Nghiên cứu những câu đối ở chùa giác lâm một trong những di tích lịch sử văn hóa
- 53 trang
- file .pdf
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
&
TRƯƠNG KIM RI
MSSV: 6086280
NGHIÊN CỨU NHỮNG CÂU ĐỐI Ở CHÙA
GIÁC LÂM MỘT TRONG NHỮNG DI
TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn: NGUYỄN VĂN TƯ
Cần Thơ, năm 2012
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích, yêu cầu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CHÙA GIÁC LÂM MỘT DI TÍCH
LỊCH SỬ - VĂN HÓA
1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành chùa Giác Lâm:
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển chùa Giác Lâm:
1.3. Đặc điểm di tích lịch sử - văn hóa chùa Giác Lâm:
1.3.1. Ý nghĩa tên chùa Giác Lâm:
1.3.2. Kiến trúc về chùa:
1.3.2.1. Kiến trúc bao quanh chùa:
1.3.2.2. Kiến trúc chùa chính:
1.3.3. Kiến trúc về tháp:
1.3.3.1. Tháp “Ngũ Gia tông phái”:
1.3.3.2. Tháp Tổ:
1.3.3.3. Đặc điểm các tháp ở chùa Giác Lâm:
1.3.4. Đặc điểm lịch sử văn hóa – kiến trúc chùa Giác Lâm thể hiện qua kiến
trúc:
1.3.5. Điêu khắc:
1.3.5.1. Số lượng:
1.3.5.2. Nghệ thuật điêu khắc những pho tượng thờ:
1.3.5.3. Nghệ thuật chạm lộng bao lam, chạm khắc phù điêu, hoành phi và
liễn đối:
1.3.6. Giá trị lịch sử - văn hóa của phong cách điêu khắc, kiến trúc, nghệ
thuật:
1.3.6.1. Giá trị lịch sử:
1.3.6.2. Giá trị văn hóa:
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ CÂU ĐỐI
2.1. Nguồn gốc về câu đối:
2.2. Câu đối là gì?
2.2.1. Định nghĩa về câu đối:
2.2.2. Đôi nét về câu đối:
2.3. Loại hình và bộ mặc chung của câu đối:
2.4. Đặc trưng của câu đối:
2.5. Niêm luật trong câu đối:
2.5.1. Đối trượng:
2.5.2. Đối trong thơ cận thể (luật thơ):
2.6. Ngôn ngữ trong câu đối:
2.6.1. Điển cố trong câu đối:
2.6.2. Chơi chữ trong câu đối: thú chơi trí tuệ của người xưa
2.6.3. Nội hàm văn hóa của câu đối:
2.7. Chủ đề câu đối:
2.7.1. Câu đối Tết:
2.7.2. Câu đối chúc mừng:
2.7.3. Câu đối thọ:
2.7.4. Câu đối lễ tang:
2.8. Tình hình sử dụng câu đối ngày nay:
2.9. Giá trị lịch sử - văn hóa của câu đối:
CHƯƠNG 3: KHẢO SÁT NHỮNG CÂU ĐỐI BẰNG
CHỮ HÁN Ở CHÙA GIÁC LÂM
3.1. Sơ lược câu đối ở chùa Giác Lâm:
3.1.1. Số lượng:
3.1.2. Nội dung :
3.1.3. Niên đại:
3.2. Khảo sát:
3.2.1. Ở cổng:
3.2.2. Chính điện:
3.2.3. Nhà Tổ:
3.2.4. Nhà trai:
3.2.5. Nhà giảng giáo lý:
3.3. Tính nghệ thuật của câu đối:
3.4. Giá trị lịch sử - văn hóa của các câu đối ở chùa Giác Lâm:
PHẦN KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
DANH MỤC ẢNH
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam đã có nhiều công trình lý luận và
nghiên cứu về chữ Hán. Tuy nhiên, hiện nay chữ Hán đã không còn phổ biến và
cũng ít người quan tâm đến, hiện tại ở một số ngôi chùa cổ vẫn còn lưu lại chữ
Hán mà không có nhiều người đọc được. Việc nghiên cứu, tìm hiểu những chữ
Hán đã làm tôi cảm thấy hứng thú, từ chữ Hán giúp tôi hiểu biết thêm về giá trị
văn hóa của ngôi chùa nói riêng và của văn hóa Việt Nam nói chung. Đồng thời
việc nghiên cứu còn giúp tôi nắm bắt một số tư duy để hiểu rõ về văn chương
nhằm phục vụ tốt cho việc học tập và nhằm giữ gìn, bảo tồn và phát triển nền
văn hóa của dân tộc. Đây chính là lý do tôi chọn đề tài “Nghiên cứu những câu
đối ở chùa Giác Lâm một trong những di tích lịch sử - văn hóa” ở Quận Tân
Bình – Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Lịch sử vấn đề:
Xu hướng trở về cội nguồn đang được đề cao. Đình, chùa là một phần hình
ảnh của làng quê Việt Nam. Nét văn hóa cội nguồn đang được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm đến. Nhiều bài viết và công trình nghiên cứu về ngôi chùa là
phong phú, đa dạng, đặc biệt đã để lại một khối lượng chữ Hán đồ sộ. Ở đây,
đề tài luận văn sẽ đi sâu hơn để tìm hiểu về nét văn hóa chữ Hán mà cụ thể là
những câu đối đã mang dấu ấn lịch sử lâu đời, đồng thời ngôi chùa cũng là di
tích lịch sử văn hóa.
a. Những tư liệu đề cập đến chùa Giác Lâm trước năm 1975:
Tư liệu sớm nhất được biết và đề cập đến chùa Giác Lâm là quyển Gia Định
thành thông chí của Trịnh Hoài Đức và Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử
quán triều Nguyễn biên soạn vào giữa thế kỷ XIX, trong Đại Nam nhất thống
chí có khoảng nửa trang đề cập đến vị trí của chùa Giác Lâm lúc bấy giờ thuộc
địa phận xã Phú Mỹ Thọ huyện Bình Dương và người Minh Hương là Lý Thụy
Long đứng ra quyên tiền xây dựng chùa, khi đó còn có tên là chùa Cẩm Sơn.
[Trang 1691; Đại Nam nhất thống chí]
Vào những năm cuối thế kỷ XIX, trong Ngũ gia Tông Phái ký toàn tập viết
về các tông phái Phật giáo ở Trung Quốc và khởi nguồn của Phật giáo Nam
Bộ, trong đó có một phần ghi chép về những sinh hoạt Phật giáo của một số
chùa ở Gia Định và chùa Giác Lâm. Hình thức sinh hoạt Phật giáo ở chùa Giác
Lâm vào thế kỷ XIX diễn ra rất sôi nổi và phong phú, diễn ra nhiều hình thức
như sinh hoạt “ứng phú”, tổ chức bên soạn và sao chép lại một số kinh luật,
mở “Phật học xá”, các trường hương, trường kỳ…
Vào những năm đầu thế kỷ XX, có học giả Vương Hồng Sển với công trình
Sài Gòn năm xưa, Huỳnh Minh với Gia Định xưa và nay, Vân Thanh với công
trình Lược khảo Phật giáo Việt Nam qua các thời đại và phát nguồn của các
giáo phái Phật giáo…
b. Những tư liệu đề cập đến chùa Giác Lâm sau năm 1975:
Sau 1975 việc tìm hiểu và nghiên cứu về các di sản văn hóa dân tộc đã được
các nhà nghiên cứu tìm hiểu và quan tâm đến, trong đó có đình, chùa, miếu…
Có nhiều bài viết của các tác giả trong nước đã đề cập về chùa Giác Lâm như:
Lược sử chùa Giác Lâm của Huệ Chí (1983), Chùa Giác Lâm của Nguyễn
Quảng Tuân (1987), Bộ tượng 18 vị La Hán chùa Giác Lâm, Chùa Giác Lâm
di tích lịch sử - văn hóa của Trần Hồng Liên (1991), Chí Thảo Tổ Đình Giác
Lâm (1991), Đặc điểm lịch sử và văn hóa của hệ thống kiến trúc chùa Giác
Lâm, luận văn cao học (1992), Pho tượng Quan Âm Chuẩn Đề chùa Giác Lâm
(1994), Chùa Giác Lâm, bối cảnh lịch sử hình thành và phát triển của Hồ Ngọc
Liên (1996), Chùa Giác Lâm di tích lịch sử - văn hóa của Trần Hồng Liên.
Như vậy, những ghi chép về chùa Giác Lâm đã được bắt đầu từ cuối thế kỷ
XIX. Đặc biệt, việc nghiên cứu không được đẩy mạnh từ những năm 90 của thế
kỷ XX trở lại đây. Các nghiên cứu đi trước đã có những thành công bước đầu
và đặt nền móng cho quá trình nghiên cứu về chùa Giác Lâm. Nhìn chung, số
bài viết và công trình nghiên cứu liên quan đến chùa Giác Lâm rất nhiều. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về văn hóa đặc
trưng của ngôi chùa. Thế nhưng, các vấn đề đặt ra điều mang tính chất gợi mở
và là những tư liệu khoa học quý giá giúp rất nhiều trong quá trình nghiên cứu.
Việc nghiên cứu những câu đối ở chùa Giác Lâm là sự kế thừa những tinh
hoa văn hóa và phát triển của những công trình nghiên cứu trước ở chùa. Điểm
phát triển của luận văn là những nét văn hóa đặc trưng qua kiến trúc, nghệ thuật
trang trí, điêu khắc mà đặc biệt là những câu đối của chùa Giác Lâm.
Luận văn đi sâu nghiên cứu và phân tích các yếu tố về những chữ Hán, đặc
biệt là những câu đối mà trước đây chưa ai đi sâu hoặc chưa ai đề cập tới nét
văn hóa đặc biệt ở ngôi chùa này.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu và phát triển để có được những hình thức về
văn hóa ngôi chùa. Đồng thời phát hiện quá trình chuyển biến văn hóa người
Hoa sang người Việt mà ở giai đoạn đầu là người Hoa (chủ yếu là người Minh
Hương) và người Việt. Từ đó xác định thêm sự gắn bó của người Việt - Hoa
trong lịch sử 300 năm ở Sài Gòn nói riêng và Nam Bộ nói chung.
3. Mục đích, yêu cầu:
Việc nghiên cứu trước hết phải vận dụng vốn chữ Hán đã tích lũy được để
xem xét, tìm hiểu những câu đối tại chùa, thỏa mãn nhu cầu đọc, phiên âm, dịnh
nghĩa, có nội dung và ý nghĩa như thế nào. Có như vậy thì mới hiểu và biết được
giá trị văn hóa của những câu đối và giá trị văn hóa của chùa Giác Lâm ở Thành
Phố Hồ Chí Minh, đồng thời giúp tôi hiểu rõ thêm về câu đối biết được những
phong tục tập quán để vận dụng câu đối không chỉ có trong văn chương, trong
sách vở mà còn phải đi xa ngoài thực tế và đồng thời bảo tồn, phát triển những
di sản văn hóa mà bao thế hệ đã gìn giữ cho đến ngày hôm nay.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Công trình nghiên cứu trước tiên đi nghiên cứu những câu đối ở chùa Giác
Lâm, hiểu được nội dung, ý nghĩa của câu đối, tiếp đó là tìm hiểu các yếu tố
văn hóa chữ Hán trong chùa và tập hợp lại để làm dữ liệu. Từ những dữ liệu ghi
chép đó ta sẽ đi sâu nghiên cứu ở từng nơi và phạm vi thời gian của công trình
nghiên cứu là những câu đối được khắc trên thân cột hiện đang tồn tại ở chùa
Giác Lâm. Những tư liệu được dẫn trong công trình nghiên cứu đó là những sưu
tầm mà tôi phải rất cố gắng mới có được những tư liệu quý báo như thế.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Từ việc nghiên cứu ở góc độ khoa học, vì thế tôi rất chú trọng việc quan sát
nghiên cứu một cách khoa học. Trước tiên tôi sử dụng phương pháp chọn điểm
chùa, trong khi đó tôi tìm hiểu một số vấn đề như yếu tố văn hóa và trong đó
câu đối là đặc trưng, tìm hiểu nơi nào có thể đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, tôi đã
chọn phương pháp tham gia với tư cách là một người quan sát ghi chép, chụp
ảnh và phương pháp phỏng vấn. Tôi đã sử dụng phương pháp ghi chép, phân
tích, so sánh, tổng hợp để có thể hoàn thành tốt trong công việc nghiên cứu cũng
như hoàn thành tốt bài luận văn.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
CHÙA GIÁC LÂM MỘT DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA
1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành chùa Giác Lâm:
Thế kỉ XVI (1558), Đoan quận công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận
Hóa. Từ đây nhiều đợt di dân đưa người Việt tiến dần về Phương Nam khai
hoang vùng đất mới. Trong số đó có những nhà sư người Việt và cả nhà sư
người Trung Hoa theo chân đoàn người “Bài thanh, phục Minh” mà đến Trung
bộ và Nam bộ. Từ những ngày đầu của cuộc di dân, Phật giáo đã lan tỏa xuống
các vùng Biên Hòa, Gia Định, Mỹ Tho…
Bấy giờ, vùng đất Đồng Nai - Gia Định (nay thuộc vùng đất Nam bộ) còn
hoang vu, kênh gạch chằng chịt, khí hậu nhiệt đới ẩm, đã gây không ít khó khăn
cho buổi đầu của cuộc di dân.
Do dân số nhập cư ngày càng đông, cùng với sự gia tăng tại chỗ làm cho
vùng đất Gia Định – Tân Bình vào cuối thế kỷ XVII trở thành một trung tâm trù
phú, với khoảng 200.000 dân. Năm 1758, Nguyễn Hữu Cảnh đã phân chia lấy
Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm
huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn.
Với sự nhập cư của người Việt, khu vực Gia Định – Tân Bình sớm trở thành
một trung tâm thương mại là đầu mối giao thông qua cửa sông Sài Gòn, kéo
theo sự tụ cư của nhiều dân tộc bản địa các nước vùng với dân bản địa Khmer.
Trong bối cảnh xã hội đó, phát triển nhiều mặt về kinh tế: diện tích khai
khẩn được mở rộng, sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển…
Cùng với những hình thức tính ngưỡng. Nhiều ngôi chùa của người Việt được
xây dựng, miếu thờ thần, hội quán của người Hoa cũng được mọc lên. Hai trong
số các thiền sư Trung Hoa theo đoàn di dân vào Phương Nam, được xem là sư
Tổ của Phật giáo Đàng Trong là Thiền sư Bổn Quả, thuộc đời thứ 32 và Thiền
Sư Nguyên Thiều thuộc đời thứ 33 của dòng Lâm Tế vốn phát sinh từ Trung
Quốc. Nhiều thế hệ đệ tử của hai Thiền sư này đã đặt dấu chân hoằng hóa của
mình dọc theo bờ sông Đồng Nai, như chùa Phổ Quang, Đại Giác, Bửu Phong…
và dần vào vùng đất Gia Định với các chùa Từ Ân, Khải Tường, Giác Lâm…
Song song với những quá trình nhập cư và cộng cư của các dân tộc người
Việt, Khmer, Hoa, Chăm… thì xu thế Việt hóa vẫn tiếp tục diễn ra. Nhiều người
Trung Hoa đã đến vùng đất Gia Định, chọn nơi đây làm quê hương của mình
cùng người Việt khắc phục những khó khăn của buổi đầu lao động sản xuất.
Hoạt động kinh tế phát triển cùng với nhu cầu tinh thần mang tính bức thiết của
lưu dân cần có để cúng bái, cầu an, cầu siêu… đã đưa đến sự ra đời của các ngôi
chùa do người Minh Hương quyên tiền xây dựng. Chùa Giác Lâm một trong
những ngôi chùa có tiếng của vùng đất Gia Định được hình thành trong bối cảnh
này.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển chùa Giác Lâm:
Mùa xuân năm Giáp Tý (1744), đời vua Thế Tôn thứ 7, người xã Minh
Hương là Lý Thụy Long quyên tiền của xây dựng nhà chùa trang nghiêm, cửa
thiền u tịch. Đó là cảnh quan thơ mộng và thanh tịnh, nơi đã được chọn để xây
dựng một ngôi chùa của người Minh Hương tại vùng đất Gia Định mang tên
Cẩm Sơn, còn gọi là Sơn Can hoặc Cẩm Đệm.
Ở buổi đầu thành lập chùa, Cẩm Đệm là một ngôi chùa nhỏ, nhưng không
lâu chùa đã thu hút được “Tao nhân mặc khách”, những người Minh Hương
trong vùng đến đàm đạo, ngắm trăng, ngâm vịnh hay đón thi nhân, du khách
mỗi lần đến Thanh minh, Trùng cửu rãnh rỏi thì mở tiệc để thưởng hoa, uống
chén mà ngâm vịnh, nhìn chợ búa rộn ràng.
Hiện nay, chùa Giác Lâm nằm theo hướng Bắc Nam, chính điện hướng
về phía Nam, cách trung tâm thành phố khoảng 6 cây số trên đường Lạc Long
Quân, số 118, phường 10, quận Tân Bình, Thành Phố Hồ Chí Minh.
Từ khi thành lập chùa (1744) đến 1772 chùa Cẩm Đệm mang chức năng của
một niệm Phật đường, là nơi vãng cảnh, lễ bái của khách thập phương chứ chưa
có Tăng sĩ trụ trì. Mãi đến 1774, Thiền Sư Viên Quang về trụ trì chùa Cẩm Đệm
và đổi tên thành chùa Giác Lâm. Với trình độ Phật giáo uyên thâm của mình,
Thiền sư Viên Quang đã tạo ra được sinh hoạt mới mẻ trong chùa.
Chùa Giác Lâm từ đấy đến nay đã trải qua gần 300 năm. Đó là một thời gian
khá dài, ngôi chùa được trùng tu và được 8 đời Thiền sư kế thế trụ trì.
Lần trùng tu lần thứ nhất vào năm 1798 do Thiền sư Viên Quang đứng ra
tiến hành cuộc đại trùng tu, kéo dài 6 năm kết thúc vào năm 1804 diện tích chùa
được mở rộng. Bộ tượng thờ không còn phù hợp với kiến trúc, nên một loạt bộ
tượng mới được tạo tác với kích thước lớn hơn, các cột quý được đưa về tạo cho
ngôi chùa vẻ uy nga tráng lệ, cột nào cũng được chạm khắc phù điêu và nổi bật
là các câu đối. Đặc biệt kỉ niệm lần trùng tu này là câu đối đặt tại chính điện:
“Đại hùng điện thượng diễn tam thừa, chúc Hoàng vương thánh thọ,
nguyện quốc thái dân an,
Vạn pháp đài trung tuyên tứ đế, báo phật tổ hồng ân kỳ phong điều vũ
thuận”.
Sau khi trùng tu xong, tổ Viên Quang tiếp tục giảng kinh luật trở lại, Chư
Tăng các tỉnh về học rất đông. Phái Thiền, chi phái Lâm Tế, dòng đạo Bổn
Nguyên được Thiên sư quy y, vẫn tiếp tục truyền thừa theo bài kệ:
“Đạo Bổn Nguyên thành Phật tổ tiên
Minh như hồng nhật lệ trung thiên
Linh nguyên quảng nhuận từ phong phổ
Chiếu thế chân đăng vạn cổ huyền”.
[Trang 15; Chùa Giác Lâm di tích lịch sử văn hóa]
Mùng 3 tháng chạp năm Đinh Hợi (1827) Hòa Thượng Viên Quang viên tịch
tại chùa Giác Lâm để nhớ công ơn của Hòa thượng, đệ tử đã khắc liễn ca ngợi:
“Sanh tiền giáo dưỡng đắc nhân, vô tử nhi hữu tử
Một hậu thinh danh tại thế, tuy vong dã bất vong”
(Lúc sống dạy bảo được người, không con như có con.
Khi chết tiếng để đời, tuy mất mà không mất).
Thiên sư Viên Quang đã có công đã có công đầu trong việc đặt nền móng
Phật giáo chính là Thiền sư Hải Tịnh. Thiền sư đã thay thế Tổ Viên Quang trụ
trì chùa Giác Lâm sau khi Tổ viên tịch. Năm 1844, Thiền sư đã đứng ra thành
lập trường hương đầu tiên tại chùa Giác Lâm. Đến 1849, lại khai mở trường kỳ.
Trong lần trùng tu chùa Giác Lâm tại bến Hố Đất (nay là đường Lạc Long
Quân thuộc quận Tân Bình, Thành Phố Hồ Chí Minh), chùa đã dựng lên một lều
nhỏ, ngôi lều ấy sau này là Quan Âm các. Đến năm 1850, Thiền sư Hải Tịnh đã
chính thức đổi thành chùa Giác Viên.
Từ ấy, hai chùa cùng phát triển. Mỗi lư hương, chân đèn ở hai chùa đều có
chạm nổi “Giác Viên” và “Giác Lâm” bằng Hán tự.
Thời kì Pháp đánh chiếm Gia Định, các chùa cổ như Từ Ân, Khải Tường,
Kiểng Phước, Cây Mai… đều nằm trong phòng tuyến của Pháp, trước đó bị
hư hoại. Riêng hai chùa Giác Viên và Giác Lâm do ở xa phòng tuyến nên còn
nguyên vẹn.
Thời trụ trì Thiền sư Hải Tịnh, hoạt động Phật pháp của hai chùa được đẩy
mạnh, ngoài vai trò là Phật học viên, đào tạo Chư Tăng về kinh điển giới luật ở
Giác Lâm và đào tạo ứng phú ở Giác Viên, hai chùa còn là nơi khai mở Trường
hương, Trường kỳ. Thông qua hoạt động của Thiền sư Hải Tịnh, Phật giáo Gia
Định đã có mối giao lưu và ảnh hưởng đến Phật giáo Trung Bộ, cả ở Miền Tây
Nam bộ.
Từ năm 1873 – 1903, là thời kì là thiền sư Hoằng Ân Minh Nghiêm làm
trụ trì, bên cạnh việc đào tạo về kinh điển và giới luật cho Tăng sĩ, còn là nơi
in ấn, sao chép kinh sách, cho khắc bản gỗ kinh, luật là liễn Nôm một số sách
Phật giáo, như tác phẩm bằng thơ lục bát dưới dạng chữ Nôm, tập Hứa sử vãn
truyện; chép tay bộ kinh pháp Hoa; tóm tắt lại bộ Luật Trường Hàng. Chùa Giác
Lâm cũng là nơi tàng bản kinh sách Phật giáo. Một số sách Phật giáo cũng được
các Hòa Thượng thuộc chùa “chứng minh” trước khi in ấn. Thời gian này, việc
truyền bá Phật pháp tại nhiều chùa ở Mỹ Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long, An Giang,
Hà Tiên cũng được Thiền Sư thực hiện.
Năm 1900, Thiền sư Hồng Hưng Thạnh Đạo, thuộc đời thứ 40, đã đứng ra
trùng tu lần thứ hai ngôi chùa Giác Lâm. Lần trùng tu này thay đổi một số nét
kiến trúc như: xây vòng rào, lót gạch ở chính điện, làm lại vách nhà Tổ, trang trí
nền vách chùa bằng sành sứ… Tất cả đều do óc thẫm mỹ của Thiền sư. Các bao
lam tại chính điện cũng được chạm khắc vào giai đoạn này, kiến trúc diện mạo
của ngôi chùa đã được định hình. Hiện trạng chùa hiện nay vẫn còn giữ những
đường nét của lần tái thiết vào đầu thế kỷ XX.
Thời gian Pháp chiếm đóng Gia Định và Nam Kỳ, dù rằng đã có một số
công trình kiến trúc Phật giáo đã bị phá hủy, nhưng đây lại là thời kỳ có nhiều
luồng văn hóa từ Phương Tây được du nhập, đã ảnh hưởng nhất định đến kiến
trúc và phong cách nghệ thuật của chùa Giác Lâm trong lần trùng tu lần thứ hai
này.
Giai đoạn những năm 1939 – 1945, cuộc trùng tu lần thứ 3 đã được tiến
hành. Chủ yếu là việc xây dựng vách chắn của chùa cho dày hơn, xây thêm
vòng rào thứ hai bên trong; chạm cẩn thêm các đĩa trên vách chùa; đặt lại vị trí
một số bàn thờ nhà Trai. Vị trí bàn thờ vong hiện nay trước 1940 là liêu phòng
của các Thầy và trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đây là nơi trú ẩn khá an
toàn cho các Thầy hoạt động cách mạng.
Năm 1946, theo di chúc lập sẵn của Hòa Thượng Hồng Hưng, Thiền sư Nhật
Dần Thiện Thuận được giữ chức trụ trì chùa Giác Lâm. Thời gian này một số
Tăng sĩ thuộc chùa đã lên đường kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế Quốc
Mỹ. Chùa có hầm bí mật đặt tại chùa Đức Lâm (Quận Tân Bình, Thành Phố Hồ
Chí Minh).
Năm 1953, Đại đức Narada từ Srilanka sang tặng cho Giáo hội Phật giáo
cổ truyền Việt Nam một cây Bồ Đề và viên ngọc xá lợi Phật, Văn phòng giáo
hội đặt tại chùa Giác Lâm. Cây Bồ Đề được ngài Narada đích thân đặt vào chậu
hoa, khi cây lớn đặt ở trước sân chùa. Xá lợi đưa vào chùa làm lễ xong được đưa
về chùa Long Vân (Quận Bình Thạnh hiện nay), vì lúc đó chùa là trụ sở của Lục
Hòa Phật Tử.
Hòa thượng Thiện Thuận đã cúng dường một mẫu đất trước sân chùa để xây
Tháp để thờ xá lợi Phật. Công cuộc xây dựng tiến hành vào tháng 2 – 1970, bảo
Tháp dự kiến đặt xá lợi Phật và linh vị các chư tôn Hòa thượng Tổ sư tiền hiền
quá vãng thuộc tông phái Phật giáo, nên có tên gọi “Ngũ Gia tông phái”. Lễ đặt
viên đá đầu tiên vào ngày 29 – 11 – 1970, xây Tháp 7 tầng. Việc Xây dụng tiến
hành đến năm 1975 thì bị ngưng truệ. Lúc ấy mới đặt nền móng của tầng trệt.
Sau khi Hòa thượng Thiện Thuận viên tịch, chùa Giác Lâm được giáo thọ
Huệ Sanh nối tiếp Tổ Đình Giác Lâm, dưới sự tổ chức của thượng tọa Huệ Sanh
ngày càng có nhiều hoạt động văn hóa – xã hội Phật giáo.
Năm 1990, Thượng tọa đã phối hợp cùng với sở văn hóa – thông tin, phòng
văn hóa - thông tin quận Tân Bình và chuyên gia nghiên cứu Phật giáo lập lại
Tổ Đình Giác Lâm, đã tổ chức hội thảo khoa học tại chùa. Sau đợt lập lại hồ
sơ, một số tình hình về ngày sinh hoạt của chùa và tư liệu về chùa Giác Lâm từ
ngày thành lập đến nay được giữ trong hai quyển sổ lớn phục vụ khách tham
quan trong và ngoài nước.
Việc trùng tu các ngôi Tháp cổ, xây thêm hàng rào và tráng nền cho lối đi
vào Tháp cũng được thượng tọa Huệ Sanh tiến hành vào năm 1992, từng bước
giải tỏa các hộ dân đã chiếm đất chùa trong thời gian dài có chiến tranh (1968 –
1975); đem lại cho Tổ Đình một di tích lịch sử - văn hóa được Nhà Nước công
nhận vào ngày 16 – 11 – 1988, một cảnh quan mới mẻ.
Một cuộc trùng tu nữa được tiến hành làm đẹp thêm cho di tích Quốc gia.
Mái ngói chùa được làm từ lò gạch ở Đồng Tháp theo đúng quy cách và chất
lượng ngói cổ, làm lại diềm mái, quét vôi lại các Tháp Tổ, thay mới một số
sườn, rui bị hư, đặt thêm một số kính trên mái giúp thêm ánh sáng cho ngôi
chính điện và nhà trai.
Sau ngày giải phóng, tiếp nối truyền thống xưa, một lớp bổ túc giáo lý cơ
bản cho Chư Tăng Ni khắp nơi về tu học đã được khai mở. Cuối 1992, thượng
tọa cũng phối hợp với Ban Đại diện Phật giáo quận Tân Bình mở thường xuyên
các buổi thọ bát quan trai vào ngày chủ nhật hàng tuần, tạo điều kiện cho cư sĩ
Phật tử làm quen dân với nếp sống tăng già.
Ngày 17 – 4 – 1993, tại chùa Giác Lâm, lễ khởi công tái chế thiết bảo Tháp
Xá lợi được tiến hành, đến ngày 9 – 5 – 1994 (năm Giáp Tuất), lễ khánh thành
và cung nghinh xá lợi Phật đã được tổ chức trọng thể tại Tổ đình với gần 10.000
người tham dự.
Là một di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia, chùa Giác Lâm được cục bảo
vệ di tích hỗ trợ kinh phí nâng cấp trùng tu thường xuyên. Hàng năm chùa đón
nhận hàng triệu lượt du khách tham quan trong và ngoài nước đến chiêm bái, lễ
phật, nghiên cứu, tìm hiểu thêm về các mặt văn hóa, kiến trúc, lịch sử, phong
cách nghệ thuật của các tượng tròn, phù điêu, bao lam, hoành phi, câu đối… mặt
dù đã gần 300 năm trôi qua nhưng vẫn còn khá nhiều đề tài khá nhiều câu hỏi,
cùng những vấn đề khoa học lý thú mời gọi các nhà nghiên cứu đến chùa Giác
Lâm để góp phần làm sáng tỏa hơn nữa một kho tàng lịch sử - văn hóa mà hiếm
có chùa nào ở Nam bộ có thể sánh được.
1.3. Đặc điểm di tích lịch sử - văn hóa chùa Giác Lâm:
Để có được nhận thức đầy đủ về ngôi chùa cổ đã từng tồn tại gần 300 năm
qua, thấy được phần nào những nét mỹ thuật thể hiện qua kiến trúc, bao lam,
hoành phi, tượng tròn, liễn đối… qua đó có thể thấy rõ được đặc điểm của ngôi
chùa dưới khía cạnh lịch sử và văn hóa đã làm cho chùa Giác Lâm trở thành
ngôi chùa mang tính tiêu biểu cho chùa ở Nam bộ.
1.3.1. Ý nghĩa tên chùa Giác Lâm:
“Giác Lâm” có một ý nghĩa cao siêu đó là “Rừng giác ngộ” bởi buổi đầu
chùa không có Cổng Tam Quan và hàng rào ngôi chùa như hòa vào thiên nhiên
trải rộng của đồng bằng Nam bộ. Theo lời kể của các vị Tổ cho biết chỉ có lũy
tre ngoài vườn chùa, bên cạnh các loại cây ăn quả trồng xen nhau như: lê-ki-ma,
nhãn, xoài, vú sữa… một mãnh đất nhỏ phía dưới trồng rau xanh. Ngoài ra, lẫn
vào đám cỏ dại um tùm mọc lan tràn quanh năm là loại dây leo mà đặc biệt nhất
là dây giác (dây giác là một loại dây leo, lá giống lá nho, trái giống trái nho,
nhưng phần đầu mỗi trái đều lõm vào. Khi chưa chín màu xanh, khi chín có màu
nâu đỏ, ăn có vị chua chát, có người gọi là nho rừng). Bên cạnh đó còn có một ý
nghĩa khác, cụ thể và nôm na là một rừng dây giác bao quanh đây khi vị Thiền
sư là Viên Quang về trụ trì chùa đã gợi ý thêm cho Thiền sư trong việc quyết
định đổi tên chùa Cẩm Đệm.
1.3.2. Kiến trúc về chùa:
Đa số các chùa cổ ở Nam Bộ lúc đầu mới khởi dựng đều từ một am nhỏ như:
chùa Bửu Phong (Đồng Nai), chùa Vạn An (Đồng Nai…). Trải qua nhiều lần
trùng tu, phần lớn các ngôi chùa không còn giữ nguyên vẹn kiến trúc của buổi
ban đầu. Hầu hết đã có sự cải biên, nhiều chùa chỉ còn lại bộ khung gỗ, rui mè
như: chùa Long Bàn (Bà Rịa - Vũng Tàu), chùa Giác Viên, chùa Phụng Sơn
(Quận 11-Thành Phố Hồ Chí Minh), chùa Phước Tường (Thủ Đức), chùa Vĩnh
Tràng, chùa Bửu Lâm (Tiền Giang). Kiến trúc chùa Giác Lâm tuy không còn
vách gỗ phía bên ngoài như chùa Hội Khánh (Bình Dương) nhưng chùa vẫn giữ
lại những nét văn hóa đặc trưng của ngôi chùa Phật giáo ở Nam bộ.
1.3.2.1. Kiến trúc bao quanh chùa:
a. Cổng nhị quan:
Từ ngoài nhìn vào là cổng Nhị quan, là nét đặc sắc trong kiến trúc chùa,
được dựng lên vào năm 1939. Lúc trước, chùa không có cổng Tam quan do đó
cổng Nhị quan được xem là cổng chính của chùa. Cổng được dựng lên theo
phong cách đặc biệt, độc đáo, có lẽ là cổng đặc biệt nhất so với các chùa ở Nam
bộ, cũng như cả nước.
Vị trí cổng Nhị quan được đặt trước chùa, ngay lối vào sân chùa và chính
điện, nếu tính theo trục thẳng từ ngoài vào thì cổng khá cao, thiết kế ảnh hưởng
nhiều của kiến trúc phương Tây, nhưng cũng có nhiều yếu tố văn hóa khác. Hai
cổng hay bên có lối đi hẹp, được ngăn cách bởi một tấm bình phong bằng gạch
xây ở giữa khoảng gần 6m chiều cao.
Bình phong có chân đế trang trí dạng chân quỳ, tiếp nối với bức chắn lại
bằng gạch trơn không có hoa văn. Đầu tiên là dòng chữ Hán khắc theo chiều
ngang: “Bảo trụ thần phan” ở mặt trước, nối với phần này là dạng kiến trúc tựa
như mái che, hay bên có hai sư tử ngồi dạng chầu hầu. Tầng trên là một bức
bình phong có kích thước nhỏ hơn trang trí đầu rắn Naga cách điệu phía trước
hai sư tử. Bức bình phong này có mặt trước khắc dọc hàng chữ Hán: “Ô Quang
thái tử”, phía sau bình phong cũng khắc hàng chữ Hán: “Ô Minh thái tử”. Trên
bình phong là mái ngói nhỏ có đặt một bình bằng sứ. Khoảng cách giữa hay
cổng và bình phong là hàng rào có song chắn. Toàn bộ cổng Nhị quan nổi bật
lên nền xanh um tùm của cội bồ đề phía sau.
Để thấy hết giá trị và ý nghĩa lịch sử - văn hóa của cổng Nhị quan này thì
cần tìm hiểu về những hàng chữ Hán, cũng như chức năng của cổng này, nơi mà
hàng năm vào 30 tết vị trụ trì đã đích thân ra dán hàng chữ Hán: “Thiên hạ thái
bình, nhân dân an lạc”, “Thượng phương vĩnh thịnh, quốc thái dân an”.
Tam quan là cổng vào các ngôi chùa, thường được thiết kế dạng có 3 lối vào
thể hiện: không quan, trung quan và giả quan trong giáo lý Phật giáo.
Cổng Nhị quan tại chùa Giác Lâm được xây dựng bỏ đi phần trung quan tức
phần ở giữa. Thông thường đây là lối vào chính, quan trọng phải là những ngày
đại lễ mới mở, phải là những người đặc biệt quan trọng mới đi vào chùa bằng
lối này. Nay thiết kế cổng vào hay bên chắn lại phần cửa chính, đều đó thể hiện
một sự phản kháng đặc biệt… đó là sự phản kháng lại ách áp bức, nô dịch dân
tộc dưới thời pháp, mà cụ thể là những “quan Tây” đã đến chùa không có cổng
chính để vào bắt buộc phải đi bằng lối nhỏ hẹp hai bên.
Phủ nhận, phản kháng áp bức dân tộc bằng hình tượng cổng Nhị quan (xây
dựng 1939), đồng thời khẳng định tinh thần dân tộc. Tinh thần đó bày tỏ qua sự
sắp xếp có chủ ý của kiến trúc và hoa văn trên bình phong và cả trên hàng chữ
Hán, tượng trưng cho một sự khẳng định tuyệt đối “Bảo trụ thần phan”. Đây là
con sư tử chầu hầu, hoa văn chữ vạn, hoa sen, lá đề là những nét thể hiện của
văn hóa Ấn Độ. Kia là đầu rắn Naga cách điệu là dấu ấn của văn hóa Khmer, rồi
những hàng trụ cột vuông chân cổng dạng chân quỳ… là nét độc đáo của trang
trí Tây phương bên cạnh những dòng chữ Hán. Những yếu tố biểu trưng đó là
những lớp văn hóa mà trong quá trình giao lưu dân tộc Việt Nam ta đã biết giữ
lại được bản sắc, tính dân tộc của mình.
Ngoài ý nghĩa là biểu tượng của sự phản kháng áp bức dân tộc và sự khẳng
định tính dân tộc, cổng Nhị quan của chùa Giác Lâm còn thể hiện tinh thần nhập
thế của Phật giáo Nam Bộ. Ý thức của chư Tăng về sự dung hợp giữa đạo và
đời, giữa chân đế và tục đế. Cổng Nhị quan chùa Giác Lâm đã được xây dựng
vào giai đoạn không ít Tu sĩ trẻ trong chùa đã “ Cởi áo cà sa khoác áo chiến
bào”, đồng thời cầu mong “ Thiên hạ thái bình” và “ Nhân dân an lạc”.
b. Cổng Tam quan:
Cổng Tam quan chùa Giác Lâm được xây dựng vào năm 1955, mỗi cổng
đều có mái che, lợp ngói các đầu đao gắn hoa văn trang trí, diềm mái lá đề màu
xanh thẫm nổi bật lên cạnh hàng ngói đỏ. Tam quan tượng trưng cho không
quan, giả quan và trung quan và còn có ý nghĩa của tam giả thoát ấn, tam pháp
ấn (không, vô tướng, vô nguyện). Trên cổng giữa khắc ba chữ Hán: “Giác Lâm
Tự”, hai bên chạm hai câu đối:
“Giác hộ quảng khai từ thiện đồng lai quy hướng Tổ
Lâm tuyền phổ nhuận ngộ mê cộng hưởng tuệ vi đình”.
Hai câu đối có chữ đầu và chữ cuối hợp lại là “Tổ Đình Giác Lâm”.
c. Miếu Linh Sơn Thánh Mẫu:
Miếu Linh Sơn Thánh Mẫu nằm trong khuôn viên chùa Giác Lâm, bên phải
chùa từ ngoài nhìn vào.
Hiện nay, chưa rõ Miếu được xây dựng vào năm nào. Theo lời kể, trước
đây Miếu là ngôi nhà nhỏ lợp lá, sau này khi tái thiết, trùng tu thì Miếu được
sửa sang lại, diện tích cũng được nới rộng ra thêm. Miếu được sửa lại vào năm
1939, ngoài bàn thờ chính trong Miếu đặt Linh Sơn Thánh Mẫu, còn thờ năm
bà: Bà Ngũ Hành, Bà Chúa Tiên, Bà Chúa Ngọc và Quan Âm. Tất cả được làm
bằng gỗ, mặt bàn thờ lát đá trắng có cẩn đĩa kiểu. Sau bàn thờ, trên tường vẽ
cảnh mây, rồng, núi… làm nền.
Gian ngoài thờ Quan Thánh Đế Quân, bên trái đặt một chuông lớn. Trước
Miếu là hệ thống hành lang bao bọc, mái Miếu cũng được trang trí lưỡng châu
chầu nguyệt và được lợp ngói đỏ.
Mặc dù tên gọi là Linh Sơn Thánh Mẫu, nhưng hệ thống tượng thờ có thể
thấy Miếu tập trung đa số nữ thần hiện đang thờ tự ở Nam bộ. Phần nào qua
kiến trúc Miếu cũng cho thấy có ảnh hưởng kiến trúc phương Tây với nền Miếu
cao, bật thang thấp, hành lang bao quanh.
1.3.2.2. Kiến trúc chùa chính:
Chùa có câu trúc mặt bằng dạng chữ “tam” (三), ở miền Nam gọi là nối đọi.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, kiến trúc này là sự biến thể từ dạng kiến trúc “Nội
công ngoại quốc” là sự kế thừa nhiều ngôi nhà cổ ở miền Bắc. Sườn nhà cho
thấy có sự kết hợp của loại nhà sườn ở miền Bắc và sườn nhà đâm trích cột kê
ở miền Trung. Loại hình kiến trúc theo bình diện của ngôi nhà trong kiến trúc
chùa Giác Lâm gồm có hai loại: Loại bình diện nền nhà vuông và loại bình diện
nền nhà hình chữ nhật. Loại nhà có loại hình bình diện nền nhà vuông là nét văn
hóa tôn giáo. Loại hình nền nhà hình chữ nhật là kiến trúc cổ truyền mang nét
văn hóa Á Đông.
a. Chính điện:
Có hành lang phía trước, hai bên tả hữu là hồi lang bao bọc kiến trúc gian
này gần như vuông, chia làm năm gian, kết cấu sườn mái kiểu tứ tượng (tứ trụ);
và tỏa ra thành tám phần mái dạng bát quái. Mái được kết hợp dạng bốn mái
nhọn dần phía trên, còn gọi dạng mái hình bánh ít, mỗi đầu kèo ở hàng tư đều
tạc đầu rồng. Trích đẻo lục giác, mái lợp ngói máng xối (âm dương). Hàng cột
hai bên tả hữu chính điện được thay bằng lớp tường dày 30cm.
Bên cạnh sự kế thừa kiểu nhà “đâm trích cột kê” của miền Trung ở các chùa
cổ, chùa Giác Lâm đã có sự biến đổi đôi chút, như chỉ làm cột kê đá xanh ở
những nơi tiếp xúc với mưa nhiều như hàng hiên chùa, các nơi khác cũng có.
Bên trong chính điện có nhiều bao lam, hoành phi, liễn đối sơn son thiếp
vàng, chạm chỗ công phu, với nhiều đề tài, thể loại khác nhau. Mỗi hiện vật
được tạo vào giai đoạn khác nhau.
b. Nhà Tổ:
Sau lưng chính điện là bàn thờ Tổ; treo ảnh các vị Tổ từ thế hệ 33 đến 41
các bài vị được đặt rất trang trọng. Đặc biệt, tại bàn Tổ còn đặt bài vị của người
Minh Hương đã đứng ra xây dựng chùa.
c. Nhà trai:
Là phần tiếp nối gian chính điện, trước kia gian này dùng là giảng đường.
Đặc biệt hai bên phải và trái của gian này được nối kéo thành hai dãy Tăng
phòng. Nơi đây đặt hai dãy bàn theo chiều dọc thờ Phật tử quá vãng, bàn đầu
chư Tăng thọ thực là bàn Chuẩn Đề. Đây là bàn thờ được dời từ nơi thờ các Tổ
xuống nhà trai thời Hòa Thượng Hồng Hưng. Gian nhà trai cũng đặt hai bàn thờ,
bên trên lưu giữ lại một số tượng cổ thuộc chùa, trước kia đã đặt chính điện.
Tại gian này hiện vẫn còn bài vị của một số dòng họ lớn, người Minh Hương
như bài vị dòng họ Quách Đàm, người đã đứng ra xây dựng chợ lớn vào thế kỷ
XIX.
d. Nhà giảng giáo lý:
Nối tiếp nhà trai, cách một sân nhỏ, hai bên có hai dãy hành lang mái ngói
dẫn xuống nhà giảng giáo lý. Đây là dãy nhà ba gian hai chái sườn cũng “đâm
trích cột kê”, hàng cột trước của gian xây gạch nhìn ra hòn non bộ, hàng cột
phía sau là tường ngăn nhiều phòng làm Tăng phòng, trước đây khu vực này là
trai đường. Từ năm 1991, làm phòng học cho lớp giáo lý căn bản đến năm 1994
lớp học được dời ra phía trước chùa, cạnh tháp Ngũ Gia tông phái.
1.3.3. Kiến trúc về Tháp:
Tháp ở chùa Giác Lâm có kiến trúc đặc biệt của Phật giáo, thể hiện đầy đủ
kiến trúc văn hóa Phật giáo qua kiến trúc của ngôi Tháp và biểu tượng, ý nghĩa
của một số cạnh Tháp.
1.3.3.1. Tháp “Ngũ Gia tông phái”:
Tháng 2 – 1970, Giáo hội Phật giáo Lục Hòa Tăng Việt Nam quyết định
khởi công xây cất Tháp, Hòa thượng Thích Thiện Thuận đã cúng dường một
mẫu đất trước cả cổng Tổ đình để xây dựng tháp. Bảo tháp được dự kiến đặt xá
lợi và linh vị các chư tôn Hòa thượng Tổ sư tiền quá vãng thuộc tông phái Phật
giáo, nên có tên gọi là “Ngũ Gia tông phái”.
Tháp gồm 7 tầng, lục giác, mỗi tầng đều có mái ngói, cửa vào. Đỉnh tháp
hình chóp dù, giữa đỉnh là tòa sen nở, trên đóa sen có bình tịnh thủy và mặt
trước quay về phía Bắc.
Tầng dưới cũng đặt tượng Quan Âm Nam Hải, bên trong đặt tượng Di Đà
Tam Tôn. Các câu đối được khắc liền vào cột, trong đó có cặp đối:
“Việt địa chủng phù đồ nhân dân chủng phước
Nam thiên thùy pháp vũ thế đạo viết Long”
Tầng hai tôn trí tượng Thích Ca mâu Ni, tầng ba đặt tượng Dược sư Lưu
Ly Quang Phật, tầng bốn có tượng Chuẩn Đề, tầng năm đặt tượng Di Lặc Tôn
Vương Phật, tầng sáu đặt tượng Trung Tôn Giáo Chủ và tầng cuối đặt xá lợi
Phật trong tháp bằng vàng treo trên nóc tháp, xung quanh chạm chín con rồng
chầu hầu.
1.3.3.2. Tháp Tổ:
Nét riêng của Tháp ở chùa Giác Lâm thể hiện qua việc bố trí mặt bằng các
khu tháp mộ, cũng như trong từng khu vực. Hiếm có ngôi chùa nào trong thành
phố còn lưu giữ được các tháp mộ của các vị trụ trì theo một hệ truyền thừa liên
tục như ở chùa Giác Lâm được coi là những tháp cổ của Nam bộ vẫn còn lưu
giữ những nét đặc trưng kiến trúc tháp mộ của hai thời gian khác nhau: tháp mộ
được xây dựng vào nửa đầu thế kỷ XIX và tháp mộ xây dựng vào đầu thế kỷ
XX. Như các tháp: Tháp tổ Viên Quang, tháp tổ Phật Ý, tháp tổ Hải Tịnh, tháp
tổ Minh Vi, tháp tổ Thiện Thuận, tháp tổ Minh Khiêm, tháp tổ Hồng Hưng. Bên
cạnh đó, có những câu đối và những bài thơ bằng chữ Hán được khắc trên tháp.
1.3.3.3. Đặc điểm các tháp ở chùa Giác Lâm:
a. Số lượng:
Hiện nay toàn chùa có 38 tháp và mộ, phân bố trên 3 khu vực chính: trước
chùa, khu tháp Từ Vân và khu tháp Tổ.
b. Phong cách nghệ thuật:
Giai đoạn đầu các tháp Tổ ở chùa Giác Lâm chú trọng vào việc tạo dạng là
chính, thấy sự đơn giản, dung dị. Hoa văn tập trung chủ yếu bên ngoài rào tháp,
với hệ thống tứ linh, tứ quý, cuốn thư, trang trí bằng chữ Hán dạng bài minh,
trên bia là những bài kệ nổi tiếng hay môtip “ngư hóa long”.
Trang trí bia tháp cũng có sự thay đổi theo thời gian về cả nội dung và hình
thức bia. Phong cách nghệ thuật trên các tháp chùa Giác Lâm mang yếu tố dung
hợp các luồng văn hóa, thể hiện giao lưu văn hóa mạnh mẽ của các cộng đồng
tộc người đang sống cộng cư ở Nam bộ như Khmer, Việt, Chăm… và phần nào
yếu tố phương Tây (Pháp) và phương Đông (Trung Quốc, Ấn Độ). Bên cạnh sự
dung hợp mạnh mẽ các yếu tố văn hóa nhiều nơi như vậy, tính chất địa phương
và dân tộc vẫn được thể hiện. Các tháp cổ chùa Giác Lâm có tuổi đời khá cao và
nằm trong ngôi chùa cổ nhất Thành Phố Hồ Chí Minh nên nó đã trở thành một
hiện vật có giá trị lịch sử giúp các nhà nghiên cứu tìm thấy được bước đi của
lịch sử in ấn trên các phong cách kiến trúc này. Những ngôi tháp này còn cho
thấy quá trình giao lưu văn hóa giữa các dân tộc ở địa bàn Nam bộ diễn ra khá
mạnh mẽ và liên tục hàng trăm năm qua.
c. Niên đại:
Các tháp có niên đại khác nhau, tháp cổ nhất của chùa là Tháp tổ Viên
Quang được xây vào đầu thế kỷ XIX (1827), một số tháp khác cuối thế kỷ XIX
(tháp tổ Hải Tịnh: 1875); tháp tổ Minh Khiêm: 1914); tháp tổ Hồng Hưng (giữa
thế kỷ XX: 1945) và một số tháp xây dựng cách đây không lâu (khu tháp Từ
Vân).
1.3.4. Đặc điểm lịch sử - văn hóa thể hiện qua kiến trúc chùa Giác
Lâm:
Kiến trúc chùa Giác Lâm tiêu biểu cho kiến trúc các ngôi chùa ở Nam bộ, kể
cả vị trí chùa. Đó là ngôi chùa đặt trên đồi cao, thoáng mát, có địa thế phù hợp
phép phong thủy, có cổ thụ (bồ đề) trong sân… Đặc điểm lịch sử và văn hóa của
kiến trúc thể hiện quan các yếu tố phong tục tập quán, tính địa phương, tính tôn
giáo, giao lưu văn hóa…
a. Tính địa phương:
Miền Nam là vùng đồng bằng trồng lúa, ít thấy đồi, núi, do đó trong cảm
quan người miền Nam ưa thích sự trãi rộng. Kiến trúc chùa chiền không vút
cao, tâm tính hoài hòa với thiên nhiên và đặc điểm là tính khiêm tốn đã thể hiện
trong tâm thức cư dân người Việt ở Nam bộ.
Môi sinh, khí hậu Nam bộ cũng có ảnh hưởng không nhỏ trong việc hình
thành kiểu loại mái chùa không mái lợp. Miền Nam có mưa nhiều nhưng không
nhỏ và dai dẳng như ở miền Bắc, do đó mái phải thoát nước nhanh để đáp ứng
với cơn mưa rào.
Chất liệu sử dụng kiến trúc thường là tre, gỗ (sao, thau lau, mít, gõ…) là
những thực vật phổ biến trong vùng đồng bằng Nam bộ.
Cột kê, qua sự kế thừa kiểu nhà “đâm trích cột kê” ở miền Trung cũng được
sử dụng có lưu ý đến hàng cột tiếp xúc thường với mưa (như ở hàng hiên chùa)
để đặt cột đá to hơn những nơi khác.
Miền Nam là nơi tiếp xúc thường xuyên với nhiều cộng đồng dân tộc như:
Khmer, Chăm, Hoa, đặc điểm này cũng góp phần quy định một số nét đặc thù
thể hiện qua giao lưu văn hóa có mặt trong kiến trúc chùa.
b. Tính tôn giáo:
Kiến trúc chùa, đặc biệt là tại chính điện được thiết kế cửa chính và phụ rất
ít, đều này phần lớn xuất phát từ quan niệm đây là nơi thờ tự, nơi ngự của các vị
Thánh, Thần, Phật… do đó để tăng thêm linh thiên, huyền bí và trang nghiêm
chỉ cho ánh sáng vào rất ít tạo vẻ thâm u, tạo thái độ dè dặt chậm rãi khi bước
vào. Mặc khác, với ánh sáng yếu ớt có chủ ý đó, các pho tượng thiếp vàng như
nổi rõ hơn, trong không khí thờ cúng, khói hương.
Kiến trúc chùa như hòa vào kiến trúc nhà ở của dân cư xung quanh, không
quá cách biệt. Trước khi có mô hình nhà kiểu tứ tượng, chùa cổ ở Gia Định
cũng là kiểu nhà ba gian hai chái, vốn là kiểu nhà phổ biến ở Nam bộ. Chính vì
vậy mà khi quan sát bên ngoài và bước vào trong người xem không tránh khỏi
ngỡ ngàng với kiến trúc và trang trí phong phú. Ngoài ra, kiến trúc ít cửa, tạo vẻ
đóng kín trong nội tự, phải chăng đây cũng là hình thức ngăn chặn “sự phóng
tâm”. Đối với phật tử, khách tham quan cảm giác thay đổi đột biến khi vào chùa
sẽ hình thành tâm lý trang nghiêm, tôn kính hơn.
c. Tính dân tộc:
Tính chất khoang dung của dân tộc Việt Nam dễ dàng bắt gặp trong các yếu
tố “tùy thuận, tùy duyên”… của giáo lý Phật giáo. Đạo Phật cũng dễ dàng tiếp
nhận các hình thức tín ngưỡng của cư dân bản địa để cùng hòa hợp, cùng tồn
tại, phát triển. Trong khuôn viên chùa còn ngôi miếu nhỏ thờ nữ thần, có thể đã
có từ trước khi lập chùa. Mặc dù được ghi là miếu Linh Sơn Thánh Mẫu và ghi
năm 1969, nhưng đó chỉ là năm trùng tu và bên trong đã thờ tự nhiều nữ thần
khác như: Bà Ngũ Hành, Bà Chúa Tiên, chúa Ngọc… Chính vì vậy, dù cho có
sự pha tạp, giao lưu nhiều yếu tố văn hóa vừa nêu thể hiện qua kiến trúc chùa,
nhưng trong tổng thể của nó chúng ta vẫn không thể nhằm lẫn với bất cứ ngôi
chùa Hoa hay ngôi chùa Khmer nào ở Nam bộ. Sự hòa quyện tiếp nhận yếu tố
văn hóa từ các nơi, dung hợp và tạo cho mình bản sắc riêng chính là đặc trưng
tộc người của cư dân Việt.
1.3.5. Điêu khắc:
1.3.5.1. Số lượng: chùa có tất cả 118 pho tượng cổ và mới.
1.3.5.2. Nghệ thuật điêu khắc những pho tượng thờ:
Nghệ thuật điêu khắc tượng thờ ở chùa Giác Lâm thể hiện phong cách tạo
tượng của người Việt ở Nam bộ vào khoảng thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Thể
hiện qua hai bộ tượng chính tại chùa:
Trước tiên, điêu khắc tượng thờ chùa Giác Lâm vẫn tuân thủ theo nguyên
tắc truyền thống về kỹ thuật tạo tượng, kỹ thuật sơn thiếp vàng và quy định tạo
tượng như kích thước, tỉ lệ “tọa tứ lập thất”. Tượng thờ chùa Giác Lâm vẫn
mang những nét chung của phong cách tạo
tượng thời Nguyễn qua hình thức tóc chải hất lên đỉnh đầu, phủ khăn choàng,
buông xõa xuống hai bên vai như: pho tượng Bồ Tát Quan Thế Âm, tượng Quan
Âm Chuẩn Đề.
Nghệ thuật điêu khắc tượng thờ ở chùa Giác Lâm còn cho thấy ảnh hưởng
của Trung Hoa qua những đường nét tạo dáng, đó là trường hợp bộ tượng La
Hán nhỏ và bộ thập điện nhỏ, ảnh hưởng này thấy rõ qua việc tạo người dạng
trang phục, trang trí hoa văn, trang sức của tượng thờ.
Cấu tạo nhân dạng được thể hiện một phần qua nội dung lịch sử người được
tạo tác, phần khác qua cách thể hiện của người chỉ đạo và nghệ nhân. Nhóm
tượng mang phong cách này, đều được tạc vào những ngày đầu thành lập chùa
(1744). Lý Thụy Long người đứng ra xây chùa là người Minh Hương và có có
thể trong quá trình tạo tác, nghệ nhân cũng có thể là người Minh Hương. Những
đặc điểm góp phần vào việc hình thành các phong cách của các pho tượng và
không thể không chú ý đến những đặc điểm này.
Nghệ thuật điêu khắc tượng thờ chùa Giác Lâm, về đường nét tạo dáng tuy
chưa đạt mức chuẩn mực như các tượng thờ ở các chùa miền Bắc, miền Trung,
nhưng cũng có sự cân đối hoàn chỉnh, góp phần định hình cho một phong cách
tạo tượng ở Nam bộ.
Ngoài ra, tượng thờ chùa Giác Lâm còn có những pho tượng không giống
phong cách tạo tượng ở Nam bộ, mà mang đậm phong cách tạo tượng của người
Việt ở các chùa miền Nam, miền Trung qua hai pho tượng: tượng Cửu Long và
tượng Thích Ca tọa thiền.
Điểm nổi bật trong điêu khắc tượng thờ ở chùa Giác Lâm là sự hiện diện
song song hai bộ tượng, tiêu biểu cho hai thời kỳ điêu khắc tượng thờ ở Nam bộ,
đó là bước đầu định hình và giai đoạn định hình cho nghệ thuật tạc tượng gỗ Sài
Gòn – Gia Định.
1.3.5.3. Nghệ thuật chạm lộng bao lam, chạm khắc phù điêu, hoành
phi và liễn đối:
a. Nghệ thuật chạm lộng bao lam:
Những tác phẩm chạm khắc gỗ ở chùa Giác Lâm không giống như trong các
ngôi chùa Khmer và chùa Hoa.
Tại chính điện, nghệ thuật chạm khắc gỗ còn được thể hiện trên các bao lam
bàn thờ. Trên nền gỗ đỏ, bàn thờ được chạm khắc là bàn nhị cấp, với nhiều đề
tài phong phú về hoa, lá, thú vật, chim muông… Đề tài “sóc giác” tuy được thể
hiện qua các phù điêu, nhưng chỉ với ở bao lam bàn thờ đề tài này mới diễn tả
được trọn vẹn đường nét sinh động và dí dỏm. Đây là những chú sóc nhỏ nhắn
đang thèm thuồng đến gần những quả giác, kia là những chú đang vừa thưởng
thức hương vị thanh tao nhưng đầy chua chát của quả táo lại vừa ôm cả chùm
giác vào lòng và hình ảnh con chim đang ăn sâu thật đẹp. Nổi bật hơn hết là
các bao lam bàn thờ này đã tự nói lên vùng đất Nam bộ, đầy đủ nhất bằng hình
ảnh những đóa mai đang nở. Vượt thoát ra ngoài những ước lệ để thể hiện tính
hiện thực cao nhưng không quên trở về với khuôn mẫu, với lề luật quy định.
Đấy là hình ảnh khắc họa những bao lam thể hiện giai đoạn chuyển tiếp của hai
phong cách chạm khắc, đồng thời cũng là ước vọng của nghệ nhân truyền đạt
đến người thưởng thức qua hơn nửa thế kỷ này, một chân lý về nếp sống đạo
và hành đạo, đó là sự dung hợp giữa đạo học siêu việt và đời sống bình thường,
giữa chân đế và tục đế.
Ngoài ra, tại chính điện còn có bao lam diễn tả theo chủ đề “mộc -
điểu”, “trúc - điểu” và “tứ quý”. Nghệ nhân đã chạm khắc trong cùng một bao
lam: lối dùng nhát đục cho phần trên xa và lối tế điểu cho tầm nhìn gần, đặc biệt
là để thể hiện sự mảnh mai lá trúc. Con chim là chủ đề rõ nét bao lam, sinh động
nhất là đôi mắt. Mắt nhỏ không chạm nổi mà được khắc chìm, tạo một lỗ tròn
sâu hun hút nhưng lại lộ rõ lòng đen nhánh.
Tại nhà Tổ có chín bao lam, chạm lộng nổi bật nhất là bao lam tứ linh đặt
tại bàn Tổ giữa. Long, ly, quy, phụng được sắp xếp đều trên bao lam, con rồng
dạng lưỡng long chầu nguyệt với hai chim phụng hai bên. Con rùa trong tư thế
vươn lên mang nhiều ý nghĩa, vì ngoài biểu tượng của sự trường thọ, rùa còn
dùng để trang trí với những linh hồn nặng nghiệp chướng chưa được giải thoát.
Những đề tài phong phú, đa dạng cụ thể như: sen, phù dung, mai, cúc, trúc,
giác (thực vật). Long, ly, quy, phụng, nai, dơi, sâu, công, cào cào…
Các bao lam được bố cục theo lối đăng đối, sắp xếp theo luật phối cảnh cổ
truyền.
Tuy nhiên, bên cạnh lối đăng đối theo quy ước, bao lam tại chùa cũng có sự
phá lệ, tạo nét sinh động, tránh thô cứng, bằng cách điểm vào tác phẩm một vài
nét chấm phá.
Qua nội dung nhiều đề tài và phong cách sử dụng cho thấy ngoài chức năng
dùng trang trí cho chính điện và nhà Tổ được lộng lẫy, bao lam còn góp phần
thể hiện sinh động giáo lý đạo Phật những biểu tượng cao siêu, những tinh túy
đã được nghệ nhân tiếp thu và thể hiện qua các tác phẩm với bàn tay khéo léo,
và tấm lòng mộ đạo sâu sắc.
b. Nghệ thuật chạm khắc phù điêu:
Ngoài việc làm nền cho các câu đối, phù điêu, trên cột cũng gây sự chú ý và
phải thừa nhận rằng qua các phù điêu, tính chất nhân gian của Phật giáo Nam bộ
được nổi rõ, đây là phù điêu chủ đề: Bát tiên, Thập bát, La Hán, Rồng phượng…
đề tài có tính chất ước lệ và trang nghiêm này được đặt có chủ ý hai bên bàn
thờ chính điện. Còn xung quanh và với những gian khác, phù điêu được chạm
khắc bằng những đề tài dân dã. Chủ đề “sóc – giác” là chủ đề gần gũi với chủ
đề ngoại cảnh chùa. Phải chăng những dây giác dạy còn lưu lại đến nay bên góc
các ngọn tháp đã gợi ý nghĩa cao siêu của tên gọi Giác Lâm là rừng giác ngộ thì
còn có một ý nghĩa khác, cụ thể và nôm na hơn là một rừng dây giác bao quanh
nơi đây khi vị Thiền sư đầu tiên là Viên Quang về trụ trì? Hình ảnh các chú
chuột nối đuôi nhau, bò trên những dây dưa, dây bí và những chú bướm đang đi
tìm hoa hút mật, những con rồng chạm khắc tinh xảo, những chú chim và những
cánh hoa sen… cho thấy ở đây cái cao xa và dường như không thật có – là con
rồng – được hòa quyện với hình ảnh thật trong cuộc sống; làm cho người xem đi
đến nhận thức sánh với niềm tin và tín ngưỡng Phật giáo.
Đối với cư dân vùng mới, đạo phật ở đây đã được bình dân hóa và đưa trở
về gần gũi hơn với cuộc sống con người! Từ tính thiện đó, nghệ nhân đã có sự
sáng tạo, đồng thời đã phá vỡ tính ước lệ, đăng đối từng cặp trong chủ đề để
làm cho đề tài càng sống động hơn, tươi mát và hiện thực hơn. Cuộc sống đang
diễn ra và trôi đi liên tục không ngừng, nên không thể có khung cảnh đứng im,
khô cứng và do vậy phải có hình ảnh của chú chim sâu ngâm cào cào trên chiếc
mỏ xinh nhỏ; những chiếc lá bầu không còn nguyên vẹn, hình ảnh của một cánh
chim đang trong tư thế sắp bay đi, bên cạnh đó là hình ảnh một cánh chim vừa
đáp xuống! Cào cào hay chuồn chuồn đang giãy dụa trong mỏ chim là “tiếng
nói” sinh động nhất của cuộc sống, là hình ảnh tiêu biểu nhất về bản năng sinh
tồn! Và trong phút chốc, khung cảnh dân gian Nam bộ bỗng hiện về đầy đủ và
rực rỡ với đường nét khéo léo của nghệ nhân, đã làm cho gian chính điện vừa
nghiêm trang nhưng cũng đầy ấp tình cảm gắn bó với quê hương, đất nước.
Phù điêu được chạm nổi trên cột trang trí cho cột và làm nổi bật các câu đối
khắc chìm hoặc nổi trên thân cột.
Phù điêu được chạm khắc tinh tế mang tính cách điệu cao trên các hàng cột
tại chính điện, nhà tổ, nhà trai có các đề tài nổi bật: chuột cắn đuôi nhau, dây
hoa lá, trái bầu bí, bướm hoa, chim bắt chuồn chuồn…
c. Nghệ thuật chạm khắc hoành phi và câu đối:
Hoành phi ở chùa Giác Lâm đa số được làm bằng gỗ ngoại trừ có 3 bức
được tạo tác giai đoạn muộn sau này bằng sơn mài, đối với hoành gỗ có vài cách
chế tác khác nhau: Mặt phẳng, khắc nổi chữ Hán trên nền gỗ, cẩn ốc lên trên,
theo dạng các chữ Hán, mặt hoành trơn.
Trong chạm khắc, hoành phi cho thấy còn ảnh hưởng Trung Quốc rất đậm.
Hoành phi nguyên nghĩa của nó là bản nằm ngang. Đa số chữ viết chính và phụ
điều bằng chữ Hán, lối viết và treo các câu từ phải sang trái, viết dọc từ trên
xuống. Hoa văn trang trí trên hoành gồm hoa dây, rồng, hình ô học, hình kỷ
hà… là những dạng hoa văn thường gặp trong các nghi lễ cung đình, nơi trang
nghiêm.
Các bức hoành phi thể hiện phần nào nội dung tư tưởng muốn truyền đạt
cho khách tham quan, đồng thời cũng thể hiện tấm lòng, trình độ, năng lực của
người dâng cúng.
Bên cạnh đó các câu đối được chạm khắc theo nhiều cách viết khác nhau.
Tuy được khắc trên gỗ nhưng nét khắc tinh xảo, nét móc mảnh dẻ, sắc. Lối khắc
chìm đa số trên cột và liễn. Ngoài ra, còn có lối khắc nổi trên cột và liễn dạng
mặt khác, khắc chìm trên liễn dạng cong treo vào cột.
1.3.6. Giá trị lịch sử - văn hóa của phong cách điêu khắc, kiến trúc,
nghệ thuật:
1.3.6.1. Giá trị lịch sử:
Những giá trị trong nghệ thuật, kỹ thuật tạc tượng, trong điêu khắc, trang trí
hoa văn trong tính chất và chủ đề tư tưởng thể hiện qua bộ tượng thuộc hai giai
đoạn, đã đồng thời làm rõ ý nghĩa và giá trị lịch sử to lớn của các pho tượng tròn
chùa Giác Lâm. Là hiện vật trong ngôi chùa cổ nhất thành phố còn lưu lại đến
nay, bản thân các pho tượng cũng có tuổi thọ khá cao (khoảng 240 năm) so với
các tượng cổ khác trong thành phố.
Bộ tượng còn đánh dấu bước đi di dân đầu tiên của người Việt đến định cư
vùng đất mới, trong đó thể hiện được các hình thức thờ phụng và các vị thần
trong quá trình lịch sử gần hai thế kỷ qua ở Nam bộ, giúp người nghiên cứu có
điều kiện tìm hiểu, so sánh với các hình thức thờ cúng những nơi khác và vùng
đất khác ở trong nước cũng như khu vực Đông Nam Á.
Nghệ thuật điêu khắc, kỹ thuật chạm, hoa văn trang trí, bộ tượng góp thêm
những khoa học trong việc kế thừa và phát huy, sáng tạo những phong cách mới
trong nghệ thuật tạc tượng ở Nam bộ vào những thế kỷ XVIII và XX, góp phần
khẳng định tính đặc thù, địa phương của vùng đất mới, tính đa dạng, phương
pháp trong kỹ thuật tạo tác.
Đặc biệt đối với những loại tượng mới xuất hiện ở Nam bộ nhưng đã đóng
vai trò quan trọng trong nghi thức cúng lễ tại đây như bộ tượng 5 vị (Phật và các
Bồ Tát Phổ Hiền, Đại Thế Chí, Quan Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi) được tạc dưới
dạng “thượng kỳ thú” là một nét độc đáo, sáng tạo, thể hiện tính thực tiễn, tính
dân gian nhưng đồng thời cũng cho thấy cả tính triết lý sống động trong việc thể
hiện giáo lý, Phật pháp thâm sâu được gói gọn trong hình ảnh 5 vị này.
Trên các mặt vừa kể, giá trị lịch sử qua các tượng tròn còn được tìm thấy
ở mối quan hệ giao lưu văn hóa chặt chẽ, với phong vị trong và ngoài nước.
Luồng văn hóa từ phía Bắc cũng như phía Tây và phía Nam là những luồng
chính có tác động lớn đến phong cách và phương pháp tạc, điêu khắc, trang
trí các pho tượng tròn này. Ảnh hưởng Trung Quốc (phương Bắc), Champa
(phương Tây) và Campuchia cùng các nước khu vực Đông Nam Á (phía Nam)
đã làm cho các pho tượng thêm vẻ đa dạng, phong phú, đồng thời cũng góp
phần khẳng định mốc thời gian, cũng như nồng độ đậm nhạt của từng thời kỳ
lịch sử.
Bên cạnh đó, bức hoành cũng có giá trị lịch sử góp phần nói lên phong
cách nghệ thuật, ảnh hưởng của chùa chiền trong giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến
nay. Hoành phi này cũng góp phần vào việc chứng minh cho sự mờ dần của
ảnh hưởng Trung Quốc qua các hiện vật, cũng như trong tư tưởng người biếu
cúng. Nói lên một số mốc thời gian quan trọng của chùa, qua năm tháng còn
lưu giữ được trên mặt hoành. Mặc khác, về việc giao lưu văn hóa, ảnh hưởng
của tư tưởng Lão Trang, Khổng Tử đã có dấu ấn qua một số hoa văn, đã nói lên
tính “Tam giáo đồng nguyên” của giai đoạn này và đặc biệt là tính chất dung
hợp cao của Phật giáo ở Việt Nam cũng như ở Nam bộ.
Các phù điêu trên thân cột tại chùa do chức năng làm vật trang trí, cũng như
mang lại một ý nghĩa lịch sử nhất định, cho thấy ảnh hưởng các luồng tư tưởng
của Nho, Phật, Lão vẫn còn dấu ấn trong tâm thức người Việt vùng đất Nam
bộ (chủ đề Bát Tiên, La Hán, Long Ẩn Vân), đồng thời cũng nói lên phần nào
cá tính người dân ở đây là yêu thiên nhiên, có óc thực tế và mang chất dân gian
hơn
1.3.6.2. Giá trị văn hóa:
Trên cơ sở nghiên cứu những nét văn hóa đặc trưng của chùa Giác Lâm ở
các khía cạnh kiến trúc trang trí, điêu khắc, sự thờ cúng và những sinh hoạt tôn
giáo tín ngưỡng của chùa ở góc độ dân tộc học, có thể rút ra một số giả thiết
chính về chùa Giác Lâm.
Chùa Giác Lâm ở Thành Phố Hồ Chí Minh là một trong số ít ỏi những ngôi
chùa cổ ở Nam bộ còn tồn tại cho đến nay. Mặc dù trải qua một số lần trùng tu,
về cơ bản những đường nét kiến trúc, hiện vật, thờ cúng của ngôi chùa vẫn còn
được bảo tồn khá đầy đủ. Vì vậy, việc nghiên cứu chùa Giác Lâm sẽ giúp cho
thế hệ ngày nay hiểu hơn về văn hoá Phật giáo ở Nam bộ và rộng hơn là văn hóa
của cộng đồng cư dân Việt nam ở Nam bộ trong lịch sử và hiện tại.
Chùa Giác Lâm đã thể hiện được khá rõ nét văn hóa đặc trưng của văn hóa
Phật giáo Nam bộ. Đó là nền văn hóa được tạo dựng từ một vùng đất mới khai
khẩn; điều kiện thiên nhiên tương đối thuận lợi, đất đai trù phú cùng nhiều
nhóm cộng đồng dân cư khác nhau về nguồn gốc, khác nhau về truyền thống
văn hóa dân tộc Việt Nam, đó là văn hóa Nam bộ.
Những nét văn hóa đặc trưng của Phật giáo Nam bộ trong ngôi chùa Giác
Lâm được thể hiện ở vị trí mặt bằng, bố cục kiến trúc, trang trí nghệ thuật, điêu
khắc tượng thờ, các hình thức thờ cúng. Những đặc điểm văn hóa Phật giáo
Nam bộ được thể hiện đậm nét nhất là những nét đặc trưng trong lối thể hiện
kiến trúc và các hình thức thờ cúng.
Nét đặc trưng của văn hóa Nam bộ còn thể hiện qua sự thờ tự của chùa Giác
Lâm. Đó là hình thức thờ Tổ trong không gian thờ Phật tiếp nối từ các chùa ở
miền Trung, người Việt ở Nam bộ với tình nghĩa sâu nặng với tổ tiên, với bậc
tiền hiền, có công khai khẩn hàng xóm, chùa đình. Vì thế, phần không gian thờ
Tổ và các vị tiền hiền là không thể thiếu được trong không gian thờ Phật của
chùa Nam bộ.
Sự dung hợp những yếu tố văn hóa của các nền văn hóa khác nhau là một
trong những nét văn hóa của chùa Giác Lâm. Trải qua hơn ba trăm năm chung
sống giữa người Việt và người Hoa, tùy từng thời điểm lịch sử cụ thể đã để lại
những dấu ấn tạo nên nét đặc thù văn hóa của di tích chùa Giác Lâm. Ở đây,
chúng ta có thể gặp những nét văn hóa đặc trưng qua kiến trúc, nghệ thuật trang
trí, điêu khắc và sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo mang những nét văn hóa Việt,
pha lẫn nét văn hóa Hoa và ít nhiều có dáng dấp của những nét văn hóa phương
Tây.
Yếu tố văn hóa ở chùa Giác Lâm đã hòa quyện vào nhau, sự tích hợp giữa
văn hóa Phật giáo với yếu tố văn hóa Việt và yếu tố văn hóa Hoa. Đồng thời,
thể hiện giữa môtip trang trí mỹ thuật Huế với môtip trang trí mang sắc thái địa
phương và môtip trang trí phương Tây.
Quá trình giao lưu văn hóa giữa các tộc người cùng chung sống trên một địa
bàn hình thành nên một nét văn hóa mới. Đây cũng là một đặc trưng văn hóa
Nam bộ nói riêng và xu thế phát triển văn hóa Việt Nam nói chung. Trong quá
trình cùng cộng cư, cùng một số phận lịch sử, cùng chung một khu vực cư trú,
có những mối quan hệ với nhau trong hoạt động kinh tế, xã hội, có những nét
tương đồng về tâm lý tình cảm, phong tục giữa các tộc người, nhất là người Việt
và người Hoa ở Nam bộ đã diễn ra quá trình văn hóa, đây cũng gọi là quá trình
tiếp biến văn hóa xảy ra trước hết giữa các tộc người cùng sinh sống trên một
địa bàn. Mặc khác, chứng tỏ sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc mà chùa Giác
Lâm là một trong những chứng minh điển hình cho sự giao lưu văn hóa đó, nổi
bật trong những nét văn hóa khác nhau đó, rõ nét nhất là yếu tố Việt.
Quá trình tồn tại và phát triển của chùa Giác Lâm là một thể hiện rõ nét về
văn hóa của người Việt ở Nam bộ. Đặc biệt qua kết cấu kiến trúc, chủ yếu bộ
khung sườn gỗ với kiểu kèo “xuyên trích cột kê” của kiểu nhà rường. Đều này
đã được các nhà nghiên cứu trước đây ghi nhận… Vượt lên những nền ảnh
hưởng của các nền văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ, Tây phương… thì toàn bộ
trong tổng thể của nó, chùa Giác Lâm vẫn thể hiện được nét riêng, từ giây phút
đầu tiên, chúng ta đã nhận ra được ngôi chùa cổ Nam bộ của người Việt mà
không hề nhằm lẫn với bất kỳ một ngôi chùa Hoa hoặc một chùa Khmer nào cả.
Đó là bản sắc, đồng thời cũng là đặc điểm thể hiện tính dân tộc, tính địa phương
của di tích lịch sử - văn hóa của chùa Giác Lâm.
Sau nhiều năm thành lập, nhất là sau khi chùa Từ Ân và Khải Đường bị thực
dân pháp phá hủy trong chiến tranh (cuối thế kỷ XIX), chùa Giác Lâm càng có
vai trò to lớn. Bên cạnh nhiều hoạt động Phật sự diễn ra tại chùa, vai trò ngày
càng quan trọng của chùa Giác Lâm còn có nhiều đóng góp của nhiều thiền sư
tại đây, Thiền sư đã mang nhiều niềm tự hào cho Phật giáo Gia Định, đồng thời
Tiền sư Hải Tịnh cũng đã bộc lộ vai trò của mình trong việc góp phần hoằng
dương Phật giáo Trung bộ.
Những năm 50 – 60 của thế kỷ XX, chùa Tổ Đình Giác Lâm trở thành trụ sở
của Giáo hội Phật giáo cổ truyền. Góp phần cho việc hình thành và duy trì trung
tâm Phật giáo của chùa Giác Lâm ở Gia Định và các tỉnh miền Nam, chính là
sự nhân rộng ngày càng đông đảo số lượng Tăng sĩ đã qua những giới đàn được
khai mở tại chùa, trở thành những lớp đệ tử tiếp tục công việc “hoằng dương
chính pháp”, sâu rộng khắp các tỉnh miền Đông, miền Tây, cả ở miền Trung.
Khá nhiều ngôi chùa cổ hiện nay ở miền Đông như: Bửu Phong, Long Thiền,
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
&
TRƯƠNG KIM RI
MSSV: 6086280
NGHIÊN CỨU NHỮNG CÂU ĐỐI Ở CHÙA
GIÁC LÂM MỘT TRONG NHỮNG DI
TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn: NGUYỄN VĂN TƯ
Cần Thơ, năm 2012
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích, yêu cầu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CHÙA GIÁC LÂM MỘT DI TÍCH
LỊCH SỬ - VĂN HÓA
1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành chùa Giác Lâm:
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển chùa Giác Lâm:
1.3. Đặc điểm di tích lịch sử - văn hóa chùa Giác Lâm:
1.3.1. Ý nghĩa tên chùa Giác Lâm:
1.3.2. Kiến trúc về chùa:
1.3.2.1. Kiến trúc bao quanh chùa:
1.3.2.2. Kiến trúc chùa chính:
1.3.3. Kiến trúc về tháp:
1.3.3.1. Tháp “Ngũ Gia tông phái”:
1.3.3.2. Tháp Tổ:
1.3.3.3. Đặc điểm các tháp ở chùa Giác Lâm:
1.3.4. Đặc điểm lịch sử văn hóa – kiến trúc chùa Giác Lâm thể hiện qua kiến
trúc:
1.3.5. Điêu khắc:
1.3.5.1. Số lượng:
1.3.5.2. Nghệ thuật điêu khắc những pho tượng thờ:
1.3.5.3. Nghệ thuật chạm lộng bao lam, chạm khắc phù điêu, hoành phi và
liễn đối:
1.3.6. Giá trị lịch sử - văn hóa của phong cách điêu khắc, kiến trúc, nghệ
thuật:
1.3.6.1. Giá trị lịch sử:
1.3.6.2. Giá trị văn hóa:
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ CÂU ĐỐI
2.1. Nguồn gốc về câu đối:
2.2. Câu đối là gì?
2.2.1. Định nghĩa về câu đối:
2.2.2. Đôi nét về câu đối:
2.3. Loại hình và bộ mặc chung của câu đối:
2.4. Đặc trưng của câu đối:
2.5. Niêm luật trong câu đối:
2.5.1. Đối trượng:
2.5.2. Đối trong thơ cận thể (luật thơ):
2.6. Ngôn ngữ trong câu đối:
2.6.1. Điển cố trong câu đối:
2.6.2. Chơi chữ trong câu đối: thú chơi trí tuệ của người xưa
2.6.3. Nội hàm văn hóa của câu đối:
2.7. Chủ đề câu đối:
2.7.1. Câu đối Tết:
2.7.2. Câu đối chúc mừng:
2.7.3. Câu đối thọ:
2.7.4. Câu đối lễ tang:
2.8. Tình hình sử dụng câu đối ngày nay:
2.9. Giá trị lịch sử - văn hóa của câu đối:
CHƯƠNG 3: KHẢO SÁT NHỮNG CÂU ĐỐI BẰNG
CHỮ HÁN Ở CHÙA GIÁC LÂM
3.1. Sơ lược câu đối ở chùa Giác Lâm:
3.1.1. Số lượng:
3.1.2. Nội dung :
3.1.3. Niên đại:
3.2. Khảo sát:
3.2.1. Ở cổng:
3.2.2. Chính điện:
3.2.3. Nhà Tổ:
3.2.4. Nhà trai:
3.2.5. Nhà giảng giáo lý:
3.3. Tính nghệ thuật của câu đối:
3.4. Giá trị lịch sử - văn hóa của các câu đối ở chùa Giác Lâm:
PHẦN KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
DANH MỤC ẢNH
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam đã có nhiều công trình lý luận và
nghiên cứu về chữ Hán. Tuy nhiên, hiện nay chữ Hán đã không còn phổ biến và
cũng ít người quan tâm đến, hiện tại ở một số ngôi chùa cổ vẫn còn lưu lại chữ
Hán mà không có nhiều người đọc được. Việc nghiên cứu, tìm hiểu những chữ
Hán đã làm tôi cảm thấy hứng thú, từ chữ Hán giúp tôi hiểu biết thêm về giá trị
văn hóa của ngôi chùa nói riêng và của văn hóa Việt Nam nói chung. Đồng thời
việc nghiên cứu còn giúp tôi nắm bắt một số tư duy để hiểu rõ về văn chương
nhằm phục vụ tốt cho việc học tập và nhằm giữ gìn, bảo tồn và phát triển nền
văn hóa của dân tộc. Đây chính là lý do tôi chọn đề tài “Nghiên cứu những câu
đối ở chùa Giác Lâm một trong những di tích lịch sử - văn hóa” ở Quận Tân
Bình – Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Lịch sử vấn đề:
Xu hướng trở về cội nguồn đang được đề cao. Đình, chùa là một phần hình
ảnh của làng quê Việt Nam. Nét văn hóa cội nguồn đang được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm đến. Nhiều bài viết và công trình nghiên cứu về ngôi chùa là
phong phú, đa dạng, đặc biệt đã để lại một khối lượng chữ Hán đồ sộ. Ở đây,
đề tài luận văn sẽ đi sâu hơn để tìm hiểu về nét văn hóa chữ Hán mà cụ thể là
những câu đối đã mang dấu ấn lịch sử lâu đời, đồng thời ngôi chùa cũng là di
tích lịch sử văn hóa.
a. Những tư liệu đề cập đến chùa Giác Lâm trước năm 1975:
Tư liệu sớm nhất được biết và đề cập đến chùa Giác Lâm là quyển Gia Định
thành thông chí của Trịnh Hoài Đức và Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử
quán triều Nguyễn biên soạn vào giữa thế kỷ XIX, trong Đại Nam nhất thống
chí có khoảng nửa trang đề cập đến vị trí của chùa Giác Lâm lúc bấy giờ thuộc
địa phận xã Phú Mỹ Thọ huyện Bình Dương và người Minh Hương là Lý Thụy
Long đứng ra quyên tiền xây dựng chùa, khi đó còn có tên là chùa Cẩm Sơn.
[Trang 1691; Đại Nam nhất thống chí]
Vào những năm cuối thế kỷ XIX, trong Ngũ gia Tông Phái ký toàn tập viết
về các tông phái Phật giáo ở Trung Quốc và khởi nguồn của Phật giáo Nam
Bộ, trong đó có một phần ghi chép về những sinh hoạt Phật giáo của một số
chùa ở Gia Định và chùa Giác Lâm. Hình thức sinh hoạt Phật giáo ở chùa Giác
Lâm vào thế kỷ XIX diễn ra rất sôi nổi và phong phú, diễn ra nhiều hình thức
như sinh hoạt “ứng phú”, tổ chức bên soạn và sao chép lại một số kinh luật,
mở “Phật học xá”, các trường hương, trường kỳ…
Vào những năm đầu thế kỷ XX, có học giả Vương Hồng Sển với công trình
Sài Gòn năm xưa, Huỳnh Minh với Gia Định xưa và nay, Vân Thanh với công
trình Lược khảo Phật giáo Việt Nam qua các thời đại và phát nguồn của các
giáo phái Phật giáo…
b. Những tư liệu đề cập đến chùa Giác Lâm sau năm 1975:
Sau 1975 việc tìm hiểu và nghiên cứu về các di sản văn hóa dân tộc đã được
các nhà nghiên cứu tìm hiểu và quan tâm đến, trong đó có đình, chùa, miếu…
Có nhiều bài viết của các tác giả trong nước đã đề cập về chùa Giác Lâm như:
Lược sử chùa Giác Lâm của Huệ Chí (1983), Chùa Giác Lâm của Nguyễn
Quảng Tuân (1987), Bộ tượng 18 vị La Hán chùa Giác Lâm, Chùa Giác Lâm
di tích lịch sử - văn hóa của Trần Hồng Liên (1991), Chí Thảo Tổ Đình Giác
Lâm (1991), Đặc điểm lịch sử và văn hóa của hệ thống kiến trúc chùa Giác
Lâm, luận văn cao học (1992), Pho tượng Quan Âm Chuẩn Đề chùa Giác Lâm
(1994), Chùa Giác Lâm, bối cảnh lịch sử hình thành và phát triển của Hồ Ngọc
Liên (1996), Chùa Giác Lâm di tích lịch sử - văn hóa của Trần Hồng Liên.
Như vậy, những ghi chép về chùa Giác Lâm đã được bắt đầu từ cuối thế kỷ
XIX. Đặc biệt, việc nghiên cứu không được đẩy mạnh từ những năm 90 của thế
kỷ XX trở lại đây. Các nghiên cứu đi trước đã có những thành công bước đầu
và đặt nền móng cho quá trình nghiên cứu về chùa Giác Lâm. Nhìn chung, số
bài viết và công trình nghiên cứu liên quan đến chùa Giác Lâm rất nhiều. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về văn hóa đặc
trưng của ngôi chùa. Thế nhưng, các vấn đề đặt ra điều mang tính chất gợi mở
và là những tư liệu khoa học quý giá giúp rất nhiều trong quá trình nghiên cứu.
Việc nghiên cứu những câu đối ở chùa Giác Lâm là sự kế thừa những tinh
hoa văn hóa và phát triển của những công trình nghiên cứu trước ở chùa. Điểm
phát triển của luận văn là những nét văn hóa đặc trưng qua kiến trúc, nghệ thuật
trang trí, điêu khắc mà đặc biệt là những câu đối của chùa Giác Lâm.
Luận văn đi sâu nghiên cứu và phân tích các yếu tố về những chữ Hán, đặc
biệt là những câu đối mà trước đây chưa ai đi sâu hoặc chưa ai đề cập tới nét
văn hóa đặc biệt ở ngôi chùa này.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu và phát triển để có được những hình thức về
văn hóa ngôi chùa. Đồng thời phát hiện quá trình chuyển biến văn hóa người
Hoa sang người Việt mà ở giai đoạn đầu là người Hoa (chủ yếu là người Minh
Hương) và người Việt. Từ đó xác định thêm sự gắn bó của người Việt - Hoa
trong lịch sử 300 năm ở Sài Gòn nói riêng và Nam Bộ nói chung.
3. Mục đích, yêu cầu:
Việc nghiên cứu trước hết phải vận dụng vốn chữ Hán đã tích lũy được để
xem xét, tìm hiểu những câu đối tại chùa, thỏa mãn nhu cầu đọc, phiên âm, dịnh
nghĩa, có nội dung và ý nghĩa như thế nào. Có như vậy thì mới hiểu và biết được
giá trị văn hóa của những câu đối và giá trị văn hóa của chùa Giác Lâm ở Thành
Phố Hồ Chí Minh, đồng thời giúp tôi hiểu rõ thêm về câu đối biết được những
phong tục tập quán để vận dụng câu đối không chỉ có trong văn chương, trong
sách vở mà còn phải đi xa ngoài thực tế và đồng thời bảo tồn, phát triển những
di sản văn hóa mà bao thế hệ đã gìn giữ cho đến ngày hôm nay.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Công trình nghiên cứu trước tiên đi nghiên cứu những câu đối ở chùa Giác
Lâm, hiểu được nội dung, ý nghĩa của câu đối, tiếp đó là tìm hiểu các yếu tố
văn hóa chữ Hán trong chùa và tập hợp lại để làm dữ liệu. Từ những dữ liệu ghi
chép đó ta sẽ đi sâu nghiên cứu ở từng nơi và phạm vi thời gian của công trình
nghiên cứu là những câu đối được khắc trên thân cột hiện đang tồn tại ở chùa
Giác Lâm. Những tư liệu được dẫn trong công trình nghiên cứu đó là những sưu
tầm mà tôi phải rất cố gắng mới có được những tư liệu quý báo như thế.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Từ việc nghiên cứu ở góc độ khoa học, vì thế tôi rất chú trọng việc quan sát
nghiên cứu một cách khoa học. Trước tiên tôi sử dụng phương pháp chọn điểm
chùa, trong khi đó tôi tìm hiểu một số vấn đề như yếu tố văn hóa và trong đó
câu đối là đặc trưng, tìm hiểu nơi nào có thể đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, tôi đã
chọn phương pháp tham gia với tư cách là một người quan sát ghi chép, chụp
ảnh và phương pháp phỏng vấn. Tôi đã sử dụng phương pháp ghi chép, phân
tích, so sánh, tổng hợp để có thể hoàn thành tốt trong công việc nghiên cứu cũng
như hoàn thành tốt bài luận văn.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
CHÙA GIÁC LÂM MỘT DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA
1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành chùa Giác Lâm:
Thế kỉ XVI (1558), Đoan quận công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận
Hóa. Từ đây nhiều đợt di dân đưa người Việt tiến dần về Phương Nam khai
hoang vùng đất mới. Trong số đó có những nhà sư người Việt và cả nhà sư
người Trung Hoa theo chân đoàn người “Bài thanh, phục Minh” mà đến Trung
bộ và Nam bộ. Từ những ngày đầu của cuộc di dân, Phật giáo đã lan tỏa xuống
các vùng Biên Hòa, Gia Định, Mỹ Tho…
Bấy giờ, vùng đất Đồng Nai - Gia Định (nay thuộc vùng đất Nam bộ) còn
hoang vu, kênh gạch chằng chịt, khí hậu nhiệt đới ẩm, đã gây không ít khó khăn
cho buổi đầu của cuộc di dân.
Do dân số nhập cư ngày càng đông, cùng với sự gia tăng tại chỗ làm cho
vùng đất Gia Định – Tân Bình vào cuối thế kỷ XVII trở thành một trung tâm trù
phú, với khoảng 200.000 dân. Năm 1758, Nguyễn Hữu Cảnh đã phân chia lấy
Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm
huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn.
Với sự nhập cư của người Việt, khu vực Gia Định – Tân Bình sớm trở thành
một trung tâm thương mại là đầu mối giao thông qua cửa sông Sài Gòn, kéo
theo sự tụ cư của nhiều dân tộc bản địa các nước vùng với dân bản địa Khmer.
Trong bối cảnh xã hội đó, phát triển nhiều mặt về kinh tế: diện tích khai
khẩn được mở rộng, sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển…
Cùng với những hình thức tính ngưỡng. Nhiều ngôi chùa của người Việt được
xây dựng, miếu thờ thần, hội quán của người Hoa cũng được mọc lên. Hai trong
số các thiền sư Trung Hoa theo đoàn di dân vào Phương Nam, được xem là sư
Tổ của Phật giáo Đàng Trong là Thiền sư Bổn Quả, thuộc đời thứ 32 và Thiền
Sư Nguyên Thiều thuộc đời thứ 33 của dòng Lâm Tế vốn phát sinh từ Trung
Quốc. Nhiều thế hệ đệ tử của hai Thiền sư này đã đặt dấu chân hoằng hóa của
mình dọc theo bờ sông Đồng Nai, như chùa Phổ Quang, Đại Giác, Bửu Phong…
và dần vào vùng đất Gia Định với các chùa Từ Ân, Khải Tường, Giác Lâm…
Song song với những quá trình nhập cư và cộng cư của các dân tộc người
Việt, Khmer, Hoa, Chăm… thì xu thế Việt hóa vẫn tiếp tục diễn ra. Nhiều người
Trung Hoa đã đến vùng đất Gia Định, chọn nơi đây làm quê hương của mình
cùng người Việt khắc phục những khó khăn của buổi đầu lao động sản xuất.
Hoạt động kinh tế phát triển cùng với nhu cầu tinh thần mang tính bức thiết của
lưu dân cần có để cúng bái, cầu an, cầu siêu… đã đưa đến sự ra đời của các ngôi
chùa do người Minh Hương quyên tiền xây dựng. Chùa Giác Lâm một trong
những ngôi chùa có tiếng của vùng đất Gia Định được hình thành trong bối cảnh
này.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển chùa Giác Lâm:
Mùa xuân năm Giáp Tý (1744), đời vua Thế Tôn thứ 7, người xã Minh
Hương là Lý Thụy Long quyên tiền của xây dựng nhà chùa trang nghiêm, cửa
thiền u tịch. Đó là cảnh quan thơ mộng và thanh tịnh, nơi đã được chọn để xây
dựng một ngôi chùa của người Minh Hương tại vùng đất Gia Định mang tên
Cẩm Sơn, còn gọi là Sơn Can hoặc Cẩm Đệm.
Ở buổi đầu thành lập chùa, Cẩm Đệm là một ngôi chùa nhỏ, nhưng không
lâu chùa đã thu hút được “Tao nhân mặc khách”, những người Minh Hương
trong vùng đến đàm đạo, ngắm trăng, ngâm vịnh hay đón thi nhân, du khách
mỗi lần đến Thanh minh, Trùng cửu rãnh rỏi thì mở tiệc để thưởng hoa, uống
chén mà ngâm vịnh, nhìn chợ búa rộn ràng.
Hiện nay, chùa Giác Lâm nằm theo hướng Bắc Nam, chính điện hướng
về phía Nam, cách trung tâm thành phố khoảng 6 cây số trên đường Lạc Long
Quân, số 118, phường 10, quận Tân Bình, Thành Phố Hồ Chí Minh.
Từ khi thành lập chùa (1744) đến 1772 chùa Cẩm Đệm mang chức năng của
một niệm Phật đường, là nơi vãng cảnh, lễ bái của khách thập phương chứ chưa
có Tăng sĩ trụ trì. Mãi đến 1774, Thiền Sư Viên Quang về trụ trì chùa Cẩm Đệm
và đổi tên thành chùa Giác Lâm. Với trình độ Phật giáo uyên thâm của mình,
Thiền sư Viên Quang đã tạo ra được sinh hoạt mới mẻ trong chùa.
Chùa Giác Lâm từ đấy đến nay đã trải qua gần 300 năm. Đó là một thời gian
khá dài, ngôi chùa được trùng tu và được 8 đời Thiền sư kế thế trụ trì.
Lần trùng tu lần thứ nhất vào năm 1798 do Thiền sư Viên Quang đứng ra
tiến hành cuộc đại trùng tu, kéo dài 6 năm kết thúc vào năm 1804 diện tích chùa
được mở rộng. Bộ tượng thờ không còn phù hợp với kiến trúc, nên một loạt bộ
tượng mới được tạo tác với kích thước lớn hơn, các cột quý được đưa về tạo cho
ngôi chùa vẻ uy nga tráng lệ, cột nào cũng được chạm khắc phù điêu và nổi bật
là các câu đối. Đặc biệt kỉ niệm lần trùng tu này là câu đối đặt tại chính điện:
“Đại hùng điện thượng diễn tam thừa, chúc Hoàng vương thánh thọ,
nguyện quốc thái dân an,
Vạn pháp đài trung tuyên tứ đế, báo phật tổ hồng ân kỳ phong điều vũ
thuận”.
Sau khi trùng tu xong, tổ Viên Quang tiếp tục giảng kinh luật trở lại, Chư
Tăng các tỉnh về học rất đông. Phái Thiền, chi phái Lâm Tế, dòng đạo Bổn
Nguyên được Thiên sư quy y, vẫn tiếp tục truyền thừa theo bài kệ:
“Đạo Bổn Nguyên thành Phật tổ tiên
Minh như hồng nhật lệ trung thiên
Linh nguyên quảng nhuận từ phong phổ
Chiếu thế chân đăng vạn cổ huyền”.
[Trang 15; Chùa Giác Lâm di tích lịch sử văn hóa]
Mùng 3 tháng chạp năm Đinh Hợi (1827) Hòa Thượng Viên Quang viên tịch
tại chùa Giác Lâm để nhớ công ơn của Hòa thượng, đệ tử đã khắc liễn ca ngợi:
“Sanh tiền giáo dưỡng đắc nhân, vô tử nhi hữu tử
Một hậu thinh danh tại thế, tuy vong dã bất vong”
(Lúc sống dạy bảo được người, không con như có con.
Khi chết tiếng để đời, tuy mất mà không mất).
Thiên sư Viên Quang đã có công đã có công đầu trong việc đặt nền móng
Phật giáo chính là Thiền sư Hải Tịnh. Thiền sư đã thay thế Tổ Viên Quang trụ
trì chùa Giác Lâm sau khi Tổ viên tịch. Năm 1844, Thiền sư đã đứng ra thành
lập trường hương đầu tiên tại chùa Giác Lâm. Đến 1849, lại khai mở trường kỳ.
Trong lần trùng tu chùa Giác Lâm tại bến Hố Đất (nay là đường Lạc Long
Quân thuộc quận Tân Bình, Thành Phố Hồ Chí Minh), chùa đã dựng lên một lều
nhỏ, ngôi lều ấy sau này là Quan Âm các. Đến năm 1850, Thiền sư Hải Tịnh đã
chính thức đổi thành chùa Giác Viên.
Từ ấy, hai chùa cùng phát triển. Mỗi lư hương, chân đèn ở hai chùa đều có
chạm nổi “Giác Viên” và “Giác Lâm” bằng Hán tự.
Thời kì Pháp đánh chiếm Gia Định, các chùa cổ như Từ Ân, Khải Tường,
Kiểng Phước, Cây Mai… đều nằm trong phòng tuyến của Pháp, trước đó bị
hư hoại. Riêng hai chùa Giác Viên và Giác Lâm do ở xa phòng tuyến nên còn
nguyên vẹn.
Thời trụ trì Thiền sư Hải Tịnh, hoạt động Phật pháp của hai chùa được đẩy
mạnh, ngoài vai trò là Phật học viên, đào tạo Chư Tăng về kinh điển giới luật ở
Giác Lâm và đào tạo ứng phú ở Giác Viên, hai chùa còn là nơi khai mở Trường
hương, Trường kỳ. Thông qua hoạt động của Thiền sư Hải Tịnh, Phật giáo Gia
Định đã có mối giao lưu và ảnh hưởng đến Phật giáo Trung Bộ, cả ở Miền Tây
Nam bộ.
Từ năm 1873 – 1903, là thời kì là thiền sư Hoằng Ân Minh Nghiêm làm
trụ trì, bên cạnh việc đào tạo về kinh điển và giới luật cho Tăng sĩ, còn là nơi
in ấn, sao chép kinh sách, cho khắc bản gỗ kinh, luật là liễn Nôm một số sách
Phật giáo, như tác phẩm bằng thơ lục bát dưới dạng chữ Nôm, tập Hứa sử vãn
truyện; chép tay bộ kinh pháp Hoa; tóm tắt lại bộ Luật Trường Hàng. Chùa Giác
Lâm cũng là nơi tàng bản kinh sách Phật giáo. Một số sách Phật giáo cũng được
các Hòa Thượng thuộc chùa “chứng minh” trước khi in ấn. Thời gian này, việc
truyền bá Phật pháp tại nhiều chùa ở Mỹ Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long, An Giang,
Hà Tiên cũng được Thiền Sư thực hiện.
Năm 1900, Thiền sư Hồng Hưng Thạnh Đạo, thuộc đời thứ 40, đã đứng ra
trùng tu lần thứ hai ngôi chùa Giác Lâm. Lần trùng tu này thay đổi một số nét
kiến trúc như: xây vòng rào, lót gạch ở chính điện, làm lại vách nhà Tổ, trang trí
nền vách chùa bằng sành sứ… Tất cả đều do óc thẫm mỹ của Thiền sư. Các bao
lam tại chính điện cũng được chạm khắc vào giai đoạn này, kiến trúc diện mạo
của ngôi chùa đã được định hình. Hiện trạng chùa hiện nay vẫn còn giữ những
đường nét của lần tái thiết vào đầu thế kỷ XX.
Thời gian Pháp chiếm đóng Gia Định và Nam Kỳ, dù rằng đã có một số
công trình kiến trúc Phật giáo đã bị phá hủy, nhưng đây lại là thời kỳ có nhiều
luồng văn hóa từ Phương Tây được du nhập, đã ảnh hưởng nhất định đến kiến
trúc và phong cách nghệ thuật của chùa Giác Lâm trong lần trùng tu lần thứ hai
này.
Giai đoạn những năm 1939 – 1945, cuộc trùng tu lần thứ 3 đã được tiến
hành. Chủ yếu là việc xây dựng vách chắn của chùa cho dày hơn, xây thêm
vòng rào thứ hai bên trong; chạm cẩn thêm các đĩa trên vách chùa; đặt lại vị trí
một số bàn thờ nhà Trai. Vị trí bàn thờ vong hiện nay trước 1940 là liêu phòng
của các Thầy và trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đây là nơi trú ẩn khá an
toàn cho các Thầy hoạt động cách mạng.
Năm 1946, theo di chúc lập sẵn của Hòa Thượng Hồng Hưng, Thiền sư Nhật
Dần Thiện Thuận được giữ chức trụ trì chùa Giác Lâm. Thời gian này một số
Tăng sĩ thuộc chùa đã lên đường kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế Quốc
Mỹ. Chùa có hầm bí mật đặt tại chùa Đức Lâm (Quận Tân Bình, Thành Phố Hồ
Chí Minh).
Năm 1953, Đại đức Narada từ Srilanka sang tặng cho Giáo hội Phật giáo
cổ truyền Việt Nam một cây Bồ Đề và viên ngọc xá lợi Phật, Văn phòng giáo
hội đặt tại chùa Giác Lâm. Cây Bồ Đề được ngài Narada đích thân đặt vào chậu
hoa, khi cây lớn đặt ở trước sân chùa. Xá lợi đưa vào chùa làm lễ xong được đưa
về chùa Long Vân (Quận Bình Thạnh hiện nay), vì lúc đó chùa là trụ sở của Lục
Hòa Phật Tử.
Hòa thượng Thiện Thuận đã cúng dường một mẫu đất trước sân chùa để xây
Tháp để thờ xá lợi Phật. Công cuộc xây dựng tiến hành vào tháng 2 – 1970, bảo
Tháp dự kiến đặt xá lợi Phật và linh vị các chư tôn Hòa thượng Tổ sư tiền hiền
quá vãng thuộc tông phái Phật giáo, nên có tên gọi “Ngũ Gia tông phái”. Lễ đặt
viên đá đầu tiên vào ngày 29 – 11 – 1970, xây Tháp 7 tầng. Việc Xây dụng tiến
hành đến năm 1975 thì bị ngưng truệ. Lúc ấy mới đặt nền móng của tầng trệt.
Sau khi Hòa thượng Thiện Thuận viên tịch, chùa Giác Lâm được giáo thọ
Huệ Sanh nối tiếp Tổ Đình Giác Lâm, dưới sự tổ chức của thượng tọa Huệ Sanh
ngày càng có nhiều hoạt động văn hóa – xã hội Phật giáo.
Năm 1990, Thượng tọa đã phối hợp cùng với sở văn hóa – thông tin, phòng
văn hóa - thông tin quận Tân Bình và chuyên gia nghiên cứu Phật giáo lập lại
Tổ Đình Giác Lâm, đã tổ chức hội thảo khoa học tại chùa. Sau đợt lập lại hồ
sơ, một số tình hình về ngày sinh hoạt của chùa và tư liệu về chùa Giác Lâm từ
ngày thành lập đến nay được giữ trong hai quyển sổ lớn phục vụ khách tham
quan trong và ngoài nước.
Việc trùng tu các ngôi Tháp cổ, xây thêm hàng rào và tráng nền cho lối đi
vào Tháp cũng được thượng tọa Huệ Sanh tiến hành vào năm 1992, từng bước
giải tỏa các hộ dân đã chiếm đất chùa trong thời gian dài có chiến tranh (1968 –
1975); đem lại cho Tổ Đình một di tích lịch sử - văn hóa được Nhà Nước công
nhận vào ngày 16 – 11 – 1988, một cảnh quan mới mẻ.
Một cuộc trùng tu nữa được tiến hành làm đẹp thêm cho di tích Quốc gia.
Mái ngói chùa được làm từ lò gạch ở Đồng Tháp theo đúng quy cách và chất
lượng ngói cổ, làm lại diềm mái, quét vôi lại các Tháp Tổ, thay mới một số
sườn, rui bị hư, đặt thêm một số kính trên mái giúp thêm ánh sáng cho ngôi
chính điện và nhà trai.
Sau ngày giải phóng, tiếp nối truyền thống xưa, một lớp bổ túc giáo lý cơ
bản cho Chư Tăng Ni khắp nơi về tu học đã được khai mở. Cuối 1992, thượng
tọa cũng phối hợp với Ban Đại diện Phật giáo quận Tân Bình mở thường xuyên
các buổi thọ bát quan trai vào ngày chủ nhật hàng tuần, tạo điều kiện cho cư sĩ
Phật tử làm quen dân với nếp sống tăng già.
Ngày 17 – 4 – 1993, tại chùa Giác Lâm, lễ khởi công tái chế thiết bảo Tháp
Xá lợi được tiến hành, đến ngày 9 – 5 – 1994 (năm Giáp Tuất), lễ khánh thành
và cung nghinh xá lợi Phật đã được tổ chức trọng thể tại Tổ đình với gần 10.000
người tham dự.
Là một di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia, chùa Giác Lâm được cục bảo
vệ di tích hỗ trợ kinh phí nâng cấp trùng tu thường xuyên. Hàng năm chùa đón
nhận hàng triệu lượt du khách tham quan trong và ngoài nước đến chiêm bái, lễ
phật, nghiên cứu, tìm hiểu thêm về các mặt văn hóa, kiến trúc, lịch sử, phong
cách nghệ thuật của các tượng tròn, phù điêu, bao lam, hoành phi, câu đối… mặt
dù đã gần 300 năm trôi qua nhưng vẫn còn khá nhiều đề tài khá nhiều câu hỏi,
cùng những vấn đề khoa học lý thú mời gọi các nhà nghiên cứu đến chùa Giác
Lâm để góp phần làm sáng tỏa hơn nữa một kho tàng lịch sử - văn hóa mà hiếm
có chùa nào ở Nam bộ có thể sánh được.
1.3. Đặc điểm di tích lịch sử - văn hóa chùa Giác Lâm:
Để có được nhận thức đầy đủ về ngôi chùa cổ đã từng tồn tại gần 300 năm
qua, thấy được phần nào những nét mỹ thuật thể hiện qua kiến trúc, bao lam,
hoành phi, tượng tròn, liễn đối… qua đó có thể thấy rõ được đặc điểm của ngôi
chùa dưới khía cạnh lịch sử và văn hóa đã làm cho chùa Giác Lâm trở thành
ngôi chùa mang tính tiêu biểu cho chùa ở Nam bộ.
1.3.1. Ý nghĩa tên chùa Giác Lâm:
“Giác Lâm” có một ý nghĩa cao siêu đó là “Rừng giác ngộ” bởi buổi đầu
chùa không có Cổng Tam Quan và hàng rào ngôi chùa như hòa vào thiên nhiên
trải rộng của đồng bằng Nam bộ. Theo lời kể của các vị Tổ cho biết chỉ có lũy
tre ngoài vườn chùa, bên cạnh các loại cây ăn quả trồng xen nhau như: lê-ki-ma,
nhãn, xoài, vú sữa… một mãnh đất nhỏ phía dưới trồng rau xanh. Ngoài ra, lẫn
vào đám cỏ dại um tùm mọc lan tràn quanh năm là loại dây leo mà đặc biệt nhất
là dây giác (dây giác là một loại dây leo, lá giống lá nho, trái giống trái nho,
nhưng phần đầu mỗi trái đều lõm vào. Khi chưa chín màu xanh, khi chín có màu
nâu đỏ, ăn có vị chua chát, có người gọi là nho rừng). Bên cạnh đó còn có một ý
nghĩa khác, cụ thể và nôm na là một rừng dây giác bao quanh đây khi vị Thiền
sư là Viên Quang về trụ trì chùa đã gợi ý thêm cho Thiền sư trong việc quyết
định đổi tên chùa Cẩm Đệm.
1.3.2. Kiến trúc về chùa:
Đa số các chùa cổ ở Nam Bộ lúc đầu mới khởi dựng đều từ một am nhỏ như:
chùa Bửu Phong (Đồng Nai), chùa Vạn An (Đồng Nai…). Trải qua nhiều lần
trùng tu, phần lớn các ngôi chùa không còn giữ nguyên vẹn kiến trúc của buổi
ban đầu. Hầu hết đã có sự cải biên, nhiều chùa chỉ còn lại bộ khung gỗ, rui mè
như: chùa Long Bàn (Bà Rịa - Vũng Tàu), chùa Giác Viên, chùa Phụng Sơn
(Quận 11-Thành Phố Hồ Chí Minh), chùa Phước Tường (Thủ Đức), chùa Vĩnh
Tràng, chùa Bửu Lâm (Tiền Giang). Kiến trúc chùa Giác Lâm tuy không còn
vách gỗ phía bên ngoài như chùa Hội Khánh (Bình Dương) nhưng chùa vẫn giữ
lại những nét văn hóa đặc trưng của ngôi chùa Phật giáo ở Nam bộ.
1.3.2.1. Kiến trúc bao quanh chùa:
a. Cổng nhị quan:
Từ ngoài nhìn vào là cổng Nhị quan, là nét đặc sắc trong kiến trúc chùa,
được dựng lên vào năm 1939. Lúc trước, chùa không có cổng Tam quan do đó
cổng Nhị quan được xem là cổng chính của chùa. Cổng được dựng lên theo
phong cách đặc biệt, độc đáo, có lẽ là cổng đặc biệt nhất so với các chùa ở Nam
bộ, cũng như cả nước.
Vị trí cổng Nhị quan được đặt trước chùa, ngay lối vào sân chùa và chính
điện, nếu tính theo trục thẳng từ ngoài vào thì cổng khá cao, thiết kế ảnh hưởng
nhiều của kiến trúc phương Tây, nhưng cũng có nhiều yếu tố văn hóa khác. Hai
cổng hay bên có lối đi hẹp, được ngăn cách bởi một tấm bình phong bằng gạch
xây ở giữa khoảng gần 6m chiều cao.
Bình phong có chân đế trang trí dạng chân quỳ, tiếp nối với bức chắn lại
bằng gạch trơn không có hoa văn. Đầu tiên là dòng chữ Hán khắc theo chiều
ngang: “Bảo trụ thần phan” ở mặt trước, nối với phần này là dạng kiến trúc tựa
như mái che, hay bên có hai sư tử ngồi dạng chầu hầu. Tầng trên là một bức
bình phong có kích thước nhỏ hơn trang trí đầu rắn Naga cách điệu phía trước
hai sư tử. Bức bình phong này có mặt trước khắc dọc hàng chữ Hán: “Ô Quang
thái tử”, phía sau bình phong cũng khắc hàng chữ Hán: “Ô Minh thái tử”. Trên
bình phong là mái ngói nhỏ có đặt một bình bằng sứ. Khoảng cách giữa hay
cổng và bình phong là hàng rào có song chắn. Toàn bộ cổng Nhị quan nổi bật
lên nền xanh um tùm của cội bồ đề phía sau.
Để thấy hết giá trị và ý nghĩa lịch sử - văn hóa của cổng Nhị quan này thì
cần tìm hiểu về những hàng chữ Hán, cũng như chức năng của cổng này, nơi mà
hàng năm vào 30 tết vị trụ trì đã đích thân ra dán hàng chữ Hán: “Thiên hạ thái
bình, nhân dân an lạc”, “Thượng phương vĩnh thịnh, quốc thái dân an”.
Tam quan là cổng vào các ngôi chùa, thường được thiết kế dạng có 3 lối vào
thể hiện: không quan, trung quan và giả quan trong giáo lý Phật giáo.
Cổng Nhị quan tại chùa Giác Lâm được xây dựng bỏ đi phần trung quan tức
phần ở giữa. Thông thường đây là lối vào chính, quan trọng phải là những ngày
đại lễ mới mở, phải là những người đặc biệt quan trọng mới đi vào chùa bằng
lối này. Nay thiết kế cổng vào hay bên chắn lại phần cửa chính, đều đó thể hiện
một sự phản kháng đặc biệt… đó là sự phản kháng lại ách áp bức, nô dịch dân
tộc dưới thời pháp, mà cụ thể là những “quan Tây” đã đến chùa không có cổng
chính để vào bắt buộc phải đi bằng lối nhỏ hẹp hai bên.
Phủ nhận, phản kháng áp bức dân tộc bằng hình tượng cổng Nhị quan (xây
dựng 1939), đồng thời khẳng định tinh thần dân tộc. Tinh thần đó bày tỏ qua sự
sắp xếp có chủ ý của kiến trúc và hoa văn trên bình phong và cả trên hàng chữ
Hán, tượng trưng cho một sự khẳng định tuyệt đối “Bảo trụ thần phan”. Đây là
con sư tử chầu hầu, hoa văn chữ vạn, hoa sen, lá đề là những nét thể hiện của
văn hóa Ấn Độ. Kia là đầu rắn Naga cách điệu là dấu ấn của văn hóa Khmer, rồi
những hàng trụ cột vuông chân cổng dạng chân quỳ… là nét độc đáo của trang
trí Tây phương bên cạnh những dòng chữ Hán. Những yếu tố biểu trưng đó là
những lớp văn hóa mà trong quá trình giao lưu dân tộc Việt Nam ta đã biết giữ
lại được bản sắc, tính dân tộc của mình.
Ngoài ý nghĩa là biểu tượng của sự phản kháng áp bức dân tộc và sự khẳng
định tính dân tộc, cổng Nhị quan của chùa Giác Lâm còn thể hiện tinh thần nhập
thế của Phật giáo Nam Bộ. Ý thức của chư Tăng về sự dung hợp giữa đạo và
đời, giữa chân đế và tục đế. Cổng Nhị quan chùa Giác Lâm đã được xây dựng
vào giai đoạn không ít Tu sĩ trẻ trong chùa đã “ Cởi áo cà sa khoác áo chiến
bào”, đồng thời cầu mong “ Thiên hạ thái bình” và “ Nhân dân an lạc”.
b. Cổng Tam quan:
Cổng Tam quan chùa Giác Lâm được xây dựng vào năm 1955, mỗi cổng
đều có mái che, lợp ngói các đầu đao gắn hoa văn trang trí, diềm mái lá đề màu
xanh thẫm nổi bật lên cạnh hàng ngói đỏ. Tam quan tượng trưng cho không
quan, giả quan và trung quan và còn có ý nghĩa của tam giả thoát ấn, tam pháp
ấn (không, vô tướng, vô nguyện). Trên cổng giữa khắc ba chữ Hán: “Giác Lâm
Tự”, hai bên chạm hai câu đối:
“Giác hộ quảng khai từ thiện đồng lai quy hướng Tổ
Lâm tuyền phổ nhuận ngộ mê cộng hưởng tuệ vi đình”.
Hai câu đối có chữ đầu và chữ cuối hợp lại là “Tổ Đình Giác Lâm”.
c. Miếu Linh Sơn Thánh Mẫu:
Miếu Linh Sơn Thánh Mẫu nằm trong khuôn viên chùa Giác Lâm, bên phải
chùa từ ngoài nhìn vào.
Hiện nay, chưa rõ Miếu được xây dựng vào năm nào. Theo lời kể, trước
đây Miếu là ngôi nhà nhỏ lợp lá, sau này khi tái thiết, trùng tu thì Miếu được
sửa sang lại, diện tích cũng được nới rộng ra thêm. Miếu được sửa lại vào năm
1939, ngoài bàn thờ chính trong Miếu đặt Linh Sơn Thánh Mẫu, còn thờ năm
bà: Bà Ngũ Hành, Bà Chúa Tiên, Bà Chúa Ngọc và Quan Âm. Tất cả được làm
bằng gỗ, mặt bàn thờ lát đá trắng có cẩn đĩa kiểu. Sau bàn thờ, trên tường vẽ
cảnh mây, rồng, núi… làm nền.
Gian ngoài thờ Quan Thánh Đế Quân, bên trái đặt một chuông lớn. Trước
Miếu là hệ thống hành lang bao bọc, mái Miếu cũng được trang trí lưỡng châu
chầu nguyệt và được lợp ngói đỏ.
Mặc dù tên gọi là Linh Sơn Thánh Mẫu, nhưng hệ thống tượng thờ có thể
thấy Miếu tập trung đa số nữ thần hiện đang thờ tự ở Nam bộ. Phần nào qua
kiến trúc Miếu cũng cho thấy có ảnh hưởng kiến trúc phương Tây với nền Miếu
cao, bật thang thấp, hành lang bao quanh.
1.3.2.2. Kiến trúc chùa chính:
Chùa có câu trúc mặt bằng dạng chữ “tam” (三), ở miền Nam gọi là nối đọi.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, kiến trúc này là sự biến thể từ dạng kiến trúc “Nội
công ngoại quốc” là sự kế thừa nhiều ngôi nhà cổ ở miền Bắc. Sườn nhà cho
thấy có sự kết hợp của loại nhà sườn ở miền Bắc và sườn nhà đâm trích cột kê
ở miền Trung. Loại hình kiến trúc theo bình diện của ngôi nhà trong kiến trúc
chùa Giác Lâm gồm có hai loại: Loại bình diện nền nhà vuông và loại bình diện
nền nhà hình chữ nhật. Loại nhà có loại hình bình diện nền nhà vuông là nét văn
hóa tôn giáo. Loại hình nền nhà hình chữ nhật là kiến trúc cổ truyền mang nét
văn hóa Á Đông.
a. Chính điện:
Có hành lang phía trước, hai bên tả hữu là hồi lang bao bọc kiến trúc gian
này gần như vuông, chia làm năm gian, kết cấu sườn mái kiểu tứ tượng (tứ trụ);
và tỏa ra thành tám phần mái dạng bát quái. Mái được kết hợp dạng bốn mái
nhọn dần phía trên, còn gọi dạng mái hình bánh ít, mỗi đầu kèo ở hàng tư đều
tạc đầu rồng. Trích đẻo lục giác, mái lợp ngói máng xối (âm dương). Hàng cột
hai bên tả hữu chính điện được thay bằng lớp tường dày 30cm.
Bên cạnh sự kế thừa kiểu nhà “đâm trích cột kê” của miền Trung ở các chùa
cổ, chùa Giác Lâm đã có sự biến đổi đôi chút, như chỉ làm cột kê đá xanh ở
những nơi tiếp xúc với mưa nhiều như hàng hiên chùa, các nơi khác cũng có.
Bên trong chính điện có nhiều bao lam, hoành phi, liễn đối sơn son thiếp
vàng, chạm chỗ công phu, với nhiều đề tài, thể loại khác nhau. Mỗi hiện vật
được tạo vào giai đoạn khác nhau.
b. Nhà Tổ:
Sau lưng chính điện là bàn thờ Tổ; treo ảnh các vị Tổ từ thế hệ 33 đến 41
các bài vị được đặt rất trang trọng. Đặc biệt, tại bàn Tổ còn đặt bài vị của người
Minh Hương đã đứng ra xây dựng chùa.
c. Nhà trai:
Là phần tiếp nối gian chính điện, trước kia gian này dùng là giảng đường.
Đặc biệt hai bên phải và trái của gian này được nối kéo thành hai dãy Tăng
phòng. Nơi đây đặt hai dãy bàn theo chiều dọc thờ Phật tử quá vãng, bàn đầu
chư Tăng thọ thực là bàn Chuẩn Đề. Đây là bàn thờ được dời từ nơi thờ các Tổ
xuống nhà trai thời Hòa Thượng Hồng Hưng. Gian nhà trai cũng đặt hai bàn thờ,
bên trên lưu giữ lại một số tượng cổ thuộc chùa, trước kia đã đặt chính điện.
Tại gian này hiện vẫn còn bài vị của một số dòng họ lớn, người Minh Hương
như bài vị dòng họ Quách Đàm, người đã đứng ra xây dựng chợ lớn vào thế kỷ
XIX.
d. Nhà giảng giáo lý:
Nối tiếp nhà trai, cách một sân nhỏ, hai bên có hai dãy hành lang mái ngói
dẫn xuống nhà giảng giáo lý. Đây là dãy nhà ba gian hai chái sườn cũng “đâm
trích cột kê”, hàng cột trước của gian xây gạch nhìn ra hòn non bộ, hàng cột
phía sau là tường ngăn nhiều phòng làm Tăng phòng, trước đây khu vực này là
trai đường. Từ năm 1991, làm phòng học cho lớp giáo lý căn bản đến năm 1994
lớp học được dời ra phía trước chùa, cạnh tháp Ngũ Gia tông phái.
1.3.3. Kiến trúc về Tháp:
Tháp ở chùa Giác Lâm có kiến trúc đặc biệt của Phật giáo, thể hiện đầy đủ
kiến trúc văn hóa Phật giáo qua kiến trúc của ngôi Tháp và biểu tượng, ý nghĩa
của một số cạnh Tháp.
1.3.3.1. Tháp “Ngũ Gia tông phái”:
Tháng 2 – 1970, Giáo hội Phật giáo Lục Hòa Tăng Việt Nam quyết định
khởi công xây cất Tháp, Hòa thượng Thích Thiện Thuận đã cúng dường một
mẫu đất trước cả cổng Tổ đình để xây dựng tháp. Bảo tháp được dự kiến đặt xá
lợi và linh vị các chư tôn Hòa thượng Tổ sư tiền quá vãng thuộc tông phái Phật
giáo, nên có tên gọi là “Ngũ Gia tông phái”.
Tháp gồm 7 tầng, lục giác, mỗi tầng đều có mái ngói, cửa vào. Đỉnh tháp
hình chóp dù, giữa đỉnh là tòa sen nở, trên đóa sen có bình tịnh thủy và mặt
trước quay về phía Bắc.
Tầng dưới cũng đặt tượng Quan Âm Nam Hải, bên trong đặt tượng Di Đà
Tam Tôn. Các câu đối được khắc liền vào cột, trong đó có cặp đối:
“Việt địa chủng phù đồ nhân dân chủng phước
Nam thiên thùy pháp vũ thế đạo viết Long”
Tầng hai tôn trí tượng Thích Ca mâu Ni, tầng ba đặt tượng Dược sư Lưu
Ly Quang Phật, tầng bốn có tượng Chuẩn Đề, tầng năm đặt tượng Di Lặc Tôn
Vương Phật, tầng sáu đặt tượng Trung Tôn Giáo Chủ và tầng cuối đặt xá lợi
Phật trong tháp bằng vàng treo trên nóc tháp, xung quanh chạm chín con rồng
chầu hầu.
1.3.3.2. Tháp Tổ:
Nét riêng của Tháp ở chùa Giác Lâm thể hiện qua việc bố trí mặt bằng các
khu tháp mộ, cũng như trong từng khu vực. Hiếm có ngôi chùa nào trong thành
phố còn lưu giữ được các tháp mộ của các vị trụ trì theo một hệ truyền thừa liên
tục như ở chùa Giác Lâm được coi là những tháp cổ của Nam bộ vẫn còn lưu
giữ những nét đặc trưng kiến trúc tháp mộ của hai thời gian khác nhau: tháp mộ
được xây dựng vào nửa đầu thế kỷ XIX và tháp mộ xây dựng vào đầu thế kỷ
XX. Như các tháp: Tháp tổ Viên Quang, tháp tổ Phật Ý, tháp tổ Hải Tịnh, tháp
tổ Minh Vi, tháp tổ Thiện Thuận, tháp tổ Minh Khiêm, tháp tổ Hồng Hưng. Bên
cạnh đó, có những câu đối và những bài thơ bằng chữ Hán được khắc trên tháp.
1.3.3.3. Đặc điểm các tháp ở chùa Giác Lâm:
a. Số lượng:
Hiện nay toàn chùa có 38 tháp và mộ, phân bố trên 3 khu vực chính: trước
chùa, khu tháp Từ Vân và khu tháp Tổ.
b. Phong cách nghệ thuật:
Giai đoạn đầu các tháp Tổ ở chùa Giác Lâm chú trọng vào việc tạo dạng là
chính, thấy sự đơn giản, dung dị. Hoa văn tập trung chủ yếu bên ngoài rào tháp,
với hệ thống tứ linh, tứ quý, cuốn thư, trang trí bằng chữ Hán dạng bài minh,
trên bia là những bài kệ nổi tiếng hay môtip “ngư hóa long”.
Trang trí bia tháp cũng có sự thay đổi theo thời gian về cả nội dung và hình
thức bia. Phong cách nghệ thuật trên các tháp chùa Giác Lâm mang yếu tố dung
hợp các luồng văn hóa, thể hiện giao lưu văn hóa mạnh mẽ của các cộng đồng
tộc người đang sống cộng cư ở Nam bộ như Khmer, Việt, Chăm… và phần nào
yếu tố phương Tây (Pháp) và phương Đông (Trung Quốc, Ấn Độ). Bên cạnh sự
dung hợp mạnh mẽ các yếu tố văn hóa nhiều nơi như vậy, tính chất địa phương
và dân tộc vẫn được thể hiện. Các tháp cổ chùa Giác Lâm có tuổi đời khá cao và
nằm trong ngôi chùa cổ nhất Thành Phố Hồ Chí Minh nên nó đã trở thành một
hiện vật có giá trị lịch sử giúp các nhà nghiên cứu tìm thấy được bước đi của
lịch sử in ấn trên các phong cách kiến trúc này. Những ngôi tháp này còn cho
thấy quá trình giao lưu văn hóa giữa các dân tộc ở địa bàn Nam bộ diễn ra khá
mạnh mẽ và liên tục hàng trăm năm qua.
c. Niên đại:
Các tháp có niên đại khác nhau, tháp cổ nhất của chùa là Tháp tổ Viên
Quang được xây vào đầu thế kỷ XIX (1827), một số tháp khác cuối thế kỷ XIX
(tháp tổ Hải Tịnh: 1875); tháp tổ Minh Khiêm: 1914); tháp tổ Hồng Hưng (giữa
thế kỷ XX: 1945) và một số tháp xây dựng cách đây không lâu (khu tháp Từ
Vân).
1.3.4. Đặc điểm lịch sử - văn hóa thể hiện qua kiến trúc chùa Giác
Lâm:
Kiến trúc chùa Giác Lâm tiêu biểu cho kiến trúc các ngôi chùa ở Nam bộ, kể
cả vị trí chùa. Đó là ngôi chùa đặt trên đồi cao, thoáng mát, có địa thế phù hợp
phép phong thủy, có cổ thụ (bồ đề) trong sân… Đặc điểm lịch sử và văn hóa của
kiến trúc thể hiện quan các yếu tố phong tục tập quán, tính địa phương, tính tôn
giáo, giao lưu văn hóa…
a. Tính địa phương:
Miền Nam là vùng đồng bằng trồng lúa, ít thấy đồi, núi, do đó trong cảm
quan người miền Nam ưa thích sự trãi rộng. Kiến trúc chùa chiền không vút
cao, tâm tính hoài hòa với thiên nhiên và đặc điểm là tính khiêm tốn đã thể hiện
trong tâm thức cư dân người Việt ở Nam bộ.
Môi sinh, khí hậu Nam bộ cũng có ảnh hưởng không nhỏ trong việc hình
thành kiểu loại mái chùa không mái lợp. Miền Nam có mưa nhiều nhưng không
nhỏ và dai dẳng như ở miền Bắc, do đó mái phải thoát nước nhanh để đáp ứng
với cơn mưa rào.
Chất liệu sử dụng kiến trúc thường là tre, gỗ (sao, thau lau, mít, gõ…) là
những thực vật phổ biến trong vùng đồng bằng Nam bộ.
Cột kê, qua sự kế thừa kiểu nhà “đâm trích cột kê” ở miền Trung cũng được
sử dụng có lưu ý đến hàng cột tiếp xúc thường với mưa (như ở hàng hiên chùa)
để đặt cột đá to hơn những nơi khác.
Miền Nam là nơi tiếp xúc thường xuyên với nhiều cộng đồng dân tộc như:
Khmer, Chăm, Hoa, đặc điểm này cũng góp phần quy định một số nét đặc thù
thể hiện qua giao lưu văn hóa có mặt trong kiến trúc chùa.
b. Tính tôn giáo:
Kiến trúc chùa, đặc biệt là tại chính điện được thiết kế cửa chính và phụ rất
ít, đều này phần lớn xuất phát từ quan niệm đây là nơi thờ tự, nơi ngự của các vị
Thánh, Thần, Phật… do đó để tăng thêm linh thiên, huyền bí và trang nghiêm
chỉ cho ánh sáng vào rất ít tạo vẻ thâm u, tạo thái độ dè dặt chậm rãi khi bước
vào. Mặc khác, với ánh sáng yếu ớt có chủ ý đó, các pho tượng thiếp vàng như
nổi rõ hơn, trong không khí thờ cúng, khói hương.
Kiến trúc chùa như hòa vào kiến trúc nhà ở của dân cư xung quanh, không
quá cách biệt. Trước khi có mô hình nhà kiểu tứ tượng, chùa cổ ở Gia Định
cũng là kiểu nhà ba gian hai chái, vốn là kiểu nhà phổ biến ở Nam bộ. Chính vì
vậy mà khi quan sát bên ngoài và bước vào trong người xem không tránh khỏi
ngỡ ngàng với kiến trúc và trang trí phong phú. Ngoài ra, kiến trúc ít cửa, tạo vẻ
đóng kín trong nội tự, phải chăng đây cũng là hình thức ngăn chặn “sự phóng
tâm”. Đối với phật tử, khách tham quan cảm giác thay đổi đột biến khi vào chùa
sẽ hình thành tâm lý trang nghiêm, tôn kính hơn.
c. Tính dân tộc:
Tính chất khoang dung của dân tộc Việt Nam dễ dàng bắt gặp trong các yếu
tố “tùy thuận, tùy duyên”… của giáo lý Phật giáo. Đạo Phật cũng dễ dàng tiếp
nhận các hình thức tín ngưỡng của cư dân bản địa để cùng hòa hợp, cùng tồn
tại, phát triển. Trong khuôn viên chùa còn ngôi miếu nhỏ thờ nữ thần, có thể đã
có từ trước khi lập chùa. Mặc dù được ghi là miếu Linh Sơn Thánh Mẫu và ghi
năm 1969, nhưng đó chỉ là năm trùng tu và bên trong đã thờ tự nhiều nữ thần
khác như: Bà Ngũ Hành, Bà Chúa Tiên, chúa Ngọc… Chính vì vậy, dù cho có
sự pha tạp, giao lưu nhiều yếu tố văn hóa vừa nêu thể hiện qua kiến trúc chùa,
nhưng trong tổng thể của nó chúng ta vẫn không thể nhằm lẫn với bất cứ ngôi
chùa Hoa hay ngôi chùa Khmer nào ở Nam bộ. Sự hòa quyện tiếp nhận yếu tố
văn hóa từ các nơi, dung hợp và tạo cho mình bản sắc riêng chính là đặc trưng
tộc người của cư dân Việt.
1.3.5. Điêu khắc:
1.3.5.1. Số lượng: chùa có tất cả 118 pho tượng cổ và mới.
1.3.5.2. Nghệ thuật điêu khắc những pho tượng thờ:
Nghệ thuật điêu khắc tượng thờ ở chùa Giác Lâm thể hiện phong cách tạo
tượng của người Việt ở Nam bộ vào khoảng thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Thể
hiện qua hai bộ tượng chính tại chùa:
Trước tiên, điêu khắc tượng thờ chùa Giác Lâm vẫn tuân thủ theo nguyên
tắc truyền thống về kỹ thuật tạo tượng, kỹ thuật sơn thiếp vàng và quy định tạo
tượng như kích thước, tỉ lệ “tọa tứ lập thất”. Tượng thờ chùa Giác Lâm vẫn
mang những nét chung của phong cách tạo
tượng thời Nguyễn qua hình thức tóc chải hất lên đỉnh đầu, phủ khăn choàng,
buông xõa xuống hai bên vai như: pho tượng Bồ Tát Quan Thế Âm, tượng Quan
Âm Chuẩn Đề.
Nghệ thuật điêu khắc tượng thờ ở chùa Giác Lâm còn cho thấy ảnh hưởng
của Trung Hoa qua những đường nét tạo dáng, đó là trường hợp bộ tượng La
Hán nhỏ và bộ thập điện nhỏ, ảnh hưởng này thấy rõ qua việc tạo người dạng
trang phục, trang trí hoa văn, trang sức của tượng thờ.
Cấu tạo nhân dạng được thể hiện một phần qua nội dung lịch sử người được
tạo tác, phần khác qua cách thể hiện của người chỉ đạo và nghệ nhân. Nhóm
tượng mang phong cách này, đều được tạc vào những ngày đầu thành lập chùa
(1744). Lý Thụy Long người đứng ra xây chùa là người Minh Hương và có có
thể trong quá trình tạo tác, nghệ nhân cũng có thể là người Minh Hương. Những
đặc điểm góp phần vào việc hình thành các phong cách của các pho tượng và
không thể không chú ý đến những đặc điểm này.
Nghệ thuật điêu khắc tượng thờ chùa Giác Lâm, về đường nét tạo dáng tuy
chưa đạt mức chuẩn mực như các tượng thờ ở các chùa miền Bắc, miền Trung,
nhưng cũng có sự cân đối hoàn chỉnh, góp phần định hình cho một phong cách
tạo tượng ở Nam bộ.
Ngoài ra, tượng thờ chùa Giác Lâm còn có những pho tượng không giống
phong cách tạo tượng ở Nam bộ, mà mang đậm phong cách tạo tượng của người
Việt ở các chùa miền Nam, miền Trung qua hai pho tượng: tượng Cửu Long và
tượng Thích Ca tọa thiền.
Điểm nổi bật trong điêu khắc tượng thờ ở chùa Giác Lâm là sự hiện diện
song song hai bộ tượng, tiêu biểu cho hai thời kỳ điêu khắc tượng thờ ở Nam bộ,
đó là bước đầu định hình và giai đoạn định hình cho nghệ thuật tạc tượng gỗ Sài
Gòn – Gia Định.
1.3.5.3. Nghệ thuật chạm lộng bao lam, chạm khắc phù điêu, hoành
phi và liễn đối:
a. Nghệ thuật chạm lộng bao lam:
Những tác phẩm chạm khắc gỗ ở chùa Giác Lâm không giống như trong các
ngôi chùa Khmer và chùa Hoa.
Tại chính điện, nghệ thuật chạm khắc gỗ còn được thể hiện trên các bao lam
bàn thờ. Trên nền gỗ đỏ, bàn thờ được chạm khắc là bàn nhị cấp, với nhiều đề
tài phong phú về hoa, lá, thú vật, chim muông… Đề tài “sóc giác” tuy được thể
hiện qua các phù điêu, nhưng chỉ với ở bao lam bàn thờ đề tài này mới diễn tả
được trọn vẹn đường nét sinh động và dí dỏm. Đây là những chú sóc nhỏ nhắn
đang thèm thuồng đến gần những quả giác, kia là những chú đang vừa thưởng
thức hương vị thanh tao nhưng đầy chua chát của quả táo lại vừa ôm cả chùm
giác vào lòng và hình ảnh con chim đang ăn sâu thật đẹp. Nổi bật hơn hết là
các bao lam bàn thờ này đã tự nói lên vùng đất Nam bộ, đầy đủ nhất bằng hình
ảnh những đóa mai đang nở. Vượt thoát ra ngoài những ước lệ để thể hiện tính
hiện thực cao nhưng không quên trở về với khuôn mẫu, với lề luật quy định.
Đấy là hình ảnh khắc họa những bao lam thể hiện giai đoạn chuyển tiếp của hai
phong cách chạm khắc, đồng thời cũng là ước vọng của nghệ nhân truyền đạt
đến người thưởng thức qua hơn nửa thế kỷ này, một chân lý về nếp sống đạo
và hành đạo, đó là sự dung hợp giữa đạo học siêu việt và đời sống bình thường,
giữa chân đế và tục đế.
Ngoài ra, tại chính điện còn có bao lam diễn tả theo chủ đề “mộc -
điểu”, “trúc - điểu” và “tứ quý”. Nghệ nhân đã chạm khắc trong cùng một bao
lam: lối dùng nhát đục cho phần trên xa và lối tế điểu cho tầm nhìn gần, đặc biệt
là để thể hiện sự mảnh mai lá trúc. Con chim là chủ đề rõ nét bao lam, sinh động
nhất là đôi mắt. Mắt nhỏ không chạm nổi mà được khắc chìm, tạo một lỗ tròn
sâu hun hút nhưng lại lộ rõ lòng đen nhánh.
Tại nhà Tổ có chín bao lam, chạm lộng nổi bật nhất là bao lam tứ linh đặt
tại bàn Tổ giữa. Long, ly, quy, phụng được sắp xếp đều trên bao lam, con rồng
dạng lưỡng long chầu nguyệt với hai chim phụng hai bên. Con rùa trong tư thế
vươn lên mang nhiều ý nghĩa, vì ngoài biểu tượng của sự trường thọ, rùa còn
dùng để trang trí với những linh hồn nặng nghiệp chướng chưa được giải thoát.
Những đề tài phong phú, đa dạng cụ thể như: sen, phù dung, mai, cúc, trúc,
giác (thực vật). Long, ly, quy, phụng, nai, dơi, sâu, công, cào cào…
Các bao lam được bố cục theo lối đăng đối, sắp xếp theo luật phối cảnh cổ
truyền.
Tuy nhiên, bên cạnh lối đăng đối theo quy ước, bao lam tại chùa cũng có sự
phá lệ, tạo nét sinh động, tránh thô cứng, bằng cách điểm vào tác phẩm một vài
nét chấm phá.
Qua nội dung nhiều đề tài và phong cách sử dụng cho thấy ngoài chức năng
dùng trang trí cho chính điện và nhà Tổ được lộng lẫy, bao lam còn góp phần
thể hiện sinh động giáo lý đạo Phật những biểu tượng cao siêu, những tinh túy
đã được nghệ nhân tiếp thu và thể hiện qua các tác phẩm với bàn tay khéo léo,
và tấm lòng mộ đạo sâu sắc.
b. Nghệ thuật chạm khắc phù điêu:
Ngoài việc làm nền cho các câu đối, phù điêu, trên cột cũng gây sự chú ý và
phải thừa nhận rằng qua các phù điêu, tính chất nhân gian của Phật giáo Nam bộ
được nổi rõ, đây là phù điêu chủ đề: Bát tiên, Thập bát, La Hán, Rồng phượng…
đề tài có tính chất ước lệ và trang nghiêm này được đặt có chủ ý hai bên bàn
thờ chính điện. Còn xung quanh và với những gian khác, phù điêu được chạm
khắc bằng những đề tài dân dã. Chủ đề “sóc – giác” là chủ đề gần gũi với chủ
đề ngoại cảnh chùa. Phải chăng những dây giác dạy còn lưu lại đến nay bên góc
các ngọn tháp đã gợi ý nghĩa cao siêu của tên gọi Giác Lâm là rừng giác ngộ thì
còn có một ý nghĩa khác, cụ thể và nôm na hơn là một rừng dây giác bao quanh
nơi đây khi vị Thiền sư đầu tiên là Viên Quang về trụ trì? Hình ảnh các chú
chuột nối đuôi nhau, bò trên những dây dưa, dây bí và những chú bướm đang đi
tìm hoa hút mật, những con rồng chạm khắc tinh xảo, những chú chim và những
cánh hoa sen… cho thấy ở đây cái cao xa và dường như không thật có – là con
rồng – được hòa quyện với hình ảnh thật trong cuộc sống; làm cho người xem đi
đến nhận thức sánh với niềm tin và tín ngưỡng Phật giáo.
Đối với cư dân vùng mới, đạo phật ở đây đã được bình dân hóa và đưa trở
về gần gũi hơn với cuộc sống con người! Từ tính thiện đó, nghệ nhân đã có sự
sáng tạo, đồng thời đã phá vỡ tính ước lệ, đăng đối từng cặp trong chủ đề để
làm cho đề tài càng sống động hơn, tươi mát và hiện thực hơn. Cuộc sống đang
diễn ra và trôi đi liên tục không ngừng, nên không thể có khung cảnh đứng im,
khô cứng và do vậy phải có hình ảnh của chú chim sâu ngâm cào cào trên chiếc
mỏ xinh nhỏ; những chiếc lá bầu không còn nguyên vẹn, hình ảnh của một cánh
chim đang trong tư thế sắp bay đi, bên cạnh đó là hình ảnh một cánh chim vừa
đáp xuống! Cào cào hay chuồn chuồn đang giãy dụa trong mỏ chim là “tiếng
nói” sinh động nhất của cuộc sống, là hình ảnh tiêu biểu nhất về bản năng sinh
tồn! Và trong phút chốc, khung cảnh dân gian Nam bộ bỗng hiện về đầy đủ và
rực rỡ với đường nét khéo léo của nghệ nhân, đã làm cho gian chính điện vừa
nghiêm trang nhưng cũng đầy ấp tình cảm gắn bó với quê hương, đất nước.
Phù điêu được chạm nổi trên cột trang trí cho cột và làm nổi bật các câu đối
khắc chìm hoặc nổi trên thân cột.
Phù điêu được chạm khắc tinh tế mang tính cách điệu cao trên các hàng cột
tại chính điện, nhà tổ, nhà trai có các đề tài nổi bật: chuột cắn đuôi nhau, dây
hoa lá, trái bầu bí, bướm hoa, chim bắt chuồn chuồn…
c. Nghệ thuật chạm khắc hoành phi và câu đối:
Hoành phi ở chùa Giác Lâm đa số được làm bằng gỗ ngoại trừ có 3 bức
được tạo tác giai đoạn muộn sau này bằng sơn mài, đối với hoành gỗ có vài cách
chế tác khác nhau: Mặt phẳng, khắc nổi chữ Hán trên nền gỗ, cẩn ốc lên trên,
theo dạng các chữ Hán, mặt hoành trơn.
Trong chạm khắc, hoành phi cho thấy còn ảnh hưởng Trung Quốc rất đậm.
Hoành phi nguyên nghĩa của nó là bản nằm ngang. Đa số chữ viết chính và phụ
điều bằng chữ Hán, lối viết và treo các câu từ phải sang trái, viết dọc từ trên
xuống. Hoa văn trang trí trên hoành gồm hoa dây, rồng, hình ô học, hình kỷ
hà… là những dạng hoa văn thường gặp trong các nghi lễ cung đình, nơi trang
nghiêm.
Các bức hoành phi thể hiện phần nào nội dung tư tưởng muốn truyền đạt
cho khách tham quan, đồng thời cũng thể hiện tấm lòng, trình độ, năng lực của
người dâng cúng.
Bên cạnh đó các câu đối được chạm khắc theo nhiều cách viết khác nhau.
Tuy được khắc trên gỗ nhưng nét khắc tinh xảo, nét móc mảnh dẻ, sắc. Lối khắc
chìm đa số trên cột và liễn. Ngoài ra, còn có lối khắc nổi trên cột và liễn dạng
mặt khác, khắc chìm trên liễn dạng cong treo vào cột.
1.3.6. Giá trị lịch sử - văn hóa của phong cách điêu khắc, kiến trúc,
nghệ thuật:
1.3.6.1. Giá trị lịch sử:
Những giá trị trong nghệ thuật, kỹ thuật tạc tượng, trong điêu khắc, trang trí
hoa văn trong tính chất và chủ đề tư tưởng thể hiện qua bộ tượng thuộc hai giai
đoạn, đã đồng thời làm rõ ý nghĩa và giá trị lịch sử to lớn của các pho tượng tròn
chùa Giác Lâm. Là hiện vật trong ngôi chùa cổ nhất thành phố còn lưu lại đến
nay, bản thân các pho tượng cũng có tuổi thọ khá cao (khoảng 240 năm) so với
các tượng cổ khác trong thành phố.
Bộ tượng còn đánh dấu bước đi di dân đầu tiên của người Việt đến định cư
vùng đất mới, trong đó thể hiện được các hình thức thờ phụng và các vị thần
trong quá trình lịch sử gần hai thế kỷ qua ở Nam bộ, giúp người nghiên cứu có
điều kiện tìm hiểu, so sánh với các hình thức thờ cúng những nơi khác và vùng
đất khác ở trong nước cũng như khu vực Đông Nam Á.
Nghệ thuật điêu khắc, kỹ thuật chạm, hoa văn trang trí, bộ tượng góp thêm
những khoa học trong việc kế thừa và phát huy, sáng tạo những phong cách mới
trong nghệ thuật tạc tượng ở Nam bộ vào những thế kỷ XVIII và XX, góp phần
khẳng định tính đặc thù, địa phương của vùng đất mới, tính đa dạng, phương
pháp trong kỹ thuật tạo tác.
Đặc biệt đối với những loại tượng mới xuất hiện ở Nam bộ nhưng đã đóng
vai trò quan trọng trong nghi thức cúng lễ tại đây như bộ tượng 5 vị (Phật và các
Bồ Tát Phổ Hiền, Đại Thế Chí, Quan Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi) được tạc dưới
dạng “thượng kỳ thú” là một nét độc đáo, sáng tạo, thể hiện tính thực tiễn, tính
dân gian nhưng đồng thời cũng cho thấy cả tính triết lý sống động trong việc thể
hiện giáo lý, Phật pháp thâm sâu được gói gọn trong hình ảnh 5 vị này.
Trên các mặt vừa kể, giá trị lịch sử qua các tượng tròn còn được tìm thấy
ở mối quan hệ giao lưu văn hóa chặt chẽ, với phong vị trong và ngoài nước.
Luồng văn hóa từ phía Bắc cũng như phía Tây và phía Nam là những luồng
chính có tác động lớn đến phong cách và phương pháp tạc, điêu khắc, trang
trí các pho tượng tròn này. Ảnh hưởng Trung Quốc (phương Bắc), Champa
(phương Tây) và Campuchia cùng các nước khu vực Đông Nam Á (phía Nam)
đã làm cho các pho tượng thêm vẻ đa dạng, phong phú, đồng thời cũng góp
phần khẳng định mốc thời gian, cũng như nồng độ đậm nhạt của từng thời kỳ
lịch sử.
Bên cạnh đó, bức hoành cũng có giá trị lịch sử góp phần nói lên phong
cách nghệ thuật, ảnh hưởng của chùa chiền trong giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến
nay. Hoành phi này cũng góp phần vào việc chứng minh cho sự mờ dần của
ảnh hưởng Trung Quốc qua các hiện vật, cũng như trong tư tưởng người biếu
cúng. Nói lên một số mốc thời gian quan trọng của chùa, qua năm tháng còn
lưu giữ được trên mặt hoành. Mặc khác, về việc giao lưu văn hóa, ảnh hưởng
của tư tưởng Lão Trang, Khổng Tử đã có dấu ấn qua một số hoa văn, đã nói lên
tính “Tam giáo đồng nguyên” của giai đoạn này và đặc biệt là tính chất dung
hợp cao của Phật giáo ở Việt Nam cũng như ở Nam bộ.
Các phù điêu trên thân cột tại chùa do chức năng làm vật trang trí, cũng như
mang lại một ý nghĩa lịch sử nhất định, cho thấy ảnh hưởng các luồng tư tưởng
của Nho, Phật, Lão vẫn còn dấu ấn trong tâm thức người Việt vùng đất Nam
bộ (chủ đề Bát Tiên, La Hán, Long Ẩn Vân), đồng thời cũng nói lên phần nào
cá tính người dân ở đây là yêu thiên nhiên, có óc thực tế và mang chất dân gian
hơn
1.3.6.2. Giá trị văn hóa:
Trên cơ sở nghiên cứu những nét văn hóa đặc trưng của chùa Giác Lâm ở
các khía cạnh kiến trúc trang trí, điêu khắc, sự thờ cúng và những sinh hoạt tôn
giáo tín ngưỡng của chùa ở góc độ dân tộc học, có thể rút ra một số giả thiết
chính về chùa Giác Lâm.
Chùa Giác Lâm ở Thành Phố Hồ Chí Minh là một trong số ít ỏi những ngôi
chùa cổ ở Nam bộ còn tồn tại cho đến nay. Mặc dù trải qua một số lần trùng tu,
về cơ bản những đường nét kiến trúc, hiện vật, thờ cúng của ngôi chùa vẫn còn
được bảo tồn khá đầy đủ. Vì vậy, việc nghiên cứu chùa Giác Lâm sẽ giúp cho
thế hệ ngày nay hiểu hơn về văn hoá Phật giáo ở Nam bộ và rộng hơn là văn hóa
của cộng đồng cư dân Việt nam ở Nam bộ trong lịch sử và hiện tại.
Chùa Giác Lâm đã thể hiện được khá rõ nét văn hóa đặc trưng của văn hóa
Phật giáo Nam bộ. Đó là nền văn hóa được tạo dựng từ một vùng đất mới khai
khẩn; điều kiện thiên nhiên tương đối thuận lợi, đất đai trù phú cùng nhiều
nhóm cộng đồng dân cư khác nhau về nguồn gốc, khác nhau về truyền thống
văn hóa dân tộc Việt Nam, đó là văn hóa Nam bộ.
Những nét văn hóa đặc trưng của Phật giáo Nam bộ trong ngôi chùa Giác
Lâm được thể hiện ở vị trí mặt bằng, bố cục kiến trúc, trang trí nghệ thuật, điêu
khắc tượng thờ, các hình thức thờ cúng. Những đặc điểm văn hóa Phật giáo
Nam bộ được thể hiện đậm nét nhất là những nét đặc trưng trong lối thể hiện
kiến trúc và các hình thức thờ cúng.
Nét đặc trưng của văn hóa Nam bộ còn thể hiện qua sự thờ tự của chùa Giác
Lâm. Đó là hình thức thờ Tổ trong không gian thờ Phật tiếp nối từ các chùa ở
miền Trung, người Việt ở Nam bộ với tình nghĩa sâu nặng với tổ tiên, với bậc
tiền hiền, có công khai khẩn hàng xóm, chùa đình. Vì thế, phần không gian thờ
Tổ và các vị tiền hiền là không thể thiếu được trong không gian thờ Phật của
chùa Nam bộ.
Sự dung hợp những yếu tố văn hóa của các nền văn hóa khác nhau là một
trong những nét văn hóa của chùa Giác Lâm. Trải qua hơn ba trăm năm chung
sống giữa người Việt và người Hoa, tùy từng thời điểm lịch sử cụ thể đã để lại
những dấu ấn tạo nên nét đặc thù văn hóa của di tích chùa Giác Lâm. Ở đây,
chúng ta có thể gặp những nét văn hóa đặc trưng qua kiến trúc, nghệ thuật trang
trí, điêu khắc và sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo mang những nét văn hóa Việt,
pha lẫn nét văn hóa Hoa và ít nhiều có dáng dấp của những nét văn hóa phương
Tây.
Yếu tố văn hóa ở chùa Giác Lâm đã hòa quyện vào nhau, sự tích hợp giữa
văn hóa Phật giáo với yếu tố văn hóa Việt và yếu tố văn hóa Hoa. Đồng thời,
thể hiện giữa môtip trang trí mỹ thuật Huế với môtip trang trí mang sắc thái địa
phương và môtip trang trí phương Tây.
Quá trình giao lưu văn hóa giữa các tộc người cùng chung sống trên một địa
bàn hình thành nên một nét văn hóa mới. Đây cũng là một đặc trưng văn hóa
Nam bộ nói riêng và xu thế phát triển văn hóa Việt Nam nói chung. Trong quá
trình cùng cộng cư, cùng một số phận lịch sử, cùng chung một khu vực cư trú,
có những mối quan hệ với nhau trong hoạt động kinh tế, xã hội, có những nét
tương đồng về tâm lý tình cảm, phong tục giữa các tộc người, nhất là người Việt
và người Hoa ở Nam bộ đã diễn ra quá trình văn hóa, đây cũng gọi là quá trình
tiếp biến văn hóa xảy ra trước hết giữa các tộc người cùng sinh sống trên một
địa bàn. Mặc khác, chứng tỏ sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc mà chùa Giác
Lâm là một trong những chứng minh điển hình cho sự giao lưu văn hóa đó, nổi
bật trong những nét văn hóa khác nhau đó, rõ nét nhất là yếu tố Việt.
Quá trình tồn tại và phát triển của chùa Giác Lâm là một thể hiện rõ nét về
văn hóa của người Việt ở Nam bộ. Đặc biệt qua kết cấu kiến trúc, chủ yếu bộ
khung sườn gỗ với kiểu kèo “xuyên trích cột kê” của kiểu nhà rường. Đều này
đã được các nhà nghiên cứu trước đây ghi nhận… Vượt lên những nền ảnh
hưởng của các nền văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ, Tây phương… thì toàn bộ
trong tổng thể của nó, chùa Giác Lâm vẫn thể hiện được nét riêng, từ giây phút
đầu tiên, chúng ta đã nhận ra được ngôi chùa cổ Nam bộ của người Việt mà
không hề nhằm lẫn với bất kỳ một ngôi chùa Hoa hoặc một chùa Khmer nào cả.
Đó là bản sắc, đồng thời cũng là đặc điểm thể hiện tính dân tộc, tính địa phương
của di tích lịch sử - văn hóa của chùa Giác Lâm.
Sau nhiều năm thành lập, nhất là sau khi chùa Từ Ân và Khải Đường bị thực
dân pháp phá hủy trong chiến tranh (cuối thế kỷ XIX), chùa Giác Lâm càng có
vai trò to lớn. Bên cạnh nhiều hoạt động Phật sự diễn ra tại chùa, vai trò ngày
càng quan trọng của chùa Giác Lâm còn có nhiều đóng góp của nhiều thiền sư
tại đây, Thiền sư đã mang nhiều niềm tự hào cho Phật giáo Gia Định, đồng thời
Tiền sư Hải Tịnh cũng đã bộc lộ vai trò của mình trong việc góp phần hoằng
dương Phật giáo Trung bộ.
Những năm 50 – 60 của thế kỷ XX, chùa Tổ Đình Giác Lâm trở thành trụ sở
của Giáo hội Phật giáo cổ truyền. Góp phần cho việc hình thành và duy trì trung
tâm Phật giáo của chùa Giác Lâm ở Gia Định và các tỉnh miền Nam, chính là
sự nhân rộng ngày càng đông đảo số lượng Tăng sĩ đã qua những giới đàn được
khai mở tại chùa, trở thành những lớp đệ tử tiếp tục công việc “hoằng dương
chính pháp”, sâu rộng khắp các tỉnh miền Đông, miền Tây, cả ở miền Trung.
Khá nhiều ngôi chùa cổ hiện nay ở miền Đông như: Bửu Phong, Long Thiền,