Mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở việt nam

  • 118 trang
  • file .pdf
®¹i häc quèc gia hµ néi
tr-êng ®¹i häc kinh tÕ
*********
NguyÔn thÞ thoa
MÆt tr¸I cña ®Çu t- trùc tiÕp
N-íc ngoµi ë viÖt nam
Chuyªn ngµnh: Kinh tÕ chÝnh trÞ
M· sè: 60 31 01
LuËn v¨n th¹c sü kinh tÕ chÝnh trÞ
Ng- êi h- íng dÉn khoa häc:
Pgs.ts. mai thÞ thanh xu©n
hµ néi - 2008
MỤC LỤC TRANG
MỞ ĐẦU 1
Chơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU T 5
TRỰC TIẾP NỚC NGOÀI
1.1 Một số vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài 5
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài 5
1.1.2 Nguyên nhân ra đời của đầu tư trực tiếp nước ngoài 10
1.1.3 Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài 13
1.2 Vai trò của đầu tư trực tiếp nớc ngoài 16
1.2.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước chủ đầu tư 16
1.2.2 Đầu t trực tiếp nớc ngoài đối với nước nhận đầu tư 16
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài 27
1.3.1 Các nhân tố bên trong 27
1.3.2 Các nhân tố bên ngoài 30
Chơng 2: PHÂN TÍCH MẶT TRÁI CỦA ĐẦU TƢ 33
TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam từ 33
1995 đến nay
2.1.1 Thực trạng thu hút FDI 33
2.1.2 Những đóng góp chính của FDI vào sự phát triển kinh tế - xã hội Việt 44
Nam
2.2 Mặt trái của đầu tư trực tiếp nớc ngoài nước ta hiện nay và nguyên 54
nhân của tình trạng đó
2.2.1 Mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta hiện nay 54
2.2.2 Nguyên nhân tạo ra mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài 80
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ MẶT 85
TRÁI CỦA ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI Ở
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1 Quan điểm, định hướng về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt 85
Nam
3.1.1 Quan điểm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 85
3.1.2 Triển vọng thu hút trực tiếp đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong 87
thời gian tơi
3.2 Một số giải pháp chủ yếu hạn chế mặt trái của đầu trực trực tiếp nước 91
ngoài ở Việt Nam
3.2.1 Cơ cấu lại các dự án đầu tư nước ngoài phù hợp với yêu cầu phát 91
triển kinh tế đất nước
3.2.2 Không nên cấp phép cho các dự án có công nghệ lạc hậu hoặc gây ô 93
nhiễm môi trường
3.2.3 Xây dựng các quy định về quyền và nghĩa vụ của cán bộ công nhân 95
làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
3.2.4 Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ thẩm định dự án FDI 97
3.2.5 Tăng cường hiệu lực của công cụ pháp luật và vai trò quản lý của nhà 100
nước
3.2.6 Phát triển mạnh các tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp có 102
vốn đầu tư nước ngoài
KẾT LUẬN 105
Tài liệu tham khảo 107
Phụ lục 111
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
DN : Doanh nghiệp
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FPI : Đầu tư gián tiếp
NLĐ : Người lao động
TNCs : Các công ty xuyên quốc gia
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU TRANG
Bảng 2.1: Vốn FDI phân theo đối tác năm 2008 37
Bảng 2.2: Vốn đầu tư vào một số ngành công nghiệp năm 2007 39
Bảng 2.3: Vốn đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ năm 2007 40
Bảng 2.4: Vốn đầu tư trong lĩnh vực Nông - Lâm - Nghiệp năm 42
2007
Bảng 2.5: Tỉ lệ đầu tư so với GDP 46
Biểu đồ 2.1: Tổng vốn đầu tư nước ngoài 2000 - 11/2008 36
Biểu đồ 2.2: Lợng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ 1995 - 2007 44
Biểu đồ 2.3: Đóng góp từ khu vực có vốn FDI 47
Biểu đồ 2.4: FDI vào BĐS theo lĩnh vực năm 2008 58
MỞ ĐẦU
1) Sự cần thiết của đề tài
Tiến trình đổi mới kinh tế của Việt Nam tính đến nay đã được hơn 20 năm.
Trong hơn 20 năm đó, nền kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận,
trong đó có sự đóng góp quan trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho
sự phát triển kinh tế- xã hội nước ta, có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa thông qua
việc mở ra nhiều ngành nghề mới và nhiều loại sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu
đa dạng của người tiêu dùng và xuất khẩu. Theo đó, khu vực đầu tư nước ngoài
cũng tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ...
cho nền kinh tế. Đặc biệt, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy việc
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại giữa nước ta với các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Để khẳng định vai trò quan trọng của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài,
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã thừa nhận khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài là một thành phần kinh tế, một bộ phận hữu cơ gắn kết ngày càng
chặt chẽ và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác của nền kinh tế, và được
khuyến khích phát triển. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ có tác
động tích cực, mà nó còn có tác động ngược chiều (mặt trái) đối với nền kinh tế
nước ta, do đó nếu thiếu sự quản lý của nhà nước, hoặc nhà nước quản lý kém
hiệu quả thì những mặt trái sẽ bùng phát. Vì vậy, việc nhận diện và làm rõ tác
động hai mặt, nhất là mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, từ đó tìm ra giải pháp phù hợp hạn chế đến
mức thấp nhất mặt trái của nó là hết sức cần thiết.
Đề tài luận văn thạc sĩ của chúng tôi với tiêu đề “Mặt trái của đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam” là nhằm góp phần tìm ra giải pháp cho vấn đề đó.
2) Tình hình nghiên cứu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội ở nước ta hiện nay là một vấn đề lớn và phức tạp, do đó luôn được các
cấp, các ngành, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Đã có hàng trăm công
trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này, trong đó liên quan trực tiếp đến đề tài
có các công trình đáng chú ý sau :
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp, của Trần
Xuân Tùng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Công trình này đã phân tích
được bản chất và xu thế vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), cũng
như vai trò của nó đối với quá trình phát triển kinh tế nước ta trong quá trình đổi
mới, nêu được nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của việc thu hút
FDI ở Việt Nam; đồng thời đưa ra được một số giải pháp cơ bản nhằm huy động
và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hóa ở Việt Nam,
của TS Nguyễn Trọng Xuân, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2002. Thông qua
việc làm rõ bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài, tác giả đưa ra một số quan
điểm và giải pháp về thu hút FDI nhằm phục vụ công cuộc CNH, HĐH trong
thời gian tới ở nước ta.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, của Vũ
Trường Sơn, NXB thống kê, Hà Nội - 1997. Từ việc phân tích hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam từ 1988 - 1997 và tác động của nó đến tăng
trưởng kinh tế, tác giả đã đưa ra các giải pháp nhằm huy động và sử dụng có hiệu
quả nguồn vốn FDI.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam, của ThS
Nguyễn Văn Tuấn, NXB Tư pháp, Hà Nội - 2005. Đây là một đề tài nghiên cứu
có phạm vi rộng về lịch sử hình thành, phát triển của hoạt động FDI, trên cơ sở
đó tác giả cũng đưa ra một số giải pháp nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn FDI đối với kinh tế Việt Nam.
Các công trình trên đây đã nhìn nhận, tiếp cận vấn đề ở nhiều góc độ khác
nhau, giúp tôi có được những quan điểm, nhận thức chung về lý luận đối với đầu
tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN) và nhiều tài liệu cần thiết để kế thừa trong
quá trình thực hiện luận văn. Tuy vậy, mặt trái của ĐTTTNN thì lại chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống, nhất là dưới giác độ
của một luận văn thạc sỹ.
3) Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu: là nhằm tìm ra những mặt trái của ĐTTTNN tại Việt
Nam hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp khắc phục, nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của khu vực ĐTTTNN ở nước ta trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về ĐTTTNN.
- Phân tích, đánh giá mặt trái của ĐTTTNN tới sự phát triển kinh tế - xã hội
của Việt Nam thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hạn chế đến mức thấp nhất mặt trái
của ĐTTTNN, nhằm phát huy những tác động tích cực của nó trong quá trình
phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta.
4) Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tƣợng nghiên cứu: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: mặt trái của ĐTTTNN ở Việt Nam.
+ Về thời gian: chủ yếu từ 1995 đến nay.
5) Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể như: trừu tượng hóa khoa học, logic-
lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh.
6) Những đóng góp mới của luận văn
- Phân tích một cách toàn diện mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt
Nam cả trên lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những tác động
trái chiều của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới.
7) Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Phân tích mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt
Nam hiện nay
Chương 3: Một số giải pháp hạn chế mặt trái của đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Việt Nam trong thời gian tới
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của ĐTTTNN
a. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Khoản 1, Điều 2 (được sửa đổi,
bổ sung năm 2000): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài
đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt
động đầu tư theo qui định của luật này”, trong đó nhà đầu tư được hiểu là tổ chức
kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Như vậy, theo khái niệm này,
đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ
hoặc bất kỳ tài sản nào từ nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập
hoặc kiểm soát doanh nghiệp nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Dưới góc độ kinh tế chính trị, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức
của xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới, hoặc mua lại những xí
nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành chi nhánh của các
công ty mẹ ở chính quốc. Đây là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu, quyền sử
dụng, quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là họ trực tiếp tham
gia vào quá trình quản lý, tổ chức và điều hành các dự án đầu tư, chịu trách
nhiệm về kết quả rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận. Mục tiêu của quá
trình này là tối đa hóa lợi nhuận cho nhà đầu tư.
b. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, các yếu tố đầu tư được di chuyển ra khỏi biên giới quốc gia
Đặc điểm này có nghĩa là FDI gắn liền với việc di chuyển tiền và tài sản giữa các
quốc gia. Vì vậy, FDI sẽ làm tăng lượng tiền và tài sản của nền kinh tế nước tiếp
nhận, làm giảm lượng tiền và tài sản của nước đi đầu tư. Tài sản ở đây bao gồm
tài sản hữu hình (máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu…), tài sản vô
hình (sáng chế, nhãn hiệu, bí quyết kỹ thuật, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý…).
FDI không chỉ di chuyển vốn thuần túy, mà còn bao gồm chuyển giao công
nghệ, cơ chế bảo hộ quyền sở hữu của nhà đầu tư về các đối tượng sở hữu.
Do gắn với việc di chuyển tài sản, nên mỗi loại tài sản đòi hỏi nước tiếp nhận có
cơ chế, chính sách bảo hộ quyền của chủ đầu tư phù hợp với tính chất đặc thù
của từng loại.
Thứ hai, FDI được tiến hành thông qua việc thành lập các doanh nghiệp mới,
mua lại các chi nhánh, doanh nghiệp hiện có, hoặc tiến hành các hoạt động hợp
nhất và chuyển nhượng doanh nghiệp.
Điều đó cho thấy hoạt động FDI có thể diễn ra theo nhiều hình thức và
phương thức rất đa dạng. Một nước có thể khai thác tính đa dạng của các hình
thức và phương thức đầu tư để tăng cường thu hút vốn FDI từ nước ngoài cũng
như tiến hành đầu tư ra nước ngoài. Việc thành lập và phát triển các thị trường
tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán là điều kiện thúc đẩy sự gia tăng
nhanh chóng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thứ ba, chủ sở hữu đầu tư có thể là người nước ngoài, sở hữu 100% vốn
hoặc đồng chủ sở hữu vốn với một tỷ lệ nhất định đủ mức khống chế và trực tiếp
tham gia quản lý hoạt động của doanh nghiệp.
Tỷ lệ sở hữu vốn khống chế này từ 10% trở lên trong tổng số vốn của doanh
nghiệp tùy luật pháp của mỗi nước quy định. Đây là yếu tố quyết định đến tính
chất trực tiếp của nhà đầu tư nước ngoài trong việc đưa ra các quyết định đầu tư
và quản trị doanh nghiệp. Chính vì có sự thay đổi cơ bản về hình thức sở hữu
trong FDI nên cần có thể chế bảo hộ quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài rõ
ràng và chặt chẽ thì mới tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn. Việc bảo đảm tỷ lệ sở
hữu ở mức khống chế còn là cơ sở để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài trở thành những chi nhánh của các công ty ở nước đầu tư.
Đặc trưng này là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa FDI với hoạt động
thương mại, gia công quốc tế. Trong hoạt động thương mại có sự dịch chuyển sở
hữu về hàng hóa hoặc dịch vụ từ người bán sang người mua trên nguyên tắc thỏa
thuận. Người mua phải trả tiền cho người bán để có quyền sở hữu về hàng hóa
hoặc sử dụng dịch vụ từ người bán. Trong hoạt động gia công quốc tế, một bên
thuê bên kia gia công sản phẩm theo đơn đặt hàng, thanh toán tiền công và các
khoản chi phí khác theo từng sản phẩm trong từng thời gian ngắn. Thương mại
quốc tế ra đời và phát triển trên cơ sở lợi thế so sánh, còn FDI gắn với khả năng
khai thác nguồn lực để phát triển. Đặc điểm này làm cho các khoản lợi nhuận thu
được từ FDI lớn hơn nhiều so với thương mại quốc tế. Khi đầu tư gắn với thương
mại thì lợi nhuận thương mại là một phần lợi nhuận của hoạt động đầu tư được
phân phối lại. Do vậy có thể khẳng định rằng, đầu tư quốc tế là sự bổ sung cần
thiết cho hoạt động thương mại quốc tế; việc tổ chức hoạt động FDI phải xử lý
nhiều vấn đề phức tạp hơn so với hoạt động buôn bán thông thường.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia
thực hiện, bởi chủ thể hoạt động đầu tư là tư nhân với mục tiêu cơ bản thu lợi
nhuận (trừ một số doanh nghiệp nhà nước và một ít đầu tư của chính phủ).
Hoạt động FDI diễn ra khi có thị trường đầu tư có khả năng tạo lợi nhuận
cao, nghĩa là có chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận của vốn và chi phí giữa nước đầu
tư và nước nhận đầu tư do lợi thế so sánh. Điều này phân biệt FDI và ODA.
Các khoản ODA của các chính phủ gắn với những cam kết và ràng buộc chặt
chẽ giữa nước viện trợ và nước nhận viện trợ, chịu sự chi phối đáng kể bởi quan
hệ chính trị giữa hai nước. Các pháp nhân và thể nhân đầu tư ODA không thể
gây sức ép với nước tiếp nhận phải có những điều chỉnh nhất định về chính sách,
thể chế và cả những vấn đề liên quan đến dân chủ, nhân quyền. ODA phần lớn là
vốn vay, nên nếu không được sử dụng có hiệu quả sẽ làm cho nước nhận viện trợ
trở thành con nợ quốc tế ngày càng nhiều.
Trong khi đó, FDI ít có khả năng xảy ra tình trạng này vì chủ yếu là đầu tư do
doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư và kinh doanh,
được tính toán kỹ trước khi quyết định đầu tư. Đồng thời, hoạt động FDI khác
với vay tín dụng thương mại theo lãi suất thị trường với những cam kết và thế
chấp hết sức nghiêm ngặt, mà không được giám sát chặt chẽ sẽ dẫn đến tình
trạng vay tín dụng thương mại để đầu tư, khó có khả năng hoàn vốn, chậm thanh
toán nợ, gây ra tình trạng nợ nước ngoài vượt quá giới hạn cho phép.
Các công ty xuyên quốc gia (TNCs) là những tập đoàn có hệ thống các chi
nhánh sản xuất ở nước ngoài, có tiềm lực lớn về vốn, công nghệ cao, nhãn hiệu
sản phẩm có uy tín và danh tiếng lớn trên toàn cầu, tính năng động cao, đội ngũ
các nhà quản lý có trình độ cao, có khả năng điều hành các hoạt động sản xuất và
phân phối trên toàn cầu, có năng lực cạnh tranh cao. Các nước đang phát triển và
các doanh nghiệp của họ có thể tiếp cận từ các công ty xuyên quốc gia thông qua
hoạt động đầu tư trực tiếp để thu hút nguồn vốn lớn, công nghệ nguồn, đội ngũ
cán bộ quản lý có trình độ cao, cải thiện năng lực cạnh tranh và năng động hóa
các quan hệ giao dịch. Bên nước tiếp nhận ngoài mục tiêu thu hút vốn đầu tư từ
nhà đầu tư nước ngoài còn có mục tiêu tiếp nhận kiến thức và kỹ năng quản lý.
Kỹ năng quản lý và loại tài sản vô hình cực kỳ quan trọng đối với các nước có
nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, khía cạnh này tăng thêm tính
chất đa phương diện của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các công ty đa
quốc gia thường thuộc các nước công nghiệp phát triển, do đó, dòng vốn đầu tư
trực tiếp ban đầu xuất phát từ các nước công nghiệp và tạo nên những xu hướng
chính trong hoạt động FDI. Các nước đang phát triển khi đã đạt đến trình độ phát
triển nhất định, tích lũy được vốn, ngoại hối có thể và cần phải khuyến khích
doanh nghiệp của nước đó đầu tư ra nước ngoài để tham gia ngày càng nhiều vào thị
trường đầu tư thế giới.
Thứ năm, các chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia kiểm soát, điều hành
quá trình đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp.
Đây cũng là một trong những đặc điểm để phân biệt giữa đầu tư trực tiếp với
đầu tư gián tiếp. Trong khi đầu tư gián tiếp không cần sự quản lý của doanh
nghiệp, các khoản thu nhập chủ yếu là các cổ tức từ việc mua chứng khoán tại
các doanh nghiệp ở nước nhận đầu tư, ngược lại nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
có quyền tham gia hoạt động quản lý trong các doanh nghiệp FDI. Tuy vậy, nhà
đầu tư nước ngoài phải có bao nhiêu phần trăm cổ phần mới được phép tham gia
quản lý doanh nghiệp FDI? Theo hướng dẫn của OECD và Bộ thương mại Hoa
Kỳ thì nhà đầu tư nước ngoài phải chiếm tối thiểu 10% cổ phiếu thường hoặc
quyền bỏ phiếu trong các doanh nghiệp FDI để cho các nhà đầu tư có tiếng nói
hay tham gia quản lý trong các doanh nghiệp FDI.
Việc điều hành và trực tiếp ra quyết định đầu tư là điều kiện để nhà đầu tư
thực hiện được chiến lược kinh doanh của họ một cách chủ động và tối ưu. Tuy
nhiên, trên thực tế thường nảy sinh khoảng lệch giữa mục tiêu thu hút vốn đầu tư
của chính phủ với chiến lược kinh doanh của nhà đầu tư, do mục tiêu của chính
phủ với mục tiêu của nhà đầu tư đã không phù hợp với nhau. Chẳng hạn, mục
tiêu ưu tiên hàng đầu của chính phủ là việc làm và đẩy mạnh xuất khẩu, trong
khi một số nhà đầu tư chỉ coi trọng việc thu lợi nhuận tối đa và chiếm lĩnh thị
trường trong nước. Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư muốn hướng FDI vào các
dự án xây dựng kết cấu hạ tầng như đường sá, sân bay, bến cảng… với lượng
vốn đầu tư rất lớn, tỷ suất lợi nhuận thấp và thời gian thu hồi vốn khá dài; trong
khi các nhà đầu tư thường chú trọng các dự án có thời hạn đầu tư ngắn và tỷ lệ
thu hồi vốn cao… Đặc điểm này đòi hỏi chính phủ nước tiếp nhận đầu tư chủ
động quy hoạch phát triển các ngành, các vùng và có các chính sách hấp dẫn phù
hợp với từng ngành, lĩnh vực để thu hút FDI.
Thứ sáu, xu hướng chuyển dịch FDI thường từ những nước phát triển sang
các nước đang phát triển
FDI ban đầu do các công ty xuyên quốc gia của các nước, công nghiệp phát
triển đầu tư vào các nước thuộc địa để khai thác nguyên liệu, thị trường tiêu thụ
và nguồn lao động rẻ… Do đó, khái niệm FDI chủ yếu được sử dụng để chỉ sự
vận động của vốn từ các nước chính quốc sang các nước thuộc địa; từ các nước
công nghiệp phát triển sang các nước đang phát triển. Sau đó, xuất hiện các hoạt
động đầu tư lẫn nhau giữa các nước phát triển với nhau và tiếp đó là dòng vốn di
chuyển từ các nước đang phát triển ra nước ngoài, kể cả sang các nước công
nghiệp phát triển để khai thác tính không hoàn hảo của thị trường. Hai dòng di
chuyển vốn vào và ra này khác nhau về chiều hướng vận động và tác động của
chúng đến nền kinh tế của các nước đầu tư và các nước nhận đầu tư. Do đó, đòi
hỏi phải có cách ứng xử về mặt chính sách để điều chỉnh và quản lý dòng vận
động của vốn đầu tư [11].
1.1.2. Nguyên nhân ra đời của ĐTTTNN
a. Sự chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận giữa các nước
Nguyên nhân cơ bản của việc di chuyển vốn đầu tư là do có sự chênh lệch về
tỷ suất lợi nhuận, xuất phát từ lợi thế so sánh khác nhau giữa các quốc gia. Điều
kiện thuận lợi cho sự di chuyển vốn đầu tư là do xu thế tự do hóa thương mại,
đầu tư và tài chính ngày càng tăng trên thế giới hiện nay.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài biểu hiện sự gặp nhau giữa cung và cầu, đó là lợi
ích của nhà đầu tư và nhu cầu của nước tiếp nhận đầu tư. Khi việc đầu tư ở trong
nước không còn mang lại nhiều lợi nhuận, các nhà đầu tư có sự chuyển hướng
đưa vốn đầu tư ra nước ngoài, nơi mà các chi phí cho sản xuất rẻ hơn, cho phép
thu lợi nhuận cao hơn hoặc đạt những mục tiêu quan trọng về mở rộng quy mô
sản xuất, chiếm lĩnh thị phần, tăng sức mạnh so với các đối thủ cạnh tranh…
Thông qua thu hút FDI, các quốc gia nhận đầu tư có điều kiện bổ sung vốn
đầu tư, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và hiệu
quả của nền kinh tế. Vì vậy, ngày nay không chỉ các nước nghèo, thiếu vốn đầu
tư, công nghệ lạc hậu đưa ra các chính sách đặc biệt nhằm thu hút vốn đầu tư mà
ngay cả ở các nước có nền kinh tế phát triển cũng có nhu cầu thu hút FDI.
Việc tìm kiếm lợi nhuận nhờ vào lợi thế cạnh tranh là động cơ xuyên suốt của
các nhà đầu tư nước ngoài, thúc đẩy họ tìm đến các quốc gia khác có những yếu
tố thuận lợi hơn để có thể khai thác tạo ra luồng đầu tư ngoài biên giới quốc gia.
Ngoài việc tận dụng các lợi thế so sánh như nhân công rẻ, nguồn tài nguyên
phong phú, thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng lớn …. thì các nhà đầu tư còn quan
tâm đến việc tranh thủ các chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi của nước tiếp
nhận đầu tư để tăng lợi nhuận, mở rộng thêm thị phần và tăng sức cạnh tranh.
Đối với nhà đầu tư, FDI là công cụ, phương tiện để thực hiện chiến lược kinh
doanh của mình.
Như vậy, giữa công ty xuyên quốc gia và FDI có mối quan hệ gắn bó với
nhau vô cùng chặt chẽ. Trong bối cảnh hiện nay, các công ty xuyên quốc gia
tăng cường hoạt động và tăng cường cạnh tranh với nhau trong việc đặt thêm địa
điểm cơ sở sản xuất, kinh doanh ở nước ngoài. Đây cũng chính là yếu tố làm cho
dòng vốn FDI ngày càng phát triển [15].
b. Khắc phục tính chu kỳ của sản phẩm
Hầu hết các lý thuyết kinh tế vi mô về đầu tư quốc tế đều xoay quanh việc trả
lời các câu hỏi là: vì sao các công ty lại đầu tư ra nước ngoài? Theo cách tiếp cận
từ chu kỳ sản phẩm, Vernon (1966) đã lý giải hiện tượng FDI trên cơ sở phân
tích các giai đoạn phát triển của sản phẩm từ đổi mới đến tăng trưởng (sản xuất
hàng loạt), đạt mức bão hòa và bước vào giai đoạn suy thoái. Theo tác giả thì
giai đoạn đổi mới sẽ diễn ra ở các nước phát triển vì ở những nước này mới có
điều kiện để nghiên cứu và phát triển ( P&R) ngay tại doanh nghiệp và có khả
năng triển khai sản xuất với số lượng lớn. Đồng thời chỉ có ở những nước này
mới có kỹ thuật tiên tiến với đặc trưng sử dụng nhiều vốn nên phát huy được
hiệu quả sử dụng cao. Do vậy mà sản phẩm sản xuất ra với giá thành hạ và
nhanh chóng đạt tới mức bão hòa.
Để tránh lâm vào tình trạng suy thoái và khai thác có hiệu quả sản xuất theo
quy mô, công ty phải mở rộng thị trường tiêu thụ ra quốc tế, nhưng các hoạt
động xuất khẩu lại gặp trở ngại từ hàng rào thuế quan và cước phí vận chuyển
quốc tế. Vì thế mà các công ty phải di chuyển sản xuất ra các nước để vượt qua
các trở ngại này. Đây cũng là cách mà các nhà đầu tư kéo dài chu kỳ sống cho
sản phẩm vì tại nước chủ nhà, sản phẩm đã đến giai đoạn cuối cần phải được
thanh lý, thay mới, nhưng nhờ được xuất sang nước nhận đầu tư, nó nghiễm
nhiên lại là giai đoạn đầu và được tiếp tục “một cuộc sống mới”.
Như vậy theo cách giải thích của Vernon thì FDI là kết quả của quá trình phát
triển tự nhiên của sản phẩm theo chu kỳ.
Một số nhà kinh tế học như Petrochilos (1989) cho rằng chính lý thuyết này
đã cung cấp một cách giải thích khác về FDI, nhất là đối với các sản phẩm chế
tác, ứng dụng công nghệ hiện đại.
Phát triển lý thuyết chu kỳ sản phẩm, Akamatsu (1962) đã xây dựng lý thuyết
chu kỳ sản phẩm bắt kịp để giải thích nguyên nhân của FDI. Theo lý thuyết này,
sản phẩm mới được phát minh và ra đời ở nước đầu tư, sau đó được xuất khẩu ra
thị trường thế giới. Tại nước nhập khẩu, do ưu điểm của sản phẩm mới làm cho
nhu cầu của thị trường nội địa tăng lên, nước nhập khẩu chuyển hướng sản xuất
để thay thế sản phẩm nhập khẩu này bằng các chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thuật…
của quốc tế. Đến khi nhu cầu thị trường của sản phẩm ở trong nước đạt đến mức
bão hòa, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện và cứ thế nó diễn ra theo chu kỳ và dần
hình thành FDI [15].
c. Phân tán rủi ro cho vốn đầu tư
Hoạt động FDI cũng như hoạt động đầu tư nói chung đều gắn liền với yếu tố
rủi ro. Do vậy, việc lựa chọn các dự án khác nhau với các đối tác khác nhau
không những nhằm mục đích đạt được lợi nhuận cao mà còn nhằm chia sẻ rủi ro
cho các nhà đầu tư. Hay nói cách khác, các nhà đầu tư luôn tìm cách đa dạng hóa
hoạt động đầu tư của mình. Tiêu biểu cho cách tiếp cận này là lý thuyết của
Tobin (1958) và Marko Witj (1959). Khi đưa ra luận điểm đa dạng hóa đầu tư
trong quá trình nghiên cứu hoạt động FDI, họ đã đưa ra hai biến số quyết định là
tỷ lệ lợi nhuận và mức độ rủi ro và thấy rằng: FDI thường được thực hiện vào
những nước và ở một số ngành công nghiệp không những có tỷ lệ lợi nhuận cao ,
mà còn được đảm bảo ít xảy ra rủi ro.
Trên thực tế, khi tiến hành hoạt động FDI là nhà đầu tư sẽ phải đánh đổi giữa
tỷ lệ rủi ro với lợi nhuận, thậm chí phải chấp nhận rủi ro để tìm kiếm lợi nhuận.
Lợi nhuận và rủi ro sẽ hình thành ngay từ khi dự án bắt đầu và có sự khác biệt ít
nhiều so với mức độ tính toán ban đầu của chủ đầu tư. Vì vậy mà trước khi bắt
đầu dự án, các nhà đầu tư rất coi trọng hoạt động thăm dò để nhằm đạt hiệu quả
mong muốn mà không phải đánh đổi. Chính vì thế, trong những năm gần đây,
nắm bắt được nhu cầu về vốn, công nghệ, thị trường nguyên liệu cũng như thị
trường tiêu thụ, an ninh chính trị… ở các nước đang phát triển nên khu vực Châu
Á đang có sức hút mạnh mẽ đối với dòng vốn FDI từ các nước phát triển.
1.1.3. Các hình thức đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
a. Phân loại dựa vào kênh đầu tư
Theo cách phân loại này, FDI được thực hiện theo hai kênh chủ yếu là đầu tư
mới (Greenfield investment- GI) và Mua lại và sáp nhập (Mergers and cquisition
- M&A).
+ Đầu tư mới (Greenfield investment - GI): Đầu tư mới là các chủ đầu tư
thực hiện đầu tư ở nước ngoài thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới.
Đây là kênh đầu tư truyền thống của FDI và cũng là kênh chủ yếu để các nhà đầu
tư ở các nước phát triển đầu tư vào các nước đang phát triển.
+ Mua lại và sáp nhập (Mergers and acquisition - M&A): là các chủ đầu tư
tiến hành đầu tư thông qua việc mua lại và sáp nhập các doanh nghiệp hiện có ở
nước ngoài. Kênh đầu tư này chủ yếu được thực hiện ở các nước đang phát triển,
các nước mới công nghiệp hóa và rất phổ biến trong những năm gần đây.
Ở Việt Nam, FDI vẫn chủ yếu được thực hiện theo kênh GI. Kiểu đầu tư này
có vai trò rất quan trọng đối với quá trình tạo ra những cơ sở vật chất kỹ thuật
cần thiết để công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, nếu chỉ thu
hút FDI theo kênh GI thì không đón bắt được xu thế ngày nay, như vậy sẽ làm
hạn chế khả năng thu hút FDI vào nước ta.
b. Phân loại dựa vào mục đích đầu tư
Theo cách này, FDI được chia làm 2 loại là đầu tư trực tiếp nước ngoài theo
chiều ngang (Horizontal FDI) và đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc
(Vertical FDI).
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang (Horizontal FDI): là việc
công ty tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chính ngành sản xuất mà họ có
lợi thế cạnh tranh một loại sản phẩm nào đó. Với lợi thế này họ muốn tìm kiếm
lợi nhuận cao hơn ở nước ngoài nên đã mở rộng và thôn tính thị trường nước
ngoài. Hình thức này thường dẫn đến cạnh tranh độc quyền mà Mĩ, Nhật Bản
đang dẫn đầu ở các nước phát triển.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc (Vertical FDI): khác với hình
thức đầu tư theo chiều ngang, hình thức đầu tư theo chiều dọc với mục đích khai
thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu vào rẻ như: lao động, đất
đai… của các nước nhận đầu tư. Do các nhà đầu tư thường chú ý khai thác các