Phân tích tình hình thực hiện chính sách thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập trên địa bàn tỉnh hưng yên
- 160 trang
- file .pdf
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
----------------------
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
ngành: Quản trị kinh doanh
Mã Số:
Phân tích tình hình thực hiện chính sách
thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập trên
địa bàn tỉnh hưng yên
Người hướng dẫn khoa học: pgs -TS. Trần trọng phúc
Nguyễn văn chương
HÀ NỘI - 2007
Lời cảm ơn
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Trung tâm Đào tạo và Bồi
dưỡng sau đại học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ
tôi trong suốt khoá học và trong quá trình hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn toàn thể các thày cô giáo Khoa Kinh tế và
quản lý Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã tận tình giảng dạy và chỉ dẫn,
cung cấp tài liệu và mang lại cho tôi những tri thức rất cần thiết và vô cùng
quý báu.
Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó Giáo sư - Tiến sỹ
Trần Trọng Phúc người đã quan tâm giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, cán bộ, giáo viên, các bạn học
sinh Trường Quản lý kinh tế công nghiệp và Ban lãnh đạo các doanh nghiệp
đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 11 năm 2007
Người viết luận văn
Nguyễn Minh Hải
1
PHầN Mở ĐầU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Đại hội X của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu tổng
quát của chiến lược phát triển xã hội cho 10 năm đầu của thế kỷ XXI là "Đưa
đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật
chất, văn hoá tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành 1 nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá" Đồng thời Đại hội
Đảng IX đã chỉ rõ quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục nước ta đó là: "Giáo
dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là yếu tố cơ
bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Đảng, nhà nước và nhân dân ta ngày càng coi trọng vai trò của giáo
dục, quan tâm nhiều hơn và đòi hỏi giáo dục phải đổi mới và phát triển đáp
ứng nhu cầu ngày càng lớn của mọi tầng lớp nhân dân về học tập và tiếp thu
những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, rèn luyện những phẩm chất, năng lực
cần thiết trong thời kỳ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Mặt khác thực tiễn chuyển đổi cơ chế và phát triển kinh tế đòi hỏi giáo
dục phải tiếp cận và thích nghi vơi cơ chế mới, phải luôn phát triển và đi
trước một bước đón đầu sự phát triển của xã hội.
Để phục vụ tốt cho sự nghiệp phát triển phát triển kinh tế - xã hội cơ
cấu đội ngũ lao động không những cần cân đối và ngành nghề, đủ về số lượng
mà nền kinh tế nước ta đang rất cần đội ngũ kỹ thuật cao cấp nhằm kịp thời
đáp ứng nhu cầu đổi mới Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ai cũng biết sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay bên cạnh những đội
ngũ lao động có trình độ đại học, sau đại học cần có một số lượng lớn các kỹ
2
thuật viên, nhân viên kinh tế ở trình độ Cao đẳng, có lý luận cơ bản, tay nghề
thành thạo để tiếp nhận công nghệ mới, chế độ chuẩn mực kế toán mới, làm
việc trực tiếp tại các doanh nghiệp công trường, nhà máy, khu công nghiệp.
Hơn lúc nào hết, Trường quản lý kinh tế công nghiệp đang đứng trước
vận hội mới và trách nhiệm hết sức nặng nề, cần phải phát huy vai trò, vị trí
đã và đang có nhằm góp phần tích cực, hiệu quả vào sự nghiệp Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những yêu cầu cấp bách đòi hỏi nền Trường quản lý kinh tế công nghiệp
không những phải năng động trong việc phát huy tiềm lực hiện có để đào tạo đội
ngũ càn bộ, nhân viên kinh tế, kỹ thuật nghiệp vụ và công nhân có tay nghề cao
có khả năng đáp ứng các yêu cầu công việc ở các doanh nghiệp trong thời kỳ
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà còn phải nâng cao tính chủ động, linh hoạt
điều chỉnh nội dung chương trình, không ngừng phát triển, nâng cao thành
trường Cao đẳng Công nghiệp đa ngành nghề chất lượng cao đảm bảo thích nghi
trước mọi yêu cầu luôn biến đổi của môi trường kinh tế - xã hội.
Vì vậy việc nghiên cứu, xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực
của Trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp trong vài năm tới nhằm nâng cáo
tiền lực đào tạo, phát triển nâng cấp Trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp
thành trường Cao đẳng Công nghiệp đa ngành nghề là một yêu cầu cấp thiết.
Là một giáo viên đang giảng dạy tại trường, với mong muốn được đóng
góp một phần sức lực nhỏ bé của mình vào sự phát triển của trường Quản lý
Kinh tế Công nghiệp tôi đã mạnh dạn chọn đề tài "Chiến lược phát triển
nhân lực của trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp đến năm 2015" làm đề
tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của luân văn
3
Trên cơ sở đánh giá, phân tích thực trạng các hoạt động đào tạo của
trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp, hình thành chiến lược phát triển nhân
lực của trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp đến năm 2015.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn.
- Đối tượng nghiên cứu là trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp - Bộ Công
thương
- Trong nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các tài liệu số liệu qua các thống kê
báo cáo của Bộ Giáo dục và đào tạo, vụ Trung học chuyên nghiệp, số liệu về
thực trạng đào tạo trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp, sách báo đã phát
hành như: Giáo trình hoạch định chiến lược, các sách về chiến lược kinh
doanh, quản trị nhân lực …..
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để có những thông tin làm cơ sở đề xuất các giải pháp, luận văn đã sử
dụng phương pháp so sánh, tổng hợp và phân tích hệ thống.
5. Những đóng góp của luận văn.
- Khái quát hoá lý luận về chiến lược nhân lực.
- Phân tích thực trạng đào tạo của trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp.
- Đề ra mục tiêu và những giải pháp thực hiện mục tiêu nhằm đẩy mạnh
hoạt động và phát triển nâng cấp trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp thành
trường Cao đẳng Công nghiệp đa ngành, chất lượng cao trong giai đoạn 2007
– 2015.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được thể hiện trong 3 chương:
Chương I: Cơ sở phương pháp luận về chiến lược phát triển nhân
lực.
4
Chương II: Phân tích, đánh giá thực trạng của trường Quản lý Kinh
tế Công nghiệp - Bộ Công thương.
Chương III: Chiến lược phát triển nhân lực của trường Quản lý
Kinh tế Công nghiệp đến năm 2015.
Để hoàn thành Luận văn tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân, còn
có sự giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, cô giáo, các đồng nghiệp và các cơ
quan hữu quan.
Với tình cảm chân thành tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
Trung tâm Bồi dưỡng và Đào tạo sau đại học, các thầy, cô giáo khoa Kinh tế
và Quản lý Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội đã giúp đỡ trong thời gian Tác
giả học tập và nghiên cứu tại trường, Vụ THCN - Dạy nghề, Vụ THCN Bộ
Công thương, Viện Chiến lược và chương trình giáo dục Bộ GD & ĐT, Ban
giám hiệu và các Phòng, Ban Trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp đã cung
cấp số liệu điều tra phục vụ cho quá trình nghiên cứu và viết luận văn.
Đặc biệt, Tác giả xin chân thành cảm ơn PGS.TS kinh tế Trần Trọng
Phúc người đã trực tiếp hướng dẫn và giành thời gian, công sức giúp tôi hoàn
thành luận văn này.
Mặc dù Tác giả đã cố gắng và rất cẩn thận trong việc lựa chọn nội dung
cũng như trình bày luận văn. Tuy nhiên luận văn không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Tác giả xin trân trọng và cảm ơn những đóng góp quý báu để đề tài
hoàn thiện hơn và ứng dụng có hiệu quả vào thực tiễn công tác đào tạo tại
Trường Quản lý kinh tế công nghiệp (Bộ Công thương).
Xin trân trọng cảm ơn !
5
Chương 1: Cơ sở phương pháp luận
về chiến lược phát triển nhân lực
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm chiến lược
Thuật ngữ "chiến lược" có nguồn gốc từ nghệ thuật quân sự thời xa
xưa, với ý nghĩa là phương pháp, cách thức điều khiển và chỉ huy các trận
đánh. Do tính ưu việt của nó☺ nên khái niệm chiến lược đã phát triển sang
các lĩnh vực khoa học kỹ thuật khác như chính trị, kinh tế, xã hội, công
nghệ... và đến thế kỷ XX chiến lược đã xuất hiện trong lĩnh vực quản lý
doanh nghiệp. Ngày nay xu thế Quốc tế hoá các giao dịch kinh tế phát triển
mạnh, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và những ứng dụng của khoa học
công nghệ vào sản xuất và quản lý diễn ra với tốc độ cao, chu kỳ sống của
sản phẩm ngày càng ngắn, sự rủi ro trong kinh doanh cao, nguồn tài nguyên,
nguyên liệu, năng lượng và môi trường bị khai thác cạn kiệt đã dẫn đến một
môi trường kinh doanh nhiều biến động, cạnh tranh gay gắt với phương thức
đa dạng trên phạm vi lớn. Trong điều kiện như vậy rõ ràng là trước đây việc
quản lý nội bộ dẫn doanh nghiệp đến thành công thì nay chỉ là điều kiện cần,
điều kiện đủ để có thành công chính là khả năng phản ứng của doanh nghiệp
trước những biến đổi của thị trường. Nói ngắn gọn hơn thì không có cạnh
tranh, không có chiến lược và quản lý chiến lược thực chất là quản lý hành
vi ứng xử của doanh nghiệp với môi trường. Mục đích của quản lý chiến
lược là tạo ra ưu thế trước đối thủ cạnh tranh. Quản lý chiến lược là một nội
dung quan trọng của quản trị doanh nghiệp nói chung, là biện pháp đảm bảo
sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
6
Tuỳ theo cách tiếp cận, tư duy về chiến lược mà có những khái niệm về
chiến lược như:
"Chiến lược kinh doanh là nghệ thuật xây dựng các lợi thế cạnh tranh
vững chắc để phòng thủ" (M.Porter).
" Chiến lược kinh doanh là việc xác định các mục tiêu cơ bản và dài
hạn của doanh nghiệp, lựa chọn các chính sách, chương trình hành động nhằm
phân bổ các nguồn lực để đạt được các mục tiêu cơ bản đó" (Alfred
Chandker).
" Chiến lược kinh doanh là một kế hoạch mang tính thống nhất, tính
toàn diện và tính phối hợp được thiết kế để đảm bảo rằng các mục tiêu cơ bản
của doanh nghiệp sẽ được thực hiện" (William J.Glueck).
Như vậy ta thấy rằng dù có quan niệm như thế nào về chiến lược thì
cũng có mục đích chung, đó là nhằm đảm bảo sự thành công của doanh
nghiệp và chiến lược của một doanh nghiệp chính là sản phẩm kết hợp được
những gì môi trường có, những gì doanh nghiệp có thể và những điều doanh
nghiệp mong muốn. Những chiến lược chủ yếu của một doanh nghiệp bao
gồm những mục tiêu, những bảo đảm về nguồn lực để đạt được những mục
tiêu, chính sách chủ yếu cần được tuân theo trong khi sử dụng các nguồn lực
này.
Chiến lược là đường hướng phát triển cho doanh nghiệp, nếu coi chiến
lược là mục đích thì chính sách là những phương tiện để đạt được được mục
tiêu đó.
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là sự tập hợp một
cách thống nhất các mục tiêu, các chính sách và sự phối hợp các hoạt động
của một đơn vị kinh doanh trong chiến lược tổng thể nhất định, nó phản ánh
7
các hoạt động của đơn vị bao gồm quá trình đặt ra các mục tiêu và các biện
pháp, các phương tiện sử dụng để đạt được mục tiêu đó.
Mục đích của hoạch định chiến lược là "dự kiến tương lai trong hiện
tại" và dựa vào chiến lược kinh doanh các nhà quản lý có thể lập ra các kế
hoạch cho những năm tiếp theo. Tuy nhiên quá trình đó phải có sự kiểm soát
chặt chẽ, phải được hiệu chỉnh trong từng bước đi. Một chiến lược vững mạnh
luôn cần đến khả năng, sự điều hành linh hoạt, sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực để có thể chiếm được lợi thế chắc chắn so với đối thủ cạnh tranh với chi
phí có thể chấp nhận được.
Để hoạch định chiến lược thực sự có chỗ đứng và phát huy tác dụng
trong các doanh nghiệp cần có thêm một số yếu tố chìa khoá đảm bảo thành
công, đó là thiện chí hay cam kết của ban lãnh đạo trong việc tư duy dài hạn
và luôn tính đến các suy nghĩ này trong từng hành động, điều này đòi hỏi các
nhà lãnh đạo một mặt phải dành thời gian cho việc tổ chức các cuộc họp riêng
về chủ đề chiến lược cũng như dành mối quan tâm thường trực cho việc cân
nhắc các quyết định hàng ngày trong khuôn khổ các lựa chọn dài hạn của
doanh nghiệp, bên cạnh đó cần cụ thể hoá các mục tiêu và phương tiện cho
việc thực hiện chiến lược bằng một loạt các mục tiêu, quyết định và hành
động theo các lịch trình do chính họ đặt ra và thiện chí của mọi cấp độ quản
lý, tránh nguy cơ không thừa nhận của cán bộ cấp dưới. Thực tế cho thấy,
công tác hoạch định chiến lược lần đầu tiên sẽ thuận lợi hơn nếu nó được thực
hiện dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia bên ngoài, sau đó cán bộ tham
mưu nội bộ sẽ dần làm chủ qui trình này.
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của chiến lược
Sau gần hai mươi năm thực hiện chính sách đổi mới, các doanh nghiệp
đã có những thành công, từng bước khẳng định vai trò quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân, tuy vậy hàng năm cũng có nhiều doanh nghiệp rơi vào tình
8
trạng phá sản hoặc biến mất trên thị trường. Lý do thì có nhiều nhưng một
trong những lý do quan trọng trong số đó là do họ thiếu một tư duy chiến lược
nên kết thúc bằng thất bại trong việc phát triển một hệ thống kiểm soát nhằm
duy trì vị thế của chính mình. Thực chất của xây dụng chiến lược chính là xây
dựng tiềm năng thành công trong tương lai. Tiềm năng thành công của doanh
nghiệp có xu hướng giảm dần do ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật, sự
thay đổi nhu cầu của thị trường, do thành công của đối thủ cạnh tranh vì vậy
xây dựng và duy trì ưu thế cạnh tranh cho doanh nghiệp là nhiệm vụ thường
xuyên quan trọng của mỗi doanh nghiệp.
Chiến lược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp, nó giúp cho doanh nghiệp nhận thấy rõ mục đích
hướng đi của mình, làm cơ sở cho mọi cơ sở hành động cụ thể, tạo ra những
chiến lược kinh doanh tốt hơn thông qua việc sử dụng phương pháp tiếp cận
hệ thống, tạo cơ sở tăng sự liên kết vằ gắn bó của nhân viên quản trị trong
việc thực hiện mục tiêu doanh nghiệp. Doanh nghiệp không có chiến lược
được ví như người đi biển không có địa bàn.
Trong bối cảnh như hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp phải đối mặt
với môi trường kinh doanh ngày càng biến động. Môi trường kinh doanh biến
đổi nhanh luôn tạo ra cơ hội và cả nguy cơ trong tương lai. Có và vận dụng tốt
chiến lược sẽ giúp các doanh nghiệp tận dụng tối đa các cơ hội và giảm đi tối
thiểu các nguy cơ của môi trường kinh doanh đối với công ty, doanh nghiệp,
làm cho công ty, doanh nghiệp có sự chuẩn bị tốt hơn để đối phó và làm chủ
các diễn biến của thị trường, tránh được tình trạng thụ động, cho phép doanh
nghiệp phân phối một cách có hiệu quả về thời gian, nguồn lực cho các lĩnh
vực hoạt động khác nhau.
Chiến lược kinh doanh còn nhằm duy trì sự thích nghi giữa một bên là
các mục tiêu và khả năng của doanh nghiệp và bên kia là yếu tố may rủi của
9
thị trường, giúp doanh nghiệp thích nghi và nắm bắt các cơ hội của thị trường,
sự lựa chọn thị trường mục tiêu trong khả năng và nguồn lực hiện có lẫn tiềm
năng của mình trong bối cảnh thường xuyên biến động, tạo được lợi thế cạnh
tranh trên thương trường bằng cách vận dụng các nguồn lực đó sao cho có
hiệu quả cao nhất.
Quản lý chiến lược khuyến khích doanh nghiệp hướng về tương lai,
phát huy sự năng động sáng tạo, ngăn chặn những tư tưởng chống lại sự thay
đổi, làm rõ trách nhiệm cá nhân, tăng cường tính tập thể, từ đó giúp cho
doanh nghiệp tăng được vị trí cạnh tranh, cải thiện được chỉ tiêu về doanh số,
tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả quản lý, tránh được rủi to về tài chính,
tăng khả năng phòng ngừa, ngăn chặn các vấn đề khó khăn của doanh nghiệp,
nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên, đảm bảo cho doanh nghiệp
phát triển bền vững trong môi trường cạnh tranh.
Theo kết quả của các công trình nghiên cứu thì khi doanh nghiệp vận
dụng quản trị chiến lược sẽ đạt được kết quả tốt hơn nhiều so với kết quả mà
họ đạt được trước đó hoặc những doanh nghiệp không vận dụng quản trị
chiến lược. Điều đó không có nghĩa là các doanh nghiệp vận dụng quản trị
chiến lược sẽ luôn giành thắng lợi mà nó chỉ có nghĩa là việc vận dụng quản
trị chiến lược sẽ giảm bớt rủi ro trong kinh doanh, có khả năng đón trước và
tranh thủ các thời cơ, vận hội khi chúng xuất hiện.
Cũng cần chú ý về vấn đề nhận thức và quan điểm về chiến lược kinh
doanh, đó là:
- Chiến lược không phải là một thuật toán, một công thức, không đặt ra
một khuôn mẫu cho tương lai, nó luôn ở trạng thái động và linh hoạt. Kinh
nghiệm của các Công ty cho thấy không nên tin hoàn toàn vào các mô hình
toán hay các phương pháp phân tích, cũng không nên dựa hẳn vào kinh
nghiệm trực giác của các chuyên gia, điều quan trọng là các nhà xây dựng và
10
quản lý chiến lược phải biết kết hợp để từ đó rút ra những gì đồng nhất, hợp
lý từ việc sử dụng tổng hợp các công cụ đó.
- Chiến lược không phải chỉ dành cho những nhà quản lý cấp cao mà
mọi người trong tổ chức đều đóng góp vào quản lý chiến lược.
1.1.3. Các loại hình chiến lược
Tuỳ theo các căn cứ để phân loại mà chiến lược kinh doanh được phân
thành các loại như sau:
- Căn cứ vào phạm vi của chiến lược kinh doanh
+ Chiến lược chung (còn gọi là chiến lược tổng quát): thường đề cập
những vấn đề quan trọng nhất, bao trùm và có ý nghĩa lâu dài nhất, quyết định
sự sống còn của doanh nghiệp.
+ Chiến lược ở cấp đơn vị kinh doanh (hoặc lĩnh vực kinh doanh): chủ
yếu là các chiến lược cạnh tranh (cạnh tranh bằng giá, cạnh tranh bằng sự
khác biệt của sản phẩm, dịch vụ hoặc một khúc chiến lược riêng)
+ Chiến lược bộ phận: thông thường trong doanh nghiệp, loại chiến
lược này gồm chiến lược sản xuất, chiến lược tài chính, chiến lược phát triển
nguồn nhân lực, chiến lược marketing, chiến lược nghiên cứu và phát triển.
Các chiến lược trên có quan hệ hữu cơ và tác động qua lại với nhau,
thúc đẩy hoặc hạn chế lẫn nhau. Vì vậy khi xây dựng phương hướng, mục tiêu
của chiến lược kinh doanh các doanh nghiệp cần phải có cách nhìn toàn diện,
phân tích các luận cứ khoa học và phối hợp các hoạt động đồng bộ giữa các
khâu, các bộ phận của doanh nghiệp.
- Căn cứ vào hướng tiếp cận chiến lược kinh doanh
+ Chiến lược tập trung vào những nhân tố then chốt: tư tưởng chỉ đạo
hoạnh định chiến lược kinh doanh ở đây là không dàn trải các nguồn lực mà
tập trung cho những hoạt động có ý nghĩâ quyết định của doanh nghiệp.
11
+ Chiến lược kinh doanh dựa trên ưu thế tương đối: tư tưởng chỉ đạo
hoạnh định chiến lược kinh doanh ở đây bắt đầu từ sự phân tích, so sánh sản
phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp mình so với các đối thủ cạnh tranh, thông
qua sự phân tích đó chiến lược kinh doanh sẽ được thành lập dựa trên những
điểm mạnh, điểm yếu của mình.
+ Chiến lược kinh doanh tạo tấn công: trong loại chiến lược kinh này
việc xây dựng được tiếp cận theo cách cơ bản và luôn nhìn thẳng vào những
vấn đề được coi là phổ biến, khó có thể làm khác đi được để đặt câu hỏi tại
sao, mục đích để xét lại những điều tưởng như đã được kết luận. Từ việc đặt
liên tiếp các câu hỏi có thể sẽ có những khám phá mới làm cơ sở cho chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Chiến lược khai thác các khả năng tiềm tàng: không nhằm vào yếu tố
then chốt mà nhằm khai thác khả năng có thể của các nhân tố bao quanh nhân
tố then chốt.
Thường thì các doanh nghiệp, công ty đa ngành xây dựng chiến lược
kinh doanh cho mình theo phân cấp quản lý, tức là bao gồm chiến lược cấp
công ty, chiến lược cấp đơn vị cơ sở và chiến lược cấp bộ phận chức năng.
Các công ty đơn ngành thì xây dựng chiến lược cho mình theo phạm vi tức là
bao gồm chiến lược chung và chiến lược bộ phận.
1.2. Xây dựng chiến lược.
Mục tiêu tối thiểu của mỗi doanh nghiệp là phải làm sao tiếp tục tồn tại
được. Sự yếu kém nội tại hoặc là sự vô hiệu quả thường có thể chịu đựng
được trong một thời gian nhất định. Nhưng sự sa sút vị trí so với đối thủ cạnh
tranh có thể gây nguy cơ ngay lập tức cho sự tồn tại của doanh nghiệp. Tìm
kiếm một cách thức hành động - đây là nhiệm vụ cụ thể của nhà chiến lược.
Làm thế nào để chuẩn bị hành động nhằm giành thắng lợi trong cạnh tranh?
12
Phương pháp hay dùng mà các doanh nghiệp chuẩn bị chiến lược gọi là xây
dựng chiến lược (kế hoạch hoá chiến lược, hoạch định chiến lược)
Khi xây dựng các chiến lược kinh doanh, doanh nghiệp phải căn cứ vào
những định hướng phát triển kinh tế -xã hội, chế độ, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, kết quả điều tra nghiên cứu dự báo nhu cầu thị trường, kết quả
phân tích, tính toán, dự báo về nguồn lực mà doanh nghiệp có thể sẽ khai
thác. Chiến lược kinh doanh luôn được hoàn thiện và sửa đổi khi có những
biến động lớn về chủ trương và sự thay đổi đáng kể về tình hình thị trường.
Chiến lược kinh doanh được hình thành thông qua bước nghiên cứu hiện
trạng, nhận thức về quan điểm phát triển của Nhà nước, nhận định về thị
trường và đề ra các chính sách phát triển trong các chiến lược bộ phận. Xây
dựng chiến lược kinh doanh của một doanh nghiệp chính là xây dựng một
tổng thể về việc doanh nghiệp sẽ hoạt động như thế nào, mục tiêu của doanh
nghiệp là gì và những chính sách nào cần có để thực hiện được những mục
tiêu ấy.
1.2.1. Các bước xây dựng chiến lược
Thực chất của việc xây dựng chiến lược kinh doanh là lựa chọn lĩnh
vực kinh doanh và đảm bảo các nguồn lực cho chúng nhằm duy trì và phát
triển doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh do vậy chiến lược kinh doanh
phải đạt được các yêu cầu sau:
- Xác định rõ được mục tiêu cơ bản cần phải đạt được trong từng thời
kỳ và cần phải được quán triệt ở mọi cấp, mọi lĩnh vực hoạt động trong doanh
nghiệp (vì chiến lược có tác động bao trùm lên mọi hoạt động của doanh
nghiệp) tránh mâu thuẫn nhau.
- Đảm bảo huy động tối đa và kết hợp tối ưu việc khai thác, sử dụng
các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp nhằm phát huy được lợi thế, tận dụng
13
được các cơ hội để giành ưu thế trong cạnh tranh nhờ kết hợp những yếu tố
bên trong và bên ngoài.
- Chiến lược kinh doanh được phản ánh như một quá trình liên tục từ
việc xây dựng chiến lược đến thực hiện, kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh chiến
lược.
- Chiến lược phải được lập ra trong thời gian tương đối dài, thường từ 3
năm trở lên.
Trình tự xây dựng chiến lược kinh doanh của một doanh nghiệp thường
phải tuân thủ theo 6 bước sau:
1 Dự án xây dựng chiến lược
2 Phân tích chiến lược
3 Lập chiến lược Công ty
4 Lập chiến lược các đơn vị kinh doanh
5 Xây dựng các biện pháp thực hiện chiến lược
6 Đánh giá chiến lược và các biện pháp thực hịên
7
Lập và thông qua các tài liệu chiến lược
Trong đó:
14
1: Được lập bởi các chuyên gia, sau khi nghiên cứu, khảo sát trong 1
thời gian tương đối dài
2: Phân tích SWOT (S: Strenghts: điểm mạnh; W: Weaknesser: điểm
yếu; O: Opportunities: cơ hội; T: Threats: thách thức)
3: Rà soát các lĩnh vực, đơn vị kinh doanh để xem có thêm lĩnh vực
nào, lĩnh vực nào đầu tư thêm, đầu tư mới.
4: Các chiến lược cạnh tranh làm cho từng đơn vị kinh doanh
5: Xây dựng biện pháp tài chính, nhân lực, công nghệ
6: Đánh giá tính hiệu quả, khả thi
7: Viết, thông qua tài liệu chiến lược. Đây là sản phẩm cuối cùng.
Qui trình 6 bước (2-7) để thực hiện 3 nội dung sau:
1-Xác định nhiệm vụ chiến lược và hệ thống mục tiêu chiến lược (mô
hình 3E) *
2- Chẩn đoán chiến lược (phân tích môi trường kinh doanh) bên ngoài
và bên trong, mục đích để nhận dạng SWOT
3-Xây dựng các chiến lược khả thi và lựa chọn chiến lược
*: Chiến lược kinh doanh là sự tương hợp của 3E trong đó:
E1 - Enterprice: nói đến điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp so với
đối thủ cạnh tranh, nói đến 3 cấp độ: cấp 1 là vị trí cạnh tranh trên thị trường
mục tiêu, phải nhiều năm mới có được; cấp 2 là ưu thế cạnh tranh dài hạn về
sản phẩm, thị trường, phụ thuộc chất lượng sản phẩm, giá...; cấp 3 là ưu thế
cạnh tranh dài hạn về nguồn lực thông qua khả năng về vốn, con người (lực
lượng lao động), tài sản, mạng phân phối... Tuy nhiên cấp 3 và cấp 2 là vấn đề
quan trọng của chiến lược, được xây dựng từ cấp 3 rồi cấp 2 để có cấp 1. Hệ
thống 3 cấp độ này sẽ có tức động ngược trở lại.
15
Cả 3 cấp độ này phải được xây dựng trong cả quá trình lâu dài.
E2 - Environement : môi trường, bao gồm cơ hội, đe doạ của môi
trường đối với sự phát triển của doanh nghiệp và cũng được đề cập đến 3 góc
độ (ngành, kinh tế quốc dân và kinh tế quốc tế) và trong mối môi trường cũng
nói đến 5 yếu tố: plan (kế hoạch), ploy (mưu lược), pattem (khuôn mẫu),
position (vị thế), perpectue (triển vọng).
E3- Ertreprenewr - chủ doanh nghiệp: giá trị và niềm tin.
Tuy nhiên đây chỉ là mô hình cổ, là sự tương hợp giữa 3E, ngày nay 3E
có nhiều quan điểm rộng hơn, đó còn là văn hoá doanh nghiệp chứ không đơn
thuần chỉ là doanh nghiệp.
1.2.2. Xác định nhiệm vụ chiến lược và hệ thống mục tiêu chiến lược
Bước này sẽ làm căn cứ cho các hoạch định chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp. Trong bước này cần phải xác định ngành nghề và mặt hàng
kinh doanh chính, vạch rõ mục tiêu chính của Công ty. Bước này làm nền
tảng cho việc soạn thảo và hoạch định chiến lược, vì có xác định được nhiệm
vụ và mục tiêu chiến lược một cách đúng đắn và hợp lý mới có định hướng
chỉ đạo cho các bước tiếp theo của tiến trình xây dựng chiến lược, hơn nữa
đây cũng chính là một trong những căn cứ để cung cấp các thông tin kiểm tra,
đánh giá và điều chỉnh chiến lược khi thực hiện sau này.
Chức năng nhiệm vụ là lý do chính để doanh nghiệp tồn tại và cũng để
phân biệt doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác, nội dung của chức năng,
nhiệm vụ phải được nêu ra cho việc định hướng chỉ đạo do vậy nó cần phải
được triển khai và phác hoạ thành các mục tiêu cụ thể.
Hệ thống mục tiêu chính là kết quả cụ thể mà doanh nghiệp phải phấn
đấu để đạt được - tức là đích của các chiến lược và quyết định của doanh
nghiệp. Nói cách khác thì đây là những kết quả mà doanh nghiệp hy vọng sẽ
16
đạt được khi thực hiện chiến lược. Tuỳ từng doanh nghiệp, từng thời kỳ mà
mục tiêu sẽ có sự thay đổi tương ứng tạo thành một hệ thống mục tiêu chiến
lược (mức tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận, năng suất, thị phần, vị thế...) tuy
vậy cũng có thể phân chia ra hai loại mục tiêu cơ bản là:
Mục tiêu dài hạn: là các kết quả mong muốn của doanh nghiệp đề ra và
được thực hiện trong khoảng thời gian tương đối dài (hơn 1 chu kỳ kinh
doanh). Hiện nay các doanh nghiệp thường có nhiều mục tiêu khác nhau
nhưng có thể qui về 3 mục tiêu cơ bản, đó là: khả năng sinh lợi, vị thế trên thị
trường và mức độ an toàn trong kinh doanh.
Mục tiêu ngắn hạn là các kết quả mong muốn của doanh nghiệp đề ra
và được thực hiện trong khoảng thời gian tương đối ngắn (trong 1 chu kỳ kinh
doanh). Với loại mục tiêu này phải hết sức cụ thể, kết quả rõ ràng (ví dụ mục
tiêu năng suất, thị phần, sản phẩm công nghệ...)
Dù là mục tiêu nào thì cũng phải đảm bảo các tiêu chí sau: cụ thể, linh
hoạt, định hướng, khả thi và nhất quán.
1.2.3. Chẩn đoán chiến lược bên ngoài và bên trong
Trước khi hoạch định chiến lược phải tiến hành một loạt các phân tích
đảm bảo cho chiến lược sẽ được hình thành trên các căn cứ khoa học, các
phân tích gồm có: phân tích môi trường ngoại vi (bao gồm môi trường vĩ mô
và môi trường vi mô) và môi trường nội bộ (nội vi). Đây là tập hợp những
điều kiện, yếu tố bên ngoài và bên trong có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp
đến hoạt động của doanh nghiệp và đây là nhóm yếu tố chi phối sự thành
công hay thất bại của doanh nghiệp. Việc phân tích các điều kiện môi trường
kinh doanh hiện tại và môi trường dự kiến trong tương lai đảm bảo cho sự
thành công của các doanh nghiệp.
17
Phân tích môi trường kinh doanh: phân tích này nhằm xác định thời cơ
và các đe doạ từ môi trường
Môi trường vĩ mô ảnh hưởng đến tất cả các ngành kinh doanh nhưng
mức độ ảnh hưởng là khác nhau. Môi trường vi mô được xác định đối với một
ngành cụ thể. Hai môi trường này nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp.
Môi trường nội bộ bao gồm các yếu tố bên trong một doanh nghiệp và
đây là môi trường mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được.
Việc phân tích môi trường vĩ mô giúp cho doanh nghiệp trả lời phần
nào cho câu hỏi: doanh nghiệp đang phải đối mặt với những gì ? và do vậy
các yếu tố trong môi trường vĩ mô mà doanh nghiệp cần chú ý đó là các yếu
tố kinh tế, công nghệ, văn hoá, dân cư, luật pháp, tự nhiên và rộng hơn nữa đó
là môi trường toàn cầu.
Phân tích môi trường hoạt động
Môi trường kinh tế của doanh nghiệp được xác định thông qua tiềm
lực của nền kinh tế quốc gia, do vậy các nhân tố quan trọng để đánh giá tiềm
lực này gồm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, lãi suất và xu hướng của nó,
tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát, mức độ tiêu dùng, tỷ lệ thất nghiệp, hệ thống
thuế. Đây là nhóm các yếu tố có tác động mạnh hơn so với một số yếu tố khác
(ví dụ như yếu tố các phương pháp hoạt động thị trường, thị trường vốn, các
chỉ số chứng khoán...). Mỗi yếu tố trên có thể là cơ hội hoặc nguy cơ cho từng
doanh nghiệp cụ thể.
Môi trường công nghệ: đây là nhân tố rất năng động chứa đựng nhiều
cơ hội và đe doạ đối với doanh nghiệp, có ảnh hưởng lớn và trực tiếp tới
chiến lược kinh doanh của các lĩnh vực. Đã từng có những công nghệ ra đời
làm chao đảo thậm chí làm mất đi một vài lĩnh vực nhưng đồng thời cũng làm
nảy sinh nhiều lĩnh vực kinh doanh mới hơn, hoàn thiện hơn. Sự tiến bộ của
18
kỹ thuật công nghệ có thể tác động sâu sắc lên những sản phẩm, dịch vụ, tạo
ra những ưu thế cạnh tranh mới, mạnh mẽ hơn các ưu thế hiện có. Từ đó đòi
hỏi các nhà chiến lược phải thường xuyên quan tâm tới sự thay đổi cũng như
đầu tư cho tiến bộ khoa học công nghệ, cần có hệ thống thông tin nhạy bén để
tận dụng được mọi cơ hội và ngăn chặn kịp thời các nguy cơ. Phải dành một
số vốn nhất định cho nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ để hạn
chế sự ảnh hưởng của môi trường này. Mặt khác đứng trước mỗi sự thay đổi
trong công nghệ của ngành, doanh nghiệp cần nhận thức được đây là cơ hội
để tận dụng hay nguy cơ cần ngăn chặn.
Môi trường văn hoá xã hội: là nhân tố thay đổi lớn nhất và chính sự
thay đổi lối sống theo xu hướng du nhập luôn là cơ hội cho nhiều nhà sản
xuất, doanh nghiệp phải tính đến thái độ tiêu dùng, tỷ lệ kết hôn và sinh đẻ, vị
trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội, và gia đình. Trình độ dân trí ngày
một cao chính là một thách thức đối với các nhà sản xuất... chính vì vậy các
doanh nghiệp cần có thái độ ứng xử phù hợp với thiên nhiên, với con người,
với xã hội cho phù hợp.
Môi trường dân cư: sự thay đổi dân cư dẫn đến sự thay đổi sâu sắc và
quan trọng các quá trình kinh tế - xã hội trên phạm vi rộng (có thể cả thế giới)
đây là một quá trình làm ảnh hưởng, thay đổi đến chiến lược của các doanh
nghiệp, và các doanh nghiệp cần phải quan tâm đến môi trường dân số ở các
mặt: tổng dân số xã hội, tỷ lệ tăng dân số, kết cấu và xu hướng thay đổi kết cấu
dân số về tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, mức thu nhập, tuổi thọ trung bình.
Môi trường luật pháp: sự ổn định hay mất ổn định về chính trị, sự thay
đổi luật pháp và chính sách quản lý có thể gây sức ép (nguy cơ) hoặc là tạo cơ
hội cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn. Đây là môi trường ngày
càng có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động của doanh nghiệp. Để thành công
trong kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải phân tích, dự đoán về chính trị
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
----------------------
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
ngành: Quản trị kinh doanh
Mã Số:
Phân tích tình hình thực hiện chính sách
thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập trên
địa bàn tỉnh hưng yên
Người hướng dẫn khoa học: pgs -TS. Trần trọng phúc
Nguyễn văn chương
HÀ NỘI - 2007
Lời cảm ơn
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Trung tâm Đào tạo và Bồi
dưỡng sau đại học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ
tôi trong suốt khoá học và trong quá trình hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn toàn thể các thày cô giáo Khoa Kinh tế và
quản lý Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã tận tình giảng dạy và chỉ dẫn,
cung cấp tài liệu và mang lại cho tôi những tri thức rất cần thiết và vô cùng
quý báu.
Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó Giáo sư - Tiến sỹ
Trần Trọng Phúc người đã quan tâm giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, cán bộ, giáo viên, các bạn học
sinh Trường Quản lý kinh tế công nghiệp và Ban lãnh đạo các doanh nghiệp
đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 11 năm 2007
Người viết luận văn
Nguyễn Minh Hải
1
PHầN Mở ĐầU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Đại hội X của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu tổng
quát của chiến lược phát triển xã hội cho 10 năm đầu của thế kỷ XXI là "Đưa
đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật
chất, văn hoá tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành 1 nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá" Đồng thời Đại hội
Đảng IX đã chỉ rõ quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục nước ta đó là: "Giáo
dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là yếu tố cơ
bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Đảng, nhà nước và nhân dân ta ngày càng coi trọng vai trò của giáo
dục, quan tâm nhiều hơn và đòi hỏi giáo dục phải đổi mới và phát triển đáp
ứng nhu cầu ngày càng lớn của mọi tầng lớp nhân dân về học tập và tiếp thu
những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, rèn luyện những phẩm chất, năng lực
cần thiết trong thời kỳ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Mặt khác thực tiễn chuyển đổi cơ chế và phát triển kinh tế đòi hỏi giáo
dục phải tiếp cận và thích nghi vơi cơ chế mới, phải luôn phát triển và đi
trước một bước đón đầu sự phát triển của xã hội.
Để phục vụ tốt cho sự nghiệp phát triển phát triển kinh tế - xã hội cơ
cấu đội ngũ lao động không những cần cân đối và ngành nghề, đủ về số lượng
mà nền kinh tế nước ta đang rất cần đội ngũ kỹ thuật cao cấp nhằm kịp thời
đáp ứng nhu cầu đổi mới Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ai cũng biết sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay bên cạnh những đội
ngũ lao động có trình độ đại học, sau đại học cần có một số lượng lớn các kỹ
2
thuật viên, nhân viên kinh tế ở trình độ Cao đẳng, có lý luận cơ bản, tay nghề
thành thạo để tiếp nhận công nghệ mới, chế độ chuẩn mực kế toán mới, làm
việc trực tiếp tại các doanh nghiệp công trường, nhà máy, khu công nghiệp.
Hơn lúc nào hết, Trường quản lý kinh tế công nghiệp đang đứng trước
vận hội mới và trách nhiệm hết sức nặng nề, cần phải phát huy vai trò, vị trí
đã và đang có nhằm góp phần tích cực, hiệu quả vào sự nghiệp Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những yêu cầu cấp bách đòi hỏi nền Trường quản lý kinh tế công nghiệp
không những phải năng động trong việc phát huy tiềm lực hiện có để đào tạo đội
ngũ càn bộ, nhân viên kinh tế, kỹ thuật nghiệp vụ và công nhân có tay nghề cao
có khả năng đáp ứng các yêu cầu công việc ở các doanh nghiệp trong thời kỳ
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà còn phải nâng cao tính chủ động, linh hoạt
điều chỉnh nội dung chương trình, không ngừng phát triển, nâng cao thành
trường Cao đẳng Công nghiệp đa ngành nghề chất lượng cao đảm bảo thích nghi
trước mọi yêu cầu luôn biến đổi của môi trường kinh tế - xã hội.
Vì vậy việc nghiên cứu, xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực
của Trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp trong vài năm tới nhằm nâng cáo
tiền lực đào tạo, phát triển nâng cấp Trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp
thành trường Cao đẳng Công nghiệp đa ngành nghề là một yêu cầu cấp thiết.
Là một giáo viên đang giảng dạy tại trường, với mong muốn được đóng
góp một phần sức lực nhỏ bé của mình vào sự phát triển của trường Quản lý
Kinh tế Công nghiệp tôi đã mạnh dạn chọn đề tài "Chiến lược phát triển
nhân lực của trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp đến năm 2015" làm đề
tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của luân văn
3
Trên cơ sở đánh giá, phân tích thực trạng các hoạt động đào tạo của
trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp, hình thành chiến lược phát triển nhân
lực của trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp đến năm 2015.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn.
- Đối tượng nghiên cứu là trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp - Bộ Công
thương
- Trong nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các tài liệu số liệu qua các thống kê
báo cáo của Bộ Giáo dục và đào tạo, vụ Trung học chuyên nghiệp, số liệu về
thực trạng đào tạo trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp, sách báo đã phát
hành như: Giáo trình hoạch định chiến lược, các sách về chiến lược kinh
doanh, quản trị nhân lực …..
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để có những thông tin làm cơ sở đề xuất các giải pháp, luận văn đã sử
dụng phương pháp so sánh, tổng hợp và phân tích hệ thống.
5. Những đóng góp của luận văn.
- Khái quát hoá lý luận về chiến lược nhân lực.
- Phân tích thực trạng đào tạo của trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp.
- Đề ra mục tiêu và những giải pháp thực hiện mục tiêu nhằm đẩy mạnh
hoạt động và phát triển nâng cấp trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp thành
trường Cao đẳng Công nghiệp đa ngành, chất lượng cao trong giai đoạn 2007
– 2015.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được thể hiện trong 3 chương:
Chương I: Cơ sở phương pháp luận về chiến lược phát triển nhân
lực.
4
Chương II: Phân tích, đánh giá thực trạng của trường Quản lý Kinh
tế Công nghiệp - Bộ Công thương.
Chương III: Chiến lược phát triển nhân lực của trường Quản lý
Kinh tế Công nghiệp đến năm 2015.
Để hoàn thành Luận văn tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân, còn
có sự giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, cô giáo, các đồng nghiệp và các cơ
quan hữu quan.
Với tình cảm chân thành tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
Trung tâm Bồi dưỡng và Đào tạo sau đại học, các thầy, cô giáo khoa Kinh tế
và Quản lý Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội đã giúp đỡ trong thời gian Tác
giả học tập và nghiên cứu tại trường, Vụ THCN - Dạy nghề, Vụ THCN Bộ
Công thương, Viện Chiến lược và chương trình giáo dục Bộ GD & ĐT, Ban
giám hiệu và các Phòng, Ban Trường Quản lý Kinh tế Công nghiệp đã cung
cấp số liệu điều tra phục vụ cho quá trình nghiên cứu và viết luận văn.
Đặc biệt, Tác giả xin chân thành cảm ơn PGS.TS kinh tế Trần Trọng
Phúc người đã trực tiếp hướng dẫn và giành thời gian, công sức giúp tôi hoàn
thành luận văn này.
Mặc dù Tác giả đã cố gắng và rất cẩn thận trong việc lựa chọn nội dung
cũng như trình bày luận văn. Tuy nhiên luận văn không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Tác giả xin trân trọng và cảm ơn những đóng góp quý báu để đề tài
hoàn thiện hơn và ứng dụng có hiệu quả vào thực tiễn công tác đào tạo tại
Trường Quản lý kinh tế công nghiệp (Bộ Công thương).
Xin trân trọng cảm ơn !
5
Chương 1: Cơ sở phương pháp luận
về chiến lược phát triển nhân lực
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm chiến lược
Thuật ngữ "chiến lược" có nguồn gốc từ nghệ thuật quân sự thời xa
xưa, với ý nghĩa là phương pháp, cách thức điều khiển và chỉ huy các trận
đánh. Do tính ưu việt của nó☺ nên khái niệm chiến lược đã phát triển sang
các lĩnh vực khoa học kỹ thuật khác như chính trị, kinh tế, xã hội, công
nghệ... và đến thế kỷ XX chiến lược đã xuất hiện trong lĩnh vực quản lý
doanh nghiệp. Ngày nay xu thế Quốc tế hoá các giao dịch kinh tế phát triển
mạnh, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và những ứng dụng của khoa học
công nghệ vào sản xuất và quản lý diễn ra với tốc độ cao, chu kỳ sống của
sản phẩm ngày càng ngắn, sự rủi ro trong kinh doanh cao, nguồn tài nguyên,
nguyên liệu, năng lượng và môi trường bị khai thác cạn kiệt đã dẫn đến một
môi trường kinh doanh nhiều biến động, cạnh tranh gay gắt với phương thức
đa dạng trên phạm vi lớn. Trong điều kiện như vậy rõ ràng là trước đây việc
quản lý nội bộ dẫn doanh nghiệp đến thành công thì nay chỉ là điều kiện cần,
điều kiện đủ để có thành công chính là khả năng phản ứng của doanh nghiệp
trước những biến đổi của thị trường. Nói ngắn gọn hơn thì không có cạnh
tranh, không có chiến lược và quản lý chiến lược thực chất là quản lý hành
vi ứng xử của doanh nghiệp với môi trường. Mục đích của quản lý chiến
lược là tạo ra ưu thế trước đối thủ cạnh tranh. Quản lý chiến lược là một nội
dung quan trọng của quản trị doanh nghiệp nói chung, là biện pháp đảm bảo
sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
6
Tuỳ theo cách tiếp cận, tư duy về chiến lược mà có những khái niệm về
chiến lược như:
"Chiến lược kinh doanh là nghệ thuật xây dựng các lợi thế cạnh tranh
vững chắc để phòng thủ" (M.Porter).
" Chiến lược kinh doanh là việc xác định các mục tiêu cơ bản và dài
hạn của doanh nghiệp, lựa chọn các chính sách, chương trình hành động nhằm
phân bổ các nguồn lực để đạt được các mục tiêu cơ bản đó" (Alfred
Chandker).
" Chiến lược kinh doanh là một kế hoạch mang tính thống nhất, tính
toàn diện và tính phối hợp được thiết kế để đảm bảo rằng các mục tiêu cơ bản
của doanh nghiệp sẽ được thực hiện" (William J.Glueck).
Như vậy ta thấy rằng dù có quan niệm như thế nào về chiến lược thì
cũng có mục đích chung, đó là nhằm đảm bảo sự thành công của doanh
nghiệp và chiến lược của một doanh nghiệp chính là sản phẩm kết hợp được
những gì môi trường có, những gì doanh nghiệp có thể và những điều doanh
nghiệp mong muốn. Những chiến lược chủ yếu của một doanh nghiệp bao
gồm những mục tiêu, những bảo đảm về nguồn lực để đạt được những mục
tiêu, chính sách chủ yếu cần được tuân theo trong khi sử dụng các nguồn lực
này.
Chiến lược là đường hướng phát triển cho doanh nghiệp, nếu coi chiến
lược là mục đích thì chính sách là những phương tiện để đạt được được mục
tiêu đó.
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là sự tập hợp một
cách thống nhất các mục tiêu, các chính sách và sự phối hợp các hoạt động
của một đơn vị kinh doanh trong chiến lược tổng thể nhất định, nó phản ánh
7
các hoạt động của đơn vị bao gồm quá trình đặt ra các mục tiêu và các biện
pháp, các phương tiện sử dụng để đạt được mục tiêu đó.
Mục đích của hoạch định chiến lược là "dự kiến tương lai trong hiện
tại" và dựa vào chiến lược kinh doanh các nhà quản lý có thể lập ra các kế
hoạch cho những năm tiếp theo. Tuy nhiên quá trình đó phải có sự kiểm soát
chặt chẽ, phải được hiệu chỉnh trong từng bước đi. Một chiến lược vững mạnh
luôn cần đến khả năng, sự điều hành linh hoạt, sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực để có thể chiếm được lợi thế chắc chắn so với đối thủ cạnh tranh với chi
phí có thể chấp nhận được.
Để hoạch định chiến lược thực sự có chỗ đứng và phát huy tác dụng
trong các doanh nghiệp cần có thêm một số yếu tố chìa khoá đảm bảo thành
công, đó là thiện chí hay cam kết của ban lãnh đạo trong việc tư duy dài hạn
và luôn tính đến các suy nghĩ này trong từng hành động, điều này đòi hỏi các
nhà lãnh đạo một mặt phải dành thời gian cho việc tổ chức các cuộc họp riêng
về chủ đề chiến lược cũng như dành mối quan tâm thường trực cho việc cân
nhắc các quyết định hàng ngày trong khuôn khổ các lựa chọn dài hạn của
doanh nghiệp, bên cạnh đó cần cụ thể hoá các mục tiêu và phương tiện cho
việc thực hiện chiến lược bằng một loạt các mục tiêu, quyết định và hành
động theo các lịch trình do chính họ đặt ra và thiện chí của mọi cấp độ quản
lý, tránh nguy cơ không thừa nhận của cán bộ cấp dưới. Thực tế cho thấy,
công tác hoạch định chiến lược lần đầu tiên sẽ thuận lợi hơn nếu nó được thực
hiện dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia bên ngoài, sau đó cán bộ tham
mưu nội bộ sẽ dần làm chủ qui trình này.
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của chiến lược
Sau gần hai mươi năm thực hiện chính sách đổi mới, các doanh nghiệp
đã có những thành công, từng bước khẳng định vai trò quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân, tuy vậy hàng năm cũng có nhiều doanh nghiệp rơi vào tình
8
trạng phá sản hoặc biến mất trên thị trường. Lý do thì có nhiều nhưng một
trong những lý do quan trọng trong số đó là do họ thiếu một tư duy chiến lược
nên kết thúc bằng thất bại trong việc phát triển một hệ thống kiểm soát nhằm
duy trì vị thế của chính mình. Thực chất của xây dụng chiến lược chính là xây
dựng tiềm năng thành công trong tương lai. Tiềm năng thành công của doanh
nghiệp có xu hướng giảm dần do ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật, sự
thay đổi nhu cầu của thị trường, do thành công của đối thủ cạnh tranh vì vậy
xây dựng và duy trì ưu thế cạnh tranh cho doanh nghiệp là nhiệm vụ thường
xuyên quan trọng của mỗi doanh nghiệp.
Chiến lược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp, nó giúp cho doanh nghiệp nhận thấy rõ mục đích
hướng đi của mình, làm cơ sở cho mọi cơ sở hành động cụ thể, tạo ra những
chiến lược kinh doanh tốt hơn thông qua việc sử dụng phương pháp tiếp cận
hệ thống, tạo cơ sở tăng sự liên kết vằ gắn bó của nhân viên quản trị trong
việc thực hiện mục tiêu doanh nghiệp. Doanh nghiệp không có chiến lược
được ví như người đi biển không có địa bàn.
Trong bối cảnh như hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp phải đối mặt
với môi trường kinh doanh ngày càng biến động. Môi trường kinh doanh biến
đổi nhanh luôn tạo ra cơ hội và cả nguy cơ trong tương lai. Có và vận dụng tốt
chiến lược sẽ giúp các doanh nghiệp tận dụng tối đa các cơ hội và giảm đi tối
thiểu các nguy cơ của môi trường kinh doanh đối với công ty, doanh nghiệp,
làm cho công ty, doanh nghiệp có sự chuẩn bị tốt hơn để đối phó và làm chủ
các diễn biến của thị trường, tránh được tình trạng thụ động, cho phép doanh
nghiệp phân phối một cách có hiệu quả về thời gian, nguồn lực cho các lĩnh
vực hoạt động khác nhau.
Chiến lược kinh doanh còn nhằm duy trì sự thích nghi giữa một bên là
các mục tiêu và khả năng của doanh nghiệp và bên kia là yếu tố may rủi của
9
thị trường, giúp doanh nghiệp thích nghi và nắm bắt các cơ hội của thị trường,
sự lựa chọn thị trường mục tiêu trong khả năng và nguồn lực hiện có lẫn tiềm
năng của mình trong bối cảnh thường xuyên biến động, tạo được lợi thế cạnh
tranh trên thương trường bằng cách vận dụng các nguồn lực đó sao cho có
hiệu quả cao nhất.
Quản lý chiến lược khuyến khích doanh nghiệp hướng về tương lai,
phát huy sự năng động sáng tạo, ngăn chặn những tư tưởng chống lại sự thay
đổi, làm rõ trách nhiệm cá nhân, tăng cường tính tập thể, từ đó giúp cho
doanh nghiệp tăng được vị trí cạnh tranh, cải thiện được chỉ tiêu về doanh số,
tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả quản lý, tránh được rủi to về tài chính,
tăng khả năng phòng ngừa, ngăn chặn các vấn đề khó khăn của doanh nghiệp,
nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên, đảm bảo cho doanh nghiệp
phát triển bền vững trong môi trường cạnh tranh.
Theo kết quả của các công trình nghiên cứu thì khi doanh nghiệp vận
dụng quản trị chiến lược sẽ đạt được kết quả tốt hơn nhiều so với kết quả mà
họ đạt được trước đó hoặc những doanh nghiệp không vận dụng quản trị
chiến lược. Điều đó không có nghĩa là các doanh nghiệp vận dụng quản trị
chiến lược sẽ luôn giành thắng lợi mà nó chỉ có nghĩa là việc vận dụng quản
trị chiến lược sẽ giảm bớt rủi ro trong kinh doanh, có khả năng đón trước và
tranh thủ các thời cơ, vận hội khi chúng xuất hiện.
Cũng cần chú ý về vấn đề nhận thức và quan điểm về chiến lược kinh
doanh, đó là:
- Chiến lược không phải là một thuật toán, một công thức, không đặt ra
một khuôn mẫu cho tương lai, nó luôn ở trạng thái động và linh hoạt. Kinh
nghiệm của các Công ty cho thấy không nên tin hoàn toàn vào các mô hình
toán hay các phương pháp phân tích, cũng không nên dựa hẳn vào kinh
nghiệm trực giác của các chuyên gia, điều quan trọng là các nhà xây dựng và
10
quản lý chiến lược phải biết kết hợp để từ đó rút ra những gì đồng nhất, hợp
lý từ việc sử dụng tổng hợp các công cụ đó.
- Chiến lược không phải chỉ dành cho những nhà quản lý cấp cao mà
mọi người trong tổ chức đều đóng góp vào quản lý chiến lược.
1.1.3. Các loại hình chiến lược
Tuỳ theo các căn cứ để phân loại mà chiến lược kinh doanh được phân
thành các loại như sau:
- Căn cứ vào phạm vi của chiến lược kinh doanh
+ Chiến lược chung (còn gọi là chiến lược tổng quát): thường đề cập
những vấn đề quan trọng nhất, bao trùm và có ý nghĩa lâu dài nhất, quyết định
sự sống còn của doanh nghiệp.
+ Chiến lược ở cấp đơn vị kinh doanh (hoặc lĩnh vực kinh doanh): chủ
yếu là các chiến lược cạnh tranh (cạnh tranh bằng giá, cạnh tranh bằng sự
khác biệt của sản phẩm, dịch vụ hoặc một khúc chiến lược riêng)
+ Chiến lược bộ phận: thông thường trong doanh nghiệp, loại chiến
lược này gồm chiến lược sản xuất, chiến lược tài chính, chiến lược phát triển
nguồn nhân lực, chiến lược marketing, chiến lược nghiên cứu và phát triển.
Các chiến lược trên có quan hệ hữu cơ và tác động qua lại với nhau,
thúc đẩy hoặc hạn chế lẫn nhau. Vì vậy khi xây dựng phương hướng, mục tiêu
của chiến lược kinh doanh các doanh nghiệp cần phải có cách nhìn toàn diện,
phân tích các luận cứ khoa học và phối hợp các hoạt động đồng bộ giữa các
khâu, các bộ phận của doanh nghiệp.
- Căn cứ vào hướng tiếp cận chiến lược kinh doanh
+ Chiến lược tập trung vào những nhân tố then chốt: tư tưởng chỉ đạo
hoạnh định chiến lược kinh doanh ở đây là không dàn trải các nguồn lực mà
tập trung cho những hoạt động có ý nghĩâ quyết định của doanh nghiệp.
11
+ Chiến lược kinh doanh dựa trên ưu thế tương đối: tư tưởng chỉ đạo
hoạnh định chiến lược kinh doanh ở đây bắt đầu từ sự phân tích, so sánh sản
phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp mình so với các đối thủ cạnh tranh, thông
qua sự phân tích đó chiến lược kinh doanh sẽ được thành lập dựa trên những
điểm mạnh, điểm yếu của mình.
+ Chiến lược kinh doanh tạo tấn công: trong loại chiến lược kinh này
việc xây dựng được tiếp cận theo cách cơ bản và luôn nhìn thẳng vào những
vấn đề được coi là phổ biến, khó có thể làm khác đi được để đặt câu hỏi tại
sao, mục đích để xét lại những điều tưởng như đã được kết luận. Từ việc đặt
liên tiếp các câu hỏi có thể sẽ có những khám phá mới làm cơ sở cho chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Chiến lược khai thác các khả năng tiềm tàng: không nhằm vào yếu tố
then chốt mà nhằm khai thác khả năng có thể của các nhân tố bao quanh nhân
tố then chốt.
Thường thì các doanh nghiệp, công ty đa ngành xây dựng chiến lược
kinh doanh cho mình theo phân cấp quản lý, tức là bao gồm chiến lược cấp
công ty, chiến lược cấp đơn vị cơ sở và chiến lược cấp bộ phận chức năng.
Các công ty đơn ngành thì xây dựng chiến lược cho mình theo phạm vi tức là
bao gồm chiến lược chung và chiến lược bộ phận.
1.2. Xây dựng chiến lược.
Mục tiêu tối thiểu của mỗi doanh nghiệp là phải làm sao tiếp tục tồn tại
được. Sự yếu kém nội tại hoặc là sự vô hiệu quả thường có thể chịu đựng
được trong một thời gian nhất định. Nhưng sự sa sút vị trí so với đối thủ cạnh
tranh có thể gây nguy cơ ngay lập tức cho sự tồn tại của doanh nghiệp. Tìm
kiếm một cách thức hành động - đây là nhiệm vụ cụ thể của nhà chiến lược.
Làm thế nào để chuẩn bị hành động nhằm giành thắng lợi trong cạnh tranh?
12
Phương pháp hay dùng mà các doanh nghiệp chuẩn bị chiến lược gọi là xây
dựng chiến lược (kế hoạch hoá chiến lược, hoạch định chiến lược)
Khi xây dựng các chiến lược kinh doanh, doanh nghiệp phải căn cứ vào
những định hướng phát triển kinh tế -xã hội, chế độ, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, kết quả điều tra nghiên cứu dự báo nhu cầu thị trường, kết quả
phân tích, tính toán, dự báo về nguồn lực mà doanh nghiệp có thể sẽ khai
thác. Chiến lược kinh doanh luôn được hoàn thiện và sửa đổi khi có những
biến động lớn về chủ trương và sự thay đổi đáng kể về tình hình thị trường.
Chiến lược kinh doanh được hình thành thông qua bước nghiên cứu hiện
trạng, nhận thức về quan điểm phát triển của Nhà nước, nhận định về thị
trường và đề ra các chính sách phát triển trong các chiến lược bộ phận. Xây
dựng chiến lược kinh doanh của một doanh nghiệp chính là xây dựng một
tổng thể về việc doanh nghiệp sẽ hoạt động như thế nào, mục tiêu của doanh
nghiệp là gì và những chính sách nào cần có để thực hiện được những mục
tiêu ấy.
1.2.1. Các bước xây dựng chiến lược
Thực chất của việc xây dựng chiến lược kinh doanh là lựa chọn lĩnh
vực kinh doanh và đảm bảo các nguồn lực cho chúng nhằm duy trì và phát
triển doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh do vậy chiến lược kinh doanh
phải đạt được các yêu cầu sau:
- Xác định rõ được mục tiêu cơ bản cần phải đạt được trong từng thời
kỳ và cần phải được quán triệt ở mọi cấp, mọi lĩnh vực hoạt động trong doanh
nghiệp (vì chiến lược có tác động bao trùm lên mọi hoạt động của doanh
nghiệp) tránh mâu thuẫn nhau.
- Đảm bảo huy động tối đa và kết hợp tối ưu việc khai thác, sử dụng
các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp nhằm phát huy được lợi thế, tận dụng
13
được các cơ hội để giành ưu thế trong cạnh tranh nhờ kết hợp những yếu tố
bên trong và bên ngoài.
- Chiến lược kinh doanh được phản ánh như một quá trình liên tục từ
việc xây dựng chiến lược đến thực hiện, kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh chiến
lược.
- Chiến lược phải được lập ra trong thời gian tương đối dài, thường từ 3
năm trở lên.
Trình tự xây dựng chiến lược kinh doanh của một doanh nghiệp thường
phải tuân thủ theo 6 bước sau:
1 Dự án xây dựng chiến lược
2 Phân tích chiến lược
3 Lập chiến lược Công ty
4 Lập chiến lược các đơn vị kinh doanh
5 Xây dựng các biện pháp thực hiện chiến lược
6 Đánh giá chiến lược và các biện pháp thực hịên
7
Lập và thông qua các tài liệu chiến lược
Trong đó:
14
1: Được lập bởi các chuyên gia, sau khi nghiên cứu, khảo sát trong 1
thời gian tương đối dài
2: Phân tích SWOT (S: Strenghts: điểm mạnh; W: Weaknesser: điểm
yếu; O: Opportunities: cơ hội; T: Threats: thách thức)
3: Rà soát các lĩnh vực, đơn vị kinh doanh để xem có thêm lĩnh vực
nào, lĩnh vực nào đầu tư thêm, đầu tư mới.
4: Các chiến lược cạnh tranh làm cho từng đơn vị kinh doanh
5: Xây dựng biện pháp tài chính, nhân lực, công nghệ
6: Đánh giá tính hiệu quả, khả thi
7: Viết, thông qua tài liệu chiến lược. Đây là sản phẩm cuối cùng.
Qui trình 6 bước (2-7) để thực hiện 3 nội dung sau:
1-Xác định nhiệm vụ chiến lược và hệ thống mục tiêu chiến lược (mô
hình 3E) *
2- Chẩn đoán chiến lược (phân tích môi trường kinh doanh) bên ngoài
và bên trong, mục đích để nhận dạng SWOT
3-Xây dựng các chiến lược khả thi và lựa chọn chiến lược
*: Chiến lược kinh doanh là sự tương hợp của 3E trong đó:
E1 - Enterprice: nói đến điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp so với
đối thủ cạnh tranh, nói đến 3 cấp độ: cấp 1 là vị trí cạnh tranh trên thị trường
mục tiêu, phải nhiều năm mới có được; cấp 2 là ưu thế cạnh tranh dài hạn về
sản phẩm, thị trường, phụ thuộc chất lượng sản phẩm, giá...; cấp 3 là ưu thế
cạnh tranh dài hạn về nguồn lực thông qua khả năng về vốn, con người (lực
lượng lao động), tài sản, mạng phân phối... Tuy nhiên cấp 3 và cấp 2 là vấn đề
quan trọng của chiến lược, được xây dựng từ cấp 3 rồi cấp 2 để có cấp 1. Hệ
thống 3 cấp độ này sẽ có tức động ngược trở lại.
15
Cả 3 cấp độ này phải được xây dựng trong cả quá trình lâu dài.
E2 - Environement : môi trường, bao gồm cơ hội, đe doạ của môi
trường đối với sự phát triển của doanh nghiệp và cũng được đề cập đến 3 góc
độ (ngành, kinh tế quốc dân và kinh tế quốc tế) và trong mối môi trường cũng
nói đến 5 yếu tố: plan (kế hoạch), ploy (mưu lược), pattem (khuôn mẫu),
position (vị thế), perpectue (triển vọng).
E3- Ertreprenewr - chủ doanh nghiệp: giá trị và niềm tin.
Tuy nhiên đây chỉ là mô hình cổ, là sự tương hợp giữa 3E, ngày nay 3E
có nhiều quan điểm rộng hơn, đó còn là văn hoá doanh nghiệp chứ không đơn
thuần chỉ là doanh nghiệp.
1.2.2. Xác định nhiệm vụ chiến lược và hệ thống mục tiêu chiến lược
Bước này sẽ làm căn cứ cho các hoạch định chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp. Trong bước này cần phải xác định ngành nghề và mặt hàng
kinh doanh chính, vạch rõ mục tiêu chính của Công ty. Bước này làm nền
tảng cho việc soạn thảo và hoạch định chiến lược, vì có xác định được nhiệm
vụ và mục tiêu chiến lược một cách đúng đắn và hợp lý mới có định hướng
chỉ đạo cho các bước tiếp theo của tiến trình xây dựng chiến lược, hơn nữa
đây cũng chính là một trong những căn cứ để cung cấp các thông tin kiểm tra,
đánh giá và điều chỉnh chiến lược khi thực hiện sau này.
Chức năng nhiệm vụ là lý do chính để doanh nghiệp tồn tại và cũng để
phân biệt doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác, nội dung của chức năng,
nhiệm vụ phải được nêu ra cho việc định hướng chỉ đạo do vậy nó cần phải
được triển khai và phác hoạ thành các mục tiêu cụ thể.
Hệ thống mục tiêu chính là kết quả cụ thể mà doanh nghiệp phải phấn
đấu để đạt được - tức là đích của các chiến lược và quyết định của doanh
nghiệp. Nói cách khác thì đây là những kết quả mà doanh nghiệp hy vọng sẽ
16
đạt được khi thực hiện chiến lược. Tuỳ từng doanh nghiệp, từng thời kỳ mà
mục tiêu sẽ có sự thay đổi tương ứng tạo thành một hệ thống mục tiêu chiến
lược (mức tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận, năng suất, thị phần, vị thế...) tuy
vậy cũng có thể phân chia ra hai loại mục tiêu cơ bản là:
Mục tiêu dài hạn: là các kết quả mong muốn của doanh nghiệp đề ra và
được thực hiện trong khoảng thời gian tương đối dài (hơn 1 chu kỳ kinh
doanh). Hiện nay các doanh nghiệp thường có nhiều mục tiêu khác nhau
nhưng có thể qui về 3 mục tiêu cơ bản, đó là: khả năng sinh lợi, vị thế trên thị
trường và mức độ an toàn trong kinh doanh.
Mục tiêu ngắn hạn là các kết quả mong muốn của doanh nghiệp đề ra
và được thực hiện trong khoảng thời gian tương đối ngắn (trong 1 chu kỳ kinh
doanh). Với loại mục tiêu này phải hết sức cụ thể, kết quả rõ ràng (ví dụ mục
tiêu năng suất, thị phần, sản phẩm công nghệ...)
Dù là mục tiêu nào thì cũng phải đảm bảo các tiêu chí sau: cụ thể, linh
hoạt, định hướng, khả thi và nhất quán.
1.2.3. Chẩn đoán chiến lược bên ngoài và bên trong
Trước khi hoạch định chiến lược phải tiến hành một loạt các phân tích
đảm bảo cho chiến lược sẽ được hình thành trên các căn cứ khoa học, các
phân tích gồm có: phân tích môi trường ngoại vi (bao gồm môi trường vĩ mô
và môi trường vi mô) và môi trường nội bộ (nội vi). Đây là tập hợp những
điều kiện, yếu tố bên ngoài và bên trong có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp
đến hoạt động của doanh nghiệp và đây là nhóm yếu tố chi phối sự thành
công hay thất bại của doanh nghiệp. Việc phân tích các điều kiện môi trường
kinh doanh hiện tại và môi trường dự kiến trong tương lai đảm bảo cho sự
thành công của các doanh nghiệp.
17
Phân tích môi trường kinh doanh: phân tích này nhằm xác định thời cơ
và các đe doạ từ môi trường
Môi trường vĩ mô ảnh hưởng đến tất cả các ngành kinh doanh nhưng
mức độ ảnh hưởng là khác nhau. Môi trường vi mô được xác định đối với một
ngành cụ thể. Hai môi trường này nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp.
Môi trường nội bộ bao gồm các yếu tố bên trong một doanh nghiệp và
đây là môi trường mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được.
Việc phân tích môi trường vĩ mô giúp cho doanh nghiệp trả lời phần
nào cho câu hỏi: doanh nghiệp đang phải đối mặt với những gì ? và do vậy
các yếu tố trong môi trường vĩ mô mà doanh nghiệp cần chú ý đó là các yếu
tố kinh tế, công nghệ, văn hoá, dân cư, luật pháp, tự nhiên và rộng hơn nữa đó
là môi trường toàn cầu.
Phân tích môi trường hoạt động
Môi trường kinh tế của doanh nghiệp được xác định thông qua tiềm
lực của nền kinh tế quốc gia, do vậy các nhân tố quan trọng để đánh giá tiềm
lực này gồm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, lãi suất và xu hướng của nó,
tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát, mức độ tiêu dùng, tỷ lệ thất nghiệp, hệ thống
thuế. Đây là nhóm các yếu tố có tác động mạnh hơn so với một số yếu tố khác
(ví dụ như yếu tố các phương pháp hoạt động thị trường, thị trường vốn, các
chỉ số chứng khoán...). Mỗi yếu tố trên có thể là cơ hội hoặc nguy cơ cho từng
doanh nghiệp cụ thể.
Môi trường công nghệ: đây là nhân tố rất năng động chứa đựng nhiều
cơ hội và đe doạ đối với doanh nghiệp, có ảnh hưởng lớn và trực tiếp tới
chiến lược kinh doanh của các lĩnh vực. Đã từng có những công nghệ ra đời
làm chao đảo thậm chí làm mất đi một vài lĩnh vực nhưng đồng thời cũng làm
nảy sinh nhiều lĩnh vực kinh doanh mới hơn, hoàn thiện hơn. Sự tiến bộ của
18
kỹ thuật công nghệ có thể tác động sâu sắc lên những sản phẩm, dịch vụ, tạo
ra những ưu thế cạnh tranh mới, mạnh mẽ hơn các ưu thế hiện có. Từ đó đòi
hỏi các nhà chiến lược phải thường xuyên quan tâm tới sự thay đổi cũng như
đầu tư cho tiến bộ khoa học công nghệ, cần có hệ thống thông tin nhạy bén để
tận dụng được mọi cơ hội và ngăn chặn kịp thời các nguy cơ. Phải dành một
số vốn nhất định cho nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ để hạn
chế sự ảnh hưởng của môi trường này. Mặt khác đứng trước mỗi sự thay đổi
trong công nghệ của ngành, doanh nghiệp cần nhận thức được đây là cơ hội
để tận dụng hay nguy cơ cần ngăn chặn.
Môi trường văn hoá xã hội: là nhân tố thay đổi lớn nhất và chính sự
thay đổi lối sống theo xu hướng du nhập luôn là cơ hội cho nhiều nhà sản
xuất, doanh nghiệp phải tính đến thái độ tiêu dùng, tỷ lệ kết hôn và sinh đẻ, vị
trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội, và gia đình. Trình độ dân trí ngày
một cao chính là một thách thức đối với các nhà sản xuất... chính vì vậy các
doanh nghiệp cần có thái độ ứng xử phù hợp với thiên nhiên, với con người,
với xã hội cho phù hợp.
Môi trường dân cư: sự thay đổi dân cư dẫn đến sự thay đổi sâu sắc và
quan trọng các quá trình kinh tế - xã hội trên phạm vi rộng (có thể cả thế giới)
đây là một quá trình làm ảnh hưởng, thay đổi đến chiến lược của các doanh
nghiệp, và các doanh nghiệp cần phải quan tâm đến môi trường dân số ở các
mặt: tổng dân số xã hội, tỷ lệ tăng dân số, kết cấu và xu hướng thay đổi kết cấu
dân số về tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, mức thu nhập, tuổi thọ trung bình.
Môi trường luật pháp: sự ổn định hay mất ổn định về chính trị, sự thay
đổi luật pháp và chính sách quản lý có thể gây sức ép (nguy cơ) hoặc là tạo cơ
hội cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn. Đây là môi trường ngày
càng có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động của doanh nghiệp. Để thành công
trong kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải phân tích, dự đoán về chính trị