Một số giải pháp phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại việt nam

  • 44 trang
  • file .pdf
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
LỜI NÓI ĐẦU
Sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển đã kéo theo các
phương thức thanh toán phát triển, phương thức này là sự kế
thừa và phát triển của phương thức trước đó. Khắc phục những
nhược điểm của phương thức thanh toán bằng tiền mặt, thanh
toán không dùng tiền mặt là phương thức thanh toán mới ưu việt
hơn, đáp ứng một cách tốt hơn cho yêu cầu của sự phát triển
kinh tế.
Hiện nay ở rất nhiều nước trên thế giới việc thanh toán
không dùng tiền mặt đã trở nên quen thuộc với mỗi người dân,
trong khi đó ở Việt Nam khối lượng thanh toán không dùng tiền
mặt còn chiếm tỷ lệ rất hạn chế. Thanh toán không dùng tiền mặt
chưa được người dân chấp nhận rộng rãi, thậm chí nhiều người
còn chưa nhìn thấy tờ séc, tấm thẻ tín dụng bao giờ. Có thể nói
một chúng ta chưa phát huy được tính ưu việt của thanh toán
không dùng tiền mặt và như vậy chúng ta chưa tận dụng hết các
điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của nền kinh tế.
Hiện nay khi mà thanh toán bằng tiền mặt đang là phổ
biến thì việc tìm ra giải pháp cho sự phát triển của thanh toán
không dùng tiền mặt là rất cần thiết tuy rằng điều đó không đơn
giản. Nó đòi hỏi phải có sự quan tâm, nghiên cứu một cách đầy
đủ, phải có cái nhìn sâu hơn, rộng hơn. Với mong muốn các hình
thức thanh toán không dùng tiền mặt sẽ ngày càng được chấp
nhận rộng rãi em đã chọn đề tài :“Một số giải pháp phát triển
các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam”.
Nội dung chính của đề tài bao gồm :
CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TOÁN
KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT.
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
THỰC TRẠNG VỀ CÁC HÌNH THỨC
CHƯƠNG 2 :
THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI VIỆT NAM
HIỆN NAY
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VỀ CÁC HÌNH
THỨC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
- Giới hạn Đề tài :Với mong muốn thanh toán không
dùng tiền mặt sẽ phát triển và được chấp nhận rộng rãi,
nhất là các cá nhân, ở đề án này em chỉ tập trung vào hai
hình thức thanh toán là Séc và Thẻ Thanh Toán – hai
hình thức tiện dụng nhất và các cá nhân nên sử dụng
nhất.
- Đối tượng của Đề án : Chủ yếu của đề án là các cá nhân,
người tiêu dùng trong các hoạt động thanh toán.
- Phương pháp nghiên cứu :
Đây là đề tài rộng, phức tạp và được nhiều ngưòi quan
tâm, vì vậy với kiến thức còn hạn chế trong phạm vi đề tài này
em mới chỉ dừng lại ở việc tổng hợp lại một số lý thuyết đã có,
tham khảo các tài liệu, tạp chí, so sánh với thực trạng của Việt
Nam hiện nay, từ đó đưa ra một số nhận xét ban đầu và các giải
pháp cho vấn đề này.
Do khả năng phân tích đánh giá thực tế và kinh nghiệm
còn nhiều hạn chế, đề tài rộng, thời gian nghiên cứu không nhiều
cho nên những vấn đề đưa ra, các nhận xét đánh giá và kiến nghị
chắc chắn không tránh khỏi sai sót, lệch lạc. Em rất mong được
sự chỉ bảo của các thầy cô giáo để đề án của em được hoàn thiện
hơn.
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
Em xin chân thành cảm ơn !
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN
MẶT.
1.1 lưu thông tiền tệ.
1.1.1 Khái niệm và vai trò của lưu thông tiền tệ.
- Lưu thông tiền tệ là sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế để
thực hiện các quan hệ thương mại, hàng hoá, phân phối thu nhập,
hình thành nguồn vốn và phúc lợi xã hội.
Có thể nói, sự lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế đóng vai trò như
hệ thống mạch máu trong một cơ thể sống, nếu hệ thống mạch máu
này hoạt động tốt thì cơ thể sẽ khoẻ mạnh và phát triển, ngược lại
nếu hệ thống mạch máu này hoạt động trục trặc, hoặc hơn thế nữa là
bị tắc nghẽn thì cơ thể sẽ ốm yếu và sẽ không thể phát triển bình
thường.
1.1.2 Các hình thức lưu thông tiền tệ.
1.1.2.1 Lưu thông bằng tiền mặt:
+khái niện: Đó là sự vận động của tiền mặt trong nền kinh tế
phục vụ cho các quan hệ thương mại với quy mô nhỏ và trong nội bộ
dân cư là chính.
Đây là hình thức trong đó tiền tệ và hàng hoá đồng thời vận động với
nhau.
+ Ưu điểm : Đây là hình thức đơn giản, chu chuyển nhanh,
không gây ách tắc trong chu chuyển và nó có hiệu quả kinh tế cao
đối với người tham gia lưu thông.
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
+ Nhược điểm :
- Tốn kém về mặt chi phí lưu thông tiền tệ như : in ấn, bảo
quản, tổ chức lưu thông…
- Gây ra những hiện tượng tiêu cực xã hội : Trộm cắp, rửa
tiền, trốn thuế…
- Nạn tiền giả.
1.1.2.2 Lưu thông không dùng tiền mặt:
+ khái niệm: Đây là hình thức lưu thông trong đó tiền tệ và hàng
hoá vận động tưông đối độc lập với nhau, đáp ứng cho nhu cầu thanh
toán với quy mô lớn, thông thường là các doanh nghiệp.
+ Nhược điểm :
- Phải có trình độ nhất định mới tham gia được.
- Mọi thanh toán phải thông qua ngân hàng.
- Trang bị cơ sở vật chất ban đầu khá tốn kém.
-Vấn đề bảo mật.
+ Ưu điểm :
- Khắc phục được một phần chi phí lưu thông.
- Tăng cường khẳ năng kiểm soát của nhà nước, của ngân
hàng.
- Tạo ra sự văn minh lịch sự trong thanh toán
1.2 Sự cần thiết phải phát triển các hình thức thanh toán không
dùng tiền mặt.
1.2.1 Nguồn gốc của thanh toán không dùng tiền mặt.
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
Trong xã hội loài người, nếu còn sản xuất hàng hoá và lưu thông
hàng hoá, thì sự tồn tại của mối quan hệ Tiền – Hàng là một tất yếu
khách quan. Đó là mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau.
Theo tiến trình lịch sử hình thành tiền tệ, đồng tiền đã có những
bước phát triển từ thấp đến cao. Trong nền kinh tế tự nhiên khép kín,
do nhu cầu còn rất đơn giản con người tự sản xuất được những gì
mình cần và do đó họ không có nhu cầu trao đổi. Khi xã hội phát
triển và mở rộng hơn, họ thấy rằng mình không thể tự sản xuất mọi
thứ mà mình cần do nhiều lý do, lúc này nhu cầu trao đổi xuất hiện
và vấn đề là trao đổi như thế nào. Vấn đề trùng lắp nhu cầu xuất
hiện. Nhưng không phải lúc nào và ở đâu cũng có sự trùng lắp nhu
cầu. Muốn trao đổi được hàng hoá người ta nghĩ tới một hàng hoá
mà nhiều người cùng cần, đó là vật đứng ra làm vật ngang giá chung
– hình thức đầu tiên của tiền tệ. Lúc đầu vật ngang giá chung rất đơn
giản, nó có thể là vỏ sò vỏ hến hay con bò, miếng đồng…Do yêu cầu
thuận tiện trong trao đổi người ta thấy rằng cần phải có vật ngang giá
chung thế nào đó dễ vận chuyển, dễ chia nhỏ, không hao mòn và có
thể tích trữ dùng cho sau này. Con người đã chọn vàng.
Sản suất hàng hoá ngày càng phát triển, hàng hoá đưa vào lưu
thông càng nhiều, đòi hỏi phải có thêm lượng tiền đưa vào thêm đáp
ứng nhu cầu của hàng hoá đưa vào lưu thông. Hơn nữa người ta thấy
rằng trong mua bán chịu, tờ giấy ghi nợ cũng có giá trị như tiền vậy.
Tiền giấy ra đời và nó đã giúp cho việc trao đổi hàng hoá diễn ra
thuận lợi hơn rất nhiều.
Nhưng sản xuất không ngừng phát triển, khối lượng tiền đưa vào
lưu thông ngay một lớn, đặc biệt là khi có lạm phát. Tiền giấy bộc lộ
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
những hạn chế nhất định như : Chi phí in ấn, bảo quản, tiền giả, kiểm
đếm…Hơn nữa trong nền kinh tế phát triển như ngày nay khối lượng
tiền trong một giao dịch là rất lớn, nếu thanh toán bằng tiền mặt thì
rõ ràng là bất tiện. Như vậy đòi hỏi phải có phương thức thanh toán
mới ưu việt hơn khắc phục được những hạn chế trên, phù hợp với
một giai đoạn phát triển kinh tế mới.Thanh toán không dùng tiền mặt
xuất hiện như một tất yếu, thể hiện bước phát triển và hoàn thiện ở
đỉnh cao của lịch sử phát triển của tiền tệ.
1.2.2 Sự cần thiết phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
Thanh toán là cầu nối giữa sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu
dùng. Đồng thời nó cũng là khâu mở đầu và là khâu kết thúc của quá
trình tái sản xuất xã hội. Tổ chức tốt công tác thanh toán nói chung
sẽ tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành
một cách trôi chảy nhịp nhàng. Ngược lại việc thanh toán bị trục trặc,
ách tắc thì quá trình sản xuất kinh daonh sẽ lâm vào trì trệ.
Hiện nay khi mà nền kinh tế thế giới đã phát triển sang một giai
đoạn mới, lúc này ngân hàng phải phát huy đầy đủ các chức năng của
mình đó là trung tâm thanh toán trong nền kinh tế.
ở đây ta hiểu thanh toán không dùng tiền mặt là sự vận động của
tiền tệ với chức năng là phưong tiện thanh toán giữa các tổ chức cá
nhân trong xã hội bằng cách trích chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản
này sang tài khoản khác hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua
vai trò trung gian thanh toán của ngân hàng hay các tổ chức tín
dụng khác.
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
Đối với nền kinh tế thị trường thanh toán không dùng tiền mặt
có vai trò rất lớn.
+ Đối với nền kinh tế nói chung :
- Thanh toán không dùng tiền mặt không chỉ phục vụ cho các hoạt
động của các tổ chức, cá nhân mà nó còn góp phần mở rộng các quan
hệ kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân.
- Thúc đẩy nhanh quá trình luân chuyển hàng hoá , vật tư, tăng
nhanh tốc độ lưu chuyển vốn trong nền kinh tế.
+ Đối với ngân hàng :
- Thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho ngân hàng tập
chung được các nguồn vốn trong dân cư.
- Giúp cho ngân hàng có được khoản thu từ phí cung cấp dịch vụ
thanh toán ổn định và an toàn.
- Tạo điều kiện cho Ngân hàng nhà nước kiểm soát và điều tiết
lượng tiền đi vào lưu thông, từ đó có các chính sách phù hợp tác
động vào nền kinh tế.
-Với vai trò là các trung gian tài chính việc thanh toán qua ngân
hàng giúp cho việc thu thập các nguồn thông tin về doanh nghiệp và
sự chuyển dịch vốn trong nền kinh tế. Tạo điều kiện cho việc thẩm
định các dự án đầu tư được tố hơn.
+ Đối với xã hội :
- Tạo môi trường thanh toán văn minh, lịch sự, thuận tiện và
nhanh chóng.
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
- Giúp người dân có thói quen thanh toán qua ngân hàng và sử
dụng các dịch vụ ngân hàng.
- Hạn chế nạn tiền giả, rửa tiền, thành lập các quỹ đen…
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
1.3 Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
Theo quyết định 22/NH 21/01/1994 do Thống đốc Ngân hàng
nhà nước ban hành, các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
được áp dụng trong hệ thống ngân hàng bao gồm : Séc, Uỷ nhiệm
chi, Uỷ nhiệm thu, Thư tín dụng, Ngân phiếu thanh toán, Thẻ thanh
toán.
Quyết định 22/QĐ-NH1 ngày 21/12/1994 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam là văn bản hướng dẫn đầy đủ nhất về
TTKDTM. Tuy nhiên, bản thân nội dung văn bản này cũn nhiều bất
cập. Điều 7 Quyết định đưa ra các hỡnh thức TTKDTM: sộc, ủy
nhiệm chi - chuyển tiền, ủy nhiệm thu, thư tín dụng, ngân phiếu
thanh toán, thẻ thanh toán. Một số chuyên gia cho rằng ngân phiếu
thanh toán không phải là TTKDTM mà chẳng qua là một loại tiền
mệnh giá lớn. Cũn nếu coi ủy nhiệm chi - chuyển tiền là một thể thức
TTKDTM thỡ là sai về khỏi niệm, vỡ ủy nhiệm chi là một thể thức
thanh toỏn, nhưng chuyển tiền lại là phương thức thanh toán...
Gần đây nhất theo quyết định số 235/2002/QĐ-NHNN ngày
27/03/2002 của thống đốc NHNN về việc chấm dứt việc phát hành
trái phiếu thanh toán. Theo đó kể từ ngày 1/4/2002 NHNN sẽ không
phát hành ngân phiếu thanh toán nữa. Vậy nên với nội dung chính
của đề tài là các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay
tại Việt Nam nên em xin không đề cập đến hình thức thanh toán bằng
ngân phiếu thanh toán, Uỷ nhiệm thu, Uỷ nhiệm chi.
1.3.1 Thanh toán bằng Séc.
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một khách hàng
của ngân hàng ra lệnh cho ngân hàng trích một số tiền nhất định
trên tài khoản của mình mở tại ngân hàng để trả cho người cầm Séc
hoặc cho người được chỉ định trên tờ Séc ( tổ chức kinh tế hay cá
nhân ).
Séc là một mệnh lệnh, chứ không phải là một yêu cầu, do đó khi
nhận được Séc Ngân hàng chấp nhận vô điều kiện, trừ trường hợp tài
khoản của người phát hành không đủ hoặc không có tiền trả.
Cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt của nước ta quy định về
xử phạt những tờ Séc phát hành quá số dư tiền gửi hoặc tiền lưu ký
như sau :
+ Người phát hành Séc phải chịu phạt bằng 30% số tiền phát
hành quá số dư.
+ Người phát hành Séc phỉa chịu phạt về chậm trả ( kể từ ngày
tờ Séc quay về ngân hàng phục vụ người phát hành Séc đến ngày có
đủ tiền thanh toán).
Ngoài ra nếu người chủ tài khoản vi phạm phát hành Séc đến tờ
thứ hai, Ngân hàng nhà nước trung ương sẽ thông báo đến tất cả các
ngân hàng, khách hàng phát hành Séc quá số dư sẽ bị đình chỉ việc
sử dụng loại Séc đó, thời gian đình chỉ tối thiểu là 3 tháng. Trường
hợp việc vi phạm nguyên tắc phát hành Séc dẫn tới hậu quả nghiêm
trọng thì Người phát hành Séc sẽ bị truy tố theo quy định của pháp
luật.
Các loại Séc bao gồm :
- Séc chuyển khoản.
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
Séc chuyển khoản – Séc thông thường là loại Séc được sử
dụng rộng rãi, nó có giá trị thanh toán như tiền tệ, do đó trên tờ séc
phải có đầy đủ những yếu tố bắt buộc theo luật định. Thông thường
séc được in sẵn, người phát hành chỉ việc điền vào chỗ quy định
bằng loại mực không phai.
Viẹc ghi trên tờ séc phải bảo đảm tính hợp lệ, hợp pháp đối
với việc sử dụng Séc. Séc chuyển khoản cũng như các loại séc khác
chỉ có hiệu lực trong phạm vi thời hạn nhất định. Bởi vậy trong thời
hạn hiệu lực của tờ Séc ngân hàng phải thanh toán ngay khi người
thụ hưởng Séc nộp Séc vào ngân hàng. Cơ chế sử dụng Séc chuyển
khoản hiện nay quy định : Thời hạn hiệu lực của Séc là 10 ngày và
séc chuyển khoản chỉ được áp dụng thanh toán giữa các khách hàng
có tài khoản ở một chi nhánh ngân hàng hoặc khác chi nhánh ngân
hàng có tham gia thanh toán bù trừ và giao nhận chứng từ trực tiếp
hàng ngày.
- Séc bảo chi và Séc định mức.
Séc bảo chi và Séc định mức là loại Séc xác nhận được ngân
hàng bảo đảm khả năng thanh toán và chống lại việc phát hành
khống.
- Séc chuyển tiền.
Séc chuyển tiền hay Séc chuyển tiền cầm tay là một loại chuyển
tiền được sử dụng theo yêu cầu của khách hàng. Việc chuyển tiền
mặt giữa các tỉnh thành phố qua ngân hàng được các ngân hàng thực
hiện bằng phương thức chuyển tiền nhanh bằng điện đến địa chỉ
người lĩnh tiền, hoặc cấp séc chuyển tiền cho khách hàng.
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
- Séc cá nhân.
Séc cá nhân được áp dụng đối với khách hàng có tài khoản tiền
gửi đứng tên cá nhân tại ngân hàng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch
vụ và các khoản thanh toán khác.
Hiện nay theo quy định của ngân hàng Séc cá nhân có số tiền
trên 5 triệu phải làm thủ tục bảo chi Séc, người thụ hưởng phải yêu
cầu người phát Séc xuất trình CMND để kiểm tra và chỉ nhận Séc do
đích thân người có tên trên và sau tờ Séc và phải ký tên tại chỗ.
Thời hạn hiệu lực của Séc cá nhân là 10 ngày và chỉ được áp
dụng thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở một chi nhánh
ngân hàng hoặc khác chi nhánh ngân hàng có tham gia thanh toán bù
trừ và giao nhận chứng từ trực tiếp hàng ngày.
1.3.2 Thanh toán bằng hình thức thẻ thanh toán.
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán hiện đại vì nó gắn
với kỹ thuật tin học ứng dụng trong ngân hàng. Thẻ thanh toán do
ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng của mình ( các doanh
nghiệp, cá nhân ) để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, thanh toán nợ
và lĩnh tiền mặt. Ở một số nước các hãng, các công ty lớn cũng phát
hành thẻ thanh toán để thu tiền bán hàng của hãng mình.
Thẻ thanh toán bao gồm thẻ từ và thẻ điện tử. Thẻ từ là loại thẻ
dùng kỹ thuật băng từ để ghi và đọc thông tin trên thẻ. Thẻ điện tử là
loại thẻ có gắn bộ nhớ vi điện tử trên thẻ, ghi và đọc thông tin qua bộ
nhớ vi điện tử.
Có 3 loại thẻ thanh toán được áp dụng :
- Thẻ thanh toán không phải ký quỹ.
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
Người sử dụng thẻ không phải lưu ký tiền vào tài khoản để đảm
bảo thanh toán. Căn cứ để thanh toán là số dư tài khoản tiền gửi của
người chủ sở hữu thẻ mở tại ngân hàng với hạn mức tối đa do ngân
hàng quy định. Hạn mức được ghi vào bộ nhớ của thẻ nếu là thẻ điện
tử, vào giải băng từ nếu là thẻ điện tử.
Ở nước ta quy định thẻ thanh toán không phải ký quỹ là loại thẻ
A. nó được áp dụng cho những khách hàng có quan hệ tín dụng,
thanh toán tốt và thường xuyên, có tín nhiệm với ngân hàng.
- Thẻ thanh toán phải ký quỹ trước tại ngân hàng .
Người sử dụng thẻ phải lưu ký một số tiền nhất định vào tài
khoản để đảm bảo thanh toán. Số tiền ký quỹ là hạn mức của thẻ và
được ghi vào bộ nhớ của thẻ.
Loại thẻ này được quy định là loại thẻ B, nó được áp dụng với
mọi loại khách hàng.
- Thẻ tín dụng.
Thẻ tín dụng là loại thẻ không phải ký quỹ và được quy định là loại
thẻ C. Nó được áp dụng đối với những khách hàng được vay vốn
ngân hàng. Mức tiền cho vay là hạn mức tín dụng và được ghi vào bộ
nhớ của thẻ.
Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN
KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY.
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
2.1 Những quy định mang tính nguyên tắc trong thanh toán
không dùng tiền mặt .
Thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ trung gian của
ngân hàng, nghiệp vụ này có liên quan chặt chẽ đến quan hệ trao đổi
hàng hoá và dịch vụ của tất cả các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế.
Để hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt diễn ra thuận lợi, an
toàn, bảo đảm quyền lợi của các bên tham gia, cần phải thống nhất
công tác tổ chức và có những quy định cụ thể. Ngân hàng nhà nước
đã có quy định như sau :
2.1.1 Quy định chung.
Các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, đoàn thể, cá nhân được
quyền lựa chọn ngân hàng để mở tài khoảngiao dịch và thực hiện
thanh toán.
Việc mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng, kho bạc nhà nước
thì thực hiện qua tài khoản được ghi bằng đồng Việt Nam. Trường
hợp ghi bằng ngoại tệ phải thực hiệntheo quy chế quản lý ngoại hối
của chính phủ Việt Nam ban hành.
2.1.2 Quy định đối với ngân hàng.
Thực hiện uỷ thác thanh toán của chủ tài khoản, bảo đảm chính
xác, an toàn, thuận tiện. Các ngân hàng và kho bạc có trách nhiệm
chi trả bằng tiền mặthoặc chuyển khoản trong phạm vi số dư tiền gửi
theo yêu cầu của chủ tài khoản.
Kiểm tra khả năng thanh toán của chủ tài khoản trước khi thực
hiện thanh toán và được uỷ quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
không đủ tiền, đồng 1thời không chịu trách nhiệm về những nội dung
liên đới của bên khách hàng.
Nừu thiếu sót trong quá trình thanh toán, gây thiệt hại cho khách
hàng thì ngân hàng và kho bạc phải có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại và tuỳ theo mức độ thiệt hại mà có thể bị xử lý theo pháp luật.
Khi thực hiện các dịch vụ thanh toán cho khách hàng ngân hàng
được thu phí theo quy định của thống đốc Ngân hàng nhà nước.
2.1.3 Quy định đối với khách hàng.
Để đảm bảo thực hiện thanh toán đầy đủ kịp thời, các chủ tài
khoản phải có đủ tiền trên tài khoản, mọi trường hợp thanh toán quá
số dư là phạm pháp và phải xử lý theo quy định của pháp luật.
Chủ tài khoản phải lập chứng từ theo mẫu in sẵn do ngân hàng
ấn hành và các chứng từ phải đầy đủ các yếu tố quy định về mẫu,
chữ ký dăng ký tại ngân hàng.
2.2 Thực trạng về các hình thức thanh toán không dùng tiền
mặt.
Đã có một thời, việc kiểm soát tiền mặt tồn quỹ được thực hiện
ráo riết, tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt (qua ngân hàng)
tăng cao, thanh toán bằng tiền mặt giảm mạnh. Nhưng biện pháp
hành chính đó không phù hợp với cơ chế thị trường. Đến nay, nhiều
chuyên gia ngân hàng cho rằng thanh toán không dùng tiền mặt ở
Việt Nam vẫn chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 30% tổng doanh số thanh
toán trong nền kinh tế. Nhiều nghìn tỷ đồng tiền mặt đang rải rác
trong từng cá nhân, gia đình, quỹ cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp để
thanh toán trực tiếp khi mua hàng, kể cả mua bất động sản trị giá
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
hàng tỷ đồng. Sử dụng tiền mặt phổ biến trong thanh toán vừa gây
nhiều lãng phí, vừa là kẽ hở lớn cho nạn tham nhũng, buôn lậu, trốn
thuế luồn lách, lẩn trốn sự kiểm soát của Nhà nước và xã hội.
(thêm vao trong ổ đia ,hihhihihi)
Trong thời kỳ tập trung bao cấp, Nhà nước ta cũng rất quan tâm
đề ra những chủ trương lớn về việc sử dụng phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của
cơ chế mệnh lệnh hành chính quan liêu cùng với hệ thống ngân hàng
một cấp, việc mở rộng thanh toán chuyển khoản chỉ phát huy hiệu
lực trong bộ phận kinh tế nhà nước. Lợi ích chính đáng và hợp pháp
của chủ thể thanh toán không được tôn trọng đúng mức chính là lý
do làm cho những chủ trương nói trên trở nên kém thực thi, thậm chí
còn bị biến dạng trở thành phương tiện thể hiện quyền lực nhằm mục
đích gây sách nhiễu, phiền hà. Trước năm 1985, thanh toán không
dùng tiền mặt chiếm 80%, nhưng trong cuộc lạm phát phi mã 1985 –
1988, thanh toán không dùng tiền mặt sút giảm ghê gớm vì tiền mặt
khan hiếm đến mức các ngân hàng quốc doanh khi đó, với thế độc
quyền, đã khất chi tiền mặt. Một cái séc chuyển khoản nộp vào ngân
hàng phải 15 ngày sau mới tính ra bằng tiền mặt được.
Thực tế trên đã ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động thanh toán
không dùng tiền mặt hiện nay, nhất là khi nền kinh tế đã chuyển sang
cơ chế thị trường. Mọi việc lại trở nên “quá đà” khi xã hội không
chấp nhận rộng rãi các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Hệ
thống thanh toán thông qua định chế tài chính – ngân hàng mặc dù có
bước phát triển vượt bậc so với trước đây, nhưng nhìn chung còn bất
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
cập trong xu thế hội nhập quốc tế, chưa đi vào cuộc sống, thậm chí
còn rất xa lạ với đại đa số dân cư.
Thực trạng xã hội nước ta vẫn là “một quốc gia sử dụng quá nhiều
tiền mặt” như nhận xét của nhiều khách nước ngoài. Thực trạng đó
theo Phó Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng : “…làm cho việc điều hoà
lưu thông tiền tệ và quản lý kho quỹ rất khó khăn, phân tán, tốn kém,
ảnh hưởng rất lớn đến việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và cấu
trúc lại hệ thống…”.
2.2.1 Thanh toán bằng Séc.
Ngày 9/5/1996, chính phủ đã ban hành nghị định 30 về phát
hành và sử dụng Séc. Ngày 27/12/1996 Ngân hàng nhà nước đã
ban hành thông tư 07 hướng dẫn việc thi hành nghị định trên của
chính phủ. Những văn bản pháp quy về phát hành và sử dụng Séc
có hiệu lực hơn 5 năm nay. Nhưng, Séc vẫn chưa đi vào cuộc
sống. Như vậy, những văn bản pháp quy trên, nhất là thông tư 07
của Ngân hàng nhà nước có những điểm chưa phù hợp, nên Séc
chưa đi vào cuộc sống. Ta có thể thấy rõ điều này qua các con số
thống kê về thanh toán không dùng tiền mặt tại TP. Hồ Chí Minh.
TP.HCM là một thành phố lớn có tốc độ phát triển và thu nhập
bình quân đầu người cao nhất cả nước. Nhưng các hình thức thanh
toán không dùng tiền mặt cũng phát triển rất “ì ạch”.Thanh toán
bằng uỷ nhiệm chi được ưa chuộng nhất trong khâu thanh toán do
thủ tục đơn giản, hiện đang chiếm vị trí tuyệt đối trong khâu thanh
toán giữa các thể nhân và pháp nhân khác nhau trong nền kinh tế.
Tính hết 6 tháng đầu năm nay, thể thức này chiếm tỷ trọng 90,97%
tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt. Trong khi đó, tỷ
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
trọng thanh toán bằng séc qua ngân hàng còn rất khiêm tốn, tỷ trọng
này chỉ là 0,31% trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền
mặt tại Tp.HCM tính đến 6 tháng đầu năm nay. Còn uỷ nhiệm thu, tỷ
trọng thanh toán cũng rất thấp, chỉ bằng 2,07% tổng doanh số thanh
toán không dùng tiền mặt. Vậy vì sao các công cụ thanh toán không
dùng tiền mặt ở một đô thị lớn như Tp.HCM lại phát triển chậm và
lệch lạc như vậy?… dẫu rằng không phải chúng không thấy được tác
dụng tích cực của nó.
Đây là một ví dụ, dẫn chứng thực tế :
Vừa qua, các doanh nghiệp (DN) lắp ráp xe gắn máy hai bánh đó
mua linh kiện của cỏc DN sản xuất trong nước, thực hiện nội địa hoá,
với số tiền hơn tỷ đồng, thanh toán một lần bằng tiền mặt để trốn
thuế. Xảy ra hiện tượng này một phần là do dịch vụ thanh toán không
dùng tiền mặt của ngân hàng (NH) chưa phát triển, Chính phủ chưa
ban hành cơ chế; phạm vi và số tiền tối đa được thanh toỏn bằng tiền
mặt.
- Mặc dù có nhiều công cụ thanh toán hiện đại xuất hiện, nhưng
séc vẫn là một công cụ thanh toán phổ biến trên thế giới. Phần lớn ở
các nước đều có Luật séc riêng, hoặc séc sẽ được quy định trong luật
Thương Mại, hoặc nếu không sẽ sử dụng ngay Luật Thống nhất về
séc, nên khi sử dụng séc tính pháp lý rất cao, quyền lợi của người sử
dụng séc được đảm bảo. Còn ở Việt Nam chưa có luật Séc, trong
Luật Thương mại cũng không quy định mà mới chỉ được ban hành
dưới dạng Nghị định của Chính phủ. Song thực tế Nghị định này và
Thông tư hướng dẫn của NHNN để thực hiện Nghị định về séc còn
nhiều điểm chưa phù hợp, do vậy tính khả thi không cao, tính pháp lý
§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
chưa đảm bảo vững chắc, quyền lợi và nghĩa vụ của những người
tham gia sử dụng séc không rõ ràng.
NGUYÊN NHÂN.
- Một là, vấn đề mở tài khoản :
Trong thông tư của Ngân hàng nhà nước hướng dẫn thi hành
Nghị định 30 về phát hành và sử dụng séc chưa phù hợp với thông lệ
quốc tế và văn bản pháp quy của Ngân hàng nhà nước. Trong thông
tư 07 dùng ngôn từ “tài khoản thanh toán” trong khi đó hệ thông kế
toán của ngân hàng thương mại do Ngân hàng nhà nước ban hành chỉ
có tài khoản tiền gửi không kỳ hạn và tài khoản tiền gửi có kỳ hạn.
Trên thế giới, doanh nghiệp, cá nhân cùng một lúc mở hai tài khoản
tiền gửi tại ngân hàng và chỉ tài khoản tiền gửi không kỳ hạn mới có
quyền rút tiền mặt hoặc thanh toán không dùng tiền mặt.
- Hai là, Hình thức tờ Séc do Ngân hàng nhà nước thiết kế
không phù hợp với thực tế.
Theo mẫu Séc kèm theo thông tư 07 của Ngân hàng nhà nước,
người phát hành Séc ngoài việc ghi họ tên người thụ hưởng còn phải
gi số ngày cấp và nơi cấp CMND ; số hiệu tài khoản tiền gửi không
kỳ hạn và địa chỉ người thụ hưởng. Điều này thực tế rất khó thực
hiện. Ngườiphát hành Séc và người thị hươngr cùng thành phố, phải
gặp nhau mới thực hiện được nội dung tờ Séc này yêu cầu.
Nội dung trên là không cần thiết mà nên dành cho chi nhánh
ngân hàng hoặc kho bạc nhà nước tiếp nhận tờ Séc. Khi đó người thụ
hưởng Séc phải xuất trình Séc cùng chứng minh thư.