Nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương việt nam
- 120 trang
- file .pdf
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------
TRẦN VĂN TÙNG
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN
NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG
Hà Nội – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------
TRẦN VĂN TÙNG
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN
NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
Chuyên ngành : Tài chính và Ngân hàng
Mã số : 60 34 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THI ̣ MINH TÂM
Hà Nội – 2012
MỤC LỤC
Danh mục chữ viết tắt i
Danh mục các bảng, sơ đồ ii
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ 6
TRONG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1 Khái quát chung về ngân hàng thương mại 6
1.1.1 Khái niê ̣m về ngân hàng thương ma ̣i 6
1.1.2 Chức năng của ngân hàng thương ma ̣i 7
1.2 Hoạt động kiểm toán nội bộ trong ngân hàng thương mại 8
1.2.1 Khái niệm, mục đích và sự cần thiết của kiểm toán nội bộ trong 8
ngân hàng thương ma ̣i
1.2.2 Phạm vi kiểm toán nội bộ 12
1.2.3 Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ 13
1.2.4 Nhiệm vụ quyền hạn của bộ phận kiểm toán nội bộ 17
1.2.5 Tiêu chuẩn đối với người làm kiểm toán nội bộ 20
1.2.6 Nội dung hoạt động của kiểm toán nội bộ 22
1.2.7 Phương pháp thực hiện kiểm toán nội bộ 23
1.2.8 Các tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ 23
1.2.9 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán nội 28
bộ trong ngân hàng thương mại
1.3 Kinh nghiệm trên thế giới về hoạt động kiểm toán nội bộ 30
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM TOÁN 35
NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƢƠNG VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2007 ĐẾN 2011
2.1 Tổng quan về ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam 35
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng TMCP Công 35
thương Việt Nam
2.1.2 Hoạt động kinh doanh của ngân hàng TMCP Công thương Việt 39
Nam
2.2 Hoạt động kiểm toán nội bộ tại ngân hàng TMCP Công thương 43
Việt Nam
2.2.1 Mô hình tổ chức và quy chế hoạt động 43
2.2.2 Nội dung hoạt động kiểm toán nội bộ tại ngân hàng TMCP 50
Công thương Việt Nam
2.2.3 Phương pháp kiểm toán nội bộ tại ngân hàng TMCP Công 52
thương Việt Nam
2.2.4 Thực hiện kiểm toán nội bộ tại ngân hàng TMCP Công thương 57
Việt Nam
2.3 Đánh giá thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ tại ngân hàng 63
TMCP Công thương Việt Nam
2.3.1 Những kết quả đạt được 63
2.3.2 Những tồn tại và hạn chế 64
2.3.3 Phân tích các nhân tố và nguyên nhân tác động đến chất lượng 67
hoạt động kiểm toán nội bộ tại ngân hàng TMCP Công thương
Việt Nam
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT 72
ĐỘNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG
THƢƠNG VIỆT NAM
3.1 Định hướng phát triển của bộ máy kiểm toán nội bộ ngân hàng 72
TMCP Công thương Việt Nam
3.1.1 Định hướng phát triển của ngân hàng TMCP Công thương Việt 72
Nam
3.1.2 Định hướng xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động kiểm 73
toán nội bộ ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
3.2 Quan điểm và nguyên tắc nâng cao chất lượng hoạt động kiểm 74
toán nội bộ ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
3.3 Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ ngân 76
hàng TMCP Công thương Việt Nam
3.3.1 Tổ chức lại bộ máy kiểm toán nội bộ 77
3.3.2 Đổi mới công tác kiểm toán nội bộ 86
3.4 Kiến nghị thực hiện giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động 94
kiểm toán nội bộ Vietinbank
3.4.1 Kiến nghị đối với cơ quan nhà nước 94
3.4.2 Kiến nghị đối với ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam 96
3.4.3 Kiến nghị đối với các tổ chức nghề nghiệp 97
KẾT LUẬN 99
Tài liệu tham khảo 100
Phụ lục
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nguyên nghĩa
BCTC Báo cáo tài chính
DN Doanh nghiệp
GDV Giao dịch viên
HĐQT Hội đồng quản trị
IIA Viện kiểm toán nội bộ
KSNB Kiểm soát nội bộ
KTKSNB Kiểm tra kiểm soát nội bộ
KTNB Kiểm toán nội bộ
KTV Kiểm toán viên
KTVNB Kiểm toán viên nội bộ
NHCT Ngân hàng công thương
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCPCT Ngân hàng thương mại cổ phần công thương
TCTD Tổ chức tín dụng
TMCP Thương mại cổ phần
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Bảng số Tên bảng Trang
1 Bảng 2.1 Một số chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 2007-2011 40
2 Bảng 2.2 Đánh giá rủi ro và tần suất kiểm toán 53
Thống kê số lượt kiểm toán từ năm 2007 đến năm
3 Bảng 2.3 58
2011
Thống kê một số chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt
4 Bảng 2.4 động của bộ phận KTNB từ năm 2007 đến năm 66
2011
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
STT Sơ đồ Tên sơ đồ Trang
1 Sơ đồ 1.1 Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ 15
2 Sơ đồ 1.2 Tổ chức bộ máy KTNB theo các khối chức năng 16
3 Sơ đồ 1.3 Tổ chức bộ máy kiểm toán theo khu vực 17
Cơ cầu tổ chức của ngân hàng TMCP Công thương
4 Sơ đồ 2.1 38
Việt Nam
Cơ cấu tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ
5 Sơ đồ 2.2 49
Vietinbank
6 Sơ đồ 3.1 Mô hình hệ thống kiểm soát nội bộ đề xuất 78
7 Sơ đồ 3.2 Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ đề xuất 83
ii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp nói chung và các
tổ chức tín dụng của Việt Nam nói riêng đã có sự phát triển nhanh chóng cả về quy
mô và số lượng. Song song với sự phát triển nhanh chóng của các doanh nghiệp,
nhà quản lý doanh nghiệp phải giải quyết những vấn đề mới phát sinh như: hiệu quả
kinh doanh, hiệu quả sử dụng các nguồn lực, quản trị rủi ro, độ tin cậy của thông tin
tài chính,….
Các tổ chức tín dụng là loại hình kinh doanh đặc biệt, hoạt động trong cơ chế
thị trường luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn bất kỳ ngành nghề nào khác. Do
vậy, để hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro có thể xẩy ra đồng thời để nâng cao
hiệu quả hoạt động, một nhiệm vụ không thể thiếu được và ngày càng trở nên thiết
yếu trong hoạt động của các tổ chức tín dụng là phải tổ chức tốt công tác kiểm toán
nội bộ trong bản thân từng tổ chức tín dụng.
Trước những yêu cầu cấp bách, Ngân hàng nhà nước Việt nam đã ban hành
Quyết định số 37/2006/QĐ-NHNN vào ngày 01/8/2006, yêu cầu các ngân hàng phải
thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ. Và gần đây nhất ngày 29/12/2011 ngân hàng
nhà nước (NHNN) đã ban hành thông tư số 44/2011/TT-NHNN quy định chi tiết về
hệ thống kiểm soát nội bộ & kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng thay thế hoàn
toàn cho các quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN & quyết định số 37/2006/QĐ-
NHNN ngày 01/8/2006 của NHNN trước đây.
Trong năm 2007 và 2008 đã có nhiều ngân hàng thành lập bộ phận kiểm toán
nội bộ theo quyết định của NHNN trong số đó có Ngân hàng Công thương Việt
nam. Tuy đã thành lập và đi vào hoạt động được hơn 4 năm nhưng chất lượng hoạt
động kiểm toán nội bộ Ngân hàng Công thương Việt Nam còn thấp và chưa đạt
mức kỳ vọng của Ban lãnh đạo. Điều này không phải chỉ có ở Ngân hàng thương
mại cổ phần (TMCP) Công thương Việt Nam mà còn tồn tại ở các Ngân hàng khác.
Theo kết quả khảo sát của Công ty kiểm toán Price Water House Coupers khó khăn
1
lớn nhất mà kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng thương mại đang gặp phải là
thiếu chiến lược rõ ràng và dài hạn cho kiểm toán nội bộ. Điều này có thể phản ánh
một thực tế là kiểm toán nội bộ là một lĩnh vực mới ở Việt Nam và chưa có chuẩn
mực và hướng dẫn thực hành nào chính thức được ban hành. Kể cả đối với những
ngân hàng đã có quy trình kiểm toán nội bộ, tính hợp lý và đầy đủ của quy trình này
vẫn là một câu hỏi lớn.
Từ kinh nghiệm thực tiễn nhiều năm làm kiểm toán nội bộ trong Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam cùng với những lý luận khoa học đã tiếp thu được ở
trường, tác giả đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lƣợng hoạt động kiểm toán nội bộ
tại Ngân hàng TMCP Công thƣơng Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều nghiên cứu trên nhiều khía cạnh và lĩnh vực khác nhau về kiểm
toán nội bộ như: Các nghiên cứu của tác giả Smith, Charles A. (1934) về “Kiểm
soát kiểm toán nội bộ”; tác giả J.C.Shaw (1980) về “Kiểm toán nội bộ - một yếu tố
cần thiết cho hoạt động quản lý hiệu quả”; tác giả Richard A.Roy (1989) về “Quản
lý hành chính đối với bộ phận kiểm toán nội bộ”; tác giả Spencer Pickett (2000) về
“Phát triển các năng lực kiểm toán nội bộ”; tác giả Robert Moeller (2005) về “Kiểm
toán nội bộ hiện đại theo quan điểm của Brink”;….
Ở Việt Nam, năm 1997 kiểm toán nội bộ chính thức được công nhận. Một số
nghiên cứu về kiểm toán nội bộ cũng bắt đầu phát triển: Tác giả Nguyễn Quang
Quynh (1998) về “Xây dựng hệ thống kiểm tra kiểm soát trong quản lý vĩ mô ở Việt
Nam”; tác giả Nguyễn Mai Vinh (2005) chủ trì đề tài “Hoàn thiện kiểm toán nội bộ
tại Bộ Thủy sản”; tác giả Ngô Trí Tuệ và cộng sự với đề tài “Xây dựng hệ thống
kiểm soát nội bộ với việc tăng cường quản lý tài chính tại TCT Bưu chính viễn
thông Việt Nam” (năm 2004); tác giả Vương Đình Huệ và cộng sự với đề tài cấp
nhà nước “Định hướng chiến lược và giải pháp phát triển kiểm toán ở Việt Nam”;…
Các nghiên cứu đã xem xét những vấn đề mang tính khái quát chung về kiểm
toán nội bộ hay đề cập đến tổ chức kiểm toán nội bộ trong một đơn vị nhất định hay
2
một ngành nhất định trong nền kinh tế. Tuy nhiên chưa có một nghiên cứu nào
mang tính khái quát bao gồm cả lý luận và thực tiễn về hoạt động kiểm toán nội bộ
đối với lĩnh vực ngân hàng mà cụ thể là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế nước ta đang hội nhập mạnh mẽ
với thế giới bên cạnh đó hệ thống ngân hàng ở Việt Nam đang đứng trước những
khó khăn thách thức lớn về hiệu quả hoạt động, mua bán sáp nhập ngân hàng,…
đồng thời NHNN đã ban hành thông tư 44 thay thế hoàn toàn các văn bản trước đây
về hoạt động kiểm toán nội bộ tại các tổ chức tín du ̣ng (TCTD).
Vì lý do nên trên, Luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt động kiểm toán nội bộ
tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam. Các nghiên cứu của Luận văn sẽ bao
gồm cả lý luận về kiể m toán nô ̣i bô ̣ (KTNB) và thực trạng KTNB tại Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam, đồng thời đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động KTNB tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là đánh giá toàn diện thực trạng hoạt động kiểm toán
nội bộ Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam từ khi thành lập đến nay, bên cạnh
đó phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động kiểm toán nội bộ Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam. Từ đó đưa ra kiến nghị, phương hướng và các
giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ của Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là hoạt động kiểm toán nội bộ Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu được cụ thể hóa trên các khía
cạnh sau:
Một là, Những vấn đề lý luận về kiểm toán nội bộ trong Ngân hàng thương mại.
3
Hai là, Phân tích đánh giá thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam.
b. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam từ khi thành lập tháng 8/2007 đến tháng
12/2011.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuất phát từ thực tế, Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu khảo sát thực
tế kết hợp với phỏng vấn chuyên gia để rút ra kết luận của vấn đề đang xem xét.
Phương pháp phỏng vấn chuyên gia dựa trên hệ thống bảng câu hỏi, đồng thời việc
thiết kế các bản câu hỏi và cách thức hỏi được xây dựng cụ thể đối với từng đối
tượng phỏng vấn khác nhau.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Việc hình thành và phát triển Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam trở
thành một tập đoàn tài chính vững mạnh, cạnh tranh với các tổ chức tài chính khác
trong khu vực và trên thế giới. KTNB sẽ góp phần không nhỏ nhằm giúp ngân hàng
thương ma ̣i cổ phầ n công thư ơng (NHTMCPCT) đạt được các mục tiêu trên. Chính
vì vậy, Luận văn có những đóng góp cả về lý luận và giải quyết thực tiễn, cụ thể:
Một là, Luận văn trình bày có cơ sở khoa học về các giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động hệ thống kiểm toán nội bộ của Ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam.
Hai là, Luận văn tạo cơ sở để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ
của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.
Ba là, Luận văn kiến nghị các giải pháp thực hiện cụ thể, khả thi nhằm góp
phần đưa hoạt động hệ thống kiểm toán nội bộ của Ngân hàng TMCP Công thương
Việt Nam đạt chất lượng tốt nhất.
4
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn kết cấu gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Lý luận cơ bản về kiểm toán nội bộ trong ngân hàng thương mại.
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động của kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2007 đến 2011.
Chƣơng 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam.
5
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1 Khái quát chung về ngân hàng thƣơng mại
1.1.1 Khái niêm
̣ về ngân hàng thƣơng ma ̣i
Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn
liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống ngân hàng thương
mại đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế
hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là
nền kinh tế thị trường thì ngân hàng thương m ại (NHTM) cũng ngày càng được
hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được.
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM: Ở Mỹ Ngân
hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và
hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Đạo luật ngân hàng của Pháp
(1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở
mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký
thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các
nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Ở Việt Nam, Định nghĩa Ngân hàng thương mại: Ngân hàng thương mại là tổ
chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền ký gửi
từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện
nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài
chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản
là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn
cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ
của xã hội.
6
1.1.2 Chức năng của ngân hàng thƣơng mại
Chức năng trung gian tín dụng: Chức năng trung gian tín dụng được xem
là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng
trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có
nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là
người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh
lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các
bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay.
Chức năng trung gian thanh toán: Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ
cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách
hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ
hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu
khác theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện
thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán,
thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức
thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi,
mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có
thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các
chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán
an toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh
tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
Chức năng tạo tiền: Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ
bản chất của ngân NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu
chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh
mang tính đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền
kinh tế. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM
là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín
dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại
được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên
7
tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền
giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng
này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế,
đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.
1.2 Hoạt động kiểm toán nội bộ trong ngân hàng thƣơng mại
1.2.1 Khái niệm, mục đích và sự cần thiết của kiểm toán nội bộ trong ngân
hàng thƣơng mại
1.2.1.1 Khái niệm về kiểm toán nội bộ
Theo Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ (IIA) của Mỹ: “ Kiểm toán nội bộ là hoạt
động bảo đảm và tư vấn mang tính độc lập, khách quan được thiết lập nhằm tăng
thêm giá trị và cải thiện cho các hoạt động của tổ chức. Kiểm toán nội bộ giúp cho
tổ chức hoàn thành mục tiêu thông qua việc đưa ra một cách tiếp cận có hệ thống
và kỷ cương nhằm đánh giá và cải thiện tính hữu hiệu trong quản trị rủi ro, kiểm
soát và giám sát.”
Cách hiểu kiểm toán nội bộ đúng nhất là thừa nhận rằng đó là một loại hình
kiểm soát có tổ chức mà chức năng là đo lường và đánh giá hiệu quả của những
kiểm soát khác. Khi một tổ chức đặt ra kế hoạch ở tất cả các vị trí và thực hiện các
các kế hoạch ở đó qua các nghiệp vụ, thì tổ chức đó phải làm một số việc để theo
dõi các nghiệp vụ nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu đã định. Những việc làm
tiếp theo có thể hiểu là „kiểm soát‟. Chức năng kiểm toán nội bộ tự nó cũng là một
loại kiểm soát được sử dụng tuy nhiên cũng có nhiều loại kiểm soát khác và vai trò
đặc biệt của kiểm toán nội bộ là giúp đo lường và đánh giá những kiểm soát đó.
Như vậy, kiểm toán viên nội bộ vừa phải hiểu bản thân vai trò của mình là một
kiểm soát, vừa phải hiểu bản chất và phạm vi của những loại kiểm soát khác.
Tất cả điều đó có nghĩa là kiểm toán viên nội bộ - những người làm tốt công
việc của họ - đã trở thành chuyên gia trong các lĩnh vực làm cho việc thiết kế và
thực hiện các dạng kiểm soát trở nên tốt nhất có thể được. Kỹ năng thành thạo này
bao gồm sự hiểu biết mối tương quan giữa các dạng kiểm soát và sự đan xen tốt
8
nhất có thể, theo nhiều kiểu giữa chúng với nhau trong toàn bộ hệ thống kiểm soát
nội bộ. Như vậy là qua cái cửa kiểm soát mà kiểm toán viên nội bộ đi tới việc "xem
xét và đánh giá " các hoạt động có tổ chức và giúp đỡ tối đa cho tổ chức. Kiểm toán
viên nội bộ không thể sánh ngang – chứ chưa nói là vượt – kỹ năng tinh thông
nghiệp vụ kỹ thuật liên quan của các nhân viên nghiệp vụ khác của tổ chức nhưng
kiểm toán viên nội bộ có thể giúp những người có trách nhiệm đạt kết quả tốt hơn
bằng việc xác minh công việc kiểm soát hiện có và nêu ra căn cứ cải tiến những
công việc kiểm soát đó.
Tóm lại, có thể hiểu kiểm toán nội bộ là hoạt động kiểm toán do nhân viên của
đơn vị thực hiện. Phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ rất đa dạng và tùy thuộc
vào quy mô và cơ cấu tổ chức của đơn vị, cũng như yêu cầu của các nhà quản lý
đơn vị. Công việc của họ bao gồm:
Thứ nhất, kiểm tra về thiết kế và vận hành của hệ thống kiểm soát nội bộ, và
đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện chúng.
Thứ hai, kiểm tra các thông tin hoạt động và thông tin tài chính.
Thứ ba, Kiểm tra tính hữu hiệu và hiệu quả của các hoạt động, kể cả các quy
định không thuộc lĩnh vực tài chính của doanh nghiệp.
Thứ tư, Kiểm tra tính tuân thủ pháp luật và các quy định nội bộ…
1.2.1.2 Mục đích của kiểm toán nội bộ
Những năm trước 1981, mục tiêu của kiểm toán nội bộ thường được giới hạn
trong việc kiểm tra và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức. Trong những
năm gần đây, IIA đã mở rộng mục tiêu của kiểm toán nội bộ là đánh giá và cải thiện
mọi hoạt động của đơn vị. Phạm vi của hai chức năng này luôn gắn liền với những
nội dung công việc mà họ phải thực hiện, cụ thể như sau :
- Nhận định, phân tích và đánh giá những rủi ro có thể làm cho các thông tin tài
chính và thông tin hoạt động trở nên không đáng tin cậy; đề xuất những biện pháp
để cải thiện cách thức ghi nhận, đo lường, phân loại và báo cáo về những thông
tin này.
9
- Nhận định, phân tích và đánh giá những vấn đề có thể làm cho các hoạt động
của đơn vị không hữu hiệu hoặc thiếu hiệu quả; đề xuất những biện pháp để sử dụng
tiết kiệm và có hiệu quả nguồn lực của đơn vị.
- Nhận định, phân tích, đánh giá những rủi ro có thể làm cho tài sản của đơn vị
bị tham ô, biển thủ…; đề xuất những biện pháp để cải thiện sự hữu hiệu trong
phương thức bảo vệ tài sản.
- Nhận định, phân tích và đánh giá những rủi ro có thể làm cho luật lệ và các
quy định không được tuân thủ; đề xuất những biện pháp cải thiện nhằm xây dựng hệ
thống quản lý hữu hiệu hơn.
Bên cạnh việc mở rộng mục tiêu, các hoạt động của kiểm toán nội bộ cũng
được mở rộng phạm vi, bao gồm cả hoạt động bảo đảm và hoạt động tư vấn. Trong
hoạt động bảo đảm, kiểm toán nội bộ đã nâng cao mục tiêu đánh giá độc lập của
mình, trong chừng mực nhất định, có thể tương tự như dịch vụ bảo đảm của kiểm
toán độc lập. Bên cạnh đó, hoạt động tư vấn đã được tách riêng và xem là hoạt động
của kiểm toán nội bộ bên cạnh hoạt động bảo đảm.
1.2.1.3 Sự cần thiết của kiểm toán nội bộ trong ngân hàng
Trên thế giới, KTNB đã có lịch sử tồn tại và phát triển trên 60 năm và được
thừa nhận ở trên 165 quốc gia như một nghề nghiệp mang tính chuyên nghiệp. Cùng
với sự phát triển năng động và ngày một phức tạp của các nền kinh tế, vai trò và
chức năng của KTNB trong việc đưa ra đảm bảo về việc đơn vị có thể kiểm soát
một cách hữu hiệu rủi ro đã dần được công nhận trong tất cả các khu vực kinh tế
công, kinh tế tư nhân và cả các tổ chức phi lợi nhuận.
Trong những năm đầu thập kỷ này, từ sự kiện sụp đổ của các tập đoàn lớn
(Enron, WorldCom…) đến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay đều có
mối liên hệ đến sự tồn tại và vận hành thực sự của một cơ chế quản trị doanh nghiê ̣p
trong một doanh nghiê ̣p (DN) để có thể quản lý và kiểm soát được rủi ro. Các DN
đều chịu một áp lực rất lớn trong việc nhận biết tất cả rủi ro mà DN đang phải đối
mặt và phải lý giải được cách thức làm thế nào để kiểm soát các rủi ro này ở mức độ
10
chấp nhận được. Cùng với sự phát triển của khung quản trị rủi ro DN, KTNB đang
dần được xem là một công cụ hữu hiệu để một DN kiểm soát các rủi ro của mình
thông qua cả chức năng đảm bảo và chức năng tư vấn cho ban giám đốc và cho các
chủ sở hữu. Vai trò của KTNB chuyển dịch từ vai trò truyền thống trong hoạt động
đánh giá công tác quản lý sang các hoạt động mang tính chất tư vấn và đưa ra các
đảm bảo mang tính khách quan cho các cấp quản lý. KTNB tham gia trực tiếp vào
chu trình quản trị DN, bao gồm chu trình hoạt động, thủ tục kiểm soát nội bộ, quản
trị rủi ro và cả báo cáo tài chính.
Trong rất nhiều công ty niêm yết và công ty đại chúng, KTNB hỗ trợ trực tiếp
cho hô ̣i đồ ng quản tri ̣ (HĐQT) và ủy ban kiểm toán trong vai trò giám sát chung các
hoạt động của Doanh nghiệp. Sự tham gia trực tiếp, với vai trò ngày càng quan
trọng và mang tính độc lập của KTNB vào cơ chế quản trị DN được xem là một tất
yếu cùng với sự phát triển của quản trị DN trong nền kinh tế hiện nay.
Một hệ thống kiểm soát nội bộ cho dù được thiết lập công phu đến đâu thì cũng
khó tránh khỏi những hạn chế bởi:
Thứ nhất, trình độ của cán bộ nghiệp vụ, đặc biệt là với những lĩnh vực, sản
phẩm mới.
Thứ hai, quá trình công tác của cán bộ nghiệp vụ đã trở nên mệt mỏi.
Thứ ba, cơ chế kiểm tra kiểm soát gắn liền với quy trình nghiệp vụ trở nên vô
hiệu khi có sự cấu kết, thông đồng.
Thứ tư, có những cán bộ tha hoá biến chất, cố tình gian lận.
Thứ năm, có sự can thiệp của lãnh đạo làm ảnh hưởng đến tính độc lập của
KTNB.
Do đó cần phải thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ chuyên trách để khắc phục
những hạn chế của cơ chế kiểm tra, kiểm soát gắn liền với quy trình nghiệp vụ.
Bằng việc tiếp cận hệ thống và có phương pháp, kiểm toán nội bộ giúp tổ chức của
mình thông qua việc đánh giá hiệu quả hệ thống quản lý rủi ro, hệ thống kiểm
soát nội bộ, sau đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các
hệ thống này.
11
1.2.2 Phạm vi kiểm toán nội bộ
Công việc của kiểm toán viên bên ngoài (kiểm toán độc lập, kiểm toán nhà
nước) thường là kiểm toán tài chính; chính sự gắn bó này đã góp phần vào việc giúp
các kiểm toán viên nội bộ hiện đại thoát ra khỏi công việc kiểm toán tài chính để tập
trung vào kiểm toán nghiệp vụ hay quản lý. Tuy nhiên việc phân tách hai chức năng
này không đơn giản vì có những mối liên hệ nhất định ở nhiều cấp độ khác nhau và
trong từng tình huống cụ thể. Ví dụ: kiểm toán viên nội bộ được nhà quản lý yêu
cầu thực hiện kiểm toán tài chính cho một chi nhánh hoặc một bộ phận nghiệp vụ
nào đó. Trong trường hợp này, kiểm toán viên nội bộ phải tiến hành kiểm toán tài
chính như thường lệ và đồng thời mở rộng công việc của mình sang các lĩnh vực
khác. Ở một cấp độ khác, kiểm toán viên nội bộ có thể phải thẩm tra các hoạt động
nghiệp vụ có liên quan chủ yếu đến chức năng tài chính hoặc kế toán. Khi đó, kiểm
toán viên nội bộ có thể mở rộng việc thẩm tra của mình sang các hoạt động nghiệp
vụ khác, nằm ngoài phạm vi nghiệp vụ tài chính hoặc kế toán thông thường. Hoặc
khi thực hiện kiểm toán một hoạt động nghiệp vụ nào đó kiểm toán viên nội bộ có
thể mở rộng hợp lý sang các vấn đề về kiểm soát chi tiêu và doanh thu – mang tính
chất nghiệp vụ tài chính nhiều hơn. Như vậy, kiểm toán nội bộ còn đi xa hơn những
báo cáo tài chính, công việc của kiểm toán nội bộ là sự gắn kết chặt chẽ giữa kiểm
toán tài chính và kiểm toán nghiệp vụ. Bên cạnh việc xác định mức độ tin cậy và
tuân thủ chuẩn mực của báo cáo tài chính, kiểm toán viên nội bộ còn phải khảo sát
tất cả các khía cạnh của quá trình tạo lập, duy trì hoặc rút gọn các bảng cân đối –
với nhận thức rõ ràng về mối liên hệ trùng lắp luôn tồn tại rất nhiều loại tài sản nợ
và tài sản có trong bảng tổng kết tài sản và các loại thu nhập và chi tiêu khác nhau
cấu thành nên báo cáo thu nhập. Trong đó, kiểm toán viên nội bộ quan tâm đến các
chính sách, quyết định, thủ tục và kết qủa hoạt động tác động đến những bảng tổng
kết tài chính luôn biến động này.
Về cơ bản phương thức hoạt động của kiểm toán nội bộ cũng giống như kiểm
toán độc lập nhưng kiểm toán nội bộ không chỉ quan tâm xem xét về tính trung thực
và hợp lý của các thông tin tài chính, mà còn quan tâm thường xuyên, sâu sát đến
12
công tác kế toán, hoạt động kinh doanh và những vấn đề về những quản lý tài chính,
quản trị điều hành của các đối tượng kiểm toán trong đơn vị để đưa ra những kiến
nghị hay các biện pháp cải tiến.
1.2.3 Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ
Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải dựa trên cơ sở tổ chức công việc của
KTNB vì tổ chức công việc KTNB ở cấp cao nhất trở thành chiến lược để đạt được
mục đích của KTNB. Bên cạnh đó, tổ chức bộ máy KTNB phải có sự chỉ đạo
thường xuyên về mặt quản trị, có sự kiểm soát tập thể, bộ máy kiểm toán nói chung
bao gồm con người và phương tiện chứa đựng các yếu tố của kiểm toán để thực
hiện chức năng kiểm toán và các yếu tố của kiểm toán phải trở thành nhận thức và
kinh nghiệm trong con người, hình thành nên cơ chế hoạt động của các phương tiện.
Tóm lại, bộ máy KTNB là hệ thống bao gồm các kiểm toán viên do đơn vị tự lập ra
đáp ứng yêu cầu quản trị nội bộ. Tất nhiên sẽ không tồn tại một cách thức tổ chức
bộ máy KTNB hiệu quả duy nhất vì cách thức tổ chức bộ máy KTNB phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố, đó là yêu cầu quản lý trong từng thời kỳ, phạm vi hoạt động, đặc
điểm lĩnh vực kinh doanh, yêu cầu về pháp lý.
Xét theo phạm vi hoạt động của KTNB và mối liên hệ giữa KTNB công ty mẹ
và các đơn vị thành viên có hai mô hình tổ chức KTNB là tập trung và phân tán. Tổ
chức KTNB theo mô hình tập trung là chỉ tổ chức KTNB tại bộ máy hoạt động cấp
cao là công ty mẹ mà không tổ chức KTNB tại các đơn vị thành viên. Mô hình này
đòi hỏi các kiể m toán viên (KTV) của văn phòng điều hành tập đoàn hay công ty
mẹ phải thường xuyên đi công tác đến các đơn vị thành viên khác nhau, địa điểm
khác nhau để thực hiện kiểm toán. Tổ chức theo mô hình phân tán là KTNB được
thành lập ở cả công ty mẹ và các đơn vị thành viên. Về mặt lý thuyết tổ chức theo
cách này có thể thực hiện được nhưng trong thực tế tính khả thi không cao vì bị giới
hạn bởi chi phí kiểm toán, số lượng KTV, kiểm soát hoạt động kiểm toán,… Ưu
điểm của mô hình phân tán là các KTV của công ty mẹ sẽ không phải bận rộn với
những công việc đơn giản để tập trung cho các công việc khác quan trọng hơn; các
13
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------
TRẦN VĂN TÙNG
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN
NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG
Hà Nội – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------
TRẦN VĂN TÙNG
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN
NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
Chuyên ngành : Tài chính và Ngân hàng
Mã số : 60 34 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THI ̣ MINH TÂM
Hà Nội – 2012
MỤC LỤC
Danh mục chữ viết tắt i
Danh mục các bảng, sơ đồ ii
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ 6
TRONG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1 Khái quát chung về ngân hàng thương mại 6
1.1.1 Khái niê ̣m về ngân hàng thương ma ̣i 6
1.1.2 Chức năng của ngân hàng thương ma ̣i 7
1.2 Hoạt động kiểm toán nội bộ trong ngân hàng thương mại 8
1.2.1 Khái niệm, mục đích và sự cần thiết của kiểm toán nội bộ trong 8
ngân hàng thương ma ̣i
1.2.2 Phạm vi kiểm toán nội bộ 12
1.2.3 Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ 13
1.2.4 Nhiệm vụ quyền hạn của bộ phận kiểm toán nội bộ 17
1.2.5 Tiêu chuẩn đối với người làm kiểm toán nội bộ 20
1.2.6 Nội dung hoạt động của kiểm toán nội bộ 22
1.2.7 Phương pháp thực hiện kiểm toán nội bộ 23
1.2.8 Các tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ 23
1.2.9 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán nội 28
bộ trong ngân hàng thương mại
1.3 Kinh nghiệm trên thế giới về hoạt động kiểm toán nội bộ 30
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM TOÁN 35
NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƢƠNG VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2007 ĐẾN 2011
2.1 Tổng quan về ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam 35
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng TMCP Công 35
thương Việt Nam
2.1.2 Hoạt động kinh doanh của ngân hàng TMCP Công thương Việt 39
Nam
2.2 Hoạt động kiểm toán nội bộ tại ngân hàng TMCP Công thương 43
Việt Nam
2.2.1 Mô hình tổ chức và quy chế hoạt động 43
2.2.2 Nội dung hoạt động kiểm toán nội bộ tại ngân hàng TMCP 50
Công thương Việt Nam
2.2.3 Phương pháp kiểm toán nội bộ tại ngân hàng TMCP Công 52
thương Việt Nam
2.2.4 Thực hiện kiểm toán nội bộ tại ngân hàng TMCP Công thương 57
Việt Nam
2.3 Đánh giá thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ tại ngân hàng 63
TMCP Công thương Việt Nam
2.3.1 Những kết quả đạt được 63
2.3.2 Những tồn tại và hạn chế 64
2.3.3 Phân tích các nhân tố và nguyên nhân tác động đến chất lượng 67
hoạt động kiểm toán nội bộ tại ngân hàng TMCP Công thương
Việt Nam
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT 72
ĐỘNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG
THƢƠNG VIỆT NAM
3.1 Định hướng phát triển của bộ máy kiểm toán nội bộ ngân hàng 72
TMCP Công thương Việt Nam
3.1.1 Định hướng phát triển của ngân hàng TMCP Công thương Việt 72
Nam
3.1.2 Định hướng xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động kiểm 73
toán nội bộ ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
3.2 Quan điểm và nguyên tắc nâng cao chất lượng hoạt động kiểm 74
toán nội bộ ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
3.3 Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ ngân 76
hàng TMCP Công thương Việt Nam
3.3.1 Tổ chức lại bộ máy kiểm toán nội bộ 77
3.3.2 Đổi mới công tác kiểm toán nội bộ 86
3.4 Kiến nghị thực hiện giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động 94
kiểm toán nội bộ Vietinbank
3.4.1 Kiến nghị đối với cơ quan nhà nước 94
3.4.2 Kiến nghị đối với ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam 96
3.4.3 Kiến nghị đối với các tổ chức nghề nghiệp 97
KẾT LUẬN 99
Tài liệu tham khảo 100
Phụ lục
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nguyên nghĩa
BCTC Báo cáo tài chính
DN Doanh nghiệp
GDV Giao dịch viên
HĐQT Hội đồng quản trị
IIA Viện kiểm toán nội bộ
KSNB Kiểm soát nội bộ
KTKSNB Kiểm tra kiểm soát nội bộ
KTNB Kiểm toán nội bộ
KTV Kiểm toán viên
KTVNB Kiểm toán viên nội bộ
NHCT Ngân hàng công thương
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCPCT Ngân hàng thương mại cổ phần công thương
TCTD Tổ chức tín dụng
TMCP Thương mại cổ phần
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Bảng số Tên bảng Trang
1 Bảng 2.1 Một số chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 2007-2011 40
2 Bảng 2.2 Đánh giá rủi ro và tần suất kiểm toán 53
Thống kê số lượt kiểm toán từ năm 2007 đến năm
3 Bảng 2.3 58
2011
Thống kê một số chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt
4 Bảng 2.4 động của bộ phận KTNB từ năm 2007 đến năm 66
2011
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
STT Sơ đồ Tên sơ đồ Trang
1 Sơ đồ 1.1 Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ 15
2 Sơ đồ 1.2 Tổ chức bộ máy KTNB theo các khối chức năng 16
3 Sơ đồ 1.3 Tổ chức bộ máy kiểm toán theo khu vực 17
Cơ cầu tổ chức của ngân hàng TMCP Công thương
4 Sơ đồ 2.1 38
Việt Nam
Cơ cấu tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ
5 Sơ đồ 2.2 49
Vietinbank
6 Sơ đồ 3.1 Mô hình hệ thống kiểm soát nội bộ đề xuất 78
7 Sơ đồ 3.2 Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ đề xuất 83
ii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp nói chung và các
tổ chức tín dụng của Việt Nam nói riêng đã có sự phát triển nhanh chóng cả về quy
mô và số lượng. Song song với sự phát triển nhanh chóng của các doanh nghiệp,
nhà quản lý doanh nghiệp phải giải quyết những vấn đề mới phát sinh như: hiệu quả
kinh doanh, hiệu quả sử dụng các nguồn lực, quản trị rủi ro, độ tin cậy của thông tin
tài chính,….
Các tổ chức tín dụng là loại hình kinh doanh đặc biệt, hoạt động trong cơ chế
thị trường luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn bất kỳ ngành nghề nào khác. Do
vậy, để hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro có thể xẩy ra đồng thời để nâng cao
hiệu quả hoạt động, một nhiệm vụ không thể thiếu được và ngày càng trở nên thiết
yếu trong hoạt động của các tổ chức tín dụng là phải tổ chức tốt công tác kiểm toán
nội bộ trong bản thân từng tổ chức tín dụng.
Trước những yêu cầu cấp bách, Ngân hàng nhà nước Việt nam đã ban hành
Quyết định số 37/2006/QĐ-NHNN vào ngày 01/8/2006, yêu cầu các ngân hàng phải
thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ. Và gần đây nhất ngày 29/12/2011 ngân hàng
nhà nước (NHNN) đã ban hành thông tư số 44/2011/TT-NHNN quy định chi tiết về
hệ thống kiểm soát nội bộ & kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng thay thế hoàn
toàn cho các quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN & quyết định số 37/2006/QĐ-
NHNN ngày 01/8/2006 của NHNN trước đây.
Trong năm 2007 và 2008 đã có nhiều ngân hàng thành lập bộ phận kiểm toán
nội bộ theo quyết định của NHNN trong số đó có Ngân hàng Công thương Việt
nam. Tuy đã thành lập và đi vào hoạt động được hơn 4 năm nhưng chất lượng hoạt
động kiểm toán nội bộ Ngân hàng Công thương Việt Nam còn thấp và chưa đạt
mức kỳ vọng của Ban lãnh đạo. Điều này không phải chỉ có ở Ngân hàng thương
mại cổ phần (TMCP) Công thương Việt Nam mà còn tồn tại ở các Ngân hàng khác.
Theo kết quả khảo sát của Công ty kiểm toán Price Water House Coupers khó khăn
1
lớn nhất mà kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng thương mại đang gặp phải là
thiếu chiến lược rõ ràng và dài hạn cho kiểm toán nội bộ. Điều này có thể phản ánh
một thực tế là kiểm toán nội bộ là một lĩnh vực mới ở Việt Nam và chưa có chuẩn
mực và hướng dẫn thực hành nào chính thức được ban hành. Kể cả đối với những
ngân hàng đã có quy trình kiểm toán nội bộ, tính hợp lý và đầy đủ của quy trình này
vẫn là một câu hỏi lớn.
Từ kinh nghiệm thực tiễn nhiều năm làm kiểm toán nội bộ trong Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam cùng với những lý luận khoa học đã tiếp thu được ở
trường, tác giả đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lƣợng hoạt động kiểm toán nội bộ
tại Ngân hàng TMCP Công thƣơng Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều nghiên cứu trên nhiều khía cạnh và lĩnh vực khác nhau về kiểm
toán nội bộ như: Các nghiên cứu của tác giả Smith, Charles A. (1934) về “Kiểm
soát kiểm toán nội bộ”; tác giả J.C.Shaw (1980) về “Kiểm toán nội bộ - một yếu tố
cần thiết cho hoạt động quản lý hiệu quả”; tác giả Richard A.Roy (1989) về “Quản
lý hành chính đối với bộ phận kiểm toán nội bộ”; tác giả Spencer Pickett (2000) về
“Phát triển các năng lực kiểm toán nội bộ”; tác giả Robert Moeller (2005) về “Kiểm
toán nội bộ hiện đại theo quan điểm của Brink”;….
Ở Việt Nam, năm 1997 kiểm toán nội bộ chính thức được công nhận. Một số
nghiên cứu về kiểm toán nội bộ cũng bắt đầu phát triển: Tác giả Nguyễn Quang
Quynh (1998) về “Xây dựng hệ thống kiểm tra kiểm soát trong quản lý vĩ mô ở Việt
Nam”; tác giả Nguyễn Mai Vinh (2005) chủ trì đề tài “Hoàn thiện kiểm toán nội bộ
tại Bộ Thủy sản”; tác giả Ngô Trí Tuệ và cộng sự với đề tài “Xây dựng hệ thống
kiểm soát nội bộ với việc tăng cường quản lý tài chính tại TCT Bưu chính viễn
thông Việt Nam” (năm 2004); tác giả Vương Đình Huệ và cộng sự với đề tài cấp
nhà nước “Định hướng chiến lược và giải pháp phát triển kiểm toán ở Việt Nam”;…
Các nghiên cứu đã xem xét những vấn đề mang tính khái quát chung về kiểm
toán nội bộ hay đề cập đến tổ chức kiểm toán nội bộ trong một đơn vị nhất định hay
2
một ngành nhất định trong nền kinh tế. Tuy nhiên chưa có một nghiên cứu nào
mang tính khái quát bao gồm cả lý luận và thực tiễn về hoạt động kiểm toán nội bộ
đối với lĩnh vực ngân hàng mà cụ thể là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế nước ta đang hội nhập mạnh mẽ
với thế giới bên cạnh đó hệ thống ngân hàng ở Việt Nam đang đứng trước những
khó khăn thách thức lớn về hiệu quả hoạt động, mua bán sáp nhập ngân hàng,…
đồng thời NHNN đã ban hành thông tư 44 thay thế hoàn toàn các văn bản trước đây
về hoạt động kiểm toán nội bộ tại các tổ chức tín du ̣ng (TCTD).
Vì lý do nên trên, Luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt động kiểm toán nội bộ
tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam. Các nghiên cứu của Luận văn sẽ bao
gồm cả lý luận về kiể m toán nô ̣i bô ̣ (KTNB) và thực trạng KTNB tại Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam, đồng thời đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động KTNB tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là đánh giá toàn diện thực trạng hoạt động kiểm toán
nội bộ Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam từ khi thành lập đến nay, bên cạnh
đó phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động kiểm toán nội bộ Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam. Từ đó đưa ra kiến nghị, phương hướng và các
giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ của Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là hoạt động kiểm toán nội bộ Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu được cụ thể hóa trên các khía
cạnh sau:
Một là, Những vấn đề lý luận về kiểm toán nội bộ trong Ngân hàng thương mại.
3
Hai là, Phân tích đánh giá thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam.
b. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam từ khi thành lập tháng 8/2007 đến tháng
12/2011.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuất phát từ thực tế, Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu khảo sát thực
tế kết hợp với phỏng vấn chuyên gia để rút ra kết luận của vấn đề đang xem xét.
Phương pháp phỏng vấn chuyên gia dựa trên hệ thống bảng câu hỏi, đồng thời việc
thiết kế các bản câu hỏi và cách thức hỏi được xây dựng cụ thể đối với từng đối
tượng phỏng vấn khác nhau.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Việc hình thành và phát triển Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam trở
thành một tập đoàn tài chính vững mạnh, cạnh tranh với các tổ chức tài chính khác
trong khu vực và trên thế giới. KTNB sẽ góp phần không nhỏ nhằm giúp ngân hàng
thương ma ̣i cổ phầ n công thư ơng (NHTMCPCT) đạt được các mục tiêu trên. Chính
vì vậy, Luận văn có những đóng góp cả về lý luận và giải quyết thực tiễn, cụ thể:
Một là, Luận văn trình bày có cơ sở khoa học về các giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động hệ thống kiểm toán nội bộ của Ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam.
Hai là, Luận văn tạo cơ sở để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ
của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.
Ba là, Luận văn kiến nghị các giải pháp thực hiện cụ thể, khả thi nhằm góp
phần đưa hoạt động hệ thống kiểm toán nội bộ của Ngân hàng TMCP Công thương
Việt Nam đạt chất lượng tốt nhất.
4
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn kết cấu gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Lý luận cơ bản về kiểm toán nội bộ trong ngân hàng thương mại.
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động của kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2007 đến 2011.
Chƣơng 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam.
5
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1 Khái quát chung về ngân hàng thƣơng mại
1.1.1 Khái niêm
̣ về ngân hàng thƣơng ma ̣i
Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn
liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống ngân hàng thương
mại đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế
hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là
nền kinh tế thị trường thì ngân hàng thương m ại (NHTM) cũng ngày càng được
hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được.
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM: Ở Mỹ Ngân
hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và
hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Đạo luật ngân hàng của Pháp
(1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở
mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký
thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các
nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Ở Việt Nam, Định nghĩa Ngân hàng thương mại: Ngân hàng thương mại là tổ
chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền ký gửi
từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện
nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài
chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản
là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn
cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ
của xã hội.
6
1.1.2 Chức năng của ngân hàng thƣơng mại
Chức năng trung gian tín dụng: Chức năng trung gian tín dụng được xem
là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng
trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có
nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là
người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh
lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các
bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay.
Chức năng trung gian thanh toán: Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ
cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách
hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ
hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu
khác theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện
thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán,
thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức
thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi,
mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có
thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các
chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán
an toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh
tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
Chức năng tạo tiền: Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ
bản chất của ngân NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu
chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh
mang tính đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền
kinh tế. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM
là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín
dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại
được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên
7
tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền
giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng
này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế,
đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.
1.2 Hoạt động kiểm toán nội bộ trong ngân hàng thƣơng mại
1.2.1 Khái niệm, mục đích và sự cần thiết của kiểm toán nội bộ trong ngân
hàng thƣơng mại
1.2.1.1 Khái niệm về kiểm toán nội bộ
Theo Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ (IIA) của Mỹ: “ Kiểm toán nội bộ là hoạt
động bảo đảm và tư vấn mang tính độc lập, khách quan được thiết lập nhằm tăng
thêm giá trị và cải thiện cho các hoạt động của tổ chức. Kiểm toán nội bộ giúp cho
tổ chức hoàn thành mục tiêu thông qua việc đưa ra một cách tiếp cận có hệ thống
và kỷ cương nhằm đánh giá và cải thiện tính hữu hiệu trong quản trị rủi ro, kiểm
soát và giám sát.”
Cách hiểu kiểm toán nội bộ đúng nhất là thừa nhận rằng đó là một loại hình
kiểm soát có tổ chức mà chức năng là đo lường và đánh giá hiệu quả của những
kiểm soát khác. Khi một tổ chức đặt ra kế hoạch ở tất cả các vị trí và thực hiện các
các kế hoạch ở đó qua các nghiệp vụ, thì tổ chức đó phải làm một số việc để theo
dõi các nghiệp vụ nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu đã định. Những việc làm
tiếp theo có thể hiểu là „kiểm soát‟. Chức năng kiểm toán nội bộ tự nó cũng là một
loại kiểm soát được sử dụng tuy nhiên cũng có nhiều loại kiểm soát khác và vai trò
đặc biệt của kiểm toán nội bộ là giúp đo lường và đánh giá những kiểm soát đó.
Như vậy, kiểm toán viên nội bộ vừa phải hiểu bản thân vai trò của mình là một
kiểm soát, vừa phải hiểu bản chất và phạm vi của những loại kiểm soát khác.
Tất cả điều đó có nghĩa là kiểm toán viên nội bộ - những người làm tốt công
việc của họ - đã trở thành chuyên gia trong các lĩnh vực làm cho việc thiết kế và
thực hiện các dạng kiểm soát trở nên tốt nhất có thể được. Kỹ năng thành thạo này
bao gồm sự hiểu biết mối tương quan giữa các dạng kiểm soát và sự đan xen tốt
8
nhất có thể, theo nhiều kiểu giữa chúng với nhau trong toàn bộ hệ thống kiểm soát
nội bộ. Như vậy là qua cái cửa kiểm soát mà kiểm toán viên nội bộ đi tới việc "xem
xét và đánh giá " các hoạt động có tổ chức và giúp đỡ tối đa cho tổ chức. Kiểm toán
viên nội bộ không thể sánh ngang – chứ chưa nói là vượt – kỹ năng tinh thông
nghiệp vụ kỹ thuật liên quan của các nhân viên nghiệp vụ khác của tổ chức nhưng
kiểm toán viên nội bộ có thể giúp những người có trách nhiệm đạt kết quả tốt hơn
bằng việc xác minh công việc kiểm soát hiện có và nêu ra căn cứ cải tiến những
công việc kiểm soát đó.
Tóm lại, có thể hiểu kiểm toán nội bộ là hoạt động kiểm toán do nhân viên của
đơn vị thực hiện. Phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ rất đa dạng và tùy thuộc
vào quy mô và cơ cấu tổ chức của đơn vị, cũng như yêu cầu của các nhà quản lý
đơn vị. Công việc của họ bao gồm:
Thứ nhất, kiểm tra về thiết kế và vận hành của hệ thống kiểm soát nội bộ, và
đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện chúng.
Thứ hai, kiểm tra các thông tin hoạt động và thông tin tài chính.
Thứ ba, Kiểm tra tính hữu hiệu và hiệu quả của các hoạt động, kể cả các quy
định không thuộc lĩnh vực tài chính của doanh nghiệp.
Thứ tư, Kiểm tra tính tuân thủ pháp luật và các quy định nội bộ…
1.2.1.2 Mục đích của kiểm toán nội bộ
Những năm trước 1981, mục tiêu của kiểm toán nội bộ thường được giới hạn
trong việc kiểm tra và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức. Trong những
năm gần đây, IIA đã mở rộng mục tiêu của kiểm toán nội bộ là đánh giá và cải thiện
mọi hoạt động của đơn vị. Phạm vi của hai chức năng này luôn gắn liền với những
nội dung công việc mà họ phải thực hiện, cụ thể như sau :
- Nhận định, phân tích và đánh giá những rủi ro có thể làm cho các thông tin tài
chính và thông tin hoạt động trở nên không đáng tin cậy; đề xuất những biện pháp
để cải thiện cách thức ghi nhận, đo lường, phân loại và báo cáo về những thông
tin này.
9
- Nhận định, phân tích và đánh giá những vấn đề có thể làm cho các hoạt động
của đơn vị không hữu hiệu hoặc thiếu hiệu quả; đề xuất những biện pháp để sử dụng
tiết kiệm và có hiệu quả nguồn lực của đơn vị.
- Nhận định, phân tích, đánh giá những rủi ro có thể làm cho tài sản của đơn vị
bị tham ô, biển thủ…; đề xuất những biện pháp để cải thiện sự hữu hiệu trong
phương thức bảo vệ tài sản.
- Nhận định, phân tích và đánh giá những rủi ro có thể làm cho luật lệ và các
quy định không được tuân thủ; đề xuất những biện pháp cải thiện nhằm xây dựng hệ
thống quản lý hữu hiệu hơn.
Bên cạnh việc mở rộng mục tiêu, các hoạt động của kiểm toán nội bộ cũng
được mở rộng phạm vi, bao gồm cả hoạt động bảo đảm và hoạt động tư vấn. Trong
hoạt động bảo đảm, kiểm toán nội bộ đã nâng cao mục tiêu đánh giá độc lập của
mình, trong chừng mực nhất định, có thể tương tự như dịch vụ bảo đảm của kiểm
toán độc lập. Bên cạnh đó, hoạt động tư vấn đã được tách riêng và xem là hoạt động
của kiểm toán nội bộ bên cạnh hoạt động bảo đảm.
1.2.1.3 Sự cần thiết của kiểm toán nội bộ trong ngân hàng
Trên thế giới, KTNB đã có lịch sử tồn tại và phát triển trên 60 năm và được
thừa nhận ở trên 165 quốc gia như một nghề nghiệp mang tính chuyên nghiệp. Cùng
với sự phát triển năng động và ngày một phức tạp của các nền kinh tế, vai trò và
chức năng của KTNB trong việc đưa ra đảm bảo về việc đơn vị có thể kiểm soát
một cách hữu hiệu rủi ro đã dần được công nhận trong tất cả các khu vực kinh tế
công, kinh tế tư nhân và cả các tổ chức phi lợi nhuận.
Trong những năm đầu thập kỷ này, từ sự kiện sụp đổ của các tập đoàn lớn
(Enron, WorldCom…) đến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay đều có
mối liên hệ đến sự tồn tại và vận hành thực sự của một cơ chế quản trị doanh nghiê ̣p
trong một doanh nghiê ̣p (DN) để có thể quản lý và kiểm soát được rủi ro. Các DN
đều chịu một áp lực rất lớn trong việc nhận biết tất cả rủi ro mà DN đang phải đối
mặt và phải lý giải được cách thức làm thế nào để kiểm soát các rủi ro này ở mức độ
10
chấp nhận được. Cùng với sự phát triển của khung quản trị rủi ro DN, KTNB đang
dần được xem là một công cụ hữu hiệu để một DN kiểm soát các rủi ro của mình
thông qua cả chức năng đảm bảo và chức năng tư vấn cho ban giám đốc và cho các
chủ sở hữu. Vai trò của KTNB chuyển dịch từ vai trò truyền thống trong hoạt động
đánh giá công tác quản lý sang các hoạt động mang tính chất tư vấn và đưa ra các
đảm bảo mang tính khách quan cho các cấp quản lý. KTNB tham gia trực tiếp vào
chu trình quản trị DN, bao gồm chu trình hoạt động, thủ tục kiểm soát nội bộ, quản
trị rủi ro và cả báo cáo tài chính.
Trong rất nhiều công ty niêm yết và công ty đại chúng, KTNB hỗ trợ trực tiếp
cho hô ̣i đồ ng quản tri ̣ (HĐQT) và ủy ban kiểm toán trong vai trò giám sát chung các
hoạt động của Doanh nghiệp. Sự tham gia trực tiếp, với vai trò ngày càng quan
trọng và mang tính độc lập của KTNB vào cơ chế quản trị DN được xem là một tất
yếu cùng với sự phát triển của quản trị DN trong nền kinh tế hiện nay.
Một hệ thống kiểm soát nội bộ cho dù được thiết lập công phu đến đâu thì cũng
khó tránh khỏi những hạn chế bởi:
Thứ nhất, trình độ của cán bộ nghiệp vụ, đặc biệt là với những lĩnh vực, sản
phẩm mới.
Thứ hai, quá trình công tác của cán bộ nghiệp vụ đã trở nên mệt mỏi.
Thứ ba, cơ chế kiểm tra kiểm soát gắn liền với quy trình nghiệp vụ trở nên vô
hiệu khi có sự cấu kết, thông đồng.
Thứ tư, có những cán bộ tha hoá biến chất, cố tình gian lận.
Thứ năm, có sự can thiệp của lãnh đạo làm ảnh hưởng đến tính độc lập của
KTNB.
Do đó cần phải thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ chuyên trách để khắc phục
những hạn chế của cơ chế kiểm tra, kiểm soát gắn liền với quy trình nghiệp vụ.
Bằng việc tiếp cận hệ thống và có phương pháp, kiểm toán nội bộ giúp tổ chức của
mình thông qua việc đánh giá hiệu quả hệ thống quản lý rủi ro, hệ thống kiểm
soát nội bộ, sau đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các
hệ thống này.
11
1.2.2 Phạm vi kiểm toán nội bộ
Công việc của kiểm toán viên bên ngoài (kiểm toán độc lập, kiểm toán nhà
nước) thường là kiểm toán tài chính; chính sự gắn bó này đã góp phần vào việc giúp
các kiểm toán viên nội bộ hiện đại thoát ra khỏi công việc kiểm toán tài chính để tập
trung vào kiểm toán nghiệp vụ hay quản lý. Tuy nhiên việc phân tách hai chức năng
này không đơn giản vì có những mối liên hệ nhất định ở nhiều cấp độ khác nhau và
trong từng tình huống cụ thể. Ví dụ: kiểm toán viên nội bộ được nhà quản lý yêu
cầu thực hiện kiểm toán tài chính cho một chi nhánh hoặc một bộ phận nghiệp vụ
nào đó. Trong trường hợp này, kiểm toán viên nội bộ phải tiến hành kiểm toán tài
chính như thường lệ và đồng thời mở rộng công việc của mình sang các lĩnh vực
khác. Ở một cấp độ khác, kiểm toán viên nội bộ có thể phải thẩm tra các hoạt động
nghiệp vụ có liên quan chủ yếu đến chức năng tài chính hoặc kế toán. Khi đó, kiểm
toán viên nội bộ có thể mở rộng việc thẩm tra của mình sang các hoạt động nghiệp
vụ khác, nằm ngoài phạm vi nghiệp vụ tài chính hoặc kế toán thông thường. Hoặc
khi thực hiện kiểm toán một hoạt động nghiệp vụ nào đó kiểm toán viên nội bộ có
thể mở rộng hợp lý sang các vấn đề về kiểm soát chi tiêu và doanh thu – mang tính
chất nghiệp vụ tài chính nhiều hơn. Như vậy, kiểm toán nội bộ còn đi xa hơn những
báo cáo tài chính, công việc của kiểm toán nội bộ là sự gắn kết chặt chẽ giữa kiểm
toán tài chính và kiểm toán nghiệp vụ. Bên cạnh việc xác định mức độ tin cậy và
tuân thủ chuẩn mực của báo cáo tài chính, kiểm toán viên nội bộ còn phải khảo sát
tất cả các khía cạnh của quá trình tạo lập, duy trì hoặc rút gọn các bảng cân đối –
với nhận thức rõ ràng về mối liên hệ trùng lắp luôn tồn tại rất nhiều loại tài sản nợ
và tài sản có trong bảng tổng kết tài sản và các loại thu nhập và chi tiêu khác nhau
cấu thành nên báo cáo thu nhập. Trong đó, kiểm toán viên nội bộ quan tâm đến các
chính sách, quyết định, thủ tục và kết qủa hoạt động tác động đến những bảng tổng
kết tài chính luôn biến động này.
Về cơ bản phương thức hoạt động của kiểm toán nội bộ cũng giống như kiểm
toán độc lập nhưng kiểm toán nội bộ không chỉ quan tâm xem xét về tính trung thực
và hợp lý của các thông tin tài chính, mà còn quan tâm thường xuyên, sâu sát đến
12
công tác kế toán, hoạt động kinh doanh và những vấn đề về những quản lý tài chính,
quản trị điều hành của các đối tượng kiểm toán trong đơn vị để đưa ra những kiến
nghị hay các biện pháp cải tiến.
1.2.3 Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ
Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải dựa trên cơ sở tổ chức công việc của
KTNB vì tổ chức công việc KTNB ở cấp cao nhất trở thành chiến lược để đạt được
mục đích của KTNB. Bên cạnh đó, tổ chức bộ máy KTNB phải có sự chỉ đạo
thường xuyên về mặt quản trị, có sự kiểm soát tập thể, bộ máy kiểm toán nói chung
bao gồm con người và phương tiện chứa đựng các yếu tố của kiểm toán để thực
hiện chức năng kiểm toán và các yếu tố của kiểm toán phải trở thành nhận thức và
kinh nghiệm trong con người, hình thành nên cơ chế hoạt động của các phương tiện.
Tóm lại, bộ máy KTNB là hệ thống bao gồm các kiểm toán viên do đơn vị tự lập ra
đáp ứng yêu cầu quản trị nội bộ. Tất nhiên sẽ không tồn tại một cách thức tổ chức
bộ máy KTNB hiệu quả duy nhất vì cách thức tổ chức bộ máy KTNB phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố, đó là yêu cầu quản lý trong từng thời kỳ, phạm vi hoạt động, đặc
điểm lĩnh vực kinh doanh, yêu cầu về pháp lý.
Xét theo phạm vi hoạt động của KTNB và mối liên hệ giữa KTNB công ty mẹ
và các đơn vị thành viên có hai mô hình tổ chức KTNB là tập trung và phân tán. Tổ
chức KTNB theo mô hình tập trung là chỉ tổ chức KTNB tại bộ máy hoạt động cấp
cao là công ty mẹ mà không tổ chức KTNB tại các đơn vị thành viên. Mô hình này
đòi hỏi các kiể m toán viên (KTV) của văn phòng điều hành tập đoàn hay công ty
mẹ phải thường xuyên đi công tác đến các đơn vị thành viên khác nhau, địa điểm
khác nhau để thực hiện kiểm toán. Tổ chức theo mô hình phân tán là KTNB được
thành lập ở cả công ty mẹ và các đơn vị thành viên. Về mặt lý thuyết tổ chức theo
cách này có thể thực hiện được nhưng trong thực tế tính khả thi không cao vì bị giới
hạn bởi chi phí kiểm toán, số lượng KTV, kiểm soát hoạt động kiểm toán,… Ưu
điểm của mô hình phân tán là các KTV của công ty mẹ sẽ không phải bận rộn với
những công việc đơn giản để tập trung cho các công việc khác quan trọng hơn; các
13