Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất trong thị trường năm 2008

  • 10 trang
  • file .doc
BÀI THẢO LUẬN
PHÂN TÍCH NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LÃI SUẤT TRONG
THỊ TRƯỜNG NĂM 2008
Trong năm 2008 tại trường tài chính có sự biến động mạnh mẽ do rất nhiều
các nguyên tố khác nhau. Hiẹn nay đa số các nước theo đuổi tài chính tự do hoá
và cơ chế hình thành lãi xuất là cơ chế thị trường. Lãi suất vì vậy luôn biến động
phụ thuộc rất hiều vào các nhân tố kinh té vĩ mô cũng như nhiều nhân tố khác.
Sau đây chúng ta sẽ đi sâu nghiên cứu một số nhân tố cơ bản và quan trọng nhất:
I.Ảnh hưởng cung cầu vốn tín dụng va boi chi ngan sach
Lãi suất là giá cả của cho vay, vì vậy bất kỳ sự tất thay đổi nào của cung và
cầu quỹ cho vay không cùng một tỷ lệ đều sẽ làm cho thay đổi mức lãi suất trên
thị trường. xét về cung tín dụng và lãi suất có mối quan hệ ngược chiều nếu
cung về tín dụn tăng thì lãi suât giảm và ngược lại, còn cầu tín dụng tăng thì lãi
suất tăng
Dự báo trong thời gian tới lãi suất thị trường liên ngân hàng tiếp tục nóng lên
và ở mức cao. Còn nguyên nhân tiếp theo đó là cầu vốn tiền đồng Việt Nam
tăng cao, trong khi đó cung hạn chế bởi các lý do sau đây:
1. Ngân hàng Nhà nước ( NHNN) quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu
NHNN với lãi suất 7,8%/năm, kỳ hạn 364 ngày nhằm mục tiêu thu hút bớt tiền
từ lưu thông về, kiềm chế lạm phát. Hình thức phát hành là bắt buộc phải mua
đối với các Tổ chức tín dụng (TCTD) theo mức phân bổ cụ thể.
Theo đó có tới 41 TCTD đô thị phải mua loại tín phiếu nói trên, nhưng lại không
được sử dụng để giao dịch tái cấp vốn. NH nông nghiệp và phát triển nông thôn,
Quỹ tín dụng nhân dân và các TCTD có số vốn huy động VND đến 31/1/2008 từ
1
1.000 tỷ đồng trở xuống không phải mua tín phiếu NHNN đợt này. Thời điểm
phát hành là ngày 17/3/2008. Do đó để chủ động có đủ vốn mua tín phiếu
NHNN bắt buộc vào thời điểm đó thì ngay từ bây giờ các NHTM phải “ chạy
đôn , chạy đáo” huy động vốn trên thị trường, bởi vì hơn 20.000 tỷ đồng đâu có
phải ít!
2. Kể từ ngày 1/2/2008 các TCTD phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới, theo
hướng mở rộng phạm vi tiền gửi phải nộp dự trữ bắt buộc và tăng thêm 1% tỷ lệ
dự trữ bắt buộc so với mức trước đó.
Theo đó Thống đốc NHNN quyết định mở rộng thêm phạm vi phải thực hiện tỷ
lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi trên 24 tháng, thay vì chỉ có tới 24 tháng như
trước đây. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi VND không kỳ hạn đến dưới 12 tháng
tăng từ 10% lên 11%, tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên tăng từ 4% lên 5%;
tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn đến có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 10% lên
11%, tiền gửi ngoại tệ có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên tăng từ 4% lên 5%. Như vậy
từ tháng 2-2008, các NHTM phải bỏ ra thêm ít nhất là gần 10.000 tỷ đồng để
nộp dự trữ bắt buộc cho NHNN.
3. Thống đốc NHNN quyết định tăng một số loại lãi suất chủ đạo, thực hiện từ
tháng 2/2008. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm; lãi
suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ
4,5%/năm lên 6,0%/năm. Các mức lãi suất trước đó được thực hiện từ tháng
12/2005, tức là ổn định trong hơn 2 năm đến nay mới điều chỉnh tăng trước áp
lực gia tăng lạm phát. Đồng thời các mức lãi suất đó thực tế ít tác động đến lãi
suất của các NHTM, nhưng về điều hành NHNN phát đi tín hiệu tăng lãi trên
thị trường tiền tệ, tạo áp lực về tâm lý tăng lãi suất trên thị trường.
4. Cơ cấu vốn huy động Đồng Việt Nam của các NHTM có sự thay đổi theo
hướng tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi không kỳ hạn tăng lên nhanh hơn tiền gửi
2
trung và dài hạn. Đây là loại tiền gửi không những có tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao
tới 11%, mà tỷ lệ sử dụng thấp do khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào. Trong
số đó có những khoản tiền gửi lớn của khách hàng chờ mua chứng khoán, chờ
mua bất động sản của cá nhân, quỹ thặng dư vốn của doanh nghiệp, vốn tạm
thời nhàn rỗi của chủ dự án đầu tư khu chung cư và căn hộ liền kề khách hàng
đã nộp nhưng chưa giải ngân,…Những khoản tiền này khách hàng thường rút ra
đột xuất với mức độ lớn, nên NHTM phải để tỷ lệ vốn khả dụng cao hơn.
5. Sau Tết Nguyên đán Mậu Tý, nhu cầu vay vốn của các hộ gia đình và cá
nhân, nhu cầu giải ngân các hợp đồng tín dụng của doanh nghiệp tăng lên, nên
các NHTM cần số vốn lớn hơn.
6. Nhu cầu VND để mua ngoại tệ của khách hàng. Để có vốn mua ngoại tệ, các
NHTM buộc phải đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường.
7. Một phần vốn trong dân được chuyển sang đầu tư vào vàng do chỉ số giá tăng
cao, tâm lý một bộ phận người dân cho rằng lãi suất tiền gửi ngân hàng “âm” vì
chỉ số tăng giá năm 2007 là 12,6%, tháng 1/2008 là 2,8%, cao hơn rất nhiều so
với lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Trong khi đó giá vàng thị trường quốc tế và thị
trường trong nước thời gian qua liên tục tăng cao. Giá vàng hiện nay đã tăng gần
40% so với đầu năm 2007. Bên cạnh đó một lượng vốn đáng kể khác được tiếp
tục đầu tư vào bất động sản do thị trường này đang tiếp tục nóng và dự báo sẽ
tiếp tục nóng từ nay đến hết năm 2008.
Trong khi vốn Đồng Việt Nam nóng lên thì vốn ngoại tệ lại có xu hướng diễn
biến trái chiều. Lãi suất huy động vốn USD đứng nguyên và có xu hướng giảm,
do lãi suất chủ đạo đồng USD của Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) từ đầu năm
2008 đến nay 2 lần được cắt giảm từ mức 4,25%/năm xuống còn 3,0%/năm và
được dự báo sẽ tiếp tục được giảm hơn nữa. Tỷ giá VND/USD tiếp tục giảm
3
mạnh. ngày 15/2/2008 tỷ giá bán ra của các NHTM giảm xuống còn 15.959
VND/USD, giảm mạnh so với mức 15.995 VND/USD thời điểm tháng 1; tỷ giá
bán USD bằng tỷ giá mua của NHTM. Tỷ giá trên thị trường g tăng thì lãi suât
giảm và ngược lại, còn cầu tín dụng tăng thì lãi suất tăng
II. Mc l¹m ph¸t kú väng
Khi møc l¹m ph¸t t¨ng trong mét thêi kú nµo ®ã th× l·i suÊt còng t¨ng vµ
ngù¬c l¹i lý do la trong thêi kú l¹m ph¸t t©m lý tho¸i ch¹y khái tiÕt kiÖm dÉn
®Õn cung tÝn dông gi¶m nªn l·i suÊt t¨ng.
Đặc biệt trong năm 2008 tốc độ lạm phát tăng nhanh một cách đáng lo ngại,lạm
phát là do nhiều yếu tố khác nhau tác động vào nền kinh tế.trong đó lý do giá
xăng dầu là một yếu tố tác động,trong quý 1 năm 2008 mức lạm phát ở việt nam
lên đến hai con số,không chỉ việt nam hàng loat các nước trên thế giới cũng rơi
vào tình trạng nền kinh tế sụt giảm,trong tháng 10-2008 thị trường tài chính mỹ
khủng hoảng,hang loạt các tập đoàn tài chính lớn phá sản bất chấp sự can thiệp
của chính phủ mỹ,chính vì vậy nó đã làm hàng các sàn chứng khoán sụt giảm
mạnh, và làm cho lãi suất đồng đôla giảm.
Theo dự báo viet nam, lạm phát sẽ giảm từ nay đến cuối năm, trung bình CPI
mỗi tháng tăng khoảng 1%. Từ tháng 7/2008, chỉ số CPI so với cùng kỳ năm
ngoái sẽ tiếp tục tăng nhẹ và đạt đỉnh điểm vào khoảng thời gian tháng 10, tháng
11, sau đó giảm dần và trong điều kiện bình thường sẽ đạt khoảng 28,2% vào
cuối năm. Con số này được đưa ra đựa trên cơ sở căng thẳng về giá lương thực,
thực phẩm giảm bớt; cầu nền kinh tế giảm; chính sách tiền tệ phát huy tác dụng;
kiểm soát giá cả các mặt hàng thiết yếu của Chính phủ.
III. Ảnh huong cua thi truong tai chinh quoc te
4
Ngay sau khi NHNN hủy bỏ trần lãi suất huy động 12%/năm và thay bằng trần
lãi suất cho vay 18%/năm (150% của lãi suất cơ bản vừa được nâng lên
12%/năm), tất cả các NHTM, kể cả các NHTM quốc doanh, đều đồng loạt tăng
lãi suất huy động. Chỉ sau vài ngày chạy đua, lãi suất huy động của các NHTM
(lên đến 15%-16%/năm) đã cao hơn khá nhiều so với lãi suất tái cấp vốn của
NHNN (13%/năm) và lãi suất tái chiết khấu (11%/năm) mà NHNN cũng vừa
nâng lên. Các NHTM phải tăng lãi suất huy động cao như vậy vì toàn bộ hệ
thống ngân hàng đang gặp khó khăn về thanh khoản do chính sách thắt chặt tiền
tệ của NHNN và đang phải vay mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng
với lãi suất rất cao (có lúc vượt quá 20%/năm). Lẽ ra lãi suất trên thị trường liên
ngân hàng cho mục tiêu quản lý thanh khoản phải dao động trong khoảng 11%
đến 13%/năm, nghĩa là nằm giữa lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn.
Đây là điều mà NHNN mong muốn và cũng là qui luật thông thường trong hệ
thống ngân hàng các nước, mà một ví dụ cụ thể là hệ thống ngân hàng của Mỹ.
Hệ thống ngân hàng Mỹ
Các NHTM của Mỹ, giống như các nước sử dụng hệ thống ngân hàng với dự
trữ một phần (fractional reserve system), bị buộc phải giữ một lượng tiền mặt
nhất định tại Cục Dự trữ Liên bang (tức là ngân hàng trung ương của Mỹ thường
được
gọi tắt là FED). Lượng tiền này, gọi là Fed funds, trên tổng số tiền gửi không kỳ
hạn, ít nhất phải bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà FED đặt ra (hiện tại là 10%). Vì
số tiền dự trữ bắt buộc này (Fed funds) không được trả lãi suất nên các NHTM
Mỹ luôn giữ ở mức sát với tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Khi một NHTM có nguy cơ
không đảm bảo được tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì ngân hàng đó phải vay trên thị
trường liên ngân hàng lượng Fed funds còn thừa của các ngân hàng khác. Lãi
suất cho vay Fed funds được FED ấn định và gọi là Fed funds rate.
5
Nếu vì lý do nào đó mà cung Fed funds trên thị trường này không đủ cầu và lãi
suất liên ngân hàng cho Fed funds có nguy cơ vượt Fed funds rate thì FED (tại
New York) sẽ can thiệp ngay lập tức qua hoạt động thị trường mở (OMO) mua
lại trái phiếu chính phủ Mỹ để bơm thêm Fed funds vào hệ thống ngân hàng. Vì
FED mua lại trái phiếu chính phủ với lãi suất tái chiết khấu đúng bằng Fed fund
rate được công bố trước đó nên không NHTM nào lại đi vay liên ngân hàng với
lãi suất cao hơn Fed funds rate để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc cả. Bởi vậy Fed
funds rate sẽ là lãi suất trần trên thị trường liên ngân hàng nếu các NHTM tham
gia vào thị trường này chỉ để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Bên cạnh nhu cầu đảm bảo lượng Fed funds tối thiểu, các NHTM còn có nhu
cầu quản lý thanh khoản của mình, tức là đảm bảo khả năng thanh toán các
khoản nợ đến hạn trong đó bao gồm nhu cầu rút tiền của những người gửi tiền
không thời hạn. Khi các NHTM Mỹ có nguy cơ thiếu thanh khoản, họ có thể
vay tiền từ hai nguồn: cửa sổ chiết khấu của FED (discount window) hoặc trên
thị trường liên ngân hàng. Về cơ bản, FED ấn định lãi suất cho vay tại các
discount window gọi là lãi suất chiết khấu (discount rate) thông thường cao hơn
Fed funds rate khoảng 0.5% đến 1% (tuy nhiên hiện tại chỉ cao hơn 0.25% vì hệ
thống tài chính Mỹ đang trong giai đoạn khủng hoảng nên FED muốn khuyến
khích các NHTM vay tiền từ discount window). Đây chính là chức năng “người
cho vay cuối cùng” (lender of last resort - LOLS) của một ngân hàng trung
ương.
Nếu vay trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất sẽ do hai bên thỏa thuận và lãi
suất trung bình trên thị trường này hàng ngày sẽ được 16 NHTM lớn nhất Mỹ
báo cáo cho BBA (British Bankers Association) để tổ chức này tính lãi suất liên
ngân hàng trung bình cho ngày hôm đó rồi công bố trên thị trường tài chính với
cái tên LIBOR (đầy đủ hơn là USD Libor fixing). Về mặt lý thuyết, LIBOR cho
thị trường liên ngân hàng của Mỹ sẽ phải thấp hơn discount rate của FED vì nếu
cao hơn thì các NHTM sẽ quay về vay tiền của FED từ discount window. Trên
thực tế các NHTM thường tránh không vay từ discount window vì họ không
6
muốn bị mang tiếng là tình hình thanh khoản và mức độ rủi ro tín dụng (credit
risk) quá xấu đến mức không vay được trên thị trường liên ngân hàng nữa mà
buộc phải quay về “người cho vay cuối cùng” cầu cứu. Bởi vậy trong những giai
đoạn khủng hoảng tài chính đôi khi LIBOR cao hơn discount rate, nhưng nhìn
chung lãi suất này thường thấp hơn discount rate và có thể coi discount rate là
lãi suất trần của LIBOR trên thị trường liên ngân hàng.
Ngược lại LIBOR thường cao hơn Fed funds rate khoảng 0.1% (tuy cũng có
lúc tăng lên đến 0.7%) vì các NHTM khi cho vay lẫn nhau trên thị trường liên
ngân hàng luôn tính đến rủi ro tín dụng khi đối tác của mình không trả được nợ.
Chính cái khoảng chênh lệch 0.1% giữa LIBOR và Fed funds rate là credit risk
mà các NHTM cộng thêm vào khi cho các NHTM khác vay liên ngân hàng để
quản lý rủi ro thanh khoản. Sở dĩ khi cho vay Fed funds (sẽ được giữ trên tài
khoản tại FED) các NHTM không tính đến credit risk (hay credit risk bằng
không) vì đối tác không được rút Fed funds về cho các mục đích thanh khoản
nên kể cả khi đối tác phá sản số tiền cho vay dưới dạng Fed funds cũng không bị
mất. Điều đó có nghĩa là Fed funds rate là lãi suất sàn cho LIBOR trên thị
trường liên ngân hàng.
Tóm lại, trong hệ thống ngân hàng của Mỹ, lãi suất liên ngân hàng LIBOR mà
các NHTM vay để quản lý thanh khoản thường dao động trong khoảng giữa Fed
funds rate và discount rate là hai công cụ chính sách mà FED quản lý được trực
tiếp. Vì gần như tất cả các loại lãi suất thương mại khác đều lấy LIBOR làm
chuẩn nên khi FED thay đổi Fed funds rate và discount rate thì về bản chất FED
đã làm thay đổi lãi suất thương mại trên toàn bộ thị trường vốn của Mỹ. Tức là
FED thực thi các chính sách tiền tệ của mình thông qua việc điều hành hai lãi
suất cơ bản nói trên hoàn toàn qua cơ chế thị trường.
Một điểm rất quan trọng cần lưu ý là để hệ thống này hoạt động trơn chu,
FED phải cam kết bảo vệ Fed funds rate và discount rate thông qua OMO và
discount window bất kỳ khi nào lãi suất cho Fed funds hoặc LIBOR có xu
7
hướng phá vỡ trần trên thị trường liên ngân hàng. Điều này tương đương với
việc FED cam kết thực hiện chức năng LOLR cho các NHTM trong mọi trường
hợp. Không chỉ trong những lúc các NHTM lâm vào tình trạng khủng hoảng
thanh khoản mà ngay cả khi hệ thống ngân hàng đang hoạt động bình thường
FED vẫn phải thực hiện chức năng LOLR cung cấp Fed funds và thanh khoản
cho những NHTM nào có nhu cầu. Tuy nhiên cơ chế này cần một điều kiện nữa
là các NHTM phải nắm giữ một lượng trái phiếu chính phủ đủ lớn để tham gia
vào OMO hoặc vay tiền mặt từ discount window.
Trong giai đoạn đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng cho vay bất động sản
dưới chuẩn (subprime mortgage) vào những tháng cuối năm 2007 và đầu năm
2008, nhiều NHTM gặp khó khăn về thanh khoản và bắt đầu cạn kiệt trái phiếu
chính phủ. Đồng thời credit risk trên thị trường tăng cao dẫn đến nguy cơ
LIBOR vượt ra ngoài giới hạn thông thường, Đối phó với tình trạng này, FED
đã tung ra hai công cụ điều hành tiền tệ hoàn toàn mới là TAF (Term Auction
Facility) và TSLF (Term Securities Lending Facility), về bản chất là cho phép
các NHTM và một số tổ chức tài chính lớn (primary dealers) được phép dùng
các loại trái phiếu thương mại để vay tiền mặt hoặc trao đổi (swap) trái phiếu
thương mại lấy trái phiếu chính phủ từ FED. Mục tiêu cuối cùng của việc đưa ra
hai công cụ tiền tệ mới này là để ổn định tính thanh khoản trong hệ thống tài
chính và bảo vệ Fed fund rate và discount rate trên thị trường liên ngân hàng khi
hệ thống bị khủng hoảng. Cho đến thời điểm này, TAF và TSLF đã có những
thành công nhất định trong việc ổn định thị trường nên FED dự tính sẽ giữ hai
công cụ mới này lâu dài chứ không phải chỉ hạn chế trong khoảng 600 tỷ USD
ban đầu.
8