Pháp luật về đấu giá tài sản để thi hành án dân sự từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh bình định

  • 63 trang
  • file .pdf
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
ĐẶNG THỊ NGỌC UYÊN
PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH
Ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã ngành: 60.38.01.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. NGUYỄN THỊ LÁNG
Tp. Hồ Chí Minh Năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên
cứu nào khác. Các số liệu, ví dụ và các trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thực hiện
xong các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Trường Đại học Kinh tế - Luật Thành
phố Hồ Chí Minh.
Rất mong Trường Đại học Kinh tế - Luật Thành phố Hồ Chí Minh xem xét
để tôi được bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan
Đặng Thị Ngọc Uyên
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
THADS Thi hành án dân sự
PHỤ LỤC
Lời cam đoan
Phần mở đầu .............................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM ………………..7
1.1. Lý luận về đấu giá tài sản để thi hành án dân sự của pháp luật Việt Nam ........ 7
1.1.1. Khái niệm về đấu giá tài sản để thi hành án dân sự ................................ 7
1.1.2. Đặc điểm về đấu giá tài sản để thi hành án dân sự ................................. 8
1.1.3. Nguyên tắc về đấu giá tài sản để thi hành án dân sự .............................. 8
1.1.4. Ý nghĩa về đấu giá tài sản để thi hành án dân sự .................................... 9
1.2. Điều kiện để tổ chức đấu giá tài sản thi hành án dân sự ..................................... 9
1.2.1. Điều kiện để tài sản Thi hành án đấu giá ................................................ 9
1.2.2. Xác định giá khởi điểm để đấu giá tài sản THADS............................... 11
1.2.3. Chủ thể đấu giá tài sản THADS ............................................................ 15
1.2.4. Trình tự, thủ tục về đấu giá tài sản để THADS ................................................. 15
1.2.5. Bàn giao tài sản trúng đấu giá ................................................................ 22
1.2.6. Chuyển quyền sở hữu cho người mua được tài sản đấu giá .................. 22
1.2.7. Thanh lý hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản ............................................................23
Kết luận chương 1 .................................................................................................... 23
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH VÀ NHỮNG KIẾN
NGHỊ ....................................................................................................................... 25
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu giá tài sản để thi hành án dân sự tại tỉnh
Bình Định ................................................................................................................. 25
2.1.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu giá tài sản để THADS trong những
năm gần đây tại tỉnh Bình Định và kết quả đạt được ............................................... 25
2.1.2. Một số giải pháp nhằm hạn chế những khó khăn, vướng mắc trong đấu
giá tài sản để thi hành án dân sự tại tỉnh Bình Định ………………………... …….41
2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong đấu giá tài sản để thi hành án
dân sự ....................................................................................................................... 43
2.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật đấu giá tài sản để thi hành
án dân sự................................................................................................................... 43
2.2.2. Một số kiến nghị về thực hiện pháp luật đấu giá tài sản trong thi hành án
dân sự ....................................................................................................................... 50
Kết luận chương 2 .................................................................................................... 54
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………… 56
Tài liệu tham khảo
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát từ mục tiêu xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, trên cơ sở chủ trương xã hội hóa hoạt động đấu giá tài sản gắn liền với sự
phát triển nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay.
Hoạt động đấu giá tài sản được hình thành từ lâu ở một số nước trên thế giới và ở
Việt Nam. Đây là hình thức mua bán phổ biến trong nền kinh tế thị trường, nhằm mục đích
đưa tài sản tiếp cận với đại chúng, với người mua, qua đó phát huy cao nhất giá trị tài sản
mà người bán tài sản đấu giá mong muốn đạt được.
Ở Việt Nam, hoạt động bán đấu giá được hình thành trong thời kỳ Pháp
thuộc, đấu giá tài sản do các hỗ giá viên thực hiện. Sau Cách mạng tháng tám thành
công, chức danh hỗ giá viên tiếp tục quy định trong Nghị định số 37 ngày
01/12/1945 về tổ chức Bộ Tư pháp và việc đấu giá tài sản trong thời kỳ này được
thực hiện theo các quy định của thời kỳ đầu. Đến giai đoạn tiếp theo, hoạt động đấu
giá tài sản chủ yếu liên quan đến việc phát mại tài sản để thi hành án, được quy định
tại Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 quy định về việc phát mại tài sản theo lệnh
Tối cao quy định về việc Tòa án kê biên, phát mại tài sản để thi hành án của Tòa án
và Thông tư số 04-NCPL ngày 14/4/1966 của Tòa án nhân dân. Sự ra đời của Pháp
lệnh Thi hành án dân sự (THADS) ngày 28/8/1989 là cơ sở pháp lý đánh dấu cho
việc hình thành và phát triển việc bán đấu giá tài sản để THADS, Điều 28 của Pháp
lệnh THADS quy định về bán đấu giá tài sản đã kê biên.
Từ đó, đấu giá tài sản là một trong những loại hình pháp lý diễn ra thường
xuyên trong đời sống xã hội, góp phần quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, được điều chỉnh thông qua các quy định của pháp luật về bán đấu
giá tài sản cũng như Nghị định số 86-CP ngày 19/12/1996 của Chính phủ về việc
ban hành Quy chế bán đấu giá tài sản, Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày
2
18/01/2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP
ngày 04/3/2010 của Chính phủ quy định về đấu giá tài sản và đến nay Luật đấu giá
tài sản ra đời năm 2016, có hiệu lực ngày 01/7/2017 cùng các quy định của pháp
luật có liên quan đến hoạt động đấu giá tài sản. Và đấu giá tài sản là một trong
những hoạt động pháp lý được xã hội ngày càng quan tâm và pháp luật luôn điều
chỉnh cho phù hợp với thực tiễn xã hội nhất là việc xã hội hóa lĩnh vực bán đấu giá
tài sản trên cả nước như hiện nay. Để hoạt động đấu giá tài sản phù hợp với thực
tiễn đời sống và được đảm bảo theo quy định pháp luật nên Luật đấu giá tài sản ra
đời cùng một số văn bản hướng dẫn thực hiện, trên cơ sở kế thừa nội dung của các
Nghị định về bán đấu giá tài sản trước đây, đồng thời Luật đấu giá tài sản quy định
một số điểm mới cho phù hợp với thực tế cơ chế hoạt động đấu giá tài sản trong
thời kỳ hội nhập quốc tế của nước ta.
Như vậy, pháp luật về đấu giá tài sản nói chung và tài sản thi hành án dân sự
nói riêng đều nhằm đưa tài sản ra đấu giá để thi hành pháp luật, thi hành bản án,
quyết định có hiệu lực của Tòa án và đấu giá tài sản thi hành án dân sự là một hình
thức xử lý tài sản bị kê biên cưỡng chế. Đây là biện pháp nghiêm khắc để bảo đảm
hiệu lực thực thi của bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế nhằm khôi phục lại
quyền và lợi ích hợp pháp cho người được thi hành án, qua đó thể hiện tính nghiêm
minh của pháp luật, tài sản thi hành án được bán công khai, khách quan thì quyền lợi
của chính người phải thi hành án cũng được bảo đảm.
Thực tiễn từ khi hình thành đến nay, trải qua gần 30 năm thực hiện Pháp luật
về bán đấu giá tài sản THADS đã đạt được một số kết quả đáng kể, song vẫn còn
một số hạn chế, vướng mắc. Nguyên nhân đó là hành lang pháp lý cho hoạt động
này chưa thực sự hoàn thiện, pháp luật quy định về trình tự, thủ tục đấu giá còn
chưa rõ ràng, bất cập khi thực hiện trong đời sống thực tế, dẫn đến nhiều cách hiểu
khác nhau, đồng thời pháp luật đấu giá tài sản quy định chế tài đối với đội ngũ đấu
giá viên còn chưa nghiêm khắc nên khi Đấu giá viên vi phạm nguyên tắc nghề
nghiệp cơ quan quản lý theo thẩm quyền còn chưa xử lý kịp thời, các cơ quan có
liên quan đến hoạt động đấu giá tài sản THADS chưa thật sự phối hợp trong quá
3
trình xử lý tài sản THADS thông qua đấu giá cũng như giao tài sản trúng đấu giá
cho người mua được tài sản, dẫn đến tình trạng khách hàng có tâm lý ngại hoặc
không muốn mua tài sản THADS đấu giá vì sợ rủi ro, tiền mất tật mang.
Từ đó, Luật đấu giá tài sản ra đời là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng
đánh dấu cho sự mở đầu của Luật đấu giá tài sản, góp phần trong việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam, là cơ sở pháp lý đảm bảo cho mọi cá nhân, tổ chức thực
hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định pháp luật, đồng thời nâng
cao tính pháp lý và đưa pháp luật vào đời sống, góp phần cho sự phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế, đáp ứng nhu cầu phát triển
ngày càng cao của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo
mục tiêu xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và đó cũng là lý do tác giả chọn đề tài
“Pháp luật về đấu giá tài THADS và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bình Định” làm đề
tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, trước yêu cầu đổi mới đất nước, cải cách hành chính và
cải cách Tư pháp đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đề cập đến
vấn đề bán đấu giá tài sản ở Việt Nam nói chung và đấu giá tài sản THADS nói
riêng đã được công bố, cụ thể về đề tài nghiên cứu có “Hoàn thiện pháp luật về bán
đấu giá tài sản nhằm thúc đẩy thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” của tác giả Võ Đình Toàn, Vũ Văn Cương, Nguyễn Mạnh Cường
năm 2011. Các đề tài nghiện cứu trên đã có một số thành công nhất định.
Về Luận văn luận án có: “Pháp luật về đấu giá tài sản trong thương mại ở
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Mạnh Cường năm 2012 tại Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam; “Quản lý Nhà nước về hoạt động bán đấu giá tài sản từ thực tiễn thành
phố Hồ Chí Minh” của tác giả Phạm Văn Sỹ năm 2006 tại Học viện Hành chính
quốc gia.
Về tạp chí khoa học có: “Pháp luật về bán đấu giá tài sản” - Số chuyên đề
Tạp chí dân chủ và Pháp luật 2012; “Một số vướng mắc về bán đấu giá tài sản để thi
4
hành án” của Đinh Duy Bằng trong Tạp chí dân chủ và Pháp luật số chuyên đề
tháng 02/2012; “Vướng mắc trong bán đấu giá tài sản để THADS” của tác giả Lệ
Thủy trong Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề tháng 11/2007; “Một số bất
cập trong việc định giá, định giá lại tài sản kê biên” của tác giả Vũ Hòa trong tạp
chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 12/2012;
Tuy nhiên, trong thời điểm Luật đấu giá tài sản năm 2016 ra đời và có hiệu
lực thực hiện, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ
thống và toàn diện các vấn đề về bán đấu giá tài sản THADS theo pháp luật Việt
Nam. Vì vậy, đây là điểm để cho tác giả chọn đề tài “Pháp luật về đấu giá tài sản để
thi hành án dân sự từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bình Định” để làm luận văn Thạc sĩ
của mình, trên cơ sở các văn bản pháp luật về đấu giá tài sản THADS nhất là những
quy định mới của Luật đấu giá tài sản năm 2016, nhằm góp phần hoàn thiện và thực
thi pháp luật về đấu giá tài sản THADS, đưa Luật đấu giá tài sản vào đời sống.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về đấu giá tài sản để thi
THADS từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bình Định” nhằm làm rõ cơ sở khoa học, lý
luận và thực tiễn của pháp luật về đấu giá tài sản THADS của Việt Nam nói chung
và việc thực hiện pháp luật về đấu giá tài sản để THADS tại tỉnh Bình Định nói
riêng. Luận văn chủ yếu tập trung giải quyết các nội dung cơ bản sau đây:
Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về đấu giá tài sản THADS của
pháp luật Việt Nam.
Hai là, phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về đấu giá
tài sản để THADS từ thực tiễn áp dụng đấu giá tài sản THADS tại tỉnh Bình Định.
Từ đó, tìm ra những bất cập, hạn chế để có những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả trong hoạt động đấu giá tài sản THADS trong thời gian đến.
Ba là, trên cơ sở những tồn tại, hạn chế, tác giả đưa ra những đề xuất kiến
nghị cụ thể dựa trên những luận cứ khoa học nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật về đấu giá tài sản THADS của Việt Nam. Qua đó, phát hiện những bất cập
5
và đề xuất một số giải pháp nhằm làm cơ sở hoàn thiện pháp luật về đấu giá tài sản
THADS trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý
luận về đấu giá tài sản để THADS, các quy định của pháp luật về đấu giá tài sản để
THADS và thực tiễn áp dụng của việc đấu giá tài sản THADS tại tỉnh Bình Định.
Về phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ luận văn Thạc sĩ Luật học, luận
văn này tập trung nghiên cứu đề tài trong phạm vi các quy định của pháp luật Việt
Nam về đấu giá tài sản để THADS và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bình Định.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với tư tưởng đổi
mới đồng bộ thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với chủ
trương của Đảng và Nhà nước ta đối với lĩnh vực đấu giá tài sản nói chung và tài
sản THADS nói riêng trong quá trình hội nhập quốc tế.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp lịch sử, phương pháp
phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn, so sánh cũng sẽ được sử dụng đồng thời với
các phương pháp quy nạp, hệ thống hóa các vấn đề cần nghiên cứu ở mức độ phù
hợp để hoàn thành mục tiêu của đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn này là một công trình nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu, góp
phần làm phong phú thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề pháp lý của pháp luật
về đấu giá tài sản THADS. Từ đó chỉ ra những bất cập và thiếu sót trong các quy
định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, giảng viên, khoa
luật và những người nghiên cứu khoa học quan tâm đến vấn đề này. Ngoài ra, nó
mang tính định hướng cho các nhà làm luật để sửa đổi các quy định của pháp luật
về đấu giá tài sản nói chung và tài sản THADS nói riêng để phù hợp với thực tiễn
hiện nay và nhất là sự vận động phát triển của xã hội theo quy luật của nó.
6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của Luận văn gồm 2 Chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về đấu giá tài sản để THADS của
pháp luật Việt Nam
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu giá tài sản để THADS tại tỉnh
Bình Định và những kiến nghị.
7
CHƢƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Lý luận về đấu giá tài sản để THADS của pháp luật Việt Nam
1.1.1. Khái niệm về đấu giá tài sản để THADS
Theo Luật đấu giá tài sản năm 2016 thì đấu giá tài sản là hình thức bán tài
sản có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc, trình tự và thủ tục
được quy định tại Luật đấu giá tài sản, trừ trường hợp quy định tại Điều 49 của Luật
này. Tài sản đấu giá là tài sản được phép giao dịch theo quy định của pháp luật, là
tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá kể cả tài sản do tổ chức,
cá nhân tự nguyện lựa chọn bán thông qua đấu giá.
Tài sản thi hành án được xử lý thông qua đấu giá tài sản để thi hành án dân
sự, thi hành bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực, được thi hành theo quy định
pháp luật. Do đó, đấu giá tài sản trong THADS khác với đấu giá tài sản thông
thường ở thủ tục trước và sau khi tổ chức đấu giá. Trước khi tổ chức đấu giá, sự
khác biệt thể hiện ở thủ tục chuyển giao tài sản đấu giá được thực hiện giữa tổ chức
thực hiện đấu giá với cơ quan THADS. Cơ quan THADS tiến hành thủ tục kê biên,
định giá tài sản, ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản và tổ chức đấu giá tài sản
và sau khi kết thúc việc đấu giá tài sản thì cơ quan THADS tiến hành thủ tục bàn
giao, thanh toán chi phí thù lao dịch vụ đấu giá tài sản, phối hợp làm thủ tục chuyển
quyền sở hữu tài sản cho người mua được tài sản đấu giá.
Như vậy, đấu giá tài sản là hình thức mua bán đặc biệt, bản chất là một
phương thức mua bán công khai tài sản, có nhiều người tham gia trả giá, được tổ
chức theo những nguyên tắc và trình tự, thủ tục nhất định. Theo đó, người mua tự
trả giá dựa trên giá khởi điểm do bên bán đưa ra. Người nào trả giá cao nhất mà
không có người trả giá cao hơn và đáp ứng điều kiện quy định của cuộc đấu giá sẽ
là người trúng đấu giá, người mua được tài sản đấu giá.
8
1.1.2. Đặc điểm về đấu giá tài sản để THADS
Đối với tài sản THADS đấu giá thì ý chí của người phải thi hành án không
mong muốn việc đấu giá mà bị ép buộc, cưỡng chế nên thường có tâm lý chây ỳ, cố
tình gây khó khăn, cản trở trong quá trình đấu giá tài sản THADS, nhưng sự cần
thiết của việc đấu giá tài sản THADS là nhằm thực thi pháp luật, quyết định, bản án
của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải thi hành, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng
của các bên được pháp luật bảo vệ và tài sản được mang ra đấu giá để THADS có
tính chất đặc thù về giá trị và giá trị sử dụng.
Vì vậy, việc đấu giá tài sản THADS thực hiện theo trình tự, thủ tục đấu giá
tài sản thông qua các hình thức đấu giá công khai theo quy định Luật đấu giá tài
sản, pháp luật THADS và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên tham gia. Trong đấu
giá tài sản thi hành án thì ngoài bên có tài sản đấu giá (người phải thi hành án) và tổ
chức đấu giá tài sản làm dịch vụ đấu giá còn có đại diện cơ quan THADS, chấp
hành viên là người có quyền đưa tài sản ra đấu giá theo quy định pháp luật.
1.1.3. Nguyên tắc về đấu giá tài sản để THADS
Tài sản THADS là một trong những loại tài sản đấu giá theo quy định pháp
luật và phải tuân thủ theo nguyên tắc đấu giá tài sản được quy định tại Điều 6 của
Luật đấu giá tài sản năm 2016, đó là các nguyên tắc sau:
- Tuân thủ quy định của pháp luật.
- Bảo đảm tính độc lập, trung thực, công khai, minh bạch, công bằng, khách quan.
- Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người có tài sản đấu giá, người tham
gia đấu giá, người trúng đấu giá, người mua được tài sản đấu giá, tổ chức đấu giá tài
sản, đấu giá viên.
- Cuộc đấu giá phải do đấu giá viên điều hành, trừ trường hợp cuộc đấu giá
do Hội đồng đấu giá tài sản thực hiện.
Để tổ chức một cuộc đấu giá tài sản THADS đảm bảo quy định của pháp
luật, trước hết đòi hỏi việc đấu giá tài sản phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục của
Luật đấu giá tài sản và trên cơ sở những nguyên tắc nhất định, đó là nguyên tắc
công khai, liên tục; nguyên tắc khách quan, trung thực, bình đẳng; nguyên tắc bảo
9
vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia và mọi cuộc đấu giá đều phải do đấu giá
viên điều hành theo đúng trình tự, thủ tục đấu giá và ngoài những nguyên tắc chung
về đấu giá tài sản do Luật đấu giá tài sản quy định thì đối với tài sản thi hành án là
một loại tài sản đấu giá và khi tổ chức đấu giá phải thực hiện theo trình tự, thủ tục
của Luật đấu giá tài sản và theo quy định của pháp luật về THADS như kê biên,
cưỡng chế, định giá tài sản và ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản với tổ chức đấu
giá tài sản theo quy định pháp luật.
1.1.4. Ý nghĩa về đấu giá tài sản để THADS
Đấu giá tài sản nói chung và tài sản THADS nói riêng là cách thức tổ chức
đấu giá tài sản theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Và tùy vào
từng loại tài sản đấu giá sẽ áp dụng pháp luật liên quan đến tài sản đấu giá cho phù
hợp. Từ đó, đấu giá tài sản THADS ngoài việc thực hiện trình tự, thủ tục theo quy
định pháp luật về đấu giá tài sản còn phải thực hiện những quy định của pháp luật
về THADS và pháp luật có liên quan đến tài sản đấu giá.
Tài sản thi hành án thông qua đấu giá nhằm đảm bảo pháp luật được thực thi,
các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành trong đời sống, quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên tham gia được pháp luật bảo vệ theo quy định của pháp
luật, đồng thời góp phần hoàn thành nhiệm vụ chung của công tác THADS, của
ngành Tư pháp nhất là đáp ứng nhu cầu và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong
quá trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay.
1.2. Điều kiện để tổ chức đấu giá tài sản THADS
1.2.1. Điều kiện để tài sản THADS đấu giá
Điều 4 của Luật đấu giá tài sản năm 2016 quy định về tài sản đấu giá, trong
đó tài sản thi hành án là một trong các loại tài sản đấu giá theo quy định pháp luật.
Tại điểm a, b và c, khoản 1, Điều 8 của Luật đấu giá tài sản năm 2016 thì giá
khởi điểm của tài sản đấu giá được xác định tại thời điểm: trước khi ký kết hợp
đồng dịch vụ đấu giá tài sản; trước khi thành lập Hội đồng đấu giá tài sản, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác và trước khi tổ chức Nhà nước sở hữu 100%
vốn Điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng tự đấu giá
10
và điểm a, khoản 2, Điều 8 quy định giá khởi điểm của tài sản đấu giá được xác
định như sau: “Đối với tài sản đấu giá quy định tại khoản 1, Điều 4 của Luật đấu giá
tài sản năm 2016 thì giá khởi điểm được xác định theo quy định của pháp luật áp
dụng đối với loại tài sản đó”. Như vậy, “Tài sản thi hành án đấu giá, thì giá khởi
điểm được xác định theo quy định của pháp luật về THADS”.
Để xác định được hình thức bán tài sản kê biên, khoản 2, Điều 101 của Luật
THADS năm 2008 quy định những tài sản thuộc diện bán đấu giá do tổ chức bán
đấu giá thực hiện, bao gồm: tài sản là bất động sản và tài sản là động sản có giá trị
từ trên 10 triệu đồng. Từ đó, đối với mọi tài sản kê biên là bất động sản thì đều phải
thực hiện bán tài sản thông qua thủ tục đấu giá do tổ chức đấu giá tài sản thực hiện.
Còn đối với tài sản kê biên là động sản thì chấp hành viên căn cứ vào giá khởi điểm
để lựa chọn cách thức xử lý tài sản cho phù hợp và đảm bảo quy định pháp luật.
Việc kê biên tài sản là thủ tục đầu tiên hết sức quan trọng để xác định tài sản
kê biên có đủ điều kiện được đưa ra đấu giá hay không. Việc kê biên, xử lý tài sản
của người phải thi hành án chính là việc Cơ quan THADS tước đi quyền tự định
đoạt đối với tài sản của chủ sở hữu, sử dụng tài sản. Do đó, bên cạnh việc đảm bảo
quyền và lợi ích của người được thi hành án theo phán quyết của Tòa án thì cũng
phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người phải thi hành án đối với tài sản
bị kê biên, xử lý nên trình tự thủ tục kê biên, xử lý tài sản được quy định hết sức
chặt chẽ qua nhiều giai đoạn. Từ đó, đấu giá viên cần hiểu rõ quy trình, thủ tục kê
biên tài sản để xem xét hồ sơ ban đầu của Chấp hành viên đưa ra đề nghị đấu giá có
đúng quy định của pháp luật không, tránh việc đã đưa tài sản ra đấu giá mà người
phải thi hành án có khiếu nại về trình tự, thủ tục kê biên không đúng làm gián đoạn
tiến trình đấu giá tài sản để THADS.
Như vậy, người có thẩm quyền kê biên tài sản của người phải thi hành án là
Chấp hành viên được giao thi hành bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp
luật. Khi hết thời gian tự nguyện mà người phải thi hành án có điều kiện thi hành án
(có tài sản) nhưng không tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên có quyền kê
biên tài sản thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án, kể cả tài sản này do
11
người thứ ba giữ theo trình tự, thủ tục luật định. Chấp hành viên tiến hành cưỡng
chế kê biên tài sản theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại các Điều 70, 71, 72, 73,
74 và từ Điều 87 đến Điều 96 của Luật THADS năm 2008. Việc kê biên phải lập
thành biên bản cưỡng chế kê biên tài sản. Biên bản phải ghi rõ giờ, ngày, tháng,
năm kê biên, họ, tên Chấp hành viên, đương sự hoặc người được ủy quyền, người
lập biên bản, người làm chứng và người có liên quan đến tài sản; diễn biến của việc
kê biên; mô tả tình trạng từng tài sản, yêu cầu của đương sự và ý kiến của người
làm chứng. Biên bản kê biên có chữ ký của đương sự hoặc người được ủy quyền,
người làm chứng, đại diện chính quyền cấp xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ dân
phố tổ chức cưỡng chế, Chấp hành viên và người lập biên bản, sau đó tiến hành
định giá tài sản kê biên để tổ chức đấu giá tài sản đã kê biên.
1.2.2. Xác định giá khởi điểm để đấu giá tài sản THADS
1.2.2.1. Định giá tài sản kê biên
Định giá tài sản là một khâu quan trọng trong quy trình cưỡng chế kê biên,
xử lý tài sản để thi hành án. Việc định giá tài sản kê biên nhằm mục đích xác định
giá khởi điểm của tài sản thi hành án để bán đấu giá, thi hành nghĩa vụ trả tiền của
người phải thi hành án. Do đó, việc định giá này có ý nghĩa rất quan trọng trong quá
trình giải quyết việc THADS. Định giá và đấu giá tài sản THADS là một hoạt động
thường gắn liền với biện pháp cưỡng chế thi hành án, vì vậy cần phải có những quy
định cụ thể, rõ ràng, tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan THADS và chấp hành viên thực
hiện nhiệm vụ theo quy định pháp luật, đảm bảo cho hiệu lực của bản án, quyết định
dân sự của Tòa án đã tuyên được thi hành trên thực tế đạt hiệu quả.
Như vậy, định giá tài sản kê biên nhằm xác định giá khởi điểm của tài sản thi
hành án. Giá khởi điểm là giá ban đầu thấp nhất của tài sản đấu giá trong trường hợp
đấu giá theo phương thức trả giá lên; giá ban đầu cao nhất của tài sản đấu giá trong
trường hợp đấu giá theo phương thức đặt giá xuống. Đây là một khâu rất quan trọng,
liên quan đến việc xác định giá khởi điểm của tài sản THADS đấu giá. Giá khởi điểm
của tài sản THADS được xác định bằng nhiều hình thức khác nhau và tuân theo trình
12
tự luật định, đòi hỏi chấp hành viên cũng như đấu giá viên cần nắm và vận dụng
chính xác quy định pháp luật về xác định giá khởi điểm của tài sản THADS đấu giá.
* Quy định của pháp luật về định giá tài sản kê biên bán đấu giá để
THADS.
Định giá tài sản kê biên, bán đấu giá để giải quyết việc thi hành án hiện nay
được thực hiện theo quy định tại Điều 98 của Luật THADS năm 2008.
Ngay khi kê biên tài sản mà đương sự thỏa thuận được về giá tài sản hoặc về
tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên lập biên bản về thỏa thuận đó. Giá tài sản
do đương sự thỏa thuận là giá khởi điểm để bán đấu giá. Trường hợp đương sự có
thỏa thuận về tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ
chức thẩm định giá đó. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên tài sản,
Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản kê biên trong các trường hợp sau:
+ Đương sự không thỏa thuận được về giá và không thỏa thuận được việc lựa
chọn tổ chức thẩm định giá;
+ Tổ chức thẩm định giá do đương sự lựa chọn từ chối việc ký hợp đồng dịch vụ;
+ Thi hành phần bản án, quyết định quy định tại khoản 1, Điều 36 của Luật
THADS năm 2008.
- Chấp hành viên xác định giá trong các trường hợp sau đây:
+ Không thực hiện được việc ký hợp đồng dịch vụ như quy định nêu trên (Tổ
chức thẩm định giá do đương sự lựa chọn từ chối việc ký hợp đồng dịch vụ);
+ Tài sản kê biên thuộc loại tươi sống, mau hỏng hoặc có giá trị nhỏ mà đương
sự không thỏa thuận được với nhau về giá. Chính phủ quy định về tài sản có giá trị nhỏ.
Ngoài ra, tại Điều 15 của Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của
Chính phủ quy định chi tiết của Luật THADS về thủ tục THADS còn quy định việc
xác định giá đối với tài sản kê biên như sau: chấp hành viên xác định giá đối với tài
sản kê biên có giá trị nhỏ là tài sản mà tại thời điểm xác định giá, sản phẩm cùng
loại chưa qua sử dụng có giá bán trên thị trường không quá 2.000.000 đồng (hai
triệu đồng); Trường hợp do không ký được hợp đồng dịch vụ quy định tại Điều 98
13
Luật THADS, chấp hành viên tham khảo ý kiến của cơ quan tài chính, cơ quan
chuyên môn có liên quan trước khi xác định giá của tài sản kê biên.
Như vậy, theo quy định của pháp luật về THADS thì việc định giá tài sản kê
biên để đấu giá hiện nay được tiến hành thông qua các hình thức:
- Giá do các đương sự thỏa thuận: Căn cứ vào khoản 1, Điều 98 của Luật
THADS năm 2008 thì ngay khi kê biên tài sản mà đương sự thỏa thuận được giá tài
sản thì Chấp hành viên lập biên bản về thỏa thuận đó. Giá tài sản do đương sự thỏa
thuận là giá khởi điểm để bán đấu giá. Khoản 2, Điều 3 của Luật THADS năm 2008
cũng quy định “đương sự bao gồm người được thi hành án, người phải thi hành án”.
- Giá do tổ chức thẩm định giá xác định: là giá khởi điểm để bán đấu giá.
Gía khởi điểm của tài sản bán đấu giá sẽ được thể hiện tại Chứng thư thẩm định giá
do tổ chức thẩm định giá phát hành.
- Chấp hành viên xác định giá: căn cứ khoản 3, Điều 98 của Luật THADS
năm 2008 thì Chấp hành viên xác định giá trong hai trường hợp sau:
+ Không thực hiện được việc ký hợp đồng dịch vụ quy định tại khoản 2,
Điều 98 của Luật THADS.
+ Tài sản kê biên thuộc loại tươi sống, mau hỏng hoặc có giá trị nhỏ mà
đương sự không thỏa thuận được với nhau về giá. Tài sản có giá trị nhỏ là tài sản
mà tại thời điểm xác định giá, sản phẩm cùng loại chưa qua sử dụng có giá bán trên
thị trường không quá năm triệu đồng.
Chấp hành viên là người chịu trách nhiệm về việc xác định giá tài sản khởi
điểm tài sản. Giá do chấp hành viên xác định trong trường hợp này cũng là giá khởi
điểm để bán đấu giá tài sản THADS.
1.2.2.2. Định giá lại tài sản kê biên
Theo quy định của Luật THADS năm 2008 thì việc định giá lại tài sản được
thực hiện trong các trường hợp sau:
- Thứ nhất, Chấp hành viên có vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 98 của
Luật THADS 2008 dẫn đến sai lệch kết quả định giá tài sản (khoản 1, Điều 99);
14
- Thứ hai, đương sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai
về việc bán đấu giá tài sản (khoản 2, Điều 99);
- Thứ ba, Điều 104 Luật THADS sửa đổi năm 2014 quy định "trong thời hạn
10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của chấp hành viên và yêu cầu đương sự
thỏa thuận về mức giảm giá tài sản, nếu đương sự không thỏa thuận hoặc thỏa thuận
không được về mức giá thì chấp hành viên quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục
bán đấu giá và mỗi lần giảm giá không quá 10% giá khởi điểm của lần bán đấu giá
liền kề trước đó. Từ sau lần giảm giá thứ hai trở đi mà không có người tham gia đấu
giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì người được thi hành án có quyền nhận
tài sản trừ vào số tiền được thi hành án”. Song thực tế thì người được thi hành án
thường không nhận tài sản và tài sản lại tiếp tục giảm giá để bán đấu giá cho đến
khi tài sản bán đấu giá thành.
* Về thủ tục định giá lại: Theo quy định tại khoản 2 Điều 99 Luật THADS
năm 2008, việc định giá lại tài sản kê biên được thực hiện theo quy định tại khoản 2
và khoản 3, Điều 98 của Luật THADS năm 2008 thì khi định giá lại đương sự cũng
có quyền lựa chọn tổ chức thẩm định giá và Chấp hành viên phải ký hợp đồng dịch
vụ với tổ chức thẩm định giá do đương sự lựa chọn. Vì vậy, một trong những thủ
tục rất quan trọng khi định giá lại là Chấp hành viên phải cho các đương sự thỏa
thuận về việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá. Nếu các đương sự không thỏa thuận
được thì Chấp hành viên mới ký hợp đồng với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn
tỉnh, thành phố, trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên. Do đó, khi có kết quả
định giá lại Đấu giá viên cũng cần lưu ý quy định này để xem xét tính hợp pháp của
hồ sơ thi hành án trước khi ký hợp đồng bán đấu giá tài sản.
1.2.3. Chủ thể đấu giá tài sản THADS
1.2.3.1. Tổ chức đấu giá tài sản và Đấu giá viên
Theo khoản 12, Điều 5 của Luật đấu giá tài sản năm 2016 thì Tổ chức đấu
giá tài sản bao gồm Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản và Doanh nghiệp đấu giá tài
sản.
15
Đấu giá viên là người được cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá. Là chủ thể
tham gia quan hệ đấu giá tài sản nói chung và tài sản THADS nói riêng và đấu giá
viên phải làm trong tổ chức đấu giá tài sản như Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản và
Doanh nghiệp đấu giá tài sản.
1.2.3.2. Người có tài sản đấu giá và người sở hữu tài sản đấu giá
Người có tài sản đấu giá là cá nhân, tổ chức sở hữu tài sản, người được chủ
sở hữu tài sản ủy quyền bán đấu giá tài sản hoặc người có quyền đưa tài sản ra đấu
giá theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Đối với tài sản THADS đấu giá thì Thủ trưởng Cơ quan THADS hay Chấp
hành viên là người có tài sản đấu giá, có quyền đưa tài sản THADS ra đấu giá theo
quy định của pháp luật.
1.2.3.3. Người tham gia đấu giá tài sản
Người tham gia đấu giá tài sản là cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện tham gia
đấu giá để mua tài sản đấu giá theo quy định của Luật đấu giá tài sản và quy định
khác của pháp luật có liên quan.
1.2.3.4. Người có quyền và nghĩa vụ liên quan đấu giá tài sản THADS
Trong THADS, người được thi hành án có quyền lợi liên quan đến việc đấu
giá tài sản THADS. Họ có quyền thỏa thuận quyết định tổ chức thẩm định giá, tổ
chức đấu giá, yêu cầu định giá lại tài sản và nhận tiền bán đấu giá tài sản thành.
1.2.4. Trình tự, thủ tục về đấu giá tài sản để thi hành án dân sự
1.2.4.1. Ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản
Căn cứ khoản 1, Điều 33 của Luật đấu giá tài sản và khoản 2, Điều 101 của
Luật THADS năm 2008 thì người có tài sản đấu giá ký kết hợp đồng dịch vụ đấu
giá tài sản với tổ chức đấu giá tài sản. Đối với tài sản thi hành án thì Chấp hành viên
có thẩm quyền xử lý tài sản của cơ quan THADS. Giám đốc Trung tâm dịch vụ đấu
giá tài sản hoặc Giám đốc doanh nghiệp đấu giá tài sản hoặc đại diện hợp pháp hoặc
đại diện theo ủy quyền của tổ chức đấu giá tài sản.
Chấp hành viên làm việc trực tiếp với tổ chức đấu giá tài sản để thảo thuận
một số điều khoản cần thiết trong hợp đồng. Khi tiếp nhận hồ sơ yêu cầu bán đấu