Ôn tập giáo dục học mầm non
- 18 trang
- file .doc
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VH, TT, DL THANH HÓA
HỘI ĐỒNG TUYỂN SINH NĂM 2015
CÂU HỎI ÔN TẬP
Môn: Giáo dục học mầm non
Chuyên ngành: Giáo dục mầm non
Trình độ: Đại học - Hệ: Liên thông
1. Thế nào là sự phát triển trẻ em? Hãy nêu những nét đặc trưng về sự phát triển của trẻ
mầm non.
2. Phân tích vai trò của giáo dục với sự phát triển trẻ em; từ đó rút ra kết luận sư phạm
trong công tác giáo dục trẻ em.
3. Phân tích nhiệm vụ, phẩm chất, năng lực của người giáo viên mầm non.
4. Các nguyên tắc xây dựng chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non.
5. Giáo dục thể chất cho trẻ mầm non là gì?. Phân tích các nhiệm vụ và điều kiện cần thiết
để giáo dục thể chất cho trẻ mầm non.
6. Giáo dục trí tuệ cho trẻ mầm non là gì?. Phân tích phương tiện giáo dục trí tuệ ở trường
mầm non.
7. Giáo dục đạo đức là gì?. Phân tích các nguyên tắc giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non.
8. Giáo dục thẩm mỹ là gì?. Phân tích các phương pháp giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mầm
non.
9. Phân tích những điểm cần lưu ý khi chăm sóc, giáo dục trẻ dưới 3 tuổi.
10. Biểu hiện, nguyên nhân và biện pháp khắc phục hiện tượng khủng hoảng của trẻ lên ba.
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VH, TT, DL THANH HÓA
HỘI ĐỒNG TUYỂN SINH NĂM 2015
NỘI DUNG ÔN TẬP
Môn: Giáo dục học mầm non
Chuyên ngành: Giáo dục mầm non
Trình độ: Đại học - Hệ: Liên thông
1. Thế nào là sự phát triển trẻ em? Hãy nêu những nét đặc trưng về sự phát triển của
trẻ mầm non.
1.1. Thê nào là sự phát triển trẻ em?
Sự phát triển được hiểu là có sự biến đổi tổng thể về chất có sự cải biến toàn bộ
các sức mạnh của mỗi con người (thể chất, tâm lý, xã hội) trên cơ sở đặc điểm phát
triển lứa tuổi.
- Sự phát triển về thể chất biểu hiện ở sự tăng trường của cơ thể về chiều cao,
cân nặng, cơ bắp, hoàn thiện các giác quan, phối hợp với các vận động cơ thể.
- Sự phát triển về tâm lý biểu hiện ở những biến đổi cơ bản trong quá trình nhận
thức, xúc cảm, tình cảm, ý chí, ờ sự hình thành các thuộc tính tâm lý mới của nhân
cách.
- Sự phát triển về mặt xã hội của cá nhân biểu hiện ở những biến đổi trong ứng
xử của cá nhân với những người xung quanh, ở sự tích cực tham gia của cá nhân đó
vào đời sống xã hội. Cần nhấn mạnh rằng sự phát triển của nhân cách khống chỉ diễn
ra đối với những thuộc tính mới được hình thành trong quá trình sống mà còn đối với
các yếu tố mang tính bẩm sinh, di truyền. Sự phát triển cá nhân là kết quả tác động
của nhiều yếu tố tự nhiên, xã hội, bên trong bên ngoài khách quan và chủ quan, tự
phát triển và có ý thức... được thể hiện qua những yếu tố chính là: di truyền bẩm
sinh, môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân.
1.2. Những nét đặc trưng về sự phát triển của trẻ mầm non
Trẻ em là một thực thể đang phát triển
Từ khi lọt lòng mẹ đến lúc trường thành ưẻ em phát triển qua nhiều thời kỳ
khác nhau, mỗi thời kỳ là sự tiếp theo cùa thời kỳ trước và chuẩn bị cho thời kỳ sau.
Trẻ từ 0 - 6 tuổi là thời kỳ phát triến rất đặc biệt với tốc độ phát triển nhanh về
mọi mặt. Giai đoạn này đặt tiền đề cho phát triển nhân cách và toàn bộ con người
mai sau.
Tuổi mầm non có thể chia làm ba thời kỳ:
(1) Tuổi hài nhi (từ khi lọt lòng mẹ đến 12 tháng tuổi)
(2) Tuốì ấu nhi (từ 12 tháng tuổi đến 36 tháng tuổi) - tuổi nhà trẻ.
(3) Tuổi mẫu giáo (từ 36 tháng tuổi đến 72 tháng tuổi).
1.2.1. Tuổi hài nhi
Trẻ vừa lọt lòng mẹ chỉ hành động theo cơ chế bẩm sinh, vô thức với phản xạ
không điều kiện, song rất yếu. Giai đoạn này trẻ hoàn toàn sống phụ thuộc vào người
lớn (người mẹ). Hoạt động chủ đạo ở giai đoạn này là hoạt động giao tiếp - tiếp xúc -
giao lưu tình cảm. Thông qua hoạt động giao tiếp tiếp xúc tình cảm trẻ phát triển
nhanh về mặt thể chất cũng như về mặt tầm sinh lý, đặc biệt về mặt tình cảm. Trên
cơ sở giao tiếp mà ở trẻ nảy sinh nhu cầu là hình thành hoạt động tâm lý (trẻ bắt đầu
2
xuất hiện phản ứng hớn hở, hóng chuyện, cầm nắm đồ vật, nhận biết mẹ, có nhu cầu
tình cảm, bắt đầu quấy khóc và đòi mẹ bế).
Trong quá trình này người lớn không những giúp trẻ thoả mãn nhu cầu lối thiểu
(ăn ngủ, vệ sinh) mà còn giúp trẻ thoả mãn nhu cầu vặn động (lẫy, bò, trườn). Vì vậy
nhà giáo dục phải giúp trẻ thoả mãn nhu cầu giao lưu) để nâng cao sự phát triển của
trẻ.
1.2.2. Tuổi ấu nhi
Hoạt động chù đạo ở lứa tuổi này là hoạt động với đồ vật. Lúc này trẻ đã bắt
đầu hiểu được mối liên hệ bên trong của đổ vật (thuộc tính bên trong) như: cốc để
uống nước, thìa để xúc cơm.
Bằng hoạt động với đồ vật mà trẻ ấu nhi đã phát triển lâm lý nhất là quá rrình
tri giác và tư duy. Quá trình này phát triển mạnh lừ khi trẻ biết đi và biết nói tiếng
đầu tiên. Đây là bước ngoặt đầu tiên của trẻ đánh dấu sự phát triển về mặt tâm lý làm
cho trẻ mở rộng thêm môi trường hiểu biết, trẻ biết nhiều hơn về thế giới xung quanh
và phạm vi hoạt động của trẻ được mở rộng. Trẻ tiếp xúc nhiều với các sự việc hiện
tượng của thiên nhiên và xã hội. Cũng chính từ đây ngôn ngữ của trẻ phát triển, trẻ
hiểu được từ ngữ, biểu đạt ý nghĩ bằng từ ngữ nói theo phương thức con người. Khi
trẻ biết đi, trẻ gặp bao sự việc cần phải giải quyết. Từ đó mâu thuẫn mới nẩy sinh,
thôi thúc trẻ khám phá thế giới xung quanh dể thoà mãn nhu cầu của mình. Trẻ quan
sát đồ vật, tìm hiểu tính chất, chức năng, và có khả năng so sánh, phân tích đối chiếu
bằng tay, trên cơ sở đó tư duy trực quan phát triển đì cùng với nó là vận động và phát
triển.
Sự phát triển là biểu hiện cụ thể của sự phát triển tâm lý ở lứa tuổi này có sự
mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng của trẻ, dẫn đến sự khủng hoảng tâm lý. Để giải
quyết vấn đề này người lớn phải giúp trẻ thoả mãn nhu cầu này qua hoạt động vui
chơi. Chẳng hạn cho trẻ chơi trò bán hàng, bác sĩ khám bệnh, để trẻ tập thể hiện hành
động của người lớn.
1.2.3. Tuổi mẫu giáo
Chơi là hoạt động chù đạo của trẻ mẫu giáo. Thông qua chơi trẻ được thoả mãn
nhu cầu tâm lý và giải quyết mâu thuẫn nảy sình của độ tuổi. Các nhà giáo dục đã tổ
chức cho trẻ chơi với các loại hình khác nhau, nhằm thoả mãn nhu cầu tâm lý và thực
hiện yêu cầu giáo dục. Thông qua chơi trẻ có thể tiếp xúc và hiểu biết thế giới xung
quanh, phát triển tâm lý (phát triển quá trình cảm giác, tri giác, trí nhớ, tưởng tượng,
ngôn ngữ, ý chí, hành động, cách ứng xử xã hội và quan hệ xã hội). Trò chơi đóng
vai trò giúp trẻ hình thành xã hội đầu tiên của trẻ. Trò tham gia chơi một cách tích
cực sẽ có ý nghĩa hình thành nhân cách của trẻ. Trẻ mẫu giáo không chỉ tham gia đến
hoạt động vui chơi mà còn tham gia nhiều hoạt động khác như hoạt động học tập lao
động giao tiếp. Các hoạt động này là điều kiện giúp trẻ phát triển một cách toàn diện.
Chính vì vậy các nhà giáo dục cần biết tổ chức các dạng hoạt động cho trẻ và thu hút
trẻ vào các hoạt động đó, sao cho trẻ tham gia một cách tính cực và say mê.
Tóm lại: Từ 0 - 6 tuổi trẻ có ba giai đoạn phát triển, mỗi giai đoạn có những
đặc điểm lứa tuổi chi phối thể hiện ờ những hoạt động chủ đạo vì thế nhà giáo dục
phải nắm bắt được các quy luật này để giúp trẻ hoạt động đúng lứa tuổi, đó là con
đường tốt nhất giúp trẻ phát triển và hoàn thành giai đoạn đầu tiên của sự hình thành
và phát triển những mầm mống ban đầu của nhân cách con người, chuẩn bị bước
3
sang một giai đoạn mới: Tuổi học sinh.
2. Phân tích vai trò của giáo dục với sự phát triển trẻ em; từ đó rút ra kết luận sư phạm
trong công tác giáo dục trẻ em.
Giáo dục là hoạt động có mục đích, có kế hoạch của con người là hoạt động có
ý thức của nhà giáo dục hoặc tổ chức, nhầm hình thành nhân cách trẻ em.
Nói đến giáo dục và quá trình giáo dục không nên hiểu một chiều chỉ là sự tác
động của nhà giáo dục và tổ chức giáo dục đến nhân cách của người được giáo dục.
Ngược lại giáo dục bao gồm cả hoạt động của cá nhân người được giáo dục vói tư
cách vừa là khách thể vừa là chủ thể của quá trình giáo dục. Giáo dục là không thể
nào chi có thầy mà không có trò. Cũng như dạy học bao hàm cả dạy và học nghĩa là
có cả thầy và trò. Nhà giáo dục thực hiện nhiều công việc: Tổ chức, chỉ đạo, điều
khiển, điều chỉnh, động viên, kiểm tra, đánh giá các hoạt động và giao tiếp của người
được giáo dục. Từ đó hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Ở trường mầm non cô
giáo tổ chức quá trình sư phạm bằng cách tổ chức cuộc sống trong ngày cho trẻ theo
chế độ sinh hoạt hàng ngày. Tổ chức chế độ ăn ngủ, vệ sinh, hoạt động vui chơi. Ví
dụ: Thông qua trò chơi cô có thể cho trẻ làm quen với công việc cùa người lớn (bác
sĩ khám bệnh) và cũng trong trò chơi đó cô có thể cho cháu biết mối quan hệ trong xã
hội (giữa người bệnh và bác sĩ). Cô và cháu cùng tham gia hoạt động, cháu hoạt động
dưới sự chi đạo và hướng dẫn của cô qua đó hình thành những tính cách của trẻ.
Như đã phàn tích ở trên trong quá trình giáo dục người được giáo dục (học
sinh, trẻ em ) đóng vai trò chủ động, tích cực, tự giác hoạt động. Dưới sự hướng dẫn
và tác động định hướng của thầy cô để hình thành và phát triển nhân cách. Người
giáo dục giữ vai trò chủ đạo, tổ chức điều khiển, điéu chỉnh quá trình giáo dục ấy. Vì
vậy trong quá trình giáo dục nhà giáo dục phải biết phát huy vai trò chủ động, tự
giác, tích cực của người được giáo dục, nghĩa là biết phát huy cao độ và triệt để điều
kiện bên trong của trẻ em (đó chính là sức sống tự nhiên của trẻ em).
* Giáo dục định hướng cho sự phát triển
Trong quá trình giao tiếp với người lớn, trẻ đã học hỏi rất nhiều kinh nghiệm
sống, người lớn đã chỉ bảo và dạy dỗ trẻ, cung cấp cho trẻ những kiến thức trong
cuộc sống. Giúp trẻ tư duy, giúp trẻ hiểu biết thế giới xung quanh, trẻ tích luỹ được
những tri thức và kỹ năng trong cuộc sống. Giúp trẻ giải quyết được những nhiệm vụ
trí tuệ mà hàng ngày trẻ gặp phải. Thế giới xung quanh trẻ thật phong phú, đa dạng.
Biết bao điều mới lạ đối với trẻ. Chính vì vậy người lớn cần giúp trẻ để trẻ dễ thích
ứng với nền kinh tế xã hội mới, nhanh chóng thành người trưởng thành, thích ứng
với xã hội và biết lao động trong nền sản xuất hiện đại. Trẻ em được người lớn dạy
dỗ, chỉ bảo đã rút ngắn thời gian mò mẫm vào đời. Trè càng nhỏ càng đòi hỏi sự giúp
đỡ chỉ bảo của người lớn càng tỷ mỷ kỹ lưỡng và chu đáo hơn. Trang bị cho trẻ
phương pháp tiếp cận với thế giới xung quanh, tự giáo dục và hoàn thiện mình theo
chuẩn mực của xã hội đặt ra.
Ví dụ: Chế độ chăm sóc bảo vệ và giáo dục trẻ em ở gia đình và trường mầm
non được coi là khoa học nếu chế độ đó định hướng cho trè tập làm người từ việc nhỏ
đến việc lớn. Chế độ sinh hoạt trong ngày ờ trường mầm non từ lúc đón trẻ đến khi
trả trẻ là định hướng cho trẻ được hoạt động. Trẻ tập làm người bằng việc thoả mãn
nhu cầu sinh học (dinh dưỡng ), phát triển thể chất qua vân động, ăn uống, nghỉ ngơi,
phát triển trí tuệ qua tham quan, học tập. Phát triển tâm lý và mối quan hệ xã hội
4
đúng đắn. Đặc biệt qua trò chơi đóng vai, trẻ đã học làm người lớn. Việc định hướng
cho trẻ vào đời bằng cách tổ chức cuộc sống cho trẻ. Cho trẻ tham gia vào mọi hoạt
động: Học tập. vui chơi, vệ sinh, giao tiếp. Qua đó trẻ lớn khôn lên.
* Giáo dục lựa chọn nội dung văn hoá cho trẻ lĩnh hội
Trẻ vào đời cái gì cũng mới mẻ, bỡ ngỡ song được sự giúp đỡ giáo dục của
người lớn (cha mẹ, cô giáo, anh chị) trẻ lĩnh hội tri thức, nền vãn hóa xã hội, kinh
nghiệm lịch sử để hình thành con người. Đây chính là nhiệm vụ của giáo dục.
Nhưng giáo dục như thế nào? Nội dung, kiến thức gì? Phương pháp nào? Những
vấn đề này cần phải lựa chọn. Vì trẻ em sinh ra cơ thể còn non nớt không thể một
lúc tiếp nhận được mọi tri thức nền văn hoá xã hội, kinh nghiệm lịch sử. Cùng một
độ tuổi nhưng sự phát triển tâm sình lý cũng có những đặc điểm riêng bên cạnh
đặc điểm chung. Vậy giáo dục phải có sự lựa chọn cho phù hợp với sự phát triển
tâm sinh lý của trẻ. Giáo dục phải hướng vào vùng phát triển gần. Vì thế chúng ta
phải lựa chọn nội đung, phương pháp và hình thức giáo dục phù hợp sao cho
không thấp quá hoặc cao quá sự phát triển của trẻ. Giáo dục phải thúc đẩy sự phát
triển của trẻ. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào cô nuôi dạy trẻ.
Ví dụ: Giờ học làm quen với môi trường xung quanh (các loài động vật) cô
giáo phải lựa chọn con vật nào mà trẻ quen thuộc, hiền lành, trẻ hay gần gũi.
- Không chỉ cho trẻ nhận biết đặc điểm bề ngoài và tên gọi của con vật còn
cho trẻ biết về đặc điểm của con vật đó như: Nó thích ăn gì? Tính nết làm sao?
Mối quan hộ của nó với môi trường?
- Ý nghĩa của con vật với đời sống con người.
- Trách nhiệm cùa trẻ với việc chãm sóc con vật.
Người giáo dục ờ đây chính là cô giáo có nhiệm vụ lựa chọn nội dung hình
thức, phương pháp thích hợp để truyền đạt cho trẻ. Nội dung phương pháp pháp
phù hợp với sự phái triển tâm sinh lý cùa trẻ. Phương pháp phải dễ hiểu, phải sinh
động kích thích sự ham tìm hiểu của trẻ. Như vậy giáo dục có nhiệm vụ lựa chọn
nội dung văn hoá vừa sức cho trẻ lĩnh hội.
* Giáo dục lựa chọn phương pháp tác động đến trẻ và tổ chức cho trẻ hoạt động
Để cung cấp tri thức cho trẻ cô giáo phải lựa chọn phương pháp thích hợp và
phối hợp nhiều phương pháp để truyền tải tri thức đến cho trẻ. Sử dụng nhiều phương
pháp dạy học như: dùng lời (kể, đọc, đàm thoại ), trình bày trực quan, hoạt động thực
tiễn, thử nghiệm... Nhưng ở đây vấn đề là phải lựa chọn phương pháp dạy phù hợp
với nội dung kiến thức cần truyền tải cho trẻ. Có nghĩa là tuỳ vào từng nội dung dạy
học, tính chất tàì liệu, đặc điểm cháu và điều kiện thực tế mà cô giáo lựa chọn
phương pháp này hoặc phương pháp khác. Nhưng không có phương pháp nào là tốt
nhất dùng cho mọi trường hợp. Mỗi phương pháp đều có mặt tốt và mặt hạn chế. Khả
năng chú ý của trẻ có hạn, không chú ý được lâu, chóng chán. Sức tập trung còn yếu
do hoạt động của hệ thần kinh còn non nót. Chính vì vậy cần phải thường xuyên thay
đổi phương pháp hoặc kết hợp một số phương pháp trong việc dạy và tổ chức hoạt
động cho cháu. Có như vây công tác giáo dục và chăm sóc trẻ mới đạt hiệu quả cao.
Trẻ mầm non thích những điều mới lạ, thích khám phá, thích tự mình làm được
những việc giống như người lớn. Chính vì vậy các nhà giáo dục cũng nên lưu tâm
vấn đề này. Nên tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động để thoả mãn nhu cầu thích
làm người lớn của trẻ. Ví dụ tổ chức cho trẻ chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề: nấu
5
ăn, bác sĩ khám bệnh.. Như vậy thông qua hoạt động trò chơi này trẻ đã tỏ ra mình
làm người lớn.
3. Phân tích nhiệm vụ, phẩm chất, năng lực của người giáo viên mầm non.
3.1.Nhiệm vụ của người giáo viên mầm non được quy định trong Quyết định 55
của Bộ Ciiáo dục và Đào tạo ký ngày 3/2/1990. Cụ thể là:
- Thực hiện nghiêm chỉnh nội quy, quy chế của nhà trè, trường mẫu giáo, thực
hiện đầy đủ chương trình, kế hoạch giáo dục (hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng, hằng
năm) phù hợp với điều kiện của từng nhà trẻ, trường mẫu giáo.
- Gần gũi, phối hợp chật chẽ với cha mẹ của trẻ để thống nhất việc chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục và tuyên truyền cho cha mẹ của trẻ những kiến rhức nuôi dạy
trẻ.
- Làm đồ chơi, đồ dùng dạy học, bảo quản và sử dụng trang thiết bị, tài sản của
nhóm, lớp phụ trách.
- Đoàn kết nhất trí và phấn đấu xây dựng nhóm, lớp, trường tiên tiến.
- Phấn đấu tự rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt theo tiêu chuẩn quy định.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, người giáo viên phải chủ động xây dựng cho
mình kế hoạch chăm sóc và giáo dục trẻ trong nhóm lớp mình phụ trách. Đồng thòi
nắm chắc nội dung, mục tiêu và có khả năng sáng tạo trong việc thực hiện chương
trình chăm sóc và giáo dục mầm non.
3.2. Những yêu cầu năng lực, phẩm chất của người giáo viên mầm non
* Yêu cầu về năng lực của người giáo viên mầm non
- Năng lực quan sát: Cần có để nhanh chóng phát hiện ra những vấn đề đang
diễn ra trong lớp, nhóm trẻ để dễ nhìn thấy những khiếm khuyết trong việc nuôi dạy
trẻ, nắm bắt đặc điểm phát triển của từng trẻ, có biện pháp nuôi dạy thích hợp.
- Năng lực giao tiếp: Là khả năng nhận biết nhanh chóng những biểu hiện bên
ngoài và diễn biến tâm lý bên trong của trẻ, biết sử dụng hợp lý các phương tiện,
ngôn ngữ, cử chi, điệu bộ, biết cách định hướng điều chỉnh quá trình giao tiếp để đạt
tới mục đích đã định.
- Nãng lực sư phạm: Giáo viên mầm non phải có tri thức về khoa học nuôi dạy
trẻ, hiểu biết sâu sắc các quy luật hình thành nhân cách trẻ, những tri thức về tâm lý,
sinh lý học lứa tuổi mầm non, tri thức về chăm sóc giáo dục trẻ, nghiệp vụ về nuôi
dạy trẻ là nền tảng, là cơ sở hình thành nên năng lực sư phạm.
- Năng lực quản lý: Biết xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch đó.
Biết chỉ huy, quản lý, có năng lực hiểu biết con người; phát hiện kịp thời những dấu
hiệu không bình thường ở trẻ, biết điều hành ra quyết định kịp thời những sự việc
trong nhóm trẻ.
- Năng lực cảm hoá, thuyết phục: Giáo viên mầm non phải rất nhạy cảm, có sức
cuốn hút trẻ, phải kiên nhẫn, mềm dẻo để giải quyết các tình huống gay cấn; biết lằng
nghe; biết gợi mở, hiểu được tâm trạng của mỗi trẻ, mỗi lúc. Sẽ rất tai hại nếu trẻ chỉ
sợ cô chứ không yêu cô.
* Yêu cầu vê phẩm chất ctí bản của giáo viên mầm non
- Lòng nhàn ái và sự đôn hậu: Đây là điều kiện tiên quyết, số một đối với giáo
viên mầm non. Bởi vì thương yêu con người là bản chất cùa giáo dục, không có sự
thương yêu con người, không có lòng vị tha thì không thể có sự giáo dục thực sự. Sự
thương yêu con người là phẩm chất hàng đầu của người giáo viên mầm non.
6
- Toàn tâm, toàn ý cho công việc: Yêu nghề mến trẻ thể hiện tình thương yêu
trẻ, say mê với công việc chăm sóc giáo dục trẻ có hiệu quả hơn.
- Có lập trường tư tưởng vững vàng thể hiện ở sự yên tâm với nghề nghiệp,
không bị dao động trước những khó khăn trở ngại của xã hội với nghề nghiệp, luôn
có ý hướng phấn đấu vì sự nghiệp giáo dục trẻ thơ.
- Thái độ công bằng: Với trẻ thơ đòi hỏi sự công bằng tuyệt đối. Công bằng là cơ
sở niềm tin của trẻ đối với cô.
- Tính trung thực: Phản ánh đúng sự thật. Muốn vậy người giáo viên mầm non
không để tình cảm, định kiến của cá nhân xen vào công việc, không tô hồng, bôi đen,
bóp méo sự thật.
- Tính cởi mở: Thể hiện vui vẻ, dịu dàng hoà nhập vào mối quan hệ với trẻ thì
mới hiểu được trẻ và giáo dục mới có hiệu quả cao.
- Tính dũng cảm kiên quyết: Biểu hiện thái độ cứng rắn, kiên trì trong hành
động để kịp thời xử lý các tình huống xảy ra.
4. Các nguyên tắc xây dựng chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non.
(1) Đảm bảo tính mục đích
Chương trình phải thiết thực, thực hiện tối ưu mục tiêu kế hoạch chăm sóc giáo
dục trẻ mầm non do Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành.
(2) Nguyên tắc đảm bảo tính toàn diện
Chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ phải đảm bảo cho trẻ phát triển toàn
diện, hài hòa một cách tổng thế.
Các tác động sư phạm phải mang tính tổng hợp, tác động đồng bộ đến sự tăng
trưởng và phát triển tâm sinh lý của trẻ. Chế độ sinh hoạt trong ngày phải có ăn, ngủ,
chơi, tập... ở mẫu giáo phải chú trọng thêm các mặt của giáo dục: thể dục, đức dục,
trí dục, giáo dục thẩm mỹ và lao động. Lấy hoạt động vui chơi là chủ đạo, nhưng
từng bước hình thành các yếu tố hoạt động học tập và tiền đề của hoạt động lao động.
(3) Nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa chăm sóc và giáo dục
Giáo dục mầm non là giáo dục theo phương thức mẹ - con, cho nên bên cạnh
việc giáo dục thì phải chú ý chăm sóc bảo vệ, trông nom trẻ hàng ngày, phái tạo môi
trường an toàn, ấm cúng, tình cảm cho trẻ.
(4) Nguyên tắc kết hợp giáo dục trẻ trong nhóm bạn bè với giáo dục từng
cháu một
Bên cạnh việc chăm sóc giáo dục trẻ theo nhóm, các cô nuôi dạy trẻ cần quan
tâm tới tính riêng biệt của từng trẻ để có phương pháp giúp trẻ tốt hơn. Trẻ em rất
non nớt về mọi mặt, sự tăng trường và phát triển của từng trẻ phụ thuộc vào nhiều
yếu tố: di truyền, điều kiện kinh tế, nền nếp gia đình, tính cá thể... Cho nên khòng thể
áp đặt chỉ một cách chăm sóc giáo dục chung cho tất cả các em, mà phải chú ý tới
tính cá thể đó.
(5) Nguyên tắc kết hựp giáo dục giữa trường mầm non với gia đình
Giáo dục mầm non mang nhiều tính chất giáo dục gia đình. Gia đình là trường
học đầu tiên của trẻ. Trách nhiệm của người mẹ và cô giáo không khác nhau đáng kể.
Phải tạo điều kiện cho trè có môi trường ở trường không khác xa ở nhà. Từ đó tạo
nên sự phát triển hài hòa, liên tục trong tâm sinh lý của trẻ.
(6) Nguyên tắc kết hợp tính linh hoạt trong chương trình
Chương trình giáo dục mầm non khác với chương trình phổ thông là không lấy
7
mức độ tri thức truyền đạt làm trọng tâm, mà lấy việc hình thành và phát triển mầm
mỏng ban đầu hình thành nhân cách trê làm chính, giáo dục thông qua các hoạt động
chơi. Vì vậy trong chương trình giáo dục mầm non có thế thèm bớt tăng giảm hoặc
thay đổi hình thức giáo dục, tùy vào hoàn cảnh và tình huống cụ thể miễn sao mang
lại hiệu quả và đạt được mục tiêu giáo dục đề ra.
(7) Nguyên tắc kết hợp vai trò chủ đạo của cố giáo mầm non và phát huy
tính tích cực hoạt động của trẻ
Bản chất của quá trình dạy học là quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và
học sinh. Trẻ còn nhỏ cho nên cô giáo vẫn là người chủ đạo, nhưng trẻ cũng có mong
muốn lìm hiểu hiện tượng sự vật xung quanh. Trẻ càng tích cực thì sự hiểu biết của
trẻ càng nhanh và vững vàng. Đây là một khía cạnh của phương pháp giáo dục tích
cực.
5. Giáo dục thể chất cho trẻ mầm non là gì?. Phân tích các nhiệm vụ và điều kiện cần
thiết để giáo dục thể chất cho trẻ mầm non.
5.1. Giáo dục thể chất cho trẻ mầm non là gì?.
Giáo dục thể chất là một bộ phận quan trọng của giáo dục và phát triển toàn
diện trẻ mầm non, đó là quá trình tác động chủ yếu vào cơ thể trẻ thông qua việc rèn
luyện cơ thể, tổ chức cho trẻ vận động, giữ gìn vệ sinh, tổ chức chế độ sinh hpạt hợp
lý nhằm bảo vệ cơ thể trẻ, làm cho cơ thể trẻ phát triển hài hoà cân đối, tăng cường
sức khoẻ, hoàn thiện thể chất, làm cơ sở phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
5.2. Nhiệm vụ giáo dục thể chất cho trẻ mầm non
* Bảo vệ tăng cường sức khoẻ, phát triển cân đối hình dạng cơ thể trẻ, tăng sức
đế kháng, tăng khả năng miễn địch để trẻ thích ứng với những thay đổi của thời tiết
môi trường để đảm bảo tăng trưởng và phát triển hài hoà cân đối cơ thể trẻ.
Đây là nhiệm vụ chủ vếu của giáo dục thể lực vì cơ thể trẻ đang phát triển với
tốc độ nhanh trong quá trình hoàn thiện hệ thống các cơ quan chức năng và các hệ cơ
quan như hệ hô hấp, hệ tuần hoàn, hệ cơ, hệ xương, hộ thần kinh... Mặt khác, cơ thể
trẻ còn rất non nớt, sức đề kháng và khả năng thích nghi kém nên dễ chịu ảnh hưởng
của các tác động bên ngoài như sự thay đổi nhiệt độ của thời tiết (từ nóng chuyển
sang lạnh hoặc ngược lại) dễ làm trẻ viêm phế quản, viêm đường hô hấp... Đồng thời,
bản thân trẻ chưa biết tự chăm sóc bảo vệ cơ thể mình, cuộc sống của trẻ còn hoàn
toàn phụ thuộc vào sự châm sóc nuôi dưỡng của người lớn. Do đó muốn thực hiện
nhiệm vụ này người lớn cần tổ chức chế độ sinh hoạt hợp lý, tổ chức tốt công tác vệ
sinh hàng ngày cho trẻ, tổ chức cho trỏ được vận động và rèn luyện hợp lý, tổ chức
chăm sóc y tế thường xuyên, phòng và chữa bệnh kịp thời.
* Hình thành các kỹ năng, kỹ xảo và các phẩm chất vận động
Các kỹ năng vận động cơ bản gổm: đi, chạy, nhảy, bò, ném, tung, bắt... Ngoài
ra, còn có các kỹ năng vận động khác như bơi lội, đi xe đạp, đá bóng... Các phẩm
chất thể lực gồm: nhanh, mạnh, bền, khéo, dẻo dai, linh hoạt... Vận động là nhu cầu
tự nhiên của con người và được phát triển tương đối sớm, do vậy cần được luyện lập,
phát triển và hoàn thiện. Chính sự rèn luyện các kỹ năng vận dộng có ảnh hưởng tốt
đến sự phái triển cơ thể như làm tăng cường hoạt động cùa cơ bắp, tăng cường quá
trình canxi hoá của xương, hoàn thiện chức năng các cơ quan nội tạng như hệ hô hấp,
tuần hoàn, tiêu hoá, làm tăng cường quá trình trao đổi chất... Đồng thời làm tăng sức
đề kháng, khả năng thích nghi của cơ thể đối với sự thay đổi thời tiết môi trường.
8
Trong quá trình trẻ vận động đã hình thành các phẩm chất vận động.
Thực hiện nhiệm vụ này bằng cách cho trẻ tập các bài thể dục theo chương
trình phù hợp với lứa tuổi, tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi vận động, các loại hình
thể thao như bơi lội, đi xe đạp, chơi với bóng, vòng gậy, tổ chức cho trẻ được dạo
chơi ngoài trời, đi tham quan...
* Giáo dục và rèn luyện kỹ nâng, kỹ xảo vệ sinh văn hoá
Dạy trẻ các kỹ nàng, kỹ xảo vộ sinh bao gồm: biết rửa mặt, rửa tay, chải đầu,
biết tắm gội giữ gìn cơ thể sạch sẽ. Bíct giữ vệ sinh trong ãn uống, giữ vệ sinh nơi
công cộng.
Dạy trẻ có nếp sống vãn hoá ohư: biết sinh hoạt đúng giờ giấc, giờ nào việc
nấy, có nếp sống ngăn nắp gọn gàng (biết để giày dép tư trang vào nơi quy định...).
Cần thực hiện nhiệm vụ này bởi vì giáo dục kỹ năng, kỹ xảo vộ sinh văn hóa là giúp
trẻ biết tự chăm sóc bảo vệ cơ thể mình và giúp cho viộc bảo vệ và tăng cường sức
khoè của trẻ, đổng thời có ý nghĩa giáo dục đạo đức.
Muốn thực hiện nhiệm vụ này giáo viên mầm non thường xuyên dạy trẻ kỹ
năng vệ sinh văn hoá như làm mẫu thao tác cho trẻ xem rồi cho trẻ làm đi làm lại
hàng ngày.
Người lớn phải mẫu mực trong việc thực hiện nguyên tắc vệ sinh.
Thực hiện tốt chế độ sinh hoạt hàng ngày để hình thành ờ trẻ các thói quen
vệ sinh và động hình hành động.
5.3. Những điểu kiện cần thiết để giáo dục thể chất cho trẻ mẩm non
Việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ cần có những điều kiện sau:
- Phải có những điều kiện vật chất đáp ứng yêu cầu sư phạm, vệ sinh như:
Truờng lớp, ánh sáng, sân chơi, vườn cây và các phương tiện để chơi tập và rèn luyện
thể chất cho trẻ.
- Chế độ sinh hoạt hợp lý với từng độ tuổi.
- Có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và phòng y tế trong việc chăm
sóc bảo vệ sức khoẻ ban đầu cho trẻ. Đó là:
+ Thường xuyên theo dõi sức khoẻ của trẻ bằng biểu đồ phát triển.
+ Tiêm phòng đúng định kỳ.
+ Phòng và sơ cứu kịp thời một số tai nạn thông thường có thể xảy ra với trẻ.
+ Phòng và xừ lý kịp thời mộl số bệnh ờ trẻ dưới 3 tuổi: ỉa chảy, viêm phế quản,
viêm VA.
Chế độ dinh dưỡng, bao gồm:
+ Có chế độ ăn uống phù hợp với độ tuổi (sữa mẹ, sữa bò, sữa tổng hợp, bột,
cháo, cơm nát..)..
+ Đảm bảo đủ chất dinh dưỡng: đạm, béo, đường, khoáng chất, các loại sinh tố.
+ Chế biến thức ăn hợp theo mùa và khẩu vị trẻ.
+ Đủ nước uống, nhất là mùa hè.
+ Ăn uống vệ sinh sạch sẽ.
Các bài tập luyện, các hình thức chơi tập nhằm nâng phát triển vận động cho trẻ
dưới 3 tuổi phải được tiến hành dưới sự hướng dẫn của người lớn có kinh nghiệm và
cô giáo có tri thức về nuôi dạy trẻ.
6. Giáo dục trí tuệ cho trẻ mầm non là gì?. Phân tích phương tiện giáo dục trí
9
tuệ ở trường mầm non.
6.1. Khái niệm vể giáo dục trí tuệ cho trẻ mầm non
Giáo dục trí tuệ là hệ thống các tác động sư phạm có tổ chức nhằm hình thành
và phát triển những trí thức, kỹ nãng sơ đẳng, phương thức hoại động trí tuệ sơ đẳng,
phát triển năng lực và nhu cầu hoạt động trí tuệ ở trẻ em. Qua đó mở rộng các kiến
thức kinh nghiệm lịch sử, xã hội, nâng cao năng lạc hiểu biết và nhận thức sáng tạo
của trẻ. Ví dụ: Thông qua việc tổ chức cho trẻ đi dạo, cô giáo cho trò quan sát gà vịt.
Trẻ quan sát với sự gợi ý của cô giáo, trẻ phát hiện ra sự giống nhau và khác nhau
giữa gà và vịt. Giống nhau: đều có lông, có hai chân. Khác nhau: vịt biết bơi. gà
không biết bơi. Cô giáo đã giáo dục trí tuệ cho trẻ thông qua việc cung cấp tri thức
biểu tượng sơ đẳng về con gà con vịt. Trẻ nhận biết được con gà, con vịt và biểu đạt
bằng ngôn ngữ của mình thông qua việc mô tả. Trẻ có đưực sự hiểu biết đó nhờ hoạt
động trí tuệ. Sự phát triển trí tuệ cùa trẻ diễn ra trong quá trình trẻ tham gia hoạt động
khác nhau. Nếu không có hướng dẫn thì những tri thức đó thiếu hệ thống, không đầy
đủ. Sự phát triển tích cực nhất và hiệu quả là được diễn ra nhờ quá trình dạy và giáo
dục. Đó là quá trình giáo dục trí tuệ trẻ trong trường mầm non.
6.2. Phương tiện giáo dục trí tuệ cho trẻ mầm non
Việc giáo dục trẻ thực hiện bằng nhiều phương tiện khác nhau, bao trùm toàn bộ
cuộc sống hàng ngày của trẻ. Vì vậy cần phối hợp hợp lý gia đình nhà trường và xã
hội. Dưới đây trình bày những phương tiện giáo dục trí tuệ ở trường mầm non.
* Cuộc sống môi trường xung quanh là phương tiện giáo dục trí tuệ
Cuộc sống thực hàng ngày và môi trường xung quanh là phương tiện giáo dục
trí tuệ quan trọng, là nguồn gốc các kiến thức, nhận thức và phát triển các kỹ năng
nhận thức, năng lực sáng tạo của trẻ.
Đối với trẻ thì môi trường xung quanh có sức hấp dẫn nhất. Trong quá trình tìm
hiểu môi trường, trẻ phát triển trí tuệ. Nếu biết cách lồng ghép giữa dạy và tìm hiểu
môi trường xung quanh thì trẻ nhanh hiểu và phát triển trí tuệ tốt hơn.
* Dạy học là phương tiện cơ bản để giáo dục trí tuệ cho trẻ
Dạy học có thể trên lớp ở trường, ở buổi đi chơi, tham quan và mọi lúc mọi nơi,
sao cho dẽ hiểu và hấp dẫn trẻ. Thông qua các tiết học, trẻ lĩnh hội được hệ thống tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo và rèn các thao tác hoạt động phù hợp với độ tuổi.
Dạy học thực hiện cơ bản nhiệm vụ giáo dục trí tuệ cho trẻ. Vì vậy yêu cầu cô
giáo phải có kiến thức vững chắc, hiểu chính xác các khái niệm cần dạy trẻ.
Giáo viên là người tổ chức và điều khiển quá trình phát triển trí tuệ của trẻ.
Dạng học tập sơ khai ở mẫu giáo cung là một cách chuẩn bị tốt cho trẻ vào học
phổ thông.
* Hoạt động vui chơi là phương tiện giáo dục trí tuệ
Trò chơi là hoạt động chủ đạo của trè mẫu giáo. Giáo dục trí tuệ trong các trò
chơi cụ thể như trò chơi đóng vai theo chủ đề, trò chơi học tập, trò chơi xây dựng, trò
chơi đóng kịch. Mỗi loại trò chơi có tác động khác nhau đến sự phát triển trí tuệ của
trẻ. Tác dụng giáo dục trí tuệ của trò chơi là:
- Ôn luyện cùng cố làm phong phú các kiến thức, các biểu tượng và kỹ năng của
trỏ đối với đổ vật và hiện tượng xung quanh, mối liên hệ giữa chúng (thông qua nội
dung các trò chơi).
- Rèn luyện các thao tác trí tuệ: phát triển thao tác so sánh, phản biệt, khái quát.
10
- Phát triển tính kế hoạch của tư duy thúc đẩy phát triển trí tưởng tượng, trí nhớ
chú ý có chủ định, năng lực tự kiểm tra đánh giá, phát triển tính độc lập sáng tạo vận
dụng các kiến thức kỹ năng đã học để nhận thức.
* Hoạt động tạo hình là phương tiện giáo dục trí tuệ
Hoạt động tạo hình bao gồm các hoạt động vẽ, nặn, cắt dán, xếp hình.
Vai trò của hoạt động tạo hình trong sự phát triển trí tuệ của trẻ:
- Mở rộng và củng cố các biểu tượng cảm tính về sự vật và mối quan hệ với
chúng qua mầu sắc, hình dáng, cấu tạo, bố cục và mối liên hệ giữa chúng.
- Cùng cố khả năng tự vận dụng các thao tác khảo sát, kỹ năng quan sát vật, phát
triển các thao tác so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát và thực hiện thứ tự các thao
tác vẽ, nặn, cắt dán, góp phần rèn luyện các thao tác có trình tự, chính xác.
- Phát triển trí nhớ, trí tưởng tượng, khả năng sáng tạo độc lập của trẻ em, động
cơ, hứng thú học tập.
* Hoạt động lao động là phương tiện giáo dục trí tuệ
Lao động là hoạt động thực tiễn của trẻ nhằm tạo ra sản phẩm cụ thể. Trẻ mẫu
giáo tham gia lao động tự phục vụ sinh hoạt là chính, lao động những việc nhẹ nhàng
vừa sức phục vụ trực tiếp cuộc sống hàng ngày. Trong quá trình lao động trẻ được
tiếp xúc và tác động vào với thế giới xung quanh, làm cho trí tuệ trẻ phát triển: trẻ
hiểu sâu sắc thêm về tên gọi, chức năng, tính chất, mối liên hệ của sự vật. Thông qua
lao động cô giáo cung cấp và mở rộng các kiến thức, kỹ nâng về sử dụng công cụ lao
động, nhận biết các chất liệu làm ra công cụ, vật thể.
Hình thành động cơ hứng thú phát triển các quá trình nhận thức, phát triển tính
kế hoạch, trình tự làm việc, khả năng hoạt động độc lập, hoạt động cùng nhau cùa trẻ.
7. Giáo dục đạo đức là gì?. Phân tích các nguyên tắc giáo dục đạo đức cho trẻ mầm
non.
7.1. Giáo dục đạo đức
Đạo đức là một lĩnh vực của ý thức xã hội, là một mặt của hoạt động xã hội con
người và là một hình thái chuyên biệt của quan hệ xã hội, thực hiện chức năng điều
chỉnh hành vi con người trong mọi lĩnh vực xã hội.
Giáo dục đạo đức là hoạt động giáo dục nhằm xáy dựng cho trẻ em những nét
tính cách phẩm chất đạo đức và bổi dưỡng cho trẻ những tiêu chuẩn quy tắc
hành vi quy định thái độ cúa chúng đối với nhau, đối với gia đình, đối với mọi
người xung quanh và đối với quốc gia.
7.2. Nguyên tấc giáo dục đạo đức cho trẻ mẩm non
* Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích của giáo dục
Giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo phải hướng tới mục đích giáo dục là:
Hình thành cho rrẻ những cơ sở đầu tiên của nhân cách con người mới XHCN
Việt Nam;
Giàu lòng thương, biết quan tâm, nhường nhịn, giúp đờ những người gần gũi (bố
mẹ, bạn bè, cố giáo). Thật thà, lễ phép, mạnh dạn, hồn nhiên phù hợp với trình độ
phát triển của trẻ ở lứa tuổi này.
* Nguyên tắc giáo dục trẻ trong hoạt động và giao tiếp
Tâm lý học mầm non đã khẩng định rằng trẻ em tuổi hài nhi (12 tháng) có hoạt
động chủ đạo là giao lưu cảm xúc, tuổi ấu nhi (từ 12 đến 36 tháng tuổi) có hoạt động
chủ đạo là hoạt động với đồ vật và tuổi mẫu giáo hoạt động chủ đạo là hoạt động vui
11
chơi. Vì vậy việc giáo dục đạo đức cho trẻ là phải tổ chức cho trẻ được hoạt động
theo lứa tuổi và thông qua giao tiếp.
Thông qua việc tổ chức quá trình sư phạm cô giáo mầm non và cha mẹ trẻ mà
hình thành và phát triển những tính tốt, những thói quen tốt và rèn luyện những hành
vi đạo đức tốt cho trẻ em. Chính vì thế có thể nói rằng thực chất của công tác giáo dục
là công tác tổ chức hoạt động sư phạm cho trẻ em. Và tổ chức cho trẻ tham gia trực
tiếp vào các hoạt động giao tiếp trong tập thể trẻ, trong đời sống xã hội. Đấy là con
đường đúng đắn đé giáo dục các phẩm chất đạo đức và hình thành nhân cách xã hội
cho trẻ.
* Nguyên tắc tôn trọng nhân cách trẻ kết hợp yêu cầu hợp lý với trẻ
Tôn trọng và yêu cầu cao dần với trẻ là hai mặt của một vấn đề. Càng tôn trọng
trẻ lại càng phải yêu cầu cao với trẻ và ngược lại yêu cầu cao với trẻ là sự thể hiện tôn
trọng trẻ.
Tôn trọng trẻ là thoả mãn nhu cầu về dinh dưỡng cũng như về hoạt động. Trẻ
thích hoạt động, thích làm theo ý mình. Nhưng điều này mâu thuẫn với khả năng của
trẻ. Chính vì vậy người lớn cần chú ý đến vấn đề này. Người lớn đòi hỏi trẻ phải hoạt
động dưới sự tổ chức của người lớn, nguời lớm không áp đặt trẻ và khòng làm thay
trẻ. Nguyên tắc này tạo điều kiện phát huy cao độ quyền và năng lực của trẻ, đồng
thời trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là thuộc về người lớn và toàn xã
hội. Nguyên tắc này đòi hỏi người lớn, cô giáo phải tôn trọng trẻ, tin tưởng vào khả
năng và sự phát triển của trẻ, tôn trọng và bảo vệ phẩm giá cũng như thân thể trẻ.
Mặt khác người lớn phải đưa ra những yêu cầu phù hợp với đặc điểm cá nhân và
vốn sống của trẻ, đồng thời phải từng bước nâng cao yêu cầu đó. Muốn vậy những
yêu cầu đề ra phải xuất phát từ nhu cầu của trẻ, phải nhằm thoà mãn nhu cầu và hứng
thú của trẻ để trẻ tích cực tự giác thực hiện ờ trương mầm non.
* Nguyên tắc kết hợp giáo dục ỏ trường mầm non với gia đình
Trẻ em ờ độ tuổi mầm non rất hay bắt chước người lớn. Nói như J.A. Cômenski
“thì trẻ em như con khỉ con gặp gì dù hay hoặc dở chúng đều bắt chước”. Vì thế việc
giáo dục trẻ em phải bằng tấm gương của bản thân người lớn. Đó là môi trường bắt
chước đầu tièn của trẻ. Môi trường phẩm chất của nhân cách là một tổng hoà của nhu
cầu, tình cảm, thói quen, niềm tin.
Việc giáo dục tiếp nối và đồng thời một lúc là giáo dục gia đình và giáo dục nhà
trường. Vì thế cần có sự thống nhất tác động đến tình cảm, ý thức, hành vi ở gia đình
và nhà trường. Sự nhất quán đó tạo nên cho trẻ niềm tin cao và chấp thuận các chuẩn
mực đạo đức. Nguyên tắc giáo dục này đòi hỏi cô giáo mầm non phải là cầu nối giữa
nhà trường với gia đình để thống nhất yêu cầu của giáo dục. Cô giáo mầm non phải
thường xuyên nắm bắt tình hình giáo dục trẻ ở gia đình và các đặc điểm cá nhân của
trẻ để cùng gia đình có biện pháp giáo dục trẻ một cách hiệu quả.
Gia đình cũng cần biết con cái mình ở trường mầm non ra sao để cùng với nhà
trường thống nhất yêu cầu tác dộng giáo dục trẻ. Mối liên hệ thường xuyên gắn bó
giữa nhà trường và gia đinh giúp cho việc chăm sóc quản lý trẻ được thống nhất về
nội dung, phương pháp và quy trình giáo dục đúng đắn khoa học. Có như vậy thì quá
trình giáo dục trẻ mới đạt hiộu quả cao.
8. Giáo dục thẩm mỹ là gì?. Phân tích các phương pháp giáo dục thẩm mỹ cho trẻ
mầm non.
12
8.1. Giáo dục thẩm mỹ
Giáo dục thẩm mỹ là hệ thống các tác động sư phạm nhằm phát triển thẩm mỹ
cho trẻ mầm non. Giáo dục thẩm mỹ là việc tổ chức quá trình sư phạm nhằm hình
thành ở trẻ tình cảm thẩm mỹ, khả năng nhận xét, đánh giá và thị hiếu thẩm mỹ, năng
lực hiểu biết về cái đẹp trong cuộc sống hiện thực xung quanh (trong thiên nhiên,
trong lao động, trong các hành vi quan hệ xã hội, trong mọi người) và trong nghệ
thuật. Đồng thời phát triển nhu cầu hứng thú, năng lực tạo ra cái đẹp phù hợp với quy
luật thẩm mỹ, quy luật cái đẹp.
Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mầm non là những tác động sư phạm có mục đích, có hệ
thống, phù hợp với trẻ mầm non nhằm hình thành khả năng nhận biết và hiểu biết cái
đẹp, hình thành tình cảm nhu cầu hứng thú tạo ra cái đẹp trong đời sống sinh hoạt
hàng ngày trong thiên nhiên và trong tác phấm nghệ thuật.
8.2. Các phương pháp giáo dục thẩm mỹ
* Tổ chức quan sát
Tổ chức quan sát giúp trẻ nhận ra cái đẹp của cuộc sống, của thiên nhiên.
Cô giáo hướng dẫn trẻ quan sát vườn hoa, cảnh hoàng hôn đầy màu sắc, khung
cảnh một ngày lễ, sự cảm thụ của trẻ có sự hướng dẫn và kết hợp của ngôn ngữ nghệ
thuật làm tăng cường cảm thụ thẩm mỹ và làm cho trẻ nhận ra cái đẹp và yêu thích cái
đẹp. Phải tổ chức cho trẻ quan sát một số lần cùng một hiện tượng từ đó trẻ mới nhận
thấy vè đẹp sâu sắc. Nếu chỉ một lần thì trẻ chưa cảm thụ được hết, nhận thức vẫn còn
mờ nhạt, trẻ dễ quên.
Cô giáo phải tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc trực tiếp với các sự vật hiện tượng
của thế giới xung quanh (cùa tự nhiên, xã hội ) hướng trẻ chú ý đến nó, nhận xét, cảm
thụ nó để từ đó nhận ra được vẻ đẹp trong thực tiễn.
Kinh nghiệm vốn sống của trẻ còn nghèo nên muốn trẻ nhận ra vẻ đẹp của tự
nhiên để rung cảm, cô cần hướng dẫn trẻ quan sát. Cô cần hướng dẫn trẻ cách quan sát
chính trong cuộc sống, trong lúc trẻ đi dạo, tham quan. Cô chỉ cho trẻ thấy cái đẹp và
dạy cho trẻ biết bảo vệ cái đẹp và tự mình cũng có thể làm ra nó, sáng tạo ra nó. Ví
dụ: Khi đưa trẻ đi tham quan về cô cùng trẻ làm ra những lá cây, bông hoa con bướm
đầy màu sắc, hoặc cùng nhau vẽ lại cảnh hồ nước, có những con thiên nga đang bơi.
Chính trong những lúc đó trẻ cảm thấy vui thú và cảm nhận được cái đẹp trong thiên
nhiên, trong đời sống. Và cũng từ đấy trong trẻ hình thành những thái độ đúng đắn với
cuộc sống sau này.
* Giải thích
Những cảm xúc thẩm mỹ của trẻ sẽ sâu sắc, có ý thức và giữ được lâu hơn nếu
như trẻ hiểu rõ nội dung tác phẩm (một bài hát, một câu chuyện, một bức tranh).
Do đó cô giáo cần phải giải thích nội dung tác phẩm đang được tiếp thu, làm
chính xác các biểu tượng của rrẻ. Việc trình bày một cách nghệ thuật những tác phấm
âm nhạc, những ca khúc, đọc các tác phẩm văn học tác động trực tiếp đến trẻ, khêu
gợi tình cảm và cảm xúc thẩm mỹ, giúp các em hiểu sâu sắc hơn nội dung và hình
thức tác phẩm.
Cô giải thích phái ngắn gọn với ngôn từ dễ hiểu, chính xác, việc giải thích
thường đi đôi với trò chuyện. Thòng qua trò chuyện với trẻ, cô giáo hướng trẻ vào
những vấn đề cốt lõì nhất của đối tượng thẩm mỹ mà trẻ đang tri giác.
* Chỉ dẫn, làm mẫu
13
Trong một số hoạt động nghệ thuật như vẽ, nặn, xây dựng, đóng kịch, múa hát
cô giáo thường dùng phương pháp chỉ dẫn làm mẫu để giúp trẻ có được những kỹ
năng cơ bản (cách cầm bút, pha mầu, cách chọn và tô màu, các thao tác nặn, xé dán,
múa hát...). Vốn sống của trẻ còn nghèo, nhưng khả năng bắt chước của trẻ rất tốt.
Chính vì điều này cô cần chỉ đẫn và làm mẫu cho trẻ trong một số các hoạt động nghệ
thuật (vẽ, nặn, đọc thơ, kể chuyện, múa hát).
Cô làm mẫu phải rõ ràng, nói ngắn gọn dễ hiểu, các thao tác cần dứt khoát, mẫu
phải đẹp.
Khi hướng dẫn, cô phải hướng dẫn trẻ tỷ mỷ, chu đáo, tránh qua loa đại khái.
Chỉ dẫn từ đầu đến cuối, từng bước một, không gây áp lực làm trẻ hoàng loạn, ức chế.
* Luyện tập
Hoạt động thực tiễn có ý nghĩa lớn đến giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo.
Phương pháp này hướng dẫn trẻ có hành vi thẩm mỹ và hành động tô điểm thêm vẻ
đẹp cho thế giới xung quanh, làm cho mọi người hài lòng. Trong giáo dục thẩm mỹ
cũng rất cần dùng phương pháp luyện tập này (còn gọi là hoạt động thực tiễn). Vì vậy
cô giáo cần:
- Giúp trẻ luyện tập hành động thông qua các bài tập khác nhau.
- Luyện tập cho trẻ cần phải kiên trì, phải lặp đi lặp lại nhiều lần.
- Nhưng khác với việc luyện tập những thói quen trong sinh hoạt, việc luyện tập
những hoạt động thẩm mỹ không theo một trình tự chặt chẽ. Ví dụ trẻ có thể dùng sỏi
để xếp thành hình con cá, trẻ có thể dùng đất sét để nặn thành quả cam.
Cô giáo cần giáo dục và phát triển năng lực và hành động cho trẻ trong những
hoàn cảnh có thể vận dụng những kỹ nãng đã nắm được. Điều quan trọng nhất là trẻ
làm được cái gì, nghĩ ra cái gì - dù ở mức độ sơ đẳng. Có thể 2 trẻ đều nặn con cá
nhưng hình cá thì hoàn toàn khác nhau, có thể chỉ có những đặc điểm quan trọng
nhất: đầu, mình, đuôi... cô giáo không nên phê phán con nào vì trí tưởng tượng, khiếu
thẩm mỹ mỗi trẻ một khác nhau. Cô giáo chỉ nên góp ý những khía cạnh chung nhất,
có đảm bảo tính đặc thù của cá không.
Trong giáo dục thẩm mỹ, hoạt động chủ yếu của trẻ là hoạt động nghệ thuật. Cô
giáo cần cho trẻ tiếp xúc với những hoạt động nghệ thuật khái quát nhất, điển hình
nhất. Như phương thức định hướng về âm thanh, mầu sắc, hình dạng, vận động, đấy
cũng chính là phương pháp luyện tập.
Luyện cho trẻ nghe âm thanh, biết các làn điệu, biết hát theo nhạc, trên cơ sở đó
giáo dục thẩm mỹ cho trẻ.
Trong quá trình luyện tập, cô giáo cần sử dụng thường xuyên phương pháp
khuyến khích và đánh giá công việc đã hoàn thành của trẻ. Khen ngợi những em tích
cực, cố gắng kiên trì theo đuổi các hoạt động đến cùng. Cò giáo phải tìm ra những
thành công, kết quả dù là nhỏ nhất để biểu dương. Không được làm thui chột niềm hy
vọng hoạt động của trẻ.
9. Phân tích những điểm cần lưu ý khi chăm sóc, giáo dục trẻ dưới 3 tuổi.
9.1. Sự tăng trưởng và phát triển của trẻ diễn ra với một tốc độ nhanh chưa từng có
so với bất kỳ lứa tuổi nào tiếp theo
- Về thể chất: Tãng nhanh về cân nặng chiều cao, phát triển vận động. Ví dụ:
Trẻ 6 tháng nặng 6 - 7 kg, chiều cao: 63cm - 68cm. 12 tháng tuổi: 70,7cm - 76,l cm.
- Vận động: 3 tháng biết lẫy, 1 tuổi đi được một vài bước, 3 tuổi biết đi chạy
14
HỘI ĐỒNG TUYỂN SINH NĂM 2015
CÂU HỎI ÔN TẬP
Môn: Giáo dục học mầm non
Chuyên ngành: Giáo dục mầm non
Trình độ: Đại học - Hệ: Liên thông
1. Thế nào là sự phát triển trẻ em? Hãy nêu những nét đặc trưng về sự phát triển của trẻ
mầm non.
2. Phân tích vai trò của giáo dục với sự phát triển trẻ em; từ đó rút ra kết luận sư phạm
trong công tác giáo dục trẻ em.
3. Phân tích nhiệm vụ, phẩm chất, năng lực của người giáo viên mầm non.
4. Các nguyên tắc xây dựng chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non.
5. Giáo dục thể chất cho trẻ mầm non là gì?. Phân tích các nhiệm vụ và điều kiện cần thiết
để giáo dục thể chất cho trẻ mầm non.
6. Giáo dục trí tuệ cho trẻ mầm non là gì?. Phân tích phương tiện giáo dục trí tuệ ở trường
mầm non.
7. Giáo dục đạo đức là gì?. Phân tích các nguyên tắc giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non.
8. Giáo dục thẩm mỹ là gì?. Phân tích các phương pháp giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mầm
non.
9. Phân tích những điểm cần lưu ý khi chăm sóc, giáo dục trẻ dưới 3 tuổi.
10. Biểu hiện, nguyên nhân và biện pháp khắc phục hiện tượng khủng hoảng của trẻ lên ba.
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VH, TT, DL THANH HÓA
HỘI ĐỒNG TUYỂN SINH NĂM 2015
NỘI DUNG ÔN TẬP
Môn: Giáo dục học mầm non
Chuyên ngành: Giáo dục mầm non
Trình độ: Đại học - Hệ: Liên thông
1. Thế nào là sự phát triển trẻ em? Hãy nêu những nét đặc trưng về sự phát triển của
trẻ mầm non.
1.1. Thê nào là sự phát triển trẻ em?
Sự phát triển được hiểu là có sự biến đổi tổng thể về chất có sự cải biến toàn bộ
các sức mạnh của mỗi con người (thể chất, tâm lý, xã hội) trên cơ sở đặc điểm phát
triển lứa tuổi.
- Sự phát triển về thể chất biểu hiện ở sự tăng trường của cơ thể về chiều cao,
cân nặng, cơ bắp, hoàn thiện các giác quan, phối hợp với các vận động cơ thể.
- Sự phát triển về tâm lý biểu hiện ở những biến đổi cơ bản trong quá trình nhận
thức, xúc cảm, tình cảm, ý chí, ờ sự hình thành các thuộc tính tâm lý mới của nhân
cách.
- Sự phát triển về mặt xã hội của cá nhân biểu hiện ở những biến đổi trong ứng
xử của cá nhân với những người xung quanh, ở sự tích cực tham gia của cá nhân đó
vào đời sống xã hội. Cần nhấn mạnh rằng sự phát triển của nhân cách khống chỉ diễn
ra đối với những thuộc tính mới được hình thành trong quá trình sống mà còn đối với
các yếu tố mang tính bẩm sinh, di truyền. Sự phát triển cá nhân là kết quả tác động
của nhiều yếu tố tự nhiên, xã hội, bên trong bên ngoài khách quan và chủ quan, tự
phát triển và có ý thức... được thể hiện qua những yếu tố chính là: di truyền bẩm
sinh, môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân.
1.2. Những nét đặc trưng về sự phát triển của trẻ mầm non
Trẻ em là một thực thể đang phát triển
Từ khi lọt lòng mẹ đến lúc trường thành ưẻ em phát triển qua nhiều thời kỳ
khác nhau, mỗi thời kỳ là sự tiếp theo cùa thời kỳ trước và chuẩn bị cho thời kỳ sau.
Trẻ từ 0 - 6 tuổi là thời kỳ phát triến rất đặc biệt với tốc độ phát triển nhanh về
mọi mặt. Giai đoạn này đặt tiền đề cho phát triển nhân cách và toàn bộ con người
mai sau.
Tuổi mầm non có thể chia làm ba thời kỳ:
(1) Tuổi hài nhi (từ khi lọt lòng mẹ đến 12 tháng tuổi)
(2) Tuốì ấu nhi (từ 12 tháng tuổi đến 36 tháng tuổi) - tuổi nhà trẻ.
(3) Tuổi mẫu giáo (từ 36 tháng tuổi đến 72 tháng tuổi).
1.2.1. Tuổi hài nhi
Trẻ vừa lọt lòng mẹ chỉ hành động theo cơ chế bẩm sinh, vô thức với phản xạ
không điều kiện, song rất yếu. Giai đoạn này trẻ hoàn toàn sống phụ thuộc vào người
lớn (người mẹ). Hoạt động chủ đạo ở giai đoạn này là hoạt động giao tiếp - tiếp xúc -
giao lưu tình cảm. Thông qua hoạt động giao tiếp tiếp xúc tình cảm trẻ phát triển
nhanh về mặt thể chất cũng như về mặt tầm sinh lý, đặc biệt về mặt tình cảm. Trên
cơ sở giao tiếp mà ở trẻ nảy sinh nhu cầu là hình thành hoạt động tâm lý (trẻ bắt đầu
2
xuất hiện phản ứng hớn hở, hóng chuyện, cầm nắm đồ vật, nhận biết mẹ, có nhu cầu
tình cảm, bắt đầu quấy khóc và đòi mẹ bế).
Trong quá trình này người lớn không những giúp trẻ thoả mãn nhu cầu lối thiểu
(ăn ngủ, vệ sinh) mà còn giúp trẻ thoả mãn nhu cầu vặn động (lẫy, bò, trườn). Vì vậy
nhà giáo dục phải giúp trẻ thoả mãn nhu cầu giao lưu) để nâng cao sự phát triển của
trẻ.
1.2.2. Tuổi ấu nhi
Hoạt động chù đạo ở lứa tuổi này là hoạt động với đồ vật. Lúc này trẻ đã bắt
đầu hiểu được mối liên hệ bên trong của đổ vật (thuộc tính bên trong) như: cốc để
uống nước, thìa để xúc cơm.
Bằng hoạt động với đồ vật mà trẻ ấu nhi đã phát triển lâm lý nhất là quá rrình
tri giác và tư duy. Quá trình này phát triển mạnh lừ khi trẻ biết đi và biết nói tiếng
đầu tiên. Đây là bước ngoặt đầu tiên của trẻ đánh dấu sự phát triển về mặt tâm lý làm
cho trẻ mở rộng thêm môi trường hiểu biết, trẻ biết nhiều hơn về thế giới xung quanh
và phạm vi hoạt động của trẻ được mở rộng. Trẻ tiếp xúc nhiều với các sự việc hiện
tượng của thiên nhiên và xã hội. Cũng chính từ đây ngôn ngữ của trẻ phát triển, trẻ
hiểu được từ ngữ, biểu đạt ý nghĩ bằng từ ngữ nói theo phương thức con người. Khi
trẻ biết đi, trẻ gặp bao sự việc cần phải giải quyết. Từ đó mâu thuẫn mới nẩy sinh,
thôi thúc trẻ khám phá thế giới xung quanh dể thoà mãn nhu cầu của mình. Trẻ quan
sát đồ vật, tìm hiểu tính chất, chức năng, và có khả năng so sánh, phân tích đối chiếu
bằng tay, trên cơ sở đó tư duy trực quan phát triển đì cùng với nó là vận động và phát
triển.
Sự phát triển là biểu hiện cụ thể của sự phát triển tâm lý ở lứa tuổi này có sự
mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng của trẻ, dẫn đến sự khủng hoảng tâm lý. Để giải
quyết vấn đề này người lớn phải giúp trẻ thoả mãn nhu cầu này qua hoạt động vui
chơi. Chẳng hạn cho trẻ chơi trò bán hàng, bác sĩ khám bệnh, để trẻ tập thể hiện hành
động của người lớn.
1.2.3. Tuổi mẫu giáo
Chơi là hoạt động chù đạo của trẻ mẫu giáo. Thông qua chơi trẻ được thoả mãn
nhu cầu tâm lý và giải quyết mâu thuẫn nảy sình của độ tuổi. Các nhà giáo dục đã tổ
chức cho trẻ chơi với các loại hình khác nhau, nhằm thoả mãn nhu cầu tâm lý và thực
hiện yêu cầu giáo dục. Thông qua chơi trẻ có thể tiếp xúc và hiểu biết thế giới xung
quanh, phát triển tâm lý (phát triển quá trình cảm giác, tri giác, trí nhớ, tưởng tượng,
ngôn ngữ, ý chí, hành động, cách ứng xử xã hội và quan hệ xã hội). Trò chơi đóng
vai trò giúp trẻ hình thành xã hội đầu tiên của trẻ. Trò tham gia chơi một cách tích
cực sẽ có ý nghĩa hình thành nhân cách của trẻ. Trẻ mẫu giáo không chỉ tham gia đến
hoạt động vui chơi mà còn tham gia nhiều hoạt động khác như hoạt động học tập lao
động giao tiếp. Các hoạt động này là điều kiện giúp trẻ phát triển một cách toàn diện.
Chính vì vậy các nhà giáo dục cần biết tổ chức các dạng hoạt động cho trẻ và thu hút
trẻ vào các hoạt động đó, sao cho trẻ tham gia một cách tính cực và say mê.
Tóm lại: Từ 0 - 6 tuổi trẻ có ba giai đoạn phát triển, mỗi giai đoạn có những
đặc điểm lứa tuổi chi phối thể hiện ờ những hoạt động chủ đạo vì thế nhà giáo dục
phải nắm bắt được các quy luật này để giúp trẻ hoạt động đúng lứa tuổi, đó là con
đường tốt nhất giúp trẻ phát triển và hoàn thành giai đoạn đầu tiên của sự hình thành
và phát triển những mầm mống ban đầu của nhân cách con người, chuẩn bị bước
3
sang một giai đoạn mới: Tuổi học sinh.
2. Phân tích vai trò của giáo dục với sự phát triển trẻ em; từ đó rút ra kết luận sư phạm
trong công tác giáo dục trẻ em.
Giáo dục là hoạt động có mục đích, có kế hoạch của con người là hoạt động có
ý thức của nhà giáo dục hoặc tổ chức, nhầm hình thành nhân cách trẻ em.
Nói đến giáo dục và quá trình giáo dục không nên hiểu một chiều chỉ là sự tác
động của nhà giáo dục và tổ chức giáo dục đến nhân cách của người được giáo dục.
Ngược lại giáo dục bao gồm cả hoạt động của cá nhân người được giáo dục vói tư
cách vừa là khách thể vừa là chủ thể của quá trình giáo dục. Giáo dục là không thể
nào chi có thầy mà không có trò. Cũng như dạy học bao hàm cả dạy và học nghĩa là
có cả thầy và trò. Nhà giáo dục thực hiện nhiều công việc: Tổ chức, chỉ đạo, điều
khiển, điều chỉnh, động viên, kiểm tra, đánh giá các hoạt động và giao tiếp của người
được giáo dục. Từ đó hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Ở trường mầm non cô
giáo tổ chức quá trình sư phạm bằng cách tổ chức cuộc sống trong ngày cho trẻ theo
chế độ sinh hoạt hàng ngày. Tổ chức chế độ ăn ngủ, vệ sinh, hoạt động vui chơi. Ví
dụ: Thông qua trò chơi cô có thể cho trẻ làm quen với công việc cùa người lớn (bác
sĩ khám bệnh) và cũng trong trò chơi đó cô có thể cho cháu biết mối quan hệ trong xã
hội (giữa người bệnh và bác sĩ). Cô và cháu cùng tham gia hoạt động, cháu hoạt động
dưới sự chi đạo và hướng dẫn của cô qua đó hình thành những tính cách của trẻ.
Như đã phàn tích ở trên trong quá trình giáo dục người được giáo dục (học
sinh, trẻ em ) đóng vai trò chủ động, tích cực, tự giác hoạt động. Dưới sự hướng dẫn
và tác động định hướng của thầy cô để hình thành và phát triển nhân cách. Người
giáo dục giữ vai trò chủ đạo, tổ chức điều khiển, điéu chỉnh quá trình giáo dục ấy. Vì
vậy trong quá trình giáo dục nhà giáo dục phải biết phát huy vai trò chủ động, tự
giác, tích cực của người được giáo dục, nghĩa là biết phát huy cao độ và triệt để điều
kiện bên trong của trẻ em (đó chính là sức sống tự nhiên của trẻ em).
* Giáo dục định hướng cho sự phát triển
Trong quá trình giao tiếp với người lớn, trẻ đã học hỏi rất nhiều kinh nghiệm
sống, người lớn đã chỉ bảo và dạy dỗ trẻ, cung cấp cho trẻ những kiến thức trong
cuộc sống. Giúp trẻ tư duy, giúp trẻ hiểu biết thế giới xung quanh, trẻ tích luỹ được
những tri thức và kỹ năng trong cuộc sống. Giúp trẻ giải quyết được những nhiệm vụ
trí tuệ mà hàng ngày trẻ gặp phải. Thế giới xung quanh trẻ thật phong phú, đa dạng.
Biết bao điều mới lạ đối với trẻ. Chính vì vậy người lớn cần giúp trẻ để trẻ dễ thích
ứng với nền kinh tế xã hội mới, nhanh chóng thành người trưởng thành, thích ứng
với xã hội và biết lao động trong nền sản xuất hiện đại. Trẻ em được người lớn dạy
dỗ, chỉ bảo đã rút ngắn thời gian mò mẫm vào đời. Trè càng nhỏ càng đòi hỏi sự giúp
đỡ chỉ bảo của người lớn càng tỷ mỷ kỹ lưỡng và chu đáo hơn. Trang bị cho trẻ
phương pháp tiếp cận với thế giới xung quanh, tự giáo dục và hoàn thiện mình theo
chuẩn mực của xã hội đặt ra.
Ví dụ: Chế độ chăm sóc bảo vệ và giáo dục trẻ em ở gia đình và trường mầm
non được coi là khoa học nếu chế độ đó định hướng cho trè tập làm người từ việc nhỏ
đến việc lớn. Chế độ sinh hoạt trong ngày ờ trường mầm non từ lúc đón trẻ đến khi
trả trẻ là định hướng cho trẻ được hoạt động. Trẻ tập làm người bằng việc thoả mãn
nhu cầu sinh học (dinh dưỡng ), phát triển thể chất qua vân động, ăn uống, nghỉ ngơi,
phát triển trí tuệ qua tham quan, học tập. Phát triển tâm lý và mối quan hệ xã hội
4
đúng đắn. Đặc biệt qua trò chơi đóng vai, trẻ đã học làm người lớn. Việc định hướng
cho trẻ vào đời bằng cách tổ chức cuộc sống cho trẻ. Cho trẻ tham gia vào mọi hoạt
động: Học tập. vui chơi, vệ sinh, giao tiếp. Qua đó trẻ lớn khôn lên.
* Giáo dục lựa chọn nội dung văn hoá cho trẻ lĩnh hội
Trẻ vào đời cái gì cũng mới mẻ, bỡ ngỡ song được sự giúp đỡ giáo dục của
người lớn (cha mẹ, cô giáo, anh chị) trẻ lĩnh hội tri thức, nền vãn hóa xã hội, kinh
nghiệm lịch sử để hình thành con người. Đây chính là nhiệm vụ của giáo dục.
Nhưng giáo dục như thế nào? Nội dung, kiến thức gì? Phương pháp nào? Những
vấn đề này cần phải lựa chọn. Vì trẻ em sinh ra cơ thể còn non nớt không thể một
lúc tiếp nhận được mọi tri thức nền văn hoá xã hội, kinh nghiệm lịch sử. Cùng một
độ tuổi nhưng sự phát triển tâm sình lý cũng có những đặc điểm riêng bên cạnh
đặc điểm chung. Vậy giáo dục phải có sự lựa chọn cho phù hợp với sự phát triển
tâm sinh lý của trẻ. Giáo dục phải hướng vào vùng phát triển gần. Vì thế chúng ta
phải lựa chọn nội đung, phương pháp và hình thức giáo dục phù hợp sao cho
không thấp quá hoặc cao quá sự phát triển của trẻ. Giáo dục phải thúc đẩy sự phát
triển của trẻ. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào cô nuôi dạy trẻ.
Ví dụ: Giờ học làm quen với môi trường xung quanh (các loài động vật) cô
giáo phải lựa chọn con vật nào mà trẻ quen thuộc, hiền lành, trẻ hay gần gũi.
- Không chỉ cho trẻ nhận biết đặc điểm bề ngoài và tên gọi của con vật còn
cho trẻ biết về đặc điểm của con vật đó như: Nó thích ăn gì? Tính nết làm sao?
Mối quan hộ của nó với môi trường?
- Ý nghĩa của con vật với đời sống con người.
- Trách nhiệm cùa trẻ với việc chãm sóc con vật.
Người giáo dục ờ đây chính là cô giáo có nhiệm vụ lựa chọn nội dung hình
thức, phương pháp thích hợp để truyền đạt cho trẻ. Nội dung phương pháp pháp
phù hợp với sự phái triển tâm sinh lý cùa trẻ. Phương pháp phải dễ hiểu, phải sinh
động kích thích sự ham tìm hiểu của trẻ. Như vậy giáo dục có nhiệm vụ lựa chọn
nội dung văn hoá vừa sức cho trẻ lĩnh hội.
* Giáo dục lựa chọn phương pháp tác động đến trẻ và tổ chức cho trẻ hoạt động
Để cung cấp tri thức cho trẻ cô giáo phải lựa chọn phương pháp thích hợp và
phối hợp nhiều phương pháp để truyền tải tri thức đến cho trẻ. Sử dụng nhiều phương
pháp dạy học như: dùng lời (kể, đọc, đàm thoại ), trình bày trực quan, hoạt động thực
tiễn, thử nghiệm... Nhưng ở đây vấn đề là phải lựa chọn phương pháp dạy phù hợp
với nội dung kiến thức cần truyền tải cho trẻ. Có nghĩa là tuỳ vào từng nội dung dạy
học, tính chất tàì liệu, đặc điểm cháu và điều kiện thực tế mà cô giáo lựa chọn
phương pháp này hoặc phương pháp khác. Nhưng không có phương pháp nào là tốt
nhất dùng cho mọi trường hợp. Mỗi phương pháp đều có mặt tốt và mặt hạn chế. Khả
năng chú ý của trẻ có hạn, không chú ý được lâu, chóng chán. Sức tập trung còn yếu
do hoạt động của hệ thần kinh còn non nót. Chính vì vậy cần phải thường xuyên thay
đổi phương pháp hoặc kết hợp một số phương pháp trong việc dạy và tổ chức hoạt
động cho cháu. Có như vây công tác giáo dục và chăm sóc trẻ mới đạt hiệu quả cao.
Trẻ mầm non thích những điều mới lạ, thích khám phá, thích tự mình làm được
những việc giống như người lớn. Chính vì vậy các nhà giáo dục cũng nên lưu tâm
vấn đề này. Nên tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động để thoả mãn nhu cầu thích
làm người lớn của trẻ. Ví dụ tổ chức cho trẻ chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề: nấu
5
ăn, bác sĩ khám bệnh.. Như vậy thông qua hoạt động trò chơi này trẻ đã tỏ ra mình
làm người lớn.
3. Phân tích nhiệm vụ, phẩm chất, năng lực của người giáo viên mầm non.
3.1.Nhiệm vụ của người giáo viên mầm non được quy định trong Quyết định 55
của Bộ Ciiáo dục và Đào tạo ký ngày 3/2/1990. Cụ thể là:
- Thực hiện nghiêm chỉnh nội quy, quy chế của nhà trè, trường mẫu giáo, thực
hiện đầy đủ chương trình, kế hoạch giáo dục (hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng, hằng
năm) phù hợp với điều kiện của từng nhà trẻ, trường mẫu giáo.
- Gần gũi, phối hợp chật chẽ với cha mẹ của trẻ để thống nhất việc chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục và tuyên truyền cho cha mẹ của trẻ những kiến rhức nuôi dạy
trẻ.
- Làm đồ chơi, đồ dùng dạy học, bảo quản và sử dụng trang thiết bị, tài sản của
nhóm, lớp phụ trách.
- Đoàn kết nhất trí và phấn đấu xây dựng nhóm, lớp, trường tiên tiến.
- Phấn đấu tự rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt theo tiêu chuẩn quy định.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, người giáo viên phải chủ động xây dựng cho
mình kế hoạch chăm sóc và giáo dục trẻ trong nhóm lớp mình phụ trách. Đồng thòi
nắm chắc nội dung, mục tiêu và có khả năng sáng tạo trong việc thực hiện chương
trình chăm sóc và giáo dục mầm non.
3.2. Những yêu cầu năng lực, phẩm chất của người giáo viên mầm non
* Yêu cầu về năng lực của người giáo viên mầm non
- Năng lực quan sát: Cần có để nhanh chóng phát hiện ra những vấn đề đang
diễn ra trong lớp, nhóm trẻ để dễ nhìn thấy những khiếm khuyết trong việc nuôi dạy
trẻ, nắm bắt đặc điểm phát triển của từng trẻ, có biện pháp nuôi dạy thích hợp.
- Năng lực giao tiếp: Là khả năng nhận biết nhanh chóng những biểu hiện bên
ngoài và diễn biến tâm lý bên trong của trẻ, biết sử dụng hợp lý các phương tiện,
ngôn ngữ, cử chi, điệu bộ, biết cách định hướng điều chỉnh quá trình giao tiếp để đạt
tới mục đích đã định.
- Nãng lực sư phạm: Giáo viên mầm non phải có tri thức về khoa học nuôi dạy
trẻ, hiểu biết sâu sắc các quy luật hình thành nhân cách trẻ, những tri thức về tâm lý,
sinh lý học lứa tuổi mầm non, tri thức về chăm sóc giáo dục trẻ, nghiệp vụ về nuôi
dạy trẻ là nền tảng, là cơ sở hình thành nên năng lực sư phạm.
- Năng lực quản lý: Biết xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch đó.
Biết chỉ huy, quản lý, có năng lực hiểu biết con người; phát hiện kịp thời những dấu
hiệu không bình thường ở trẻ, biết điều hành ra quyết định kịp thời những sự việc
trong nhóm trẻ.
- Năng lực cảm hoá, thuyết phục: Giáo viên mầm non phải rất nhạy cảm, có sức
cuốn hút trẻ, phải kiên nhẫn, mềm dẻo để giải quyết các tình huống gay cấn; biết lằng
nghe; biết gợi mở, hiểu được tâm trạng của mỗi trẻ, mỗi lúc. Sẽ rất tai hại nếu trẻ chỉ
sợ cô chứ không yêu cô.
* Yêu cầu vê phẩm chất ctí bản của giáo viên mầm non
- Lòng nhàn ái và sự đôn hậu: Đây là điều kiện tiên quyết, số một đối với giáo
viên mầm non. Bởi vì thương yêu con người là bản chất cùa giáo dục, không có sự
thương yêu con người, không có lòng vị tha thì không thể có sự giáo dục thực sự. Sự
thương yêu con người là phẩm chất hàng đầu của người giáo viên mầm non.
6
- Toàn tâm, toàn ý cho công việc: Yêu nghề mến trẻ thể hiện tình thương yêu
trẻ, say mê với công việc chăm sóc giáo dục trẻ có hiệu quả hơn.
- Có lập trường tư tưởng vững vàng thể hiện ở sự yên tâm với nghề nghiệp,
không bị dao động trước những khó khăn trở ngại của xã hội với nghề nghiệp, luôn
có ý hướng phấn đấu vì sự nghiệp giáo dục trẻ thơ.
- Thái độ công bằng: Với trẻ thơ đòi hỏi sự công bằng tuyệt đối. Công bằng là cơ
sở niềm tin của trẻ đối với cô.
- Tính trung thực: Phản ánh đúng sự thật. Muốn vậy người giáo viên mầm non
không để tình cảm, định kiến của cá nhân xen vào công việc, không tô hồng, bôi đen,
bóp méo sự thật.
- Tính cởi mở: Thể hiện vui vẻ, dịu dàng hoà nhập vào mối quan hệ với trẻ thì
mới hiểu được trẻ và giáo dục mới có hiệu quả cao.
- Tính dũng cảm kiên quyết: Biểu hiện thái độ cứng rắn, kiên trì trong hành
động để kịp thời xử lý các tình huống xảy ra.
4. Các nguyên tắc xây dựng chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non.
(1) Đảm bảo tính mục đích
Chương trình phải thiết thực, thực hiện tối ưu mục tiêu kế hoạch chăm sóc giáo
dục trẻ mầm non do Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành.
(2) Nguyên tắc đảm bảo tính toàn diện
Chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ phải đảm bảo cho trẻ phát triển toàn
diện, hài hòa một cách tổng thế.
Các tác động sư phạm phải mang tính tổng hợp, tác động đồng bộ đến sự tăng
trưởng và phát triển tâm sinh lý của trẻ. Chế độ sinh hoạt trong ngày phải có ăn, ngủ,
chơi, tập... ở mẫu giáo phải chú trọng thêm các mặt của giáo dục: thể dục, đức dục,
trí dục, giáo dục thẩm mỹ và lao động. Lấy hoạt động vui chơi là chủ đạo, nhưng
từng bước hình thành các yếu tố hoạt động học tập và tiền đề của hoạt động lao động.
(3) Nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa chăm sóc và giáo dục
Giáo dục mầm non là giáo dục theo phương thức mẹ - con, cho nên bên cạnh
việc giáo dục thì phải chú ý chăm sóc bảo vệ, trông nom trẻ hàng ngày, phái tạo môi
trường an toàn, ấm cúng, tình cảm cho trẻ.
(4) Nguyên tắc kết hợp giáo dục trẻ trong nhóm bạn bè với giáo dục từng
cháu một
Bên cạnh việc chăm sóc giáo dục trẻ theo nhóm, các cô nuôi dạy trẻ cần quan
tâm tới tính riêng biệt của từng trẻ để có phương pháp giúp trẻ tốt hơn. Trẻ em rất
non nớt về mọi mặt, sự tăng trường và phát triển của từng trẻ phụ thuộc vào nhiều
yếu tố: di truyền, điều kiện kinh tế, nền nếp gia đình, tính cá thể... Cho nên khòng thể
áp đặt chỉ một cách chăm sóc giáo dục chung cho tất cả các em, mà phải chú ý tới
tính cá thể đó.
(5) Nguyên tắc kết hựp giáo dục giữa trường mầm non với gia đình
Giáo dục mầm non mang nhiều tính chất giáo dục gia đình. Gia đình là trường
học đầu tiên của trẻ. Trách nhiệm của người mẹ và cô giáo không khác nhau đáng kể.
Phải tạo điều kiện cho trè có môi trường ở trường không khác xa ở nhà. Từ đó tạo
nên sự phát triển hài hòa, liên tục trong tâm sinh lý của trẻ.
(6) Nguyên tắc kết hợp tính linh hoạt trong chương trình
Chương trình giáo dục mầm non khác với chương trình phổ thông là không lấy
7
mức độ tri thức truyền đạt làm trọng tâm, mà lấy việc hình thành và phát triển mầm
mỏng ban đầu hình thành nhân cách trê làm chính, giáo dục thông qua các hoạt động
chơi. Vì vậy trong chương trình giáo dục mầm non có thế thèm bớt tăng giảm hoặc
thay đổi hình thức giáo dục, tùy vào hoàn cảnh và tình huống cụ thể miễn sao mang
lại hiệu quả và đạt được mục tiêu giáo dục đề ra.
(7) Nguyên tắc kết hợp vai trò chủ đạo của cố giáo mầm non và phát huy
tính tích cực hoạt động của trẻ
Bản chất của quá trình dạy học là quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và
học sinh. Trẻ còn nhỏ cho nên cô giáo vẫn là người chủ đạo, nhưng trẻ cũng có mong
muốn lìm hiểu hiện tượng sự vật xung quanh. Trẻ càng tích cực thì sự hiểu biết của
trẻ càng nhanh và vững vàng. Đây là một khía cạnh của phương pháp giáo dục tích
cực.
5. Giáo dục thể chất cho trẻ mầm non là gì?. Phân tích các nhiệm vụ và điều kiện cần
thiết để giáo dục thể chất cho trẻ mầm non.
5.1. Giáo dục thể chất cho trẻ mầm non là gì?.
Giáo dục thể chất là một bộ phận quan trọng của giáo dục và phát triển toàn
diện trẻ mầm non, đó là quá trình tác động chủ yếu vào cơ thể trẻ thông qua việc rèn
luyện cơ thể, tổ chức cho trẻ vận động, giữ gìn vệ sinh, tổ chức chế độ sinh hpạt hợp
lý nhằm bảo vệ cơ thể trẻ, làm cho cơ thể trẻ phát triển hài hoà cân đối, tăng cường
sức khoẻ, hoàn thiện thể chất, làm cơ sở phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
5.2. Nhiệm vụ giáo dục thể chất cho trẻ mầm non
* Bảo vệ tăng cường sức khoẻ, phát triển cân đối hình dạng cơ thể trẻ, tăng sức
đế kháng, tăng khả năng miễn địch để trẻ thích ứng với những thay đổi của thời tiết
môi trường để đảm bảo tăng trưởng và phát triển hài hoà cân đối cơ thể trẻ.
Đây là nhiệm vụ chủ vếu của giáo dục thể lực vì cơ thể trẻ đang phát triển với
tốc độ nhanh trong quá trình hoàn thiện hệ thống các cơ quan chức năng và các hệ cơ
quan như hệ hô hấp, hệ tuần hoàn, hệ cơ, hệ xương, hộ thần kinh... Mặt khác, cơ thể
trẻ còn rất non nớt, sức đề kháng và khả năng thích nghi kém nên dễ chịu ảnh hưởng
của các tác động bên ngoài như sự thay đổi nhiệt độ của thời tiết (từ nóng chuyển
sang lạnh hoặc ngược lại) dễ làm trẻ viêm phế quản, viêm đường hô hấp... Đồng thời,
bản thân trẻ chưa biết tự chăm sóc bảo vệ cơ thể mình, cuộc sống của trẻ còn hoàn
toàn phụ thuộc vào sự châm sóc nuôi dưỡng của người lớn. Do đó muốn thực hiện
nhiệm vụ này người lớn cần tổ chức chế độ sinh hoạt hợp lý, tổ chức tốt công tác vệ
sinh hàng ngày cho trẻ, tổ chức cho trỏ được vận động và rèn luyện hợp lý, tổ chức
chăm sóc y tế thường xuyên, phòng và chữa bệnh kịp thời.
* Hình thành các kỹ năng, kỹ xảo và các phẩm chất vận động
Các kỹ năng vận động cơ bản gổm: đi, chạy, nhảy, bò, ném, tung, bắt... Ngoài
ra, còn có các kỹ năng vận động khác như bơi lội, đi xe đạp, đá bóng... Các phẩm
chất thể lực gồm: nhanh, mạnh, bền, khéo, dẻo dai, linh hoạt... Vận động là nhu cầu
tự nhiên của con người và được phát triển tương đối sớm, do vậy cần được luyện lập,
phát triển và hoàn thiện. Chính sự rèn luyện các kỹ năng vận dộng có ảnh hưởng tốt
đến sự phái triển cơ thể như làm tăng cường hoạt động cùa cơ bắp, tăng cường quá
trình canxi hoá của xương, hoàn thiện chức năng các cơ quan nội tạng như hệ hô hấp,
tuần hoàn, tiêu hoá, làm tăng cường quá trình trao đổi chất... Đồng thời làm tăng sức
đề kháng, khả năng thích nghi của cơ thể đối với sự thay đổi thời tiết môi trường.
8
Trong quá trình trẻ vận động đã hình thành các phẩm chất vận động.
Thực hiện nhiệm vụ này bằng cách cho trẻ tập các bài thể dục theo chương
trình phù hợp với lứa tuổi, tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi vận động, các loại hình
thể thao như bơi lội, đi xe đạp, chơi với bóng, vòng gậy, tổ chức cho trẻ được dạo
chơi ngoài trời, đi tham quan...
* Giáo dục và rèn luyện kỹ nâng, kỹ xảo vệ sinh văn hoá
Dạy trẻ các kỹ nàng, kỹ xảo vộ sinh bao gồm: biết rửa mặt, rửa tay, chải đầu,
biết tắm gội giữ gìn cơ thể sạch sẽ. Bíct giữ vệ sinh trong ãn uống, giữ vệ sinh nơi
công cộng.
Dạy trẻ có nếp sống vãn hoá ohư: biết sinh hoạt đúng giờ giấc, giờ nào việc
nấy, có nếp sống ngăn nắp gọn gàng (biết để giày dép tư trang vào nơi quy định...).
Cần thực hiện nhiệm vụ này bởi vì giáo dục kỹ năng, kỹ xảo vộ sinh văn hóa là giúp
trẻ biết tự chăm sóc bảo vệ cơ thể mình và giúp cho viộc bảo vệ và tăng cường sức
khoè của trẻ, đổng thời có ý nghĩa giáo dục đạo đức.
Muốn thực hiện nhiệm vụ này giáo viên mầm non thường xuyên dạy trẻ kỹ
năng vệ sinh văn hoá như làm mẫu thao tác cho trẻ xem rồi cho trẻ làm đi làm lại
hàng ngày.
Người lớn phải mẫu mực trong việc thực hiện nguyên tắc vệ sinh.
Thực hiện tốt chế độ sinh hoạt hàng ngày để hình thành ờ trẻ các thói quen
vệ sinh và động hình hành động.
5.3. Những điểu kiện cần thiết để giáo dục thể chất cho trẻ mẩm non
Việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ cần có những điều kiện sau:
- Phải có những điều kiện vật chất đáp ứng yêu cầu sư phạm, vệ sinh như:
Truờng lớp, ánh sáng, sân chơi, vườn cây và các phương tiện để chơi tập và rèn luyện
thể chất cho trẻ.
- Chế độ sinh hoạt hợp lý với từng độ tuổi.
- Có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và phòng y tế trong việc chăm
sóc bảo vệ sức khoẻ ban đầu cho trẻ. Đó là:
+ Thường xuyên theo dõi sức khoẻ của trẻ bằng biểu đồ phát triển.
+ Tiêm phòng đúng định kỳ.
+ Phòng và sơ cứu kịp thời một số tai nạn thông thường có thể xảy ra với trẻ.
+ Phòng và xừ lý kịp thời mộl số bệnh ờ trẻ dưới 3 tuổi: ỉa chảy, viêm phế quản,
viêm VA.
Chế độ dinh dưỡng, bao gồm:
+ Có chế độ ăn uống phù hợp với độ tuổi (sữa mẹ, sữa bò, sữa tổng hợp, bột,
cháo, cơm nát..)..
+ Đảm bảo đủ chất dinh dưỡng: đạm, béo, đường, khoáng chất, các loại sinh tố.
+ Chế biến thức ăn hợp theo mùa và khẩu vị trẻ.
+ Đủ nước uống, nhất là mùa hè.
+ Ăn uống vệ sinh sạch sẽ.
Các bài tập luyện, các hình thức chơi tập nhằm nâng phát triển vận động cho trẻ
dưới 3 tuổi phải được tiến hành dưới sự hướng dẫn của người lớn có kinh nghiệm và
cô giáo có tri thức về nuôi dạy trẻ.
6. Giáo dục trí tuệ cho trẻ mầm non là gì?. Phân tích phương tiện giáo dục trí
9
tuệ ở trường mầm non.
6.1. Khái niệm vể giáo dục trí tuệ cho trẻ mầm non
Giáo dục trí tuệ là hệ thống các tác động sư phạm có tổ chức nhằm hình thành
và phát triển những trí thức, kỹ nãng sơ đẳng, phương thức hoại động trí tuệ sơ đẳng,
phát triển năng lực và nhu cầu hoạt động trí tuệ ở trẻ em. Qua đó mở rộng các kiến
thức kinh nghiệm lịch sử, xã hội, nâng cao năng lạc hiểu biết và nhận thức sáng tạo
của trẻ. Ví dụ: Thông qua việc tổ chức cho trẻ đi dạo, cô giáo cho trò quan sát gà vịt.
Trẻ quan sát với sự gợi ý của cô giáo, trẻ phát hiện ra sự giống nhau và khác nhau
giữa gà và vịt. Giống nhau: đều có lông, có hai chân. Khác nhau: vịt biết bơi. gà
không biết bơi. Cô giáo đã giáo dục trí tuệ cho trẻ thông qua việc cung cấp tri thức
biểu tượng sơ đẳng về con gà con vịt. Trẻ nhận biết được con gà, con vịt và biểu đạt
bằng ngôn ngữ của mình thông qua việc mô tả. Trẻ có đưực sự hiểu biết đó nhờ hoạt
động trí tuệ. Sự phát triển trí tuệ cùa trẻ diễn ra trong quá trình trẻ tham gia hoạt động
khác nhau. Nếu không có hướng dẫn thì những tri thức đó thiếu hệ thống, không đầy
đủ. Sự phát triển tích cực nhất và hiệu quả là được diễn ra nhờ quá trình dạy và giáo
dục. Đó là quá trình giáo dục trí tuệ trẻ trong trường mầm non.
6.2. Phương tiện giáo dục trí tuệ cho trẻ mầm non
Việc giáo dục trẻ thực hiện bằng nhiều phương tiện khác nhau, bao trùm toàn bộ
cuộc sống hàng ngày của trẻ. Vì vậy cần phối hợp hợp lý gia đình nhà trường và xã
hội. Dưới đây trình bày những phương tiện giáo dục trí tuệ ở trường mầm non.
* Cuộc sống môi trường xung quanh là phương tiện giáo dục trí tuệ
Cuộc sống thực hàng ngày và môi trường xung quanh là phương tiện giáo dục
trí tuệ quan trọng, là nguồn gốc các kiến thức, nhận thức và phát triển các kỹ năng
nhận thức, năng lực sáng tạo của trẻ.
Đối với trẻ thì môi trường xung quanh có sức hấp dẫn nhất. Trong quá trình tìm
hiểu môi trường, trẻ phát triển trí tuệ. Nếu biết cách lồng ghép giữa dạy và tìm hiểu
môi trường xung quanh thì trẻ nhanh hiểu và phát triển trí tuệ tốt hơn.
* Dạy học là phương tiện cơ bản để giáo dục trí tuệ cho trẻ
Dạy học có thể trên lớp ở trường, ở buổi đi chơi, tham quan và mọi lúc mọi nơi,
sao cho dẽ hiểu và hấp dẫn trẻ. Thông qua các tiết học, trẻ lĩnh hội được hệ thống tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo và rèn các thao tác hoạt động phù hợp với độ tuổi.
Dạy học thực hiện cơ bản nhiệm vụ giáo dục trí tuệ cho trẻ. Vì vậy yêu cầu cô
giáo phải có kiến thức vững chắc, hiểu chính xác các khái niệm cần dạy trẻ.
Giáo viên là người tổ chức và điều khiển quá trình phát triển trí tuệ của trẻ.
Dạng học tập sơ khai ở mẫu giáo cung là một cách chuẩn bị tốt cho trẻ vào học
phổ thông.
* Hoạt động vui chơi là phương tiện giáo dục trí tuệ
Trò chơi là hoạt động chủ đạo của trè mẫu giáo. Giáo dục trí tuệ trong các trò
chơi cụ thể như trò chơi đóng vai theo chủ đề, trò chơi học tập, trò chơi xây dựng, trò
chơi đóng kịch. Mỗi loại trò chơi có tác động khác nhau đến sự phát triển trí tuệ của
trẻ. Tác dụng giáo dục trí tuệ của trò chơi là:
- Ôn luyện cùng cố làm phong phú các kiến thức, các biểu tượng và kỹ năng của
trỏ đối với đổ vật và hiện tượng xung quanh, mối liên hệ giữa chúng (thông qua nội
dung các trò chơi).
- Rèn luyện các thao tác trí tuệ: phát triển thao tác so sánh, phản biệt, khái quát.
10
- Phát triển tính kế hoạch của tư duy thúc đẩy phát triển trí tưởng tượng, trí nhớ
chú ý có chủ định, năng lực tự kiểm tra đánh giá, phát triển tính độc lập sáng tạo vận
dụng các kiến thức kỹ năng đã học để nhận thức.
* Hoạt động tạo hình là phương tiện giáo dục trí tuệ
Hoạt động tạo hình bao gồm các hoạt động vẽ, nặn, cắt dán, xếp hình.
Vai trò của hoạt động tạo hình trong sự phát triển trí tuệ của trẻ:
- Mở rộng và củng cố các biểu tượng cảm tính về sự vật và mối quan hệ với
chúng qua mầu sắc, hình dáng, cấu tạo, bố cục và mối liên hệ giữa chúng.
- Cùng cố khả năng tự vận dụng các thao tác khảo sát, kỹ năng quan sát vật, phát
triển các thao tác so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát và thực hiện thứ tự các thao
tác vẽ, nặn, cắt dán, góp phần rèn luyện các thao tác có trình tự, chính xác.
- Phát triển trí nhớ, trí tưởng tượng, khả năng sáng tạo độc lập của trẻ em, động
cơ, hứng thú học tập.
* Hoạt động lao động là phương tiện giáo dục trí tuệ
Lao động là hoạt động thực tiễn của trẻ nhằm tạo ra sản phẩm cụ thể. Trẻ mẫu
giáo tham gia lao động tự phục vụ sinh hoạt là chính, lao động những việc nhẹ nhàng
vừa sức phục vụ trực tiếp cuộc sống hàng ngày. Trong quá trình lao động trẻ được
tiếp xúc và tác động vào với thế giới xung quanh, làm cho trí tuệ trẻ phát triển: trẻ
hiểu sâu sắc thêm về tên gọi, chức năng, tính chất, mối liên hệ của sự vật. Thông qua
lao động cô giáo cung cấp và mở rộng các kiến thức, kỹ nâng về sử dụng công cụ lao
động, nhận biết các chất liệu làm ra công cụ, vật thể.
Hình thành động cơ hứng thú phát triển các quá trình nhận thức, phát triển tính
kế hoạch, trình tự làm việc, khả năng hoạt động độc lập, hoạt động cùng nhau cùa trẻ.
7. Giáo dục đạo đức là gì?. Phân tích các nguyên tắc giáo dục đạo đức cho trẻ mầm
non.
7.1. Giáo dục đạo đức
Đạo đức là một lĩnh vực của ý thức xã hội, là một mặt của hoạt động xã hội con
người và là một hình thái chuyên biệt của quan hệ xã hội, thực hiện chức năng điều
chỉnh hành vi con người trong mọi lĩnh vực xã hội.
Giáo dục đạo đức là hoạt động giáo dục nhằm xáy dựng cho trẻ em những nét
tính cách phẩm chất đạo đức và bổi dưỡng cho trẻ những tiêu chuẩn quy tắc
hành vi quy định thái độ cúa chúng đối với nhau, đối với gia đình, đối với mọi
người xung quanh và đối với quốc gia.
7.2. Nguyên tấc giáo dục đạo đức cho trẻ mẩm non
* Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích của giáo dục
Giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo phải hướng tới mục đích giáo dục là:
Hình thành cho rrẻ những cơ sở đầu tiên của nhân cách con người mới XHCN
Việt Nam;
Giàu lòng thương, biết quan tâm, nhường nhịn, giúp đờ những người gần gũi (bố
mẹ, bạn bè, cố giáo). Thật thà, lễ phép, mạnh dạn, hồn nhiên phù hợp với trình độ
phát triển của trẻ ở lứa tuổi này.
* Nguyên tắc giáo dục trẻ trong hoạt động và giao tiếp
Tâm lý học mầm non đã khẩng định rằng trẻ em tuổi hài nhi (12 tháng) có hoạt
động chủ đạo là giao lưu cảm xúc, tuổi ấu nhi (từ 12 đến 36 tháng tuổi) có hoạt động
chủ đạo là hoạt động với đồ vật và tuổi mẫu giáo hoạt động chủ đạo là hoạt động vui
11
chơi. Vì vậy việc giáo dục đạo đức cho trẻ là phải tổ chức cho trẻ được hoạt động
theo lứa tuổi và thông qua giao tiếp.
Thông qua việc tổ chức quá trình sư phạm cô giáo mầm non và cha mẹ trẻ mà
hình thành và phát triển những tính tốt, những thói quen tốt và rèn luyện những hành
vi đạo đức tốt cho trẻ em. Chính vì thế có thể nói rằng thực chất của công tác giáo dục
là công tác tổ chức hoạt động sư phạm cho trẻ em. Và tổ chức cho trẻ tham gia trực
tiếp vào các hoạt động giao tiếp trong tập thể trẻ, trong đời sống xã hội. Đấy là con
đường đúng đắn đé giáo dục các phẩm chất đạo đức và hình thành nhân cách xã hội
cho trẻ.
* Nguyên tắc tôn trọng nhân cách trẻ kết hợp yêu cầu hợp lý với trẻ
Tôn trọng và yêu cầu cao dần với trẻ là hai mặt của một vấn đề. Càng tôn trọng
trẻ lại càng phải yêu cầu cao với trẻ và ngược lại yêu cầu cao với trẻ là sự thể hiện tôn
trọng trẻ.
Tôn trọng trẻ là thoả mãn nhu cầu về dinh dưỡng cũng như về hoạt động. Trẻ
thích hoạt động, thích làm theo ý mình. Nhưng điều này mâu thuẫn với khả năng của
trẻ. Chính vì vậy người lớn cần chú ý đến vấn đề này. Người lớn đòi hỏi trẻ phải hoạt
động dưới sự tổ chức của người lớn, nguời lớm không áp đặt trẻ và khòng làm thay
trẻ. Nguyên tắc này tạo điều kiện phát huy cao độ quyền và năng lực của trẻ, đồng
thời trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là thuộc về người lớn và toàn xã
hội. Nguyên tắc này đòi hỏi người lớn, cô giáo phải tôn trọng trẻ, tin tưởng vào khả
năng và sự phát triển của trẻ, tôn trọng và bảo vệ phẩm giá cũng như thân thể trẻ.
Mặt khác người lớn phải đưa ra những yêu cầu phù hợp với đặc điểm cá nhân và
vốn sống của trẻ, đồng thời phải từng bước nâng cao yêu cầu đó. Muốn vậy những
yêu cầu đề ra phải xuất phát từ nhu cầu của trẻ, phải nhằm thoà mãn nhu cầu và hứng
thú của trẻ để trẻ tích cực tự giác thực hiện ờ trương mầm non.
* Nguyên tắc kết hợp giáo dục ỏ trường mầm non với gia đình
Trẻ em ờ độ tuổi mầm non rất hay bắt chước người lớn. Nói như J.A. Cômenski
“thì trẻ em như con khỉ con gặp gì dù hay hoặc dở chúng đều bắt chước”. Vì thế việc
giáo dục trẻ em phải bằng tấm gương của bản thân người lớn. Đó là môi trường bắt
chước đầu tièn của trẻ. Môi trường phẩm chất của nhân cách là một tổng hoà của nhu
cầu, tình cảm, thói quen, niềm tin.
Việc giáo dục tiếp nối và đồng thời một lúc là giáo dục gia đình và giáo dục nhà
trường. Vì thế cần có sự thống nhất tác động đến tình cảm, ý thức, hành vi ở gia đình
và nhà trường. Sự nhất quán đó tạo nên cho trẻ niềm tin cao và chấp thuận các chuẩn
mực đạo đức. Nguyên tắc giáo dục này đòi hỏi cô giáo mầm non phải là cầu nối giữa
nhà trường với gia đình để thống nhất yêu cầu của giáo dục. Cô giáo mầm non phải
thường xuyên nắm bắt tình hình giáo dục trẻ ở gia đình và các đặc điểm cá nhân của
trẻ để cùng gia đình có biện pháp giáo dục trẻ một cách hiệu quả.
Gia đình cũng cần biết con cái mình ở trường mầm non ra sao để cùng với nhà
trường thống nhất yêu cầu tác dộng giáo dục trẻ. Mối liên hệ thường xuyên gắn bó
giữa nhà trường và gia đinh giúp cho việc chăm sóc quản lý trẻ được thống nhất về
nội dung, phương pháp và quy trình giáo dục đúng đắn khoa học. Có như vậy thì quá
trình giáo dục trẻ mới đạt hiộu quả cao.
8. Giáo dục thẩm mỹ là gì?. Phân tích các phương pháp giáo dục thẩm mỹ cho trẻ
mầm non.
12
8.1. Giáo dục thẩm mỹ
Giáo dục thẩm mỹ là hệ thống các tác động sư phạm nhằm phát triển thẩm mỹ
cho trẻ mầm non. Giáo dục thẩm mỹ là việc tổ chức quá trình sư phạm nhằm hình
thành ở trẻ tình cảm thẩm mỹ, khả năng nhận xét, đánh giá và thị hiếu thẩm mỹ, năng
lực hiểu biết về cái đẹp trong cuộc sống hiện thực xung quanh (trong thiên nhiên,
trong lao động, trong các hành vi quan hệ xã hội, trong mọi người) và trong nghệ
thuật. Đồng thời phát triển nhu cầu hứng thú, năng lực tạo ra cái đẹp phù hợp với quy
luật thẩm mỹ, quy luật cái đẹp.
Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mầm non là những tác động sư phạm có mục đích, có hệ
thống, phù hợp với trẻ mầm non nhằm hình thành khả năng nhận biết và hiểu biết cái
đẹp, hình thành tình cảm nhu cầu hứng thú tạo ra cái đẹp trong đời sống sinh hoạt
hàng ngày trong thiên nhiên và trong tác phấm nghệ thuật.
8.2. Các phương pháp giáo dục thẩm mỹ
* Tổ chức quan sát
Tổ chức quan sát giúp trẻ nhận ra cái đẹp của cuộc sống, của thiên nhiên.
Cô giáo hướng dẫn trẻ quan sát vườn hoa, cảnh hoàng hôn đầy màu sắc, khung
cảnh một ngày lễ, sự cảm thụ của trẻ có sự hướng dẫn và kết hợp của ngôn ngữ nghệ
thuật làm tăng cường cảm thụ thẩm mỹ và làm cho trẻ nhận ra cái đẹp và yêu thích cái
đẹp. Phải tổ chức cho trẻ quan sát một số lần cùng một hiện tượng từ đó trẻ mới nhận
thấy vè đẹp sâu sắc. Nếu chỉ một lần thì trẻ chưa cảm thụ được hết, nhận thức vẫn còn
mờ nhạt, trẻ dễ quên.
Cô giáo phải tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc trực tiếp với các sự vật hiện tượng
của thế giới xung quanh (cùa tự nhiên, xã hội ) hướng trẻ chú ý đến nó, nhận xét, cảm
thụ nó để từ đó nhận ra được vẻ đẹp trong thực tiễn.
Kinh nghiệm vốn sống của trẻ còn nghèo nên muốn trẻ nhận ra vẻ đẹp của tự
nhiên để rung cảm, cô cần hướng dẫn trẻ quan sát. Cô cần hướng dẫn trẻ cách quan sát
chính trong cuộc sống, trong lúc trẻ đi dạo, tham quan. Cô chỉ cho trẻ thấy cái đẹp và
dạy cho trẻ biết bảo vệ cái đẹp và tự mình cũng có thể làm ra nó, sáng tạo ra nó. Ví
dụ: Khi đưa trẻ đi tham quan về cô cùng trẻ làm ra những lá cây, bông hoa con bướm
đầy màu sắc, hoặc cùng nhau vẽ lại cảnh hồ nước, có những con thiên nga đang bơi.
Chính trong những lúc đó trẻ cảm thấy vui thú và cảm nhận được cái đẹp trong thiên
nhiên, trong đời sống. Và cũng từ đấy trong trẻ hình thành những thái độ đúng đắn với
cuộc sống sau này.
* Giải thích
Những cảm xúc thẩm mỹ của trẻ sẽ sâu sắc, có ý thức và giữ được lâu hơn nếu
như trẻ hiểu rõ nội dung tác phẩm (một bài hát, một câu chuyện, một bức tranh).
Do đó cô giáo cần phải giải thích nội dung tác phẩm đang được tiếp thu, làm
chính xác các biểu tượng của rrẻ. Việc trình bày một cách nghệ thuật những tác phấm
âm nhạc, những ca khúc, đọc các tác phẩm văn học tác động trực tiếp đến trẻ, khêu
gợi tình cảm và cảm xúc thẩm mỹ, giúp các em hiểu sâu sắc hơn nội dung và hình
thức tác phẩm.
Cô giải thích phái ngắn gọn với ngôn từ dễ hiểu, chính xác, việc giải thích
thường đi đôi với trò chuyện. Thòng qua trò chuyện với trẻ, cô giáo hướng trẻ vào
những vấn đề cốt lõì nhất của đối tượng thẩm mỹ mà trẻ đang tri giác.
* Chỉ dẫn, làm mẫu
13
Trong một số hoạt động nghệ thuật như vẽ, nặn, xây dựng, đóng kịch, múa hát
cô giáo thường dùng phương pháp chỉ dẫn làm mẫu để giúp trẻ có được những kỹ
năng cơ bản (cách cầm bút, pha mầu, cách chọn và tô màu, các thao tác nặn, xé dán,
múa hát...). Vốn sống của trẻ còn nghèo, nhưng khả năng bắt chước của trẻ rất tốt.
Chính vì điều này cô cần chỉ đẫn và làm mẫu cho trẻ trong một số các hoạt động nghệ
thuật (vẽ, nặn, đọc thơ, kể chuyện, múa hát).
Cô làm mẫu phải rõ ràng, nói ngắn gọn dễ hiểu, các thao tác cần dứt khoát, mẫu
phải đẹp.
Khi hướng dẫn, cô phải hướng dẫn trẻ tỷ mỷ, chu đáo, tránh qua loa đại khái.
Chỉ dẫn từ đầu đến cuối, từng bước một, không gây áp lực làm trẻ hoàng loạn, ức chế.
* Luyện tập
Hoạt động thực tiễn có ý nghĩa lớn đến giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo.
Phương pháp này hướng dẫn trẻ có hành vi thẩm mỹ và hành động tô điểm thêm vẻ
đẹp cho thế giới xung quanh, làm cho mọi người hài lòng. Trong giáo dục thẩm mỹ
cũng rất cần dùng phương pháp luyện tập này (còn gọi là hoạt động thực tiễn). Vì vậy
cô giáo cần:
- Giúp trẻ luyện tập hành động thông qua các bài tập khác nhau.
- Luyện tập cho trẻ cần phải kiên trì, phải lặp đi lặp lại nhiều lần.
- Nhưng khác với việc luyện tập những thói quen trong sinh hoạt, việc luyện tập
những hoạt động thẩm mỹ không theo một trình tự chặt chẽ. Ví dụ trẻ có thể dùng sỏi
để xếp thành hình con cá, trẻ có thể dùng đất sét để nặn thành quả cam.
Cô giáo cần giáo dục và phát triển năng lực và hành động cho trẻ trong những
hoàn cảnh có thể vận dụng những kỹ nãng đã nắm được. Điều quan trọng nhất là trẻ
làm được cái gì, nghĩ ra cái gì - dù ở mức độ sơ đẳng. Có thể 2 trẻ đều nặn con cá
nhưng hình cá thì hoàn toàn khác nhau, có thể chỉ có những đặc điểm quan trọng
nhất: đầu, mình, đuôi... cô giáo không nên phê phán con nào vì trí tưởng tượng, khiếu
thẩm mỹ mỗi trẻ một khác nhau. Cô giáo chỉ nên góp ý những khía cạnh chung nhất,
có đảm bảo tính đặc thù của cá không.
Trong giáo dục thẩm mỹ, hoạt động chủ yếu của trẻ là hoạt động nghệ thuật. Cô
giáo cần cho trẻ tiếp xúc với những hoạt động nghệ thuật khái quát nhất, điển hình
nhất. Như phương thức định hướng về âm thanh, mầu sắc, hình dạng, vận động, đấy
cũng chính là phương pháp luyện tập.
Luyện cho trẻ nghe âm thanh, biết các làn điệu, biết hát theo nhạc, trên cơ sở đó
giáo dục thẩm mỹ cho trẻ.
Trong quá trình luyện tập, cô giáo cần sử dụng thường xuyên phương pháp
khuyến khích và đánh giá công việc đã hoàn thành của trẻ. Khen ngợi những em tích
cực, cố gắng kiên trì theo đuổi các hoạt động đến cùng. Cò giáo phải tìm ra những
thành công, kết quả dù là nhỏ nhất để biểu dương. Không được làm thui chột niềm hy
vọng hoạt động của trẻ.
9. Phân tích những điểm cần lưu ý khi chăm sóc, giáo dục trẻ dưới 3 tuổi.
9.1. Sự tăng trưởng và phát triển của trẻ diễn ra với một tốc độ nhanh chưa từng có
so với bất kỳ lứa tuổi nào tiếp theo
- Về thể chất: Tãng nhanh về cân nặng chiều cao, phát triển vận động. Ví dụ:
Trẻ 6 tháng nặng 6 - 7 kg, chiều cao: 63cm - 68cm. 12 tháng tuổi: 70,7cm - 76,l cm.
- Vận động: 3 tháng biết lẫy, 1 tuổi đi được một vài bước, 3 tuổi biết đi chạy
14