Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện thanh trì

  • 42 trang
  • file .doc
LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, từ nền kinh tế hành chính quan
liêu bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế
quốc dân bao gồm nhiều thành phần kinh tế, nhiều ngành nghề với quy mô và
trình độ khác nhau, công nghệ khác nhau. Phát triển nông - lâm - ngư - nghiệp
gắn liền công nghệ chế biến và xây dựng nông thôn mới. Để đưa nền kinh tế
nông thôn phát triển ngang tầm nền kinh tế thành thị, từng bước công nghiệp
hoá - hiện đại hoá trong nông nghiệp. Vì thế việc phát triển và xây dựng nông
thôn mới là nhiệm vụ hàng đầu, nó có tầm quan trọng trong việc nâng cao và ổn
định đời sống của hộ sản xuất nông nghiệp, không ngừng tăng cường và phát
triển đời sống mới ở nông thôn.
Muốn đạt được mục đích trên trước hết phải chú ý đến nền sản xuất nông
nghiệp hiện nay bằng cách trong sản xuất nông nghiệp phải thay đổi cơ cấu và
tính chất trong quan hệ sản xuất nông nghiệp, lấy sản xuất hộ nông dân là mặt
trận hàng đầu, thông qua việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh việc
phát triển trong chăn nuôi gia súc, gắn liền với việc sản xuất hàng hoá tiêu dùng
phải đẩy mạnh sản xuất hàng hoá xuất khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại phát
triển kinh tế dịch vụ, đẩy mạnh việc mở rộng và phát triển ngành nghề truyền
thống. Từng bước xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, xây dựng nền công nghiệp
nặng với bước đi thích hợp.
Trước hết là các ngành dịch vụ cho việc phát triển trong sản xuất nông
nghiệp, thực hiện chuyên môn hoá, tự động hoá trong sản xuất chúng ta thấy
nước ta sản xuất nông nghiệp là chủ yếu chiếm 70% trong nền sản xuất hàng
hoá. Thu nhập chính trong nền kinh tế quốc dân. Đường lối phát triển kinh tế
của Đảng ta qua các giai đoạn đều tập trung quan tâm chú trọng tới nông nghiệp.
Luôn có những chính sách mới về nông nghiệp để phù hợp với từng giai đoạn
phát triển kinh tế. Ban thư ký Trung ương Đảng và Bộ chính trị đã ra chỉ thị 100
và quyết định đưa việc khoán 10 trong sản xuất nông nghiệp. Đây là chính sách
1
lớn làm thay đổi nền sản xuất nông nghiệp. Đổi mới về mô hình cũng như tổ
chức sản xuất trong nông nghiệp.
Ngày 02 tháng 03 năm 1993 Thủ tướng Chính phủ ra nghị định số 14 ban
hành quy định về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông lâm
ngư nghiệp và kinh tế nông thôn. Kèm theo nghị định này có những quy định cụ
thể về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn. Mục đích khai thác hết tiềm năng thế
mạnh của từng vùng, sức lao động, năng lực trình độ tổ chức sản xuất tạo ra
nhiều sản phẩm cho xã hội, nâng cao đời sống của các hộ sản xuất hết đói
nghèo. Tạo điều kiện cho các hộ sản xuất có điều kiện vươn lên làm giàu chính
đáng.
Để thực hiện thắng lợi đường lối phát triển kinh tế của Đảng, thực hiện
nghiêm túc chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ... chính sách cho hộ sản xuất vay
vốn để phát triển nông ngư diêm nghiệp và kinh tế nông thôn. Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước đã tổ
chức triển khai tới toàn ngành, việc đầu tư vốn cho các hộ sản xuất có nhu cầu
vay vốn để sản xuất - kinh doanh không phân biệt các thành phần kinh tế. Đã
tìm ra giải pháp thực hiện nhiệm vụ cụ thể của mình mở rộng mạng lưới trên
khắp mọi miền đất nước phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế nông thôn,
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Có các quy định cụ thể về việc cho vay
vốn hộ sản xuất như văn bản 499A quy định về nghiệp vụ cho vay hộ sản xuất.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chấp nhận khó khăn
vì lợi ích kinh tế của đất nước và của ngành đã vượt qua những bước thăng trầm
đứng vững lên trong cơ chế thị trường chuyển hướng đầu tư tín dụng về với
nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Người nông dân mấy năm qua đã gắn bó,
gắn gũi với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thực sự đã là người
bạn đồng hành với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Họ đã tiếp
nhận vốn vay và sử dụng có hiệu quả nên thực sự đã hết được nghèo đói một số
hộ đã vượt lên làm giầu chính đáng vì vậy đầu tư vốn cho hộ sản xuất là rất cần
thiết, thực sự là ý Đảng lòng dân luôn được các cấp các ngành quan tâm giúp đỡ.
2
Chính vì vậy, em mạnh dạn chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn huyện Thanh Trì”.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử và lý luận kinh tế, quản lý trên lĩnh vực tài chính ngân
hàng để thống kê, phân tích tổng hợp, tổng kết thực tiễn, nhằm đưa ra các giải
pháp cho hoạt động tín dụng Ngân hàng.
Chuyên đề được chia thành 2 chương:
Chương I: Tín dụng hộ sản suất – thực trạng cho vay Hộ sản xuất
trong thời gian qua tại Ngân hàng Nông Nghiệp & Phát triển Nông thôn
Huyện Thanh Trì
Chương II: Các giải pháp hoàn thiện và mở rộng cho vay hộ sản xuất
trong thời gian tới tại Ngân hàng Nông Nghiệp & Phát triển Nông thôn
Huyện Thanh Trì
3
CHƯƠNG I
TÍN DỤNG HỘ SẢN XUẤT – THỰC TRẠNG CHO VAY HỘ SẢN XUẤT
TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔNG
THANH TRÌ
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI HUYỆN THANH
TRÌ
1. Tình hình kinh tế – xã hội huyện Thanh Trì
Huyện Thanh Trì là huyện nằm ở vùng trũng phía Nam Hà Nội, kinh tế
nông nghiệp là chủ yếu. Trong những năm gần đây, thực hiện việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ
XX kinh tế Huyện đã có bước phát triển khá. Hiện nay Huyện đang tập trung chỉ
đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn, có chính sách ưu tiên
hỗ trợ nông thôn chuyển đổi cơ cấu sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật, chỉ đạo thực hiện các dự án phát triển làng nghề, quy hoạch khu sinh thái,
các dự án phát triển rau, hoa cao cấp có giá trị kinh tế cao...
Tuy nhiên hiện nay diện tích đất cho sản xuất nông nghiệp hiện đang bị
thu hẹp do Nhà nước triển khai nhiều dự án vào địa bàn Huyện, làm giảm tỷ
trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
- xây dựng cơ bản và thương mại dịch vụ. Tốc độ đô thị hoá diễn ra rất nhanh.
Năm 2004 UBND thành phố Hà Nội thành lập 2 quận mới và đã chia tách
09 xã của Huyện Thanh Trì về quận Hoàng Mai.
Điều kiện kinh tế - xã hội của Huyện như trên đã tạo ra một số thuận lợi
cho hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Thanh Trì cụ thể:
- NHNo & PTNT Thanh Trì có hướng đầu tư mới trong lĩnh vực thương
mại, dịch vụ - xây dựng. Là một ngân hàng lớn và có uy tín trên địa bàn Huyện,
với mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch được bố trí rất thuận tiện cho dân
cư trong Huyện, đặc biệt ở gần các làng nghề, các khu dân cư có tốc độ đô thị
hoá cao như Đông Mỹ, Cầu Bươu, PGD Ngũ Hiệp... sẽ giúp ngân hàng thu hút
được khách hàng.
4
- Việc Quận mới Hoàng Mai được thành lập, nhờ mối quan hệ uy tín lâu
dài với Khoa bạc Nhà nước và BHXH quận Hoàng Mai, Ngân hàng Thanh Trì
đã thu hút được KBNN quận Hoàng Mai và BHXH Hoàng Mai mở tài khoản và
giao dịch tại NHNo Thanh Trì, đặc biệt là các đơn vị này luôn có nguồn tiền gửi
với lãi suất thấp, chi phí trả lãi rẻ. Đồng thời nhờ việc nhanh chóng khai trương
PGD Vạn Xuân để tranh thủ thu hút khách hàng là các cán bộ công chức trên địa
bàn quận Hoàng Mai nên việc cho vay được tăng trưởng.
- Như đã nói, Nhà nước triển khai nhiều dự án trọng điểm trên địa bàn
Huyện năm 2004 như dự án cầu Thanh Trì, đường vành đai 3, khu công nghiệp
Ngọc Hồi..., việc đền bù giải phóng mặt bằng được triển khai mạnh mẽ, tạo điều
kiện cho Ngân hàng thu nợ tồn đọng khó đòi và thu tiền gửi tiết kiệm khá lớn từ
dân cư tập trung ở một số địa bàn có dự án.
- Với tốc độ đô thị hoá nhanh, nhiều doanh nghiệp (chủ yếu là vừa và
nhỏ) và các Công ty ra đời trên địa bàn Huyện tạo điều kiện để NHNo & PTNT
Thanh Trì thu hút khách hàng là doanh nghiệp, điều mà trước đây còn rất hạn
chế.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội như trên tạo ra khó khăn cho hoạt
động kinh doanh của NHNo & PTNT Thanh Trì, đó là:
- Do diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp dẫn tới thị phần đầu tư hộ sản
xuất nông nghiệp của ngân hàng bị thu hẹp.
- Phòng giao dịch của ngân hàng chính sách xã hội, phòng giao dịch của
ngân hàng Đầu tư Hà Nội ra đời, thêm vào đó, NHNo Hoàng Mai được khai
trương vào đầu năm 2005 tạo ra sự cạnh tranh về huy động vốn, cho vay và chia
sẻ thị phần của NHNo Thanh Trì tại khu vực.
- Do đối tượng vay của NHNo & PTNT Thanh Trì chủ yếu là bà con nông
dân với đối tượng đầu tư là cây trồng, con giống, gia súc, thả cá, sản xuất nông
nghiệp với số món tuy nhiều nhưng lượng nhỏ lẻ, manh mún, nên dư nợ cho vay
hộ sản xuất còn ít. Hơn nữa, trình độ dân trí nhìn chung còn thấp, hiểu biết hạn
chế, vì vậy rủi ro lớn.
5
Trước những thuận lợi và khó khăn đó, chi nhánh NHNo & PTNT Thanh
Trì đã, đang và sẽ nỗ lực hết mình để có thể vừa vượt qua được những khó khăn
thử thách để đứng vững trong cạnh tranh, phát huy hơn nữa thế mạnh cũng như
khai thác những điều kiện thuận lợi để phát triển hoạt động kinh doanh của
mình.
2. Sự cần thiết của tín dụng hộ sản xuất trong nền kinh tế
Tình hình kinh tế – xã hội huyện Thanh trì cho chúng ta thấy việc phát
triển kinh tế nông nghiệp ở nông thôn hiện nay giữ một vai trò hết sức quan
trọng trong quá trình sản xuất nông nghiệp, kinh doanh hàng hoá, phát triển và
mở rộng các ngành nghề truyền thống, khi đồng tiền này sẵn có trong nông
nghiệp. Hộ sản xuất là một trong những nhân tố quyết định tạo ra của cải vật
chất cho xã hội, làm phong phú và đã dạng hoá trong nông nghiệp. Từ việc sản
xuất hàng hoá mang tính chất tự cung tự cấp, đến việc trao đổi hàng hoá trên thị
trường. Hộ sản xuất là đơn vị sản xuất hàng hoá tự chủ tiến hành sản xuất trong
điều kiện tự nhiên, phải tham gia cạnh tranh của nhiều thành phần kinh tế, trong
quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Ngày nay kinh tế hộ đã và đang phát
triển nhờ có cơ chế chính sách mới của Đảng cho hộ tự chủ trong sản xuất kinh
doanh đã phát huy được thế mạnh tính năng động sáng tạo, tính nhanh nhạy
trong việc: Thay đổi cơ cấu sản xuất, Thay đổi cơ cấu đầu tư. Mạnh dạn đưa
khoa học kỹ thuật vào sản xuất tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao, hàng hoá
sản xuất ra ngày càng phong phú. Đời sống nhân dân được cải thiện. Như vậy từ
việc phát triển kinh tế hộ đã hình thành nên các thị trường tiêu thụ hàng hoá
ngày càng mở rộng và phát triển đã làm cho nền kinh tế nông thôn ngày càng
đổi mới.
Trong thời gian qua hoạt động của ngân hàng đã có những đóng góp đáng
kể vào thành công của sự nghiệp đổi mới nền kinh tế đất nước, điều hành chính
sách tiền tệ tích cực, cơ bản ổn định được giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát,
tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia.
Huy động được một khối lượng đáng kể vốn trong và ngoài nước, thúc
đẩy đầu tư cho sản xuất của các thành phần kinh tế góp phần tăng trưởng kinh
6
tế, tăng cường đầu tư tín dụng ưu đãi để phục vụ xoá đói giảm nghèo và thực
hiện một số chính sách xã hội.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường công nhận sự ra đời và
tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế nói chung và kinh
tế hộ nông dân nói riêng. Muốn sản xuất kinh doanh dịch vụ đòi hỏi tư liệu sản
xuất, vật tư tiền vốn phải luôn đổi mới và mở rộng, thay đổi hình thức đầu tư
vốn, luôn cải thiện trang thiết bị mẫu mã. Đổi mới cơ cấu đầu tư cây giống, con
giống... mặt hàng mới sản xuất luôn phải phù hợp với nhu cầu và thị hiếu người
tiêu dùng. Muốn đổi mới sản xuất kinh doanh cần phải có vốn đầu tư. Nhu cầu
vốn này bản thân người sản xuất không thể có đủ được mà cần phải có sự hỗ trợ
của Nhà nước và các tổ chức tín dụng của ngân hàng.
Trước nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế. Thực hiện nghiêm chỉ thị của
Thủ tướng Chính phủ ngành ngân hàng cũng nhanh chóng đổi mới phương thức
đầu tư thích hợp để hoà nhập với cơ chế thị trường. Là đầu tư vốn mở rộng tới
các thành phần kinh tế về với thị trường nông thôn, nông nghiệp và nông dân.
Đổi mới công tác kế hoạch hoá tín dụng gắn liền với quan hệ cung cầu trên thị
trường vốn. Đầu tư vốn tới các hộ sản xuất ở nông thôn nhằm thúc đẩy nền kinh
tế hàng hoá phát triển.
Nguồn vốn cho vay của ngân hàng là nguồn vốn bổ sung vốn thiếu cho hộ
sản xuất trong quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Vốn tín dụng tạo điều
kiện cho các hộ sản xuất phát triển các ngành nghề trồng trọt, chăn nuôi cải tạo
cây con giống cho năng suất cao giá trị lớn vốn tín dụng đầu tư mở rộng sản
xuất các ngành nghề truyền thống giải quyết việc làm cho người lao động, cải
thiện đời sống dân sinh. Vốn tín dụng đã đến với tất cả các loại hộ sản xuất.
- Hộ giầu có điều kiện mở rộng sản xuất cải tiến kỹ thuật thu hút lao động
tổ chức sản xuất lớn tạo ra nhiều sản phẩm có năng suất chất lượng tốt giá trị
cao đáp ứng thị hiếu tiêu dùng. Bù đắp đủ chi phí còn có tích luỹ ngày càng
nhiều hộ giầu ngày càng giầu thêm.
- Hộ trung bình vay thêm vốn tín dụng ngân hàng có điều kiện mở rộng
sản xuất. Từng bước đầu tư thiết bị tăng năng suất lao động sản phẩm sản xuất
7
ra nhiều hơn đủ chi dùng cho gia đình còn dôi thừa, dần dần có tích luỹ để tái
tạo sản xuất để trở thành hộ sản xuất khá dẫn đến giầu.
- Hộ nghèo đói có vốn tín dụng dần từng bước tiếp thu khoa học kỹ thuật
tự tổ chức sản xuất làm ra sản phẩm dần cải thiện đời sống đủ bù đắp chi phí
sinh hoạt cho gia đình từ hộ nghèo đói phấn đấu trở thành hộ trung bình.
Việc thực hiện chủ trương chính sách cho vay đối với kinh tế hộ ở ngân
hàng nông nghiệp thực hiện theo văn bản 499A. Đảm bảo thực hiện đúng
nguyên tắc tín dụng hộ sản xuất sử dụng vốn tín dụng ngân hàng phải sử dụng
đúng mục đích bảo toàn vốn sử dụng có hiệu quả, hoàn trả vốn ngân hàng đầy
đủ cả gốc và lãi, ngân hàng sẽ tiếp tục đầu tư vốn để thực hiện chu kỳ sản xuất
tiếp theo.
Như vậy việc đầu tư vốn tín dụng cho các hộ là rất cần thiết đây cũng là
một chính sách mới của Đảng đối với kinh tế hộ đã làm cho quá trình phân hoá
giàu nghèo ở nông thôn được rút ngắn, kinh tế nông thôn ngày càng đổi mới.
Tóm lại: Tín dụng ngân hàng đối với việc mở rộng và phát triển kinh tế
hộ ở nông thôn là một chủ trương lớn của Đảng. Thông qua việc cho vay trực
tiếp đến hộ sản xuất, thông qua việc đầu tư vốn đã khuyến khích tạo điều kiện
cho hộ thiếu vốn có vốn sản xuất, phát triển các ngành nghề truyền thống. Tín
dụng ngân hàng đã làm thay đổi về cơ cấu sản xuất ở nông thôn thông qua việc
đầu tư vốn đã xoá hẳn nạn cho vay nặng lãi, bước đầu đã làm cho nền kinh tế
nông thôn phát triển nâng cao đời sống của nông dân nông thôn.
II. THỰC TRẠNG CHO VAY HỘ SẢN XUẤT TẠI NGÂN HÀNG
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THANH TRÌ TRONG
THỜI GIAN QUA
1. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Thanh Trì thời gian qua
1.1. Hoạt động huy động vốn
Đối với một NHTM thì nguồn vốn là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của nó trong tương lai. Bởi vai trò của ngân hàng là "đi vay" để "cho
vay". Nguồn vốn còn ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh và lợi thế cạnh
8
tranh của các NHTM. Hầu hết các NHTM Việt Nam hiện nay đều huy động cho
mình nguồn vốn bằng nhiều biện pháp và tiêu chí là tìm nguồn vốn sao cho chi
phí rẻ nhất và ổn định. Theo tiêu chí đó, ngân hàng có thể sử dụng biện pháp
làm tăng sự "hấp dẫn" của lãi suất, làm phong phú về mặt kỳ hạn gửi, rút... Có
thể nói thời gian vừa qua công tác huy động vốn của chi nhánh NHNo Thanh Trì
tương đối tốt.
Nắm bắt được các điều kiện kinh tế - xã hội của huyện và xuất phát từ kế
hoạch nguồn vốn của mình, chi nhánh đã chủ trương khơi tăng nguồn vốn từ dân
cư, đặc biệt trú trọng đến công tác huy động vốn không kỳ hạn với mức lãI suất
thấp. NHNo Thanh Trì đã trú trọng tới việc nâng cấp mạng lưới phòng giao dịch
để thu hút nguồn vốn ổn định, vững chắc. Chi nhánh đã tăng cường các hoạt
động tiếp thị, tuyên truyền, để thu hút các nguồn vốn mang tính ổn định, lãi suất
thấp như của kho bạc Hoàng Mai, BQLDA Thăng Long. Chi nhánh cũng tăng
cường thiết lập các mối quan hệ thu - chi tiền mặt tại chỗ với các tổ chức, đơn vị
kinh tế có khả năng tài chính lớn như BQL dự án khu công nghiệp Ngọc Hồi, dự
án khu công nghiệp Cầu Bươu..., tiếp thị với các doanh nghiệp để họ mở tài
khoản tiền gửi tại chi nhánh... Thời gian vừa qua, chi nhánh đã và đang tập trung
huy động vốn từ dân cư do đền bù giải phóng mặt bằng của các dự án trên địa
bàn Hoàng Mai và Thanh Trì.
Bên cạnh đó, NHNo Thanh Trì còn thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ mọi
tầng lớp dân cư bằng các chương trình khuyến mại cho khách hàng,... (chương
trình huy động vốn có thưởng bằng vàng ba chữ A của NHNo Việt Nam, áp
dụng mức lãi suất huy động hấp dẫn khi mở phòng giao dịch Vạn Xuân, Khương
Đình...)
Với rất nhiều biện pháp khác nhau, chi nhánh đã huy động được một
nguồn vốn tăng cường liên tục, kết quả thể hiện qua bảng sau:
9
Bảng 2.1. Cơ cấu nguồn vốn theo tính chất huy động
Đơn vị: Triệu đồng
2003/2004
Chỉ tiêu 2003 % 2004 % C.lệch tuyệt đối
%
+ -
TG của dân cư 452.000 76,22 501.000 77,5 18.000 10,8
TG của TCKT 11.000 19 112.600 17,4 35.700 2,35
TG của TCTD 31.000 4,78 33.100 5,1 2.100 6,7
Tổng nguồn vốn 593.000 100 646.700 100 53.700 9
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh NHNo & PTNT Thanh
Trì)
Qua bảng số liệu ta thấy tổng nguồn vốn của chi nhánh có xu hướng tăng
lên. Năm 2004 tổng nguồn tăng 53.700 triệu đồng so với năm2003 (tương
đương 9%). Trong đó nguồn tiền gửi của dân cư có xu hướng tăng nhanh hơn so
với nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế và tiền gửi của tổ chức tín dụng.
Năm 2004, tiền gửi của dân cư tăng 18.000 triệu đồng so với 2003 (tương
đương với 10,8%). Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế cũng đã tăng lên
(năm 2004 gấp 2,35% so với năm 2003). Xét về cơ cấu tỉ trọng thì nguồn tiền
gửi của dân cư là cao nhất ở cả 2 năm, sau đó đến tỉ trọng tiền gửi của các tổ
chức kinh tế, các tổ chức tín dụng.
Bảng 2.2: Cơ cấu nguồn vốn theo thời hạn huy động
Đơn vị: triệu đồng
2003/2004
Chỉ tiêu 2003 % 2004 % C.lệch tuyệt đối
%
+ -
Không kỳ hạn 123.00 21 145.700 23,3 22.700 18,45
0
Kỳ hạn < 12 326.00 55 302.000 46,7 24.00 7,36
tháng 0 0
10
Kỳ hạn > 12 144.00 24 199.000 30 55.000 38,19
tháng 0
Tổng nguồn vốn 593.00 100 646.700 100 53.700 9
0
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh NHNo & PTNT Thanh Trì)
Theo thời hạn huy động ta thấy tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi kỳ hạn
trên 12 tháng có xu hướng tăng lên, tiền gửi kỳ hạn < 12 tháng có xu hướng
giảm qua 2 năm. Trong đó nguồn tiền gửi không kỳ hạn tăng 22.700 triệu đồng
(tương đương với 18,45%), nguồn vốn này tăng chủ yếu là do tiền gửi của các tổ
chức kinh tế tăngvà tập trung chủ yếu ở hai đơn vị lớn là kho bạc Hoàng Mai và
ban quản lý dự án Thăng Long thường xuyên có trên dưới 70 tỷ năm 2004.
Nguồn tiền gửi này tuy tăng không nhiều nhưng mang lại lợi nhuận cao cho chi
nhánh. Tính riêng năm 2004, với lãi suất 0,2% và lấy chênh lệch lãi suất và phí
điều vốn là 0,4%, ngân hàng đã thu được lợi nhuận gần 3 tỷ từ tiền gửi của 2
đơn vị này.
Nguồn tiền gửi từ dân cư tuy ổn định nhưng lãi suất huy động cao và xu
hướng tăng lãi suất trong chi phí điều vốn không tăng nhưng chi nhánh vẫn tiếp
tục huy động vì lợi ích chung của toàn ngành. Đây cũng là một nguyên nhân làm
chênh lệch lãi suất đầu ra - đầu vào thấp.
Để đạt được kết quả huy động vốn như trên,chi nhánh NHNo Thanh Trì
đã không ngừng huy động vốn dưới nhiều hình thức, coi việc huy động vốn là
việc của mọi cán bộ công nhân viên cơ quan, đồng thời chi nhánh cũng cung cấp
các sản phẩm dịch vụ khác nhau đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của
khách hàng : các loại tiền gửi với các kỳ hạn khác nhau, đa dạng hoá các
phương thức trả lãi: trả lãi trước, lãi sau, lãi bậc thang. Đồng thời chi nhánh đã
mở rộng mạng lưới tới nhiều khu vực khác nhau trong huyện nhằm thúc đẩy hơn
nữa hoạt động kinh doanh cũng như huy động vốn, thu hút thêm khách hàng.
1.2. Hoạt động cho vay
Hoạt động cho vay là hoạt động chủ đạo và đem lại nguồn thu chủ yếu
cho ngân hàng. Mặt khác, hoạt động này còn thể hiện một phần sức cạnh tranh,
11
thị phần của ngân hàng so với các ngân hàng khác cùng địa bàn. Chi nhánh
NHNo Thanh Trì đã cố gắng không ngừng để việc sử dụng vốn đạt hiệu quả cao
nhất, an toàn. Trước hết, chi nhánh luôn duy trì mối quan hệ tốt với các đơn vị
sản xuất kinh doanh như các DNNN, các Công ty đã có tín nhiệm với ngân
hàng. Chi nhánh luôn tìm biện pháp để mở rộng và giữ vững thị trường cho vay,
tăng cường công tác tiếp thị, đẩy mạnh cho vay tiêu dùng, đưa ra các mức lãi
suất linh hoạt, phù hợp với địa bàn hoạt động. Chi nhánh luôn bám sát định
hướng phát triển kinh tế - xã hội của Huyện để đầu tư, đặc biệt là đầu tư vốn cho
các làng có nghề truyền thống như Tân Triều, Vạn Phúc, khu du lịch sinh thái
Đông Mỹ, khu nuôi trồng thuỷ sản ở Tả Thanh Oai, Vĩnh Quỳnh, Đại Áng, khu
công nghiệp Ngọc Hồi, Cầu Bươu. Chi nhánh đã thực hiện việc giao chỉ tiêu kế
hoạch cụ thể tới từng cán bộ; quyết toán theo quý, có chế độ đãi ngộ thoả đáng
với cán bộ tín dụng, thưởng phạt rõ ràng nhằm hạn chế sai phạm xảy ra, thực
hiện khoán lương tới từng người để nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ tín
dụng trong việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng.
Việc mở rộng cho vay vẫn được tiến hành với mọi đối tượng khách hàng
như cho vay phục vụ nhu cầu đời sống với cán bộ công nhân viên trong các
doanh nghiệp Nhà nước có thu nhập từ lương ổn định, trú trọng mở rộng cho
vay các đơn vị nhỏ.
Được sự quan tâm của cấp trên, chi nhánh NHNo Thanh Trì đã tham gia
đầu tư dài hạn các dự án lớn như dự án xi măng Bút Sơn, các dự án xây dựng cơ
bản. Chi nhánh luôn phối hợp cùng các ban ngành của huyện và quận Hoàng
Mai để xây dựng các dự án tiểu vùng, đề án mang tính chiến lược lâu dài và
mang tính chính trị của huyện, quận. Chi nhánh đã có định hướng đúng trong
hoạt động đầu tư, chỉ đạo uyển chuyển linh hoạt về mức lãi suất cho vay xác
định đối tượng được ưu tiên, ưu đãi về lãi suất.
Dư nợ của mỗi CBTD được nâng cao, chất lượng hoạt động tín dụng tăng
(thể hiện ở tỷ lệ NQH thấp) là nhờ có chính sách đối với cán bộ công nhân viên
của ngân hàng. Bên cạnh đó, hiện nay các phòng nghiệp vụ đều lên kế hoạch tập
huấn nghiệp vụ cho cán bộ vào ngày thứ 7, chủ nhật. Chi nhánh tập trung cán bộ
12
học các quy chế nghiệp vụ cho vay, bảo đảm tiền vay và thường xuyên kiểm tra,
giám sát việc thực hiện quy trình nghiệp vụ cho vay để chấn chỉnh kịp thời sai sót.
Bảng 2.3: Cơ cấu dư nợ cho vay theo thời hạn cho vay.
Đơnvị: Triệu đồng
2003/2004
C.lệch tuyệt
Chỉ tiêu 2003 % 2004 %
đối %
+ -
Ngắn hạn 166.600 85 252.500 81,5 85.900 51,56
Trung, dài hạn 29.400 15 57.500 18,5 28.100 95,58
Tổng dư nợ 196.000 100 310.000 100 114.000 58
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh NHNo & PTNT Thanh Trì)
Bảng 2.3 cho ta thấy dư nợ cho vay năm 2004 đã tăng lên rất cao sovới
năm 2003: Năm 2004 tăng 114.000 triệu đồng so với 2003 (tương đương 50%).
Chi nhánh thực hiện cho vay ngắn hạn là chủ yếu. Năm 2003, dư nợ ngắn hạn là
85%, và năm 2004 là 81,3% so với tổng dư nợ.
Về xu hướng ta thấy dư nợ ngắn hạn có xu hướng giảm dần, dư nợ trung,
dài hàn có xu hướng tăng dần. Cụ thể: Năm 2003, cho vay trung, dài hạn chiếm
15% tổng dư nợ, năm 2004 chiếm 18,5% tổng dư nợ. Năm 2004 tăng 95,58% so
với năm 2003 (tương đương 28100 triệu đồng). Dư nợ trung dài hạn tăng nhanh
như vậy là do chi nhánh đã tăng dư nợ cho vay các doanh nghiệp Nhà nước để
đầu tư dài hạn như: Công ty tổng Bách hoá, Công ty cổ phần Vật tư nông nghiệp
nông sản, Công ty Xuất nhập khẩu rau quả Tam Hiệp...
13
Bảng 2.4: Cơ cấu dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế
Đơn vị: Triệu đồng
2003/2004
Chỉ tiêu 2003 % 2004 % C.lệch tuyệt đối
%
+ -
DNNN 87.200 43,7 66.300 21,39 20.900 23,97
DNNQD 47.000 28,5 153.700 49,6 106.700 227
Hộ SX K.doanh 61.800 27,8 88.000 29,01 26.200 42,4
Tổng dư nợ 196.000 100 310.000 100 114.000 58
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh NHNo & PTNT Thanh Trì)
Qua bảng ta thấy, tổng dự nợ cho vay khối DNNQD và hộ sản xuất kinh
doanh năm 2004 tăng so với 2003. Riêng dư nợ cho vay khối DNNN giảm
nguyên nhân là do chi nhánh đã giảm dần dư nợ và từ chối cho vay với một số
DNNN có khó khăn về tài chính, vay nhiều tổ chức tín dụng cùng lúc như:
CoMa 7, Xí nghiệp TM & DV Cầu Tiên thuộc Công ty xây dựng phương Bắc là
các đơn vị có dư nợ cao từ trước.
Dư nợ cho vay các DNNQD và hộ sản xuất tăng lên là do chi nhánh đã và
đang trú trọng đến cho vay bám sát các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn hộ
kinh doanh ở các làng có ngành nghề truyền thống.
Nhìn chung kết quả hoạt động cho vay năm 2004 là tốt. Đạt được kết quả
trên là nhờ chi nhánh đã có cơ chế tín dụng khá đầy đủ, rõ ràng, phương pháp
làm việc của cán bộ ngân hàng đã có tiến bộ rõ rệt trong vấn đề giải quyết cho
vay. Mặt khác qua cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế ta thấy được đường lối
chiến lược trong cho vay bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tập trung cho
vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
14
Về vấn đề nợ quá hạn và việc thu hồi nợ tồn đọng. Có thể nói rằng năm
2004 chi nhánh đã có thành công trong việc giảm tỷ lệ nợ quá hạn. Năm 2003 nợ
quá hạn là 798 triệu đồng chiếm 0,4% tổng dư nợ. Đến 31/12/2004 nợ quá hạn
là 702 triệu, chiếm 0,22% tổng dư nợ và chỉ tập trung vào hộ sản xuất, không có
doanh nghiệp nào nợ quá hạn. Trong số 702 triệu nợ quá hạn thì nợ quá hạn của
dự án 2561 (WB) cho vay từ những năm 1994 - 1997 chiếm 552 triệu. Như vậy
thực chất nợ quá hạn mới phát sinh là 150 triệu đồng (150 triệu đồng/88000
triệu đồng dư nợ hộ sản xuất và tư nhân, khoảng 0,17%). Để đạt được thành
công này trước hết phải nói đến vai trò của cán bộ tín dụng, nhờ thực hiện tốt
quy trình nghiệp vụ cho vay, thẩm định kỹ lưỡng trước khi cho vay nên nợ quá hạn
rất thấp.
Cũng trong năm 2004, nhờ sự tích cực và thái độ kiên quyết thu hồi nợ,
đồng thời nhờ có việc các dự án trên địa bàn Hoàng Mai, Thanh Trì đền bù giải
phóng mặt bằng cho dân cư, chi nhánh đã thu hồi được 1390 triệu đồng đã xử lý
rủi ro trong đó 785 triệu đồng nợ gốc. Đây là thành công mà chi nhánh nên phát
huy hơn nữa.
1.3. Các hoạt động khác
- Hoạt động kế toán - ngân quỹ: Cùng với sự đổi mới công nghệ ngân
hàng đáp ứng yêu cầu của chương trình thanh toán mới, NHNo Thanh Trì đã tổ
chức mở các lớp đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ kế toán - ngân quỹ, cử
cán bộ kế toán - ngân quỹ tham gia học các lớp do Trung tâm điều hành tổ chức,
các cán bộ này sẽ hướng dẫn các kế toán viên cho chi nhánh. Năm 2004 vừa
qua, các cán bộ phòng kế toán - ngân quỹ đã có những thành tích rất đáng khen
ngợi, đó là việc cải tiến chiếc máy đếm tiền cũ trước kia để đếm tiền giấy thành
máy đếm tiền có thể sử dụng đếm tiền Polime, tiết kiệm cho chi nhánh chi phí
mua sắm thiết bị ngân hàng. Hoạt động kế toán ngân quỹ của chi nhánh luôn
thực hiện đúng các quy định, các văn bản hướng dẫn do NHNo & PTNT ban
hành. Với phương châm phục vụ khách hàng tốt nhất, đáp ứng mọi nhu cầu cho
khách hàng nên ngân hàng luôn có đủ khả năng thanh toán tức thời cho khách
hàng khi họ có nhu cầu về tiền mặt cả nội tệ và ngoại tệ, thực hiện điều chỉnh
15
kịp thời, nhanh chóng, an toàn, chính xác giữa các phòng giao dịch, các ngân hàng
với nhau.
- Hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ: Đây là mảng hoạt
động còn mới mẻ đối với ngân hàng, phòng thanh toán quốc tế và nghiệp vụ
kinh doanh ngoại tệ mới được hình thành năm 2004. Mặc dù mới thành lập
nhưng mảng hoạt động này cũng đã đạt được một số kết quả ban đầu: Cho vay
bằng ngoại tệ đã có xu hướng tăng ở hai quý cuối năm 2004, có thời điểm dư nợ
ngoại tệ đạt trên 6 triệu USD. Số tiền này đối với nhiều chi nhánh cấp 1 khác chỉ
là dư nợ của 1 - 2 món vay nhưng đối với NHNo Thanh Trì thì đây là bước tiến
bộ đáng kể. Đặc biệt là về thời gian cuối năm 2004 (quý IV) mức dư nợ cho vay
nội tệ bị Trung ương khống chế thì cho vay ngoại tệ là hướng tăng dư nợ. Tuy
nhiên vì mảng nghiệp vụ này đối với chi nhánh còn khá mới mẻ nên còn nhiều
vấn đề phải rút kinh nghiệm như: Việc áp dụng lãi suất cho vay còn thấp không
tìm hiểu phí mua ngoại tệ do Trung ương quy định từ 2003, lãi suất cho vay
ngoại tệ đã góp phần làm giảm chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động
của chi nhánh.
Hoạt động thanh toán quốc tế của chi nhánh chỉ với số món rất ít và số
lượng khách hàng còn rất khiêm tốn, chủ yếu có Công ty cổ phần XNK rau quả
Tam Hiệp, Công ty XNK Vật tư nông nghiệp - nông sản và một số đơn vị khác.
Nguyên nhân một phần là do hoạt động này của chi nhánh còn non trẻ, thiếu
kinh nghiệm hoạt động, một phần do điều kiện kinh tế - xã hội của huyện chưa
phát triển các hoạt động kinh doanh với nước ngoài.
2. Thực trạng cho vay hộ sản xuất của Ngân hàng Nông nghiệp Phát
triển Nông thôn Thanh Trì
Chủ trương của Đảng và Nhà nước về cho vay hộ sản xuất và hộ nghèo
với lãi suất ưu đãi là hợp với ý Đảng lòng dân. Thực trạng vốn cho vay hộ sản
xuất và hộ nghèo ở huyện Thanh Trì đã góp phần rất đáng kể vào việc xoá đói
giảm nghèo nhất, tăng trưởng kinh tế trong huyện.
16
Số vốn cho vay thì số đông các hộ sử dụng vốn làm kinh tế tốt có hiệu
quả, đã góp phần tích cực vào việc xoá đói giảm nghèo. Có những hộ trước đây
đói, nghèo nay đã và đang thoát khói đói nghèo.
Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn huyện Thanh Trì tiến
hành cho vay trực tiếp đến hộ vay vốn sản xuất kinh doanh theo hướng dẫn
nghiệp vụ qua văn bản 499A của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn Việt Nam.
- Ta thấy cho vay hộ sản xuất là một việc làm không mới song gặp rất
nhiều khó khăn phức tạp. Hoạt động tín dụng trong những năm bao cấp chỉ có
một số khách hàng, nay số khách hàng tăng lên đáng kể vì thế công việc của tín
dụng cũng tăng lên và đa dạng hoá dẫn đến chất lượng tín dụng càng gặp khó
khăn, tỷ lệ quá hạn lớn dẫn đến rủi ro nhiều.
Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn huyện Thanh Trì đã
tiến hành cho vay thu nợ trực tiếp cho hộ sản xuất nông nghiệp cho các đối
tượng.
*) Thực tế thực hiện quy trình nghiệp vụ tín dụng.
- Cho vay ngắn hạn :
Bổ sung nhu cầu thiếu vốn tạm thời trong quá trình sản xuất kinh doanh
tiến hành cho vay hộ có nhu cầu về vốn vay chăn nuôi gia súc (lợn,, thả cá...)
+ Cho vay mua giống, phân bón thực hiện quá trình sản xuất nông nghiệp
trên địa bàn
+ Cho vay sản xuất các mặt hàng truyền thống như mộc, nghề thủ công
mỹ nghệ .
+ Cho vay tiêu dùng (mua xe gắn máy).
+ Cho vay phương tiện vận chuyển trên địa bàn (như ô tô, xe công nông,
tàu thuyền và trâu bò kéo).
Căn cứ vào nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất mà cán bộ tín dụng trực tiếp
đến từng hộ vay điều tra, thẩm định tài sản thế chấp, khi đủ điều kiện vay vốn
thì tiến hành hướng dẫn làm dự án, tiến hành phát tiền vay.
- Cho vay trung và dài hạn.
17
Nhằm mục đích bổ sung vốn để đầu tư mua sắm thêm công cụ, xây dựng
nhà xưởng.
Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển huyện Thanh Trì đã thực hiện
đúng đắn quy trình hướng dẫn cho vay vốn trực tiếp đến hộ sản xuất, tiến hành
đầu tư vốn bằng các hình thức cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Hộ vay
vốn sử dụng vốn đúng mục đích, trong sản xuất kinh doanh đã có hiệu quả. Đã
góp phần làm tăng trưởng nền kinh tế của địa phương xoá được nạn cho vay
nặng lãi ở nông thôn và thành thị, góp phần tích cực vào chủ trương xoá đói
giảm nghèo tạo điều kiện cho một số hộ vươn lên làm giầu chính đáng.
*) Thực trạng cho vay hộ sản xuất
Qua bảng số liệu về dư nợ của ngân hàng Thanh Trì ta thấy, cho vay hộ
sản xuất đang là đói tượng chủ yếu trong chính sách đầu tư của NHNo Thanh
Trì. Ngày 30/03/1999 thủ tướng chính phủ ký quyết định 67/1999/QĐ-TTg ban
hàng về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ nông nghiệp và phát
triển nông thôn đã mở ra một hướng mới cho NHNo & PTNT Huyện Thanh trì.
Ngân hàng nông nghiệp Thanh trì đã báo cáo và làm tham mưu cho uỷ
ban nhân dân huyện Thanh Trì, các ban ngành đoàn thể ở các xã, thị trấn phối
hợp cùng ngân hàng nông nghiệp lồng ghép các chương trình nội dung hoạt
động của đơn vị mình ngành mình vào hoạt động của ngân hàng phục vụ và phát
triển nông nghiệp nông thôn. Đặc biệt uỷ ban nhân dân huyện Thanh trì chỉ đạo
các tỏ chức đoàn thể cùng ngân hàng nông nghiệp thành lập các tổ vay vốn kiểu
mới từng thôn ,đội sản xuất , trong đó các tổ chức hội là chủ dự án, ngân hàng
cho vay trực tiếp đến từng thành viên, đồng thời với việc triển khai kế hoạch,
biện pháp ở các cấp, các ngành, tuyên truyền sâu rộng trên các phương tiện
thông tin đại chúng, các panô áp phích về các chính sách tín dụng ngân hàng và
bản hướng dẫn của ngân hàng nông nghiệp. NHNo & PTNT huyện Thanh trì đã
ký kết văn bản thoả thuận với hội nông dân, hội phụ nữ … về thành lập tổ vay
vốn và cho vay các thành viên. Do nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của quy
định QĐ67 và văn bản 499A của ngành , NHNo Thanh trì đã coi đây là một
nhiệm vụ quan trọng trong công tác tín dụng của mình đã mở ra một hướng đi
18
và cách làm làm tăng trưởng dư nợ vững chắc có chất lượng, đảm bảo an toàn
vốn, đáp ứng vốn cho mọi thành phần kinh tế , góp phần phát triển nông nghiệp
và kinh tế nông thôn, tham gia tích cực vào các chương trình quốc gia, giải
quyết việc làm cho người lao động.
Với cách làm đó đến 31/12/2004 ngân hàng Thanh trì đẫ thành lập được
hơn 357 tổ vay vốn với số hộ lên tới hơn 4000 hộ vay vốn với dư nợ là 88.000
triệu đồng. Đây chính là động lực chủ yếu góp phần tăng trưởng tín dụng hiện
nay của ngân hàng Thanh trì.
3. Đánh giá chất lượng tín dụng, hiệu quả tín dụng
Từ thực trạng kết cấu dư nợ được phân tích ở trên, hoạt động tín dụng
năm 2004 của Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn huyện Thanh
Trì có thể đánh giá : Khối lượng dư nợ được tập trung đầu tư và bố trí theo một
cơ cấu có điều chỉnh để hợp lý với yêu cầu chỉ đạo sản xuất kinh doanh của các
thành phần kinh tế trên địa bàn. Tạo thế ổn định vốn, giải quyết các chi phí sản
xuất kinh doanh cần thiết, tối thiểu để hoàn thành kế hoạch mục tiêu của Đảng
bộ địa phương đã đề ra.
- Dư nợ đầu tư cho hộ nghèo thiếu vốn sản xuất kinh doanh được thông
qua các tổ tương trợ như hội nông dân, hội phụ nữ, cùng các tổ chức chính trị xã
hội từ các cấp, cơ sở, giúp ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện
Thanh Trì giải ngân đúng chính sách, đúng chế độ, các hộ nghèo được vay vốn
với lãi xuất ưu đãi này đã sử dụng vốn đúng mục đích sản xuất nông nghiệp,
chăn nuôi tạo lập được phong cách làm ăn có tính toán giải quyết khó khăn về
đời sống người lao động đang từng bước xoá đói giảm nghèo. Đó cũng chính là
mục tiêu mà ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Thanh trì
phấn đấu trong năm 2004 để góp phần vào thực hiện chính sách xoá đói giảm
nghèo theo tinh thần nghị quyết của Đảng bộ.
- Chất lượng tín dụng với sự chỉ đạo của ngân hàng nông nghiệp Việt
Nam ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Thanh Trì đã tiến
hành rà soát lại 100% dư nợ về các mặt như : Hồ sơ tín dụng, quy trình nghiệp
vụ và thực hiện đối chiếu nợ công khai thực chất là kiểm kê lại dư nợ trong các
19
hộ sản xuất kinh doanh. Qua đó kết hợp với cơ quan pháp luật và chính quyền
các cấp xử lý một số hộ có dư nợ quá hạn. Giá trị tài sản thế chấp cần xử lý để
thu hồi nợ đọng ngày càng giảm. So với dư nợ nên giải quyết thu hồi nợ chậm,
nợ quá hạn còn tồn tại cuối năm 2004 là 702 triệu đồng chiếm tỷ trọng 0.22%
trong tổng dự nợ.
3.1. Kết quả đầu tư vốn như sau
Trong năm đã có hơn 4000 lượt hộ vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh
doanh dịch vụ. Với số tiền 88.000 triệu đồng
- Về trồng trọt : Đã cho vay để mua giống mới lúa, ngô, khoai, cây ăn quả
có năng suất cao. Cải tạo diện tích canh tác thâm canh tăng vụ. Mua máy móc
thiết bị như máy cày, máy tuốt lúa thay thế, giảm nhẹ sức lao động ...
- Về chăn nuôi : Đầu tư mua con giống mới, sản xuất tạo ra các giá trị
kinh tế cao.
- Đầu tư cho hộ sản xuất ngành nghề truyền thống :
+ Sản xuất hàng tiêu dùng nội thất : mộc, mây tre đan, trang trí nội thất .
+ Sản xuất vật liệu xây dựng : Khai thác chế biến gạch, đá xây dựng các
loại
Sau nhiều năm đầu tư vốn cho hộ sản xuất ở Ngân Hàng Nông Nghiệp và
Phát Triển Nông Thôn huyện Thanh Trì đã làm thay đổi hẳn đời sống nhân dân.
* Nguyên nhân đã đạt được
- Không ngừng mở rộng mạng lưới huy động vốn dưới mọi hình thức như
Năm 2003 huy động 593.000 triệu đồng.
Năm 2004 huy động 646.700 triệu đồng.
- Dư nợ ngày càng tăng thể hiện
Năm 2003 = 196.000 triệu đồng .
Năm 2004 = 310.000 triệu đồng.
- Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Thanh Trì trong
quá trình đầu tư vốn cho hộ sản xuất đảm bảo đúng quy trình, đáp ứng kịp thời
mọi nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất nông nghiệp kinh doanh dịch vụ hộ vay
20