng nguồn vốn tự có của họ.
Trình tự, thủ tục và quy trình giao dịch cấu trúc cho thuê bắc cầu sẽ được
phân tích diễn giải chi tiết ở Mục 1.1.3 của Luận văn này.
+ Hình thức bán và cho thuê lại (Sale and Leaseback Lease)
Đây là hình thức CTTC thường áp dụng đối với các nhà sản xuất hoặc người
15