Nguyên nhân và các giải pháp chống tham nhũng ở việt nam hiện nay

  • 49 trang
  • file .doc
LỜI MỞ ĐẦU
Tham nhũng là một căn bệnh phổ biến ở nhiều nước trên thế giới.
Vào những năm 50 cảnh sát Cam-pu-chia đã nói không úp mở rằng: làm
ruộng ăn lúa, làm làng ăn hối lộ. Mới đây chủ tịch Đảng cầm quyền Um
nô, Thủ tướng Malaixia – Mahathir Mohamad đã khóc trước đại hội
đảng về nạn tham nhũng…Còn ở Việt Nam từ thời Hồng Đức và Gia
Long đã có các bộ luật để chống tham nhũng. Thời Minh Mạng có”
phép làm liêm”, thời Tự Đức có ” chính sách báo liêm” của Nguyễn
Trường Tộ. Ngày nay tham nhũng đã trở thành quốc nạn, là 1 trong 4
nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ. Có thể nói tham nhũng là căn
bệnh hiểm nghèo gắn liền với mọi Nhà nước, bởi lẽ chừng nào còn Nhà
nước thì còn quyền lực, mà còn quyền lực thì dễ xuất hiện những người
dùng sai quyền lực. Cuộc đấu tranh để loại bỏ những người sử dụng sai
quyền lực ra khỏi bộ máy nhà nước các cấp là cuộc đấu tranh lâu dài,
liên tục bền bỉ và kiên định của mọi nhà nước, chống mạnh thì thịnh,
chống yếu thì suy, ngoài ra không có con đường nào khác.
Ở nước ta từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, chuyển
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHCN là con đường
hoàn toàn mới mẻ. Những năm qua Đảng và Nhà nước đã ban hành
nhiều chủ trương, chính sách cởi mở, tạo điều kiện để các thành phần
kinh tế phát triển. Tuy nhiên hệ thống pháp luật vẫn thiếu đồng bộ, một
số văn bản pháp quy vừa mới ban hành đã sớm lạc hậu với thực tiễn, tạo
nhiều sơ hở, dễ bị lợi dụng. Mặt khác, bước vào cơ chế mới, tâm lý nôn
nóng làm giàu có mặt tích cực là động lực thúc đẩy xã hội phát triển,
nhưng cũng có mặt tiêu cực là làm cho một số người bị tha hoá, đánh
mất chính mình trong chủ nghĩa vị kỷ, hưởng lạc, trong khát vọng làm
giàu bằng mọi giá, bất chấp pháp luật, đạo lý. Bộ máy Nhà nước của
chúng ta trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau chưa đủ thời gian và kinh
nghiệm để cải cách kịp thời, do đó khi bước vào thực hiện đường lối đổi
mới của Đảng trên một số mặt đã bộc lộ không ít khuyết điểm, tình hình
đó cùng với hệ thống thủ tục hành chính rườm rà, bộ máy cồng kềnh,
1
tạo môi trường dung dưỡng cho tệ quan liêu tham nhũng. Hệ thống cơ
quan tư pháp, hành pháp, thanh tra, kiểm tra chất lượng và hiệu lực, hiệu
quả chưa cao. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tích cực và chủ động
chống tham nhũng có hiệu quả. Chính vì vậy em đã chọn đề tài:
“Nguyên nhân và các giải pháp chống tham nhũng ở Việt Nam hiện
nay”.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của PGS – TS Mai Văn
Bưu, Trung tâm thư viện Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã giúp em
hoàn thành đề tài này.
2
CHƯƠNG I
NGUYÊN NHÂN THAM NHŨNG VÀ
TÁC HẠI CỦA NÓ
I. KHÁI NIỆM VỀ THAM NHŨNG
1. Quan niệm về tham nhũng của một số quốc gia trên thế giới
+ Nước Đức: Tham nhũng là hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ,
đút lót, thường xảy ra đối với công chức có quyền hành (Từ điển bách
khoa của Đức).
+ Nước áo: Tham nhũng là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột.
+ Thụy Sỹ: Tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ
chức của tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy Nhà nước. Đó là hành vi
phạm pháp để phục vụ lợi ích cá nhân (Từ điển Bách Khoa của Thụy
Sỹ).
+ Nước Pháp: Tham nhũng bao gồm những hành vi lạm dụng
quyền hạn để thu vén lợi ích vật chất.
2. Khái niệm về tham nhũng của Việt Nam
Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Tham nhũng là lợi dụng quyền
hành để nhũng nhiễu dân và lấy của”.1
Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị thế xã hội
của viên chức Nhà nước để làm trái pháp luật hoặc lợi dụng các sơ hở
của pháp luật kiếm lợi cho bản thân, gây hại cho xã hội, cho công dân.
Pháp lệnh chống tham nhũng ngày 26-2-1998 cũng ghi rõ trong điều 1:
“Tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi
dụng chức vụ và quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp
luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản Nhà nước, tập thể và cá
nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Tham
nhũng là vật cản lớn nhất của tiến trình phát triển xã hội, là nguy cơ
trực tiếp liên quan đến sự sống còn của các Nhà nước”.2
1 Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 1998, tr 1523
2 Giáo trình chính sách kinh tế-xã hội, Nxb Khoa Học và Kỹ thuật, Hà Nội. 2000, tr 457
3
Mặc dù được thể hiện theo những cách khác nhau song tham
nhũng được hiểu khá thống nhất trong văn hoá pháp lý ở các nước trên
thế giới, đó là việc lợi dụng vị trí, quyền hạn thực hiện hành vi trái pháp
luật nhằm trục lợi cá nhân hay nói một cách khác tham nhũng là việc sử
dụng hoặc chiếm đoạt bất hợp pháp công quyền hay nguồn lực tập thể.
II. HÀNH VI VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN HÀNH VI
THAM NHŨNG
1. Khái niệm về hành vi tham nhũng
Hành vi tham nhũng là hành vi thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu
pháp lý của một cấu thành tội tham nhũng đã được pháp luật qui định,
đó là các hành vi có ý thức, có chủ định.
2. Đặc điểm của hành vi tham nhũng
Hành vi tham nhũng là hành vi của một cá nhân hoặc một nhóm
người trong đó có kẻ cầm đầu, nó thường tạo thành từ các nhóm người
có quan hệ thân quen, họ hàng và gần đây trên thế giới lại hình thành
các hành vi tham nhũng có tính tổ chức của nhiều người dựa trên lợi ích
ích kỷ của họ. Loại hành vi này đang có xu hướng tăng lên rất mạnh
mang lại hậu quả rất nghiêm trọng và có hai đặc trưng nổi bật: một là
xuất hiện dưới phương thức tổ chức có đặc trưng khác với hoạt động cá
nhân, loại này được gọi là tham nhũng siêu ngạch với những hình thức
chủ yếu như biển lậu thuế có tổ chức, buôn lậu có tổ chức, làm giả có tổ
chức, vơ vét tổ chức, xâm chiếm có tổ chức biểu hiện chủ yếu là xâm
chiếm vốn của Nhà nước, hai là được sự hoàn thiện với sự tham gia của
quyền lực của một tổ chức nhất định để đạt được mục đích thu được lợi
ích hoặc lợi nhuận siêu ngạch .
Về hình thức tham nhũng chủ yếu vẫn thông qua các hành vi tham
ô, hối lộ, lộng quyền, sách nhiễu, dùng quyền lực để mưu tư lợi, dùng
tiền tài làm càn vi phạm pháp luật, dùng tiền tài thao túng quyền lực,
chiếm đoạt quyền lực….
Về thủ đoạn, các hành vi tham nhũng được hình thành bằng nhiều
cách: kết cấu bên trong, móc ngoặc ngoài nước cùng với sự hỗ trợ của
4
các phương tiện kỹ thuật phức tạp đã làm cho hoạt động tham nhũng
ngày một trở nên khó bị phát hiện .
Về lĩnh vực: Đối tượng mà các hoạt động tham nhũng săn đuổi
nói chung tập trung vào nơi có tiền bạc, nguồn lực, quyền hạn, hợp
đồng, tài chính, chức vụ, cơ hội, …cho nên các lĩnh vực có tỷ lệ thành
án cao trên thế giới ngày nay vẫn là các ngành ngân hàng, tài chính,
thương mại, xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia, giao thông vận tải, bưu
điện, xây dựng, các đề án nước ngoài, các nơi cấp phép hoạt động hoặc
thông qua thủ tục hành chính, các cửa khẩu …
3. Động cơ tham nhũng
Động cơ tham nhũng được hình thành từ các yếu tố cơ bản như
lòng tham, ham muốn vật chất, lòng ham địa vị và quyền lực cao, muốn
làm giàu một cách nhanh chóng, muốn có cuộc sống và lối sống hơn
người về lợi ích hoặc còn do nhiều yếu tố như thiếu bản lĩnh, thiếu ý chí,
dễ sa ngã dẫn đến sự không chấp nhận sự mất cân đối giữa nhu cầu tiêu
dùng với khả năng thu nhập và địa vị công việc của mình. Từ đây có thể
phác hoạ một cách khái quát về tham nhũng và các yếu tố cấu thành của
hành vi tham nhũng theo công thức sau: 3
C(Tham nhũng) = M (Quyền lực) + D (Tuỳ ý định đoạt) –
A(Trách nhiệm)
Hành vi tham nhũng = lợi ích của người có quyền + sự sơ hở, yếu
kém trong quản lý Nhà nước (Sự lỏng lẻo không nghiêm của pháp luật )
4. Mục đích tham nhũng
Mục đích của hành vi tham nhũng là cái đích mà người phạm tội
đặt ra trong óc mình và mong muốn đạt đến bằng hành vi phạm tội và
khi có điều kiện khách quan cho phép thực hiện thì nó dễ trở thành hiện
thực.
5. Một số phương thức thực hiện hành vi tham nhũng ở Việt Nam
Các hình thức cơ bản của tham nhũng ở nước ta hiện nay vẫn là
tham ô, hối lộ, dựa vào quyền lực để sách nhiễu, dùng quyền lực để mưu
3 Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1/2002 tr 59
5
lợi riêng, dùng tiền để làm chuyện phi pháp và các thủ đoạn mà kẻ phạm
tội triệt để lợi dụng là những sơ hở của pháp luật, chính sách, trong các
biện pháp tổ chức, quản lý và điều hành. Thủ đoạn phạm tội rất đa dạng
và phức tạp nhưng thường tập trung ở các dạng sau :
- Có địa phương, đơn vị ra những chỉ thị, nghị quyết không đúng
với chính sách, luật pháp của Nhà nước để thu lợi bất chính, phổ biến là
lấy đất công để chia nhau, lấy đất của nông dân để bóc lột nông dân như
một kiểu phát canh thu tô.
- Đề ra hàng loạt các khoản bắt nông dân đóng góp, bưng bít
thông tin, thiếu công khai minh bạch để xà xẻo, tư túi.
- Gây khó khăn, sách nhiễu để đòi hối lộ dưới nhiều hình thức kể
cả mua bằng, bán điểm.
- Vừa là bên A, vừa có quyền chỉ định bên B để hưởng hoa hồng,
tham nhũng lớn trong các chương trình, dự án kể cả các chương trình,
dự án nghiên cứu khoa học.
- Khi xây dựng thì định mức kinh tế - kĩ thuật nâng cao lên, khi
thực hiện thì lắt léo để giảm xuống, có lúc có công trình còn trên dưới
50% lấy chênh lệch, chia chác làm cho hàng loạt công trình mặc dù
được hội đồng nghiệm thu đánh giá tốt nhưng mới sử dụng đã hư hỏng.
- Lợi dụng buôn bán vận chuyển, đi nước ngoài câu kết với bọn
“buôn lậu thế kỷ”, có tính quốc tế (nhập tàu, xe cũ, máy móc lạc hậu…)
bất chấp hậu quả cho dân và nền kinh tế miễn là có chênh lệch, có hoa
hồng.
- Thông đồng với nhau để vay tiền ngân hàng, tiền nước ngoài
(như ODA…) đến hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng mà không tính đến
hiệu quả sử dụng.
- Sử dụng tiền quỹ công, tiền tín dụng ưu đãi người nghèo, gia
đình chính sách để cho vay lấy lãi, buôn bán lập quỹ đen, mua tặng
phẩm có giá trị lớn tặng nhau …
- Tạo thành tích giả để tham ô dưới hình thức tiền thưởng, quà
cáp, biếu xén nhau ngày lễ, ngày tết, việc hiếu hỷ đến hàng chục, hàng
trăm triệu đồng.
6
- Tranh mua hàng xuất khẩu chạy chọt quota để lấy ngoại tệ mua
hàng tiêu dùng xa xỉ về bán lãi chia nhau gây lãng phí và rối loạn thị
trường.
- Lập những “dự án lừa” trồng rừng trên giấy, thành lập các “công
ty ma” để hoàn thuế giá trị gia tăng để lấy tiền Nhà nước.
- Thậm chí còn có tình trạng ăn cả tiền cứu trợ người đói nghèo,
xã khó khăn, ăn chặn tiền ủng hộ đồng bào lũ lụt…
Ngoài các thủ đoạn trên, kẻ phạm tội tham nhũng còn lợi dụng triệt để
sự buông lỏng về thanh tra, kiểm tra, kiểm soát để phạm các tội tham ô,
hối lộ, sử dụng vốn vào hoạt động không đúng mục đích…
III. TÁC HẠI CỦA THAM NHŨNG.
1. Tham nhũng là kẻ thù của nhân dân.
Hồ Chủ Tịch đã từng nhận định: “Tham nhũng là kẻ thù nguy
hiểm của nhân dân, của bộ đội và của chính phủ vì nó không mang
gươm mang súng mà nó nằm trong các tổ chức của ta để làm hỏng ta.
Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó
phá hoại đạo đức cách mạng ta là cần- kiệm - liêm - chính”.
Tham nhũng còn gây ra tác hại làm giảm sút lòng tin của công
dân đối với bộ máy và công chức, viên chức Nhà nước, triệt tiêu động
lực cơ bản nhất của sự phát triển. Điều này đã được V.I. Lênin khuyến
cáo: “Nếu có cái gì đó có thể triệt tiêu được chủ nghĩa xã hội thì đó
chính là tham nhũng, quan liêu”. Đây cũng là bài học hàng đầu mà
Đảng ta rút ra tại đại hội lần thứ 6. Đó là bài học lấy dân làm gốc, dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đây cũng là bài học mà ông cha ta
đã truyền lại cho con cháu. Trần Quốc Tuấn đã từng nói: “Người dân
vốn không hài lòng, sợ ta thì khinh địch, sợ địch thì khinh ta, để dân
khinh là mất nước”.
2. Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển
xã hội
Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển xã
hội kéo lùi sự phát triển tuỳ theo quy mô và mức độ gây hại của nó.
Tham nhũng đã gây thiệt hại vật chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu
7
đô la của Nhà nước. Chi phí kinh tế của tham nhũng là rất khó xác định
nhưng một số công trình nghiên cứu đã đưa ra đó là:
+ Tăng từ 3-10% cho giá của một giao dịch để đẩy nhanh giao
dịch.
+Một mức tổn thất tới 50% nguồn thu từ thuế của chính phủ do
hối lộ và tham nhũng.
Một số minh chứng điển hình về tác hại của tham nhũng đối với
nền kinh tế: chỉ riêng tổng thống của nước Công gô (Zaire cũ) với số
tiền tham nhũng trong các năm cầm quyền lên tới 9-10 tỷ USD, bằng
70% số nợ nước ngoài của nước này.Tại Việt Nam với mức thu nhập
bình quân đầu người vào khoảng 400 USD/năm nhưng những vụ tham
nhũng gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế vẫn diễn ra hàng năm điểm
hình như vụ án Minh Phụng - EPCO đã chiếm đoạt hơn 3.547 tỷ đồng
và 25,4 triệu USD của Nhà nước. Ngoài ra tính đến khi vụ án bị khởi tố
ngân sách Nhà nước còn bị thiệt hại 115 tỷ đồng và 596.303 USD là phí
bảo lãnh và lãi phát sinh của các khoản thiệt hại nói trên. Bên cạnh đó
còn là những vụ gây thiệt hại nhiều đến tiền của Nhà nước và nhân dân
như vụ Tamexco đã thiệt hại 500 tỷ đồng, dệt Nam Định khoảng 900 tỷ
đồng… Đặc biệt hiện nay tình trạng tham nhũng ở Việt Nam gây thiệt
hại về kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trong đầu tư xây dựng cơ bản, hoàn
thuế giá trị gia tăng,lạm dụng quyền lực để bản thân và gia đình tham
nhũng …
3. Tham nhũng phá hoại đội ngũ cán bộ, tầm thường hoá hệ thống
pháp luật, là nguyên nhân liên quan trực tiếp đến sự sống còn của
Nhà nước
Tác hại của tham nhũng không chỉ dừng lại ở phương diện thiệt
hại vật chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu USD của Nhà nước mà
tham nhũng sẽ làm tầm thường hoá hệ thống pháp luật của Nhà nước, kỷ
cương xã hội không thể giữ vững, gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm uy
tín của Đảng và Nhà nước trước nhân dân và là cơ hội để cho kẻ thù
pháp hoại, xâm lược. Nếu các nhà hành pháp mà tự mình phá hoại luật
pháp thì làm sao có thể duy trì được phép nước. Những kẻ tham nhũng
8
chính là những tên đầu trò trong việc làm tê liệt hệ thống hành pháp là
cho Nhà nước trở thành đối lập và gánh nặng cho công dân.
Tham nhũng tất yếu dẫn đến phá hoại đội ngũ cán bộ Nhà nước
bởi vì những kẻ tham nhũng sẽ lừa dối và hư hoá cấp trên làm cho bộ
máy trở thành quan liêu, chúng sẽ tăng cường đưa thêm kẻ xấu vào
guồng máy và triệt hại đội ngũ viên chưa tốt. Những kẻ tham nhũng
chính là những tên phá hoại từ bên trong của hệ thống hành pháp quốc
gia.Tham nhũng sẽ làm cho quần chúng mất đi sự tin tuởng vào đường
lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước và đây cũng là nguyên nhân căn bản
nhất dẫn đến thất bại của Đảng và Nhà nước.
Chính với những tác hại to lớn kể trên cũng như nhiều tác hại do
bệnh tham nhũng tạo ra, nhiều nước đã coi tham nhũng là quốc nạn của
đất nước, là giặc nội xâm nguy hiểm.Trong các văn kiện đại hội VIII, IX
Đảng ta khẳng định: Nạn tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp
quan hệ đến sự sống còn của hệ thống chính trị. Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta đã có nhiều biện pháp khắc phục, song hiệu quả còn thấp.
Phải tiến hành đấu tranh kiên quyết, thường xuyên và có hiệu quả chống
tham nhũng trong bộ máy Nhà nước, trong tất cả các ngành, các cấp từ
Trung ương đến cơ sở. Kết hợp những biện pháp cấp bách với những
giải pháp có tầm chiến lược nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách, kiện
toàn tổ chức, chấn chỉnh công tác quản lý, khắc phục sơ hở, vừa xử lý
nghiêm kịp thời mọi vi phạm, tội phạm, huy động và phối hợp chặt chẽ
mọi lực lượng đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và loại trừ tham
nhũng. Thủ trưởng cơ quan đơn vị, cán bộ chủ chốt các cấp phải gương
mẫu đi đầu trong đấu tranh chống tham nhũng, trước hết là đối với bản
thân. Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền với đấu tranh chống
buôn lậu, lãng phí, quan liêu, tập trung vào các hành vi tham ô, chiếm
đoạt làm thất thoát tài sản Nhà nước, đòi hối lộ, đưa và nhận hối lộ.
Tham nhũng đã có từ rất lâu trong lịch sử loài người, có thể từ
thời kỳ xuất hiện những hình thức ban đầu của Nhà nước. Do tác hại của
tham nhũng là vô cùng lớn nên việc phòng chống tham nhũng luôn được
coi là nhiệm vụ bức xúc hàng đầu của các quốc gia. Tuy nhiên gần đây
một quan điểm trái ngược đã xuất hiện cho rằng tham nhũng không thể
9
không nhất quán với phát triển, và đôi khi nó thậm trí còn thúc đẩy phát
triển. Những người nêu ra quan điểm hiện đại này đã phủ một đám mây
mơ hồ lên vấn đề tham nhũng. Chẳng hạn họ cho rằng định nghĩa về
tham nhũng rất khác nhau giữa các nền văn hoá, hàm ý rằng những gì bị
coi là tham nhũng ở phương Tây sẽ được lý giải một cách khác trong
khuôn khổ những tập quán của các nền kinh tế mới nổi. Những người
theo chủ nghĩa xét lại cũng nều đặc trưng về những hiệu ứng của tham
nhũng đối với tăng trưởng kinh tế, đây là những lý luận mơ hồ. Dựa trên
thực tế là, cho đến gần đây một số “con hổ” châu Á vẫn trải qua tăng
trưởng kinh tế phi thường lẫn tham nhũng ở mức độ cao. Cuối cùng
người ta cho rằng hiệu ứng của những cải cách thị trường đến tình trạng
tham nhũng là không rõ ràng.
Chủ đề trọng tâm của luận điểm “dầu bôi trơn bánh xe” là hối lộ
có thể là một cách làm có hiệu quả để vượt qua những qui định phiền hà
và những hệ thống pháp luật vô tích sự. Cách lập luận này không thể
khởi nguồn cho những mô hình mang tính học thuật phức tạp, mà còn
hợp pháp hoá cách ứng xử của các công ty tư nhân sẵn sàng hối lộ cho
được việc. Khi xem xét sâu hơn lập luận này có rất nhiều lỗ hổng. Nó lờ
đi quyền tự do làm theo ý mình vốn rất lớn mà nhiều chính trị gia và
quan chức, nhất là ở các xã hội tham nhũng, có được trong việc tạo
dựng, gia tăng và giải thích các quy định phản tác dụng. Do đó thay vì
bôi trơn những bánh xe kêu cót két của một nền hành chính vững chắc,
tham nhũng lại trở thành thứ tiếp sức cho những quy định quá đáng và
tuỳ tiện. Đây là một cơ chế mà nhờ đó tham nhũng tự nuôi sống chính
bản thân nó.
Một biến thái kinh tế phức tạp của lập luận “dầu bôi trơn là tích
cực” là quan điểm cho rằng hối lộ cho phép cung cầu hoạt động. Quan
điểm này kiên định rằng trong cuộc đặt giá cạnh tranh để có được một
hợp đồng mua hàng cuả chính phủ, người hối lộ nhiều nhất sẽ giành
phần thắng và công ty có chi phí thấp nhất sẽ có khả năng chịu đựng số
tiền hối lộ lớn nhất. Điều đó chỉ hay về lý thuyết nhưng lại không đúng.
Thứ nhất, bằng cách chỉ tập trung vào tệ hối lộ lập luận này không
tính đến tham nhũng là ăn cắp các nguồn lực công cộng, làm suy yếu
10
tính ổn định kinh tế vĩ mô. Không những thế những người nhận hối lộ
có xu thế chuyển những đồng tiền tham nhũng được vào các tài khoản ở
nước ngoài. Ví dụ theo cách này Nigiênia đã tổn thất hàng tỷ tiền ngân
sách trong những thập kỷ vừa qua.
Thứ hai, việc giả định năng lực đấu thầu cao nhất bắt nguồn từ
khía cạnh hiệu quả - chi phí là không đúng, thay vào đó nó thường gắn
với chất lượng dưới mức tiêu chuẩn.
Thứ ba, các chính trị gia hiếm khi chịu làm đối tượng của một
khoản chi trả bất hợp pháp trong cuộc đấu thầu cạnh tranh, trái lại họ đòi
tiền hối lộ một cách kín đáo từ những đối tượng mà họ tin là sẽ được giữ
bí mật.
Thứ tư, việc nhìn nhận hối lộ như một cơ chế làm cân bằng cung
cầu không tính đến thực tế là nhiều hàng hoá công cộng không nên được
phân phối cho những người đặt giá cao nhất,thay vào đó mục tiêu của
các chương trình xoá đói giảm nghèo là phân bổ cac nguồn lực theo sự
cần thiết của những người nhận.
Cuối cùng quan điểm cung và cầu về tham nhũng cho rằng những
kẻ hối lộ nhận được những hàng hoá mà họ đã phải trả tiền cho chúng,
điều này không phải lúc nào cũng đúng vì không thể cưỡng chế thi hành
các giao dịch tham nhũng bằng luật pháp. Một trường phái “ biện hộ cho
tham nhũng” lý luận rằng hối lộ có thể làm tăng hiệu quả bằng cách
giảm đáng kể thời gian cần thiết cho các thủ tục xin phép và công việc
giấy tờ. Vấn đề đối với lý lẽ “đồng tiền đi trước” này nằm ở giả định
rằng cả hai phía đều thực sự tham gia vào vụ việc và không đòi hỏi thêm
tiền hối lộ. Ở Ấn Độ một công chức cấp cao được hối lộ không thể giải
quyết các thủ tục xin phép nhanh hơn được một chút nào vì có nhiều
người trong giới quan liêu cùng tham gia vào quá trình đó, nhưng ông ta
sẵn sàng đưa ra giải pháp làm chậm trễ quá trình cấp giấy phép đối với
các công ty đối thủ. Ngay cả trong những xã hội mà vô vàn các qui định
phản tác dụng đã được tạo ra nhằm moi của hối lộ vẫn phải có một hạt
nhân của các luật lệ và các qui định phục vụ những mục tiêu xã hội hữu
ích. Những bộ luật đơn giản và minh bạch về xây dựng, những qui định
hợp lý về môi trường, những qui định rõ ràng nhằm đảm bảo sự lành
11
mạnh của hệ thống ngân hàng và những qui định nghiêm ngặt về mua
bán hạt nhân, ma tuý….là cần thiết trong bất cứ một xã hội nào. Trong
bối cảnh này lý lẽ tham nhũng như chất dầu bôi trơn là đặc biệt nguy
hiểm vì tiền hối lộ sẽ phục vụ cho việc giày xéo lên những qui định như
vậy và làm tổn hại các mục tiêu xã hội .
Một yếu tố khác góp phần vào nạn hối lộ là quyền tự do định đoạt
của các chính trị gia trong việc hạn chế sự tiếp cận các đối thủ cạnh
tranh tiềm năng vào thị trường dành cho những kẻ hối lộ. Khối lượng “
dầu bôi trơn” đã gia cố những cấu trúc độc quyền khổng lồ. Thông lệ
tham nhũng cố hữu của những hệ thống tài chính được giám sát một
cách yếu kém và việc có tay trong đã góp phần những cuộc khủng hoảng
kinh tế vĩ mô ở Anbani, Bungari và mới đây là ở các nước Đông Á.
Hối lộ, tìm kiếm tiền tô cũng đòi hỏi một chi phí kinh tế lớn. Tài
năng được sử dụng không đúng chỗ vì những việc làm có tiềm năng thu
được những khoản đút lót sinh lợi thu hút những người mà lẽ ra đã chấp
nhận những phần thưởng tài chính khiêm tốn hơn do những nghề nghiệp
thực sự có ích mang lại. Các quan chức tham nhũng đưa ra những quyết
định tồi tệ về mặt công nghệ, việc ủng hộ những dự án không đạt tiêu
chuẩn, phức tạp, đòi hỏi vốn lớn song dễ hớt được những món tiền lớn
hơn. Do đó một hợp đồng lớn về quốc phòng hay cơ sở hạ tầng có thể
được ủng hộ hơn việc xây dựng hàng trăm trường tiểu học và trạm y tế.
Tai hại hơn các quan chức cho phát triển nhiều dự án “voi trắng” (cồng
kềnh, chi phí cao) không có ích gì mà chỉ làm giầu cho một số quan
chức và một số nhà cung cấp. Tình trạng không hoạt động của bốn nhà
đối tác mới đây ở Lagos, Nigieria là một ví dụ. Không những thế các
nhà thầu và các quan chức dính líu vào các hoạt động tham nhũng gây ra
những chi phí khổng lồ về thời gian và năng suất bỏ ra. Việc thương
lượng những vụ làm ăn và những khoản thanh toán bất hợp pháp, đảm
bảo bí mật của chúng và đề phòng những rủi ro luôn hiện hữu là sẽ
không nhận được những chữ ký và giấy phép đã được hứa hẹn đều là
những công việc mất thời gian, cả sự cần thiết phải đàm phán lại hay hối
lộ thêm cho một quan chức khác nữa như vẫn từng xảy ra, cũng tốn thời
gian không kém. Trên thực tế bằng chứng từ nhiều quốc gia cho thấy
12
mối quan hệ cùng chiều giữa mức độ hối lộ và lượng thời gian mà một
doanh nghiệp phải dành cho các quan chức Nhà nước. Một cuộc điều tra
năm 1993 đối với hơn 1.500 doanh nghiệp ở 49 quốc gia cho thấy:
chẳng hạn như ở Ucraina các ông chủ công ty mất nhiều tiền hối lộ phải
dành thời gian cho các quan chức và chính trị gia nhiều hơn gần một
phần ba so với những người hối lộ ít. Những công ty hối lộ nhiều cũng
phải mất 75 tuần công lao động mỗi năm trong thời gian quản lý cho
việc thương lượng với các quan chức so với con số trung bình hàng năm
là 22 tuần công lao động của các doanh nghiệp hối lộ ít. Thêm vào đó
các số liệu thu được từ hơn 3.600 doanh nghiệp ở 69 nước chứng tỏ rằng
ở những nước có tình trạng tham nhũng cao hơn các doanh nghiệp
thường dành một phần lớn hơn trong thời gian quản lý cho các quan
chức. Ngoài ra cuộc điều tra cũng cung cấp bằng chứng cho thấy ở
những nơi mà tệ hối lộ phổ biến hơn thì chi phí vốn và chi phí đầu tư
của các doanh nghiệp có xu hướng cao hơn …
Như vậy tác hại của tham nhũng là vô cùng lớn và đặc biệt nguy
hiểm đối với tất cả các quốc gia. Tham nhũng đã trở thành “quốc tế nạn”
là một trong những vấn đề toàn cầu mà tất cả các quốc gia đều có trách
nhiệm cùng tham gia giải quyết .
IV. NGUYÊN NHÂN CỦA TỆ THAM NHŨNG.
Những năm qua cuộc đấu tranh tham nhũng của Đảng và Nhân
dân ta diễn ra rất quyết liệt và đã thu được kết quả bước đầu song đến
nay có thể nói nạn tham nhũng vẫn chưa được đẩy lùi một cách cơ bản.
Tình hình vẫn diễn ra phức tạp, có nơi có chiều hướng gia tăng với
những thủ đoạn hết sức tinh vi, có trường hợp câu kết, móc nối ngang
dọc giữa các phần tử thoái hoá biến chất trong các cơ quan Nhà nước và
ngoài xã hội, rất khó phát hiện làm cho cuộc đấu tranh chống tham
nhũng hết sức khó khăn. Vậy do những nguyên nhân chủ yếu nào ?
1. Nguyên nhân gây ra tham nhũng có nhiều, nhưng nguyên nhân
đầu tiên có tính chất sâu xa, bản chất là do chế độ người bóc lột
người sinh ra.
13
Hồ Chủ Tịch đã nói: “Tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu
xa của xã hội cũ. Nó do lòng tư lợi ích kỷ, hại nhân dân mà ra, nó do
chế độ người bóc lột người mà ra.”4
Một đặc điểm nổi bật của sự vận động xã hội, khác với mọi sự
vận động vật chất khác trong tự nhiên ở chỗ con người hành động đều
tính đến lợi ích hoặc mục đích tư lợi ích kỷ nào đó. Bởi vậy chế độ tư
hữu chính là cơ sở tư tưởng của các hành vi tham nhũng, không có tư
tưởng tư lợi ích kỷ sẽ không có hành vi tham nhũng thiệt người lợi
mình.
2. Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách ở nước ta còn nhiều kẽ hở
2.1. Hệ thống pháp luật
2.1.1. Trên phương diện xây dựng pháp luật
Trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, pháp luật được coi là
phương tiện cứng rắn nhất và không thể thiếu được. Lịch sử đấu tranh
chống tham nhũng trên phạm vi toàn thế giới cho thấy, nếu thiếu
phương tiện pháp luật thì cuộc đấu tranh này chỉ là cuộc chiến nửa vời
dọa tham nhũng chứ không diệt được tham nhũng. Vai trò của pháp luật
trong đấu tranh chống tham nhũng được thể hiện ở nhiều nội dung khác
nhau, từ việc xác định thế nào là tham nhũng, các loại hành vi tham
nhũng, các biện pháp phòng ngừa, các loại chế tài cho tới hình thức và
biện pháp xử lý tham nhũng. Ở một cách phân chia tương đối, pháp luật
liên quan đến tham nhũng được sử dụng trên hai phương diện: Phòng
ngừa tham nhũng và xử lý tham nhũng.
2.1.1.1. Pháp luật về phòng ngừa tham nhũng được thể hiện ở rất
nhiều ngành luật, nhiều văn bản khác nhau: từ các văn bản về tổ chức bộ
máy Nhà nước, văn bản về các lĩnh vực kinh tế xã hội đến pháp luật đấu
tranh trực diện với tham nhũng. Nó có thể là ngành luật hiến pháp, luật
đất đai, luật tài chính - ngân hàng, luật hành chính, luật dân sự, luật kinh
tế…Một đòi hỏi đối với các văn bản pháp luật này là phải đồng bộ,
thống nhất, phải tạo được khuân mẫu pháp lý có khả năng loại trừ sự
nảy sinh của các hành vi tham nhũng. Tuy nhiên đánh giá một cách toàn
diện hệ thống pháp luật này, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự bất cập và
4 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, trang 494
14
còn nhiều kẽ hở, là mảnh đất sinh sôi, phát triển của tham nhũng, đặc
biệt là các quy định trong lĩnh vực quản lý tài chính, xét duyệt các dự án
đầu tư, đấu thầu, duyệt chi, cấp phát ngân sách, cho vay, pháp luật về
xây dựng cơ bản và quản lý tài chính trong lĩnh vực xây dựng cơ bản,
xuất nhập khẩu, quản lý đất đai, giải phóng mặt bằng…Những biểu hiện
cụ thể của sự bất cập đó là sự thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, còn nhiều
kẽ hở, chưa thực sự phục vụ nhân dân, thiếu văn bản hướng dẫn kịp thời
dẫn đến cách hiểu và giải thích khác nhau…Những văn bản quy định về
các thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp dễ dẫn đến tình trạng quan
liêu, gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân để tham nhũng.
2.1.1.2. Pháp luật về xử lý tham nhũng cũng còn những bất cập
trước tình hình tham nhũng ngày càng diễn biến phức tạp hiện nay. Bộ
luật hình sự năm 1999 quy định 7 tội danh tham nhũng song sau gần 3
năm thi hành, cho đến nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể những quy
định này. Theo Pháp lệnh chống tham nhũng và tinh thần của Bộ luật
hình sự năm 1999 thì hành vi tham nhũng có thể bị xử lý về hình sự
hoặc hành chính, tuỳ tính chất, mức độ vi phạm. Song trên thực tế chúng
ta chưa ban hành được một Nghị định về xử lý hành chính đối với các
hành vi tham nhũng ( khi chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình
sự ), do vậy trên thực tế đối với các hành vi vi phạm ở mức độ này đã có
tình trạng xử lý tuỳ tiện, nhiều nơi không xử lý. Các chế tài đối với
người có hành vi tham nhũng được quy định trong luật là rất cần thiết
song chế tài áp dụng đối với người có trách nhiệm, nghĩa vụ trong đấu
tranh phòng chống tham nhũng ( nếu không thực hiện đầy đủ, đúng đắn
trách nhiệm, nghĩa vụ luật định ) thì lại chưa được đề cập ( trừ những
người có hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp ) nên chưa có sự phối
hợp đồng bộ trên thực tế.
2.1.1.3. Trong việc xây dựng hệ thống pháp luật liên quan đến
phòng chống tham nhũng, Nhà nước ta mới chỉ chú trọng đến pháp luật
về xử lý tham nhũng, chưa chú ý đúng mức đến pháp luật về phòng
ngừa tham nhũng. Sắp tới chúng ta phải tập trung sức hoàn thiện hệ
thống pháp luật về phòng ngừa tham nhũng, làm cho cơ hội phát sinh
tham nhũng bị hạn chế đi dẫn đến bị loại trừ, làm cho tham nhũng giảm
15
thiểu trong cuộc sống. Pháp lệnh chống tham nhũng ban hành năm 1998
mặc dù đã sửa đổi, bổ sung nhưng đến nay đã tỏ ra lạc hậu, nhiều quy
định không thực hiện được trên thực tế, cần nâng cấp văn bản này thành
Luật chống tham nhũng với những quy định cứng rắn và cụ thể hơn, phù
hợp với yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong tình hình
mới.
2.1.2. Hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật, hoạt động tuyên truyền,
giáo dục pháp luật đặc biệt là pháp luật liên quan đến phòng chống
tham nhũng chưa đươc các cơ quan, các cấp, các ngành chú ý đúng
mức.
Nhiều cán bộ, công chức không nắm được những quy định cơ bản
trong pháp Lệnh chống tham nhũng và những quy định của Bộ luật hình
sự về tội tham nhũng. Ở nhiều cơ quan, lãnh đạo không muốn tổ chức
triển khai thực hiện pháp luật về chống tham nhũng trong đơn vị mình
bởi vì nó động chạm đến chính bản thân người lãnh đạo đó. Từ thực
trạng đó mà trên thực tế nhiều người có hành vi tham nhũng song không
ý thức được đầy đủ hành vi của mình. Một số người khác cũng do không
hiểu biết pháp luật mà chưa thấy được trách nhiệm của mình trong việc
phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng.
2.1.3. Trong hoạt động áp dụng pháp luật về phòng, chống tham nhũng,
nhiều vấn đề bức xúc đã nảy sinh trong lĩnh vực này và đây là một trong
những nguyên nhân của tình trạng tham nhũng ngày càng phức tạp. Tình
trạng bao che xử lý nội bộ còn phổ biến. Không ít vụ án tham nhũng
đang bị điều tra bỗng nhiên bị đình chỉ. Nhiều vụ án đưa ra xét xử song
hình phạt còn nhẹ, chưa đủ tính răn đe, phòng ngừa. Đặc biệt trong thời
gian qua đã xuất hiện không ít trường hợp chính những cán bộ được
giao nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh xử lý tội phạm có hành vi tham nhũng
lại là người có hành vi tham nhũng. Ở một số địa phương đã nảy sinh
tình trạng một số người có chức vụ, quyền hạn can thiệp vào hoạt động
đấu tranh chống tham nhũng của cơ quan bảo vệ pháp luật. Rõ ràng, sự
thiếu nghiêm minh công bằng trong việc xử lý người có hành vi tham
nhũng đã trở thành một trong những nguyên nhân làm cho tình trạng
tham nhũng chưa có chiều hướng thuyên giảm
16
2.2. Cơ chế chính sách
Nhiều chế độ chính sách còn mang tính ban phát, nên chưa loại
trừ được cơ chế xin-cho, tạo ra một tầng lớp độc quyền, đặc lợi và
những tiêu cực khó kiểm soát. Một chế độ đãi ngộ cán bộ, công chức
còn mang tính bao cấp như đất đai, nhà ở, phương tiện…dẫn tới việc
vận dụng tuỳ tiện. Tiền lương chưa đảm bảo cuộc sống nên việc tìm
thêm nguồn thu nhập khác trở thành phổ biến. Chính hệ thống pháp luật
không chuẩn xác, do xử phạt tội tham nhũng quá nhẹ
Công tác cải cách hành chính đạt hiệu quả chưa cao. Nạn sách
nhiễu tham nhũng đang tạo nên rào cản trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội.
3. Do những sai lầm khuyết điểm trong hoạt động của một số cơ
quan Đảng và Nhà nước.
Tệ tham nhũng nói chung và các tội phạm có tính chất tham
nhũng phát triển phổ biến và gây hậu quả hết sức nghiêm trọng như hiện
nay chủ yếu và trước hết do những sai lầm, khuyết điểm trong hoạt động
của nhiều cơ quan Đảng và Nhà nước và do sự thoái hoá biến chất của
một bộ phận cán bộ, Đảng viên.
Ý thức tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên còn yếu.
Biểu hiện cụ thể là chưa có cán bộ, đảng viên nào phạm pháp hoặc có
hành vi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí được phát hiện do kết quả của
phê bình và tự phê bình trong nội bộ. Một số vụ việc có liên quan đến
tham nhũng, tiêu cực, lãng phí bị quần chúng, công luận phát hiện, tố
giác, song các tổ chức đảng liên quan, tổ chức đảng cấp trên, các cơ
quan thanh tra, kiểm tra hoặc không biết hoặc biết nhưng không tích cực
ngăn chặn để những hành vi đó phát triển thành những vụ án nghiêm
trọng.
Các ý kiến đồng tình với việc xác định những nguyên nhân dẫn
đến việc “chưa tạo ra được những chuyển biến cơ bản trong công tác
xây dựng Đảng cũng như trong việc nâng cao chất lượng của các tổ
chức đảng và của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là chưa ngăn chặn và
đẩy lùi được tệ tham nhũng, lãng phí” 5 mà hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
5Kết luận 04-KL/TW của hội nghị lần thứ 4
Ban chấp hành Trung ương khoá IX, ngày 19-11-2001
17
hành Trung ương khoá IX đã chỉ ra. Cụ thể là, ở không ít nơi, sự chỉ đạo
của các cấp uỷ chưa kiên quyết, chưa tập trung đúng mức, một số cán bộ
lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa tự giác phê bình và tự phê bình, chưa
làm gương cho cán bộ, đảng viên trong đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí, việc xử lý một số vụ việc nổi cộm chưa nghiêm, vẫn còn có
biểu hiện” trên nhẹ, dưới nặng “, nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa thực
sự dựa vào dân, chưa coi trọng tiếp thu ý kiến phê bình của dân để xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, một số chủ trương, biện pháp, quy chế, chính
sách nhằm ngăn ngừa, đấu tranh chống tệ tham nhũng, lãng phí quy định
chưa hợp lý, chặt chẽ, có tính khả thi chưa cao, còn ít hiệu quả, thiếu sự
phân công phối hợp chỉ đạo việc chống tham nhũng một cách có hiệu
lực, hiệu quả.
Công tác kiểm tra Đảng, thanh tra, kiểm sát của các cơ quan chức
năng của Nhà nước chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục, còn
nhiều yếu kém. Ở nhiều nơi, công tác kiểm tra của Đảng chưa chú ý
kiểm tra, khắc phục tệ quan liêu.
4. Những yếu kém trong công tác tổ chức cán bộ do sự buông lỏng,
yếu kém trong quản lý Nhà nước.
Đây là nguyên nhân quan trọng làm phát sinh các tội có tính chất
tham nhũng. Đảng ta chỉ rõ: công tác cán bộ vừa bảo thủ, vừa trì trệ về
nhiều mặt, vi phạm các nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt
cán bộ. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhất là cán bộ kinh tế từ trước
đến nay chưa được coi trọng đúng mức, chưa đáp ứng được nhu cầu về
phát triển kinh tế thị trường. Việc bố trí cán bộ ở nhiều cấp, nhiều ngành
vẫn còn tư tưởng bè cánh, phe phái. Công tác đề bạt cán bộ còn bị chi
phối bởi cách nhìn chủ quan, phiến diện, chưa chính xác trong phương
pháp đánh giá, lựa chọn cán bộ. Công tác xử lý cán bộ thường có
khuynh hướng hữu khuynh. Tình trạng tuỳ tiện, muốn xử lý nội bộ, xử
lý nhẹ còn khá phổ biến. Đặc biệt Đảng ta khẳng định giáo dục là quốc
sách hàng đầu nhưng chính mục tiêu này bị buông lỏng. Tham nhũng
một phần được mang theo vào nhà trường, được “rèn” ngay khi thi
tuyển vào và “luyện” trong quá trình ở nhà trường, những nơi có môi
trường giáo dục thấp kém, những cán bộ đã lọt qua môi trường đào tạo
18
như thế không thể là những hạt giống tốt, càng không thể là hạt nhân
chống tham nhũng. Sự sai lầm trong bố trí, sử dụng cán bộ và buông
lỏng quản lý, thiếu kiểm tra, đánh giá cán bộ, thiếu kiểm soát cho nên
trước sự cám dỗ của những lợi ích vật chất một bộ phận cán bộ, Đảng
viên đã bị tha hoá.
5. Do bản chất của nền kinh tế thị trường
Ngày nay sự phát triển của kinh tế thị trường là không thể phủ
nhận được, tuy nhiên do bản chất của nền kinh tế thị trường, của việc tự
do hoá cạnh tranh cũng là một trong những nguyên nhân gây ra tệ tham
nhũng. Trong nền kinh tế thị trường vai trò của đồng tiền được đặt lên
rất cao. Có không ít tổ chức, cá nhân vì những mục tiêu riêng để tồn tại
trong sự canh tranh khốc liệt đã dùng mọi thủ đoạn trong đó thủ đoạn
hối lộ được sử dụng rất phổ biến.
6. Trình độ dân trí
Nhìn chung trình độ dân trí còn thấp nên nhân dân chưa có nhiều
khả năng tham gia quản lý Nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của
các cơ quan Nhà nước và của cán bộ, công chức. Mặc dù gần đây đã có
quy chế dân chủ, song nhìn chung việc thực hiện còn nhiều hạn chế
7. Cuộc đấu tranh chống tệ tham nhũng động chạm đến những cán
bộ có chức có quyền, có khi động chạm đến cả một tập thể ngành, cơ
quan đơn vị, động chạm đến lợi ích thiết thực, đến thể diện, uy tín của
cán bộ. Hơn nữa, tệ tham nhũng vẫn còn cơ sở kinh tế, xã hội để tồn tại.
Vì thế cuộc đấu tranh chống tệ tham nhũng là một quá trình lâu dài, rất
khó khăn phức tạp.
19
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
I. SƠ LƯỢC VỀ THỰC TRẠNG THAM NHŨNG TRÊN THẾ GIỚI
HIỆN NAY
20