Luận văn;luận văn thạc sĩ;luận án tiến sĩ;tài liệu; khóa luận tốt nghiệp; báo cáo khoa học;đồ án tốt nghiệp;khoán luận 23052015094159
- 6 trang
- file .pdf
Hai bài trước đây, tôi nói về việc nghe ‘âm thanh’ của tiếng
Anh, có nghĩa là làm sao phân biệt được các âm với nhau đến
nỗi, dù không hiểu câu ấy nói gì, cũng có thể lặp lại đúng lời
người ta nói ra (câu càng dài thì kỹ năng nghe của mình càng
cao). Dĩ nhiên, có những người được ‘lỗ tai âm nhạc’ thiên
phú nên phân biệt âm thanh rất nhanh.
Ví dụ em Wendy Võ, một nhi đồng gốc Việt tại North Carolina (tên Việt Nam là Võ thị
Ngọc Diễm). Năm nay em mới 8 tuổi mà đã nói được 11 thứ tiếng và soạn 45 bản
nhạc. Em có khả năng lặp lại một câu nói bằng bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới, mà
không cần hiểu nghĩa. Thế nhưng thường thường, người ta phải mất nhiều thời gian
để phân biệt các âm trong một ngôn ngữ mới, tuy nhiên TẤT CẢ MỌI NGƯỜI đều có
khả năng này, bằng chứng là không một người nào trên trái đất (trừ người điếc) là
không thể nghe và nói ngôn ngữ mẹ đẻ của mình.Nếu thời gian qua, các bạn đã lắng
nghe âm thanh tiếng Anh thôi, thì đến nay, hẳn bạn đã nhận thấy rằng bỗng dưng có
một số từ hay cụm từ mình nghe rõ ràng hơn xưa, đặc biệt là những con số và những
danh từ riêng (của các nhân vật, các địa danh … ), và những từ mình đã quen thuộc.
Có những đoạn bạn nghe một thời gian dài 5-15 phút (như trên TV) rồi bỗng thấy
mình ‘hiểu’ cơ bản nội dung chương trình đó.
Như thế là các bạn đã nghe tiếng Anh. Nhưng dù muốn dù không, khi nghe một ngôn
ngữ mà chỉ nghe âm thanh thôi, thì cũng giống như mình nghe nhạc (không lời), hay
nghe tiếng gió, tiếng chim. Nếu chỉ nghe như thế thì không đáng bỏ công, vì ngôn ngữ
cốt là để truyền tin (truyền một thông tin). Nếu ta không nắm được thông tin bên dưới
âm thanh phát ra bằng tiếng Anh, thì kể như chúng ta không ‘nghe’ được tiếng Anh. Vì
thế, điều chúng ta cần học lại trước hết là nghe tiếng Anh (như một âm thanh thuần
túy) để tiến đến bước sau cùng (mà bình thường người học ngoại ngữ xem là bước
đầu tiên), ấy là ‘nghe’ tiếng Anh, theo nghĩa là ‘hiểu’ một thông tin.
Vì thế, sau hai bài để nói về cách nghe tiếng Anh, hôm nay tôi sẽ đi sâu hơn, ấy là
‘nghe’ tiếng Anh, theo nghĩa là nắm bắt nội dung của thông tin qua một chuỗi âm
thanh bằng tiếng Anh.
Nghe tiếng Anh và ‘nghe’ tiếng Anh
1. ‘Nghe’ trong ngữ cảnh.
Tôi từng nhắc đi nhắc lại rằng đừng bao giờ tra từ điển khi mình nghe một
diễn từ. Điều chủ yếu là nghe và lặp lại được những âm thanh đã nghe, rồi
dần dần hiểu được một từ mới, khi nó xuất hiện trong nhiều nội dung khác
nhau (nếu cả năm mình mới nghe từ đó một lần, có nghĩa là từ ấy không thông
dụng và, trong giai đoạn này, ta không cần phải bận tâm đến nó!). Ví dụ: bạn
nghe nhiều lần (âm thanh) ‘oubou’ mà không hiểu nghĩa, lần lượt trong những
câu sau:
- To play the ‘oubou’ you need to have strong arms.
- The ‘oubou’ is considered one of the most difficult instruments to play.
- The ‘oubou’ is very difficult to play, because Karen must force air at very high
pressure into the tiny double reed.
Lần đầu tiên, bạn chẳng biết âm ‘oubou’ chỉ cái gì, nhưng vì đi với play nên
bạn đoán rằng đó là một cái gì để ‘chơi’. Như thế là đã ‘hiểu’ một cách tổng
quát. Lần 2, với từ ‘instrument’ bạn biết rằng đó là cái để ‘chơi’ nhưng không
phải là trong thể thao, mà là trong âm nhạc. Lần thứ ba, với cụm từ ‘must
force air’ thì ta biết rằng đó là một nhạc cụ thổi hơi (khí nhạc) chứ không
phải là nhạc cụ dây hay gõ… Và ta tạm hiểu như thế, mà không cần biết phải
viết thế nào, cho đến khi đọc câu sau (chẳng hạn):
The oboe looks very similar to the clarinet, but sounds very different!
Thế là ta biết được rõ ràng đó là một nhạc khí tương tự như clarinet, và từ mà
ta nghe là ‘oubou’ thì được viết là oboe (và ta đọc đúng ngay chứ không cần
phải tra từ điển!)
Ps: Đây cũng là vấn đề ‘hiểu’ một từ. Chúng ta có cảm giác rằng nếu dịch
được tiếng ấy ra là ta hiểu ngay, thế nhưng không có gì sai cho bằng. Nếu
bạn học theo quá trình ngược, nghĩa là khởi sự biết từ ấy dưới dạng chữ
viết, bạn sẽ tra từ điển và đọc là: kèn ô-boa! Bạn thấy hài lòng vì mình đã
hiểu! Nhưng thực ra, nếu bạn không phải là một nhạc sĩ, thì ‘kèn ô-boa’ cũng
chẳng thêm gì trong kiến thức bạn. Ngay trong tiếng mẹ đẻ, ta có thể hài lòng
với khái niệm mơ hồ về một từ, nhưng khi học ngoại ngữ thì ta có cái cảm
giác sai lầm là phải trở lại với từ mẹ đẻ mới gọi là hiểu. Đối với tôi,
nightingale là một loại chim có tiếng hót hay và thường hót vào ban đêm, còn
có dịch ra là ‘sơn ca’ hay ‘họa mi’ thì cũng bằng thừa, vì tôi chưa bao giờ
thấy và biết chim ‘sơn ca’ hay ‘họa mi’. Thậm chí không biết là có phải một
loài chim hay hai loài chim khác nhau, vì cả hai từ đều được dịch là
nightingale.
2. Nghe trong toàn bộ bối cảnh.
Ta thường nghĩ rằng: ‘một từ thì có một nghĩa nhất định’. Hoàn toàn sai.
- Thử tra từ ‘tiêu cực’ trong từ điển: negative. Như thế, ‘một cán bộ tiêu cực’
phải được dịch là ‘a negative cadre’! Nếu cụm từ tiếng Việt có ý nghĩa rõ
ràng thì cụm từ dịch ra tiếng Anh (như trên) là hoàn toàn vô nghĩa! Nói cách
khác: khi người Anh nói ‘negative’, thì người Việt hiểu là ‘tiêu cực’; nhưng
khi người Việt nói ‘tiêu cực’, thì người Anh không thể hiểu là ‘negative.’
- Từ đó ta không thể nào hiểu đúng nghĩa một từ tiếng Anh nếu không đặt vào
trong bối cảnh của nó. Ví dụ: nếu không để ý rằng câu chuyện xảy ra ở Anh
hay ở Mỹ, thì khi nghe từ corn ta có thể hiểu sai: Ở Anh là lúa mì, và ở Mỹ là
bắp!
Nếu thấy một người mở nắp bình xăng lên mà nói ‘Oh my! No more gas’ thì ta
hiểu ngay rằng ‘gas’ chính là ‘xăng’, mặc dù trước đó mình có thể học: petrol
hay gasoline mới là xăng, còn gas có nghĩa là khí đốt!
Mà nhiều khi bối cảnh rõ đến nỗi, người ta dùng một từ sai mình cũng hiểu
đúng. Bạn cứ thử đến cây xăng, mở bình và nói: đổ cho tôi 30.000 dầu! Tôi
cam đoan là người ta không thắc mắc gì cả và sẽ đổ XĂNG chứ không đổ
DẦU vào xe bạn; cao lắm là trong 100 lần, thì một lần người ta nhắc lại: đổ
xăng phải không? Bạn nói là Dầu người ta vẫn hiểu là Xăng. Và trong tiếng
Anh cũng thế! Bạn sẽ hiểu một từ trong toàn bộ bối cảnh của nó.
3. Nghe với tất cả giai điệu của câu.
Trong phần đầu tôi nói rằng khi ‘nghe’ một câu, chủ yếu là làm sao nắm bắt
được thông tin của chuỗi âm thanh ấy. Nói cách khác, ngôn ngữ có nhiệm vụ
là truyền tin. Nhưng ngoài nhiệm vụ truyền tin thì còn một nhiệm vụ thứ hai,
vô cùng quan trọng, ấy là nhiệm vụ truyền cảm (truyền một tình cảm). Một
câu nói giao tiếp hằng ngày, luôn chuyển tải một phần của thất tình (= bảy
tình cảm con người, chứ không phải là bị tình phụ đâu: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố,
dục). Vì thế, cao độ, tốc độ, cường độ của câu nói, trường độ (độ dài) và dấu
nhấn của một từ, có thể là điều mình cần phải ‘nghe’ cùng một lúc với các
âm thanh được phát ra, thậm chí nghe âm điệu là chính. Nếu không thì ta hiểu
sai, hoặc không hiểu gì cả. Đừng tưởng rằng khi ta nghe được từ ‘hate’ là ta
hiểu ngay: ghét!
Vì dụ nghe một cô gái nói với một cậu trai: I hate you! Câu này không phải lúc
nào cũng là ‘Em ghét anh'! Nói với một ngữ điệu nào đó thì có thể hiểu là: Tôi
căm thù anh; hay Thôi, để tôi yên; hay Anh làm tôi bực mình; hoặc trái lại: Anh
làm em cảm động quá; thậm chí: Em yêu anh quá chừng chừng!
Và cách nhấn câu cũng thế. Ví dụ trong câu sau đây:
I didn’t say Paul stole my watch!
Nếu người nói nhấn mạnh các từ theo 7 cách khác nhau, mỗi cách nhấn một
từ ( I - didn’t - say - Paul - stole - my - watch ) thì nghĩa sẽ khác nhau hoàn toàn:
I didn’t say Paul stole my watch! (Somebody else said that!)
I didn’t say Paul stole my watch! (No! I didn't act like that)
I didn’t say Paul stole my watch! (I disclosed by another way, but I didn't SAY)
v.v
Khi học tiếng Việt, chúng ta nghe toàn bộ giai điệu, nên nghe (và nói) đúng
cao độ của một từ (đúng các dấu); thế nhưng khi một người nước ngoài học
tiếng Việt, chúng ta phải khổ công giải thích cho họ lên giọng, xuống giọng,
uốn giọng như thế nào để nói các dấu sắc, huyền, nặng, hỏi - ngã (do học
nghe bằng tai nên người Nam và người Trung đồng hóa ? và ~, trong khi người
Bắc phân biệt chúng rõ ràng). Vì thế, ngược lại, khi nghe tiếng Anh, cần phải
nghe toàn bộ âm điệu để nắm bắt những tình cảm bên dưới câu nói.
Nghe với cả giai điệu, mình sẽ hiểu (và sau này sẽ dùng) những câu hay thành
ngữ một cách chính xác như người bản ngữ, mà không cần phải dịch ra. Ví
dụ: các câu ngắn như: Oh my God! Look at this! Hoặc No way! Hoặc You're
joking/kidding! Với giọng điệu khác nhau, những câu nói hằng ngày đó có thể
được hiểu là một tiếng khen hay chê, thán phục hay thất vọng, bằng lòng hay
bất bình, chấp thuận hay từ chối!
Và từ đó, mình sẽ biết đối xử khi dùng tiếng Anh cho đúng nghĩa, chứ không
chỉ đúng văn phạm. Ví dụ, khi tiếp một nhân vật quan trọng đến công ty bạn,
bạn chuẩn bị nói một câu mời rất trân trọng và đúng nghi thức (formal):
Would you please take a seat? Thế nhưng bạn căng thẳng đến độ nói theo một
âm điệu nào đó khiến người kia bực mình với bạn (mà bạn không hề biết), vì
ngỡ rằng bạn diễu cợt người ta! Thế là hỏng cả một cuộc đàm phán. Thà
rằng bạn nói đơn sơ: Sit down! Với một giọng hòa nhã, thái độ tôn trọng, cử
chỉ lịch thiệp và nụ cười nồng hậu, thì không ai lầm bạn! Trái lại, nói câu rất
formal trên kia, với thái độ căng thẳng và giọng nói cộc lốc (vì sợ nói sai!), thì
tai hại hơn nhiều.
4. Nghe với những gì một từ bao hàm.
Ngôn ngữ dùng để truyền tin, nhưng đồng thời cũng truyền cảm. Vì thế, mỗi
danh từ vừa chỉ định một cái gì cụ thể (denotation), vừa kèm theo một tình
cảm (connotation). Các từ this gentleman, this man, this guy, this rascal đều có
một denotation như nhau là một người nam nào đó, nhưng connotation thì hoàn
toàn khác; cũng như đối với một người nữ nào đó ta có thể dùng: a lady, a
woman, a girl, a whore. Cùng một từ như communism chẳng hạn. Đối với
một đảng viên đảng Cộng Sản hay một cảm tình viên, thì từ ấy gợi lên bao
nhiêu điều dịu dàng cao đẹp, còn đối với người chống cộng, thì từ ấy gợi lên
bao nhiêu điều xấu xa, độc ác! Trong khi denotation của nó chỉ là một triết
thuyết như trăm ngàn thuyết thuyết khác, mà dù thích dù không, người ta cũng
phải dùng để chỉ định triết thuyết do Karl Marx đề ra! Từ đó, câu nói 'You're a
communist!' có thể là một lời khen nồng ấm hoặc là một lời chỉ trích thậm tệ,
tùy theo connotation của nó.
Khi học tiếng Anh, muốn nâng cao vốn từ vựng thì ta cố học nhiều từ đồng
nghĩa (synonyms). Thế nhưng, không bao giờ có synonyms đích thực cả: chỉ
tương đương trong denotation chứ connotation hoàn toàn khác (và cũng vì thế
mà không bao giờ có hai từ hoàn toàn có nghĩa giống nhau ở hai ngôn ngữ khác
nhau: father/mother không hoàn toàn là cha/mẹ - và daddy/mummy không hoàn
toàn là ba/má; vì tình cảm đính kèm với các từ ấy khác hẳn giữa người Việt
và người Anh). "Nghe" tiếng Anh, chính là biết nghe những connotations trong
các thuật ngữ mình nghe.
Cho đến nay, tôi chỉ đề nghị các bạn nghe tin tức. Nhưng đó là giai đoạn nghe
để quen với các âm. Trong giai đoạn ‘nghe’ tiếng Anh này, phải bớt giờ nghe
tin tức mà xem phóng sự hoặc các phim truyện. Trên thế giới, các speakers của
các chương trình tin tức buộc phải nói với thái độ neutral, nghĩa là không được
dùng từ kèm theo tình cảm, và không được xử lý âm điệu để bộc lộ tình cảm
của mình, vì thế họ nói rất dễ nghe, nhưng chỉ nghe tin tức thôi thì ta bỏ sót
một phần khá chủ yếu trong tiếng Anh.
(Trái lại xướng ngôn viên Việt Nam nhiều khi chưa làm chủ được tình cảm mình
Anh, có nghĩa là làm sao phân biệt được các âm với nhau đến
nỗi, dù không hiểu câu ấy nói gì, cũng có thể lặp lại đúng lời
người ta nói ra (câu càng dài thì kỹ năng nghe của mình càng
cao). Dĩ nhiên, có những người được ‘lỗ tai âm nhạc’ thiên
phú nên phân biệt âm thanh rất nhanh.
Ví dụ em Wendy Võ, một nhi đồng gốc Việt tại North Carolina (tên Việt Nam là Võ thị
Ngọc Diễm). Năm nay em mới 8 tuổi mà đã nói được 11 thứ tiếng và soạn 45 bản
nhạc. Em có khả năng lặp lại một câu nói bằng bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới, mà
không cần hiểu nghĩa. Thế nhưng thường thường, người ta phải mất nhiều thời gian
để phân biệt các âm trong một ngôn ngữ mới, tuy nhiên TẤT CẢ MỌI NGƯỜI đều có
khả năng này, bằng chứng là không một người nào trên trái đất (trừ người điếc) là
không thể nghe và nói ngôn ngữ mẹ đẻ của mình.Nếu thời gian qua, các bạn đã lắng
nghe âm thanh tiếng Anh thôi, thì đến nay, hẳn bạn đã nhận thấy rằng bỗng dưng có
một số từ hay cụm từ mình nghe rõ ràng hơn xưa, đặc biệt là những con số và những
danh từ riêng (của các nhân vật, các địa danh … ), và những từ mình đã quen thuộc.
Có những đoạn bạn nghe một thời gian dài 5-15 phút (như trên TV) rồi bỗng thấy
mình ‘hiểu’ cơ bản nội dung chương trình đó.
Như thế là các bạn đã nghe tiếng Anh. Nhưng dù muốn dù không, khi nghe một ngôn
ngữ mà chỉ nghe âm thanh thôi, thì cũng giống như mình nghe nhạc (không lời), hay
nghe tiếng gió, tiếng chim. Nếu chỉ nghe như thế thì không đáng bỏ công, vì ngôn ngữ
cốt là để truyền tin (truyền một thông tin). Nếu ta không nắm được thông tin bên dưới
âm thanh phát ra bằng tiếng Anh, thì kể như chúng ta không ‘nghe’ được tiếng Anh. Vì
thế, điều chúng ta cần học lại trước hết là nghe tiếng Anh (như một âm thanh thuần
túy) để tiến đến bước sau cùng (mà bình thường người học ngoại ngữ xem là bước
đầu tiên), ấy là ‘nghe’ tiếng Anh, theo nghĩa là ‘hiểu’ một thông tin.
Vì thế, sau hai bài để nói về cách nghe tiếng Anh, hôm nay tôi sẽ đi sâu hơn, ấy là
‘nghe’ tiếng Anh, theo nghĩa là nắm bắt nội dung của thông tin qua một chuỗi âm
thanh bằng tiếng Anh.
Nghe tiếng Anh và ‘nghe’ tiếng Anh
1. ‘Nghe’ trong ngữ cảnh.
Tôi từng nhắc đi nhắc lại rằng đừng bao giờ tra từ điển khi mình nghe một
diễn từ. Điều chủ yếu là nghe và lặp lại được những âm thanh đã nghe, rồi
dần dần hiểu được một từ mới, khi nó xuất hiện trong nhiều nội dung khác
nhau (nếu cả năm mình mới nghe từ đó một lần, có nghĩa là từ ấy không thông
dụng và, trong giai đoạn này, ta không cần phải bận tâm đến nó!). Ví dụ: bạn
nghe nhiều lần (âm thanh) ‘oubou’ mà không hiểu nghĩa, lần lượt trong những
câu sau:
- To play the ‘oubou’ you need to have strong arms.
- The ‘oubou’ is considered one of the most difficult instruments to play.
- The ‘oubou’ is very difficult to play, because Karen must force air at very high
pressure into the tiny double reed.
Lần đầu tiên, bạn chẳng biết âm ‘oubou’ chỉ cái gì, nhưng vì đi với play nên
bạn đoán rằng đó là một cái gì để ‘chơi’. Như thế là đã ‘hiểu’ một cách tổng
quát. Lần 2, với từ ‘instrument’ bạn biết rằng đó là cái để ‘chơi’ nhưng không
phải là trong thể thao, mà là trong âm nhạc. Lần thứ ba, với cụm từ ‘must
force air’ thì ta biết rằng đó là một nhạc cụ thổi hơi (khí nhạc) chứ không
phải là nhạc cụ dây hay gõ… Và ta tạm hiểu như thế, mà không cần biết phải
viết thế nào, cho đến khi đọc câu sau (chẳng hạn):
The oboe looks very similar to the clarinet, but sounds very different!
Thế là ta biết được rõ ràng đó là một nhạc khí tương tự như clarinet, và từ mà
ta nghe là ‘oubou’ thì được viết là oboe (và ta đọc đúng ngay chứ không cần
phải tra từ điển!)
Ps: Đây cũng là vấn đề ‘hiểu’ một từ. Chúng ta có cảm giác rằng nếu dịch
được tiếng ấy ra là ta hiểu ngay, thế nhưng không có gì sai cho bằng. Nếu
bạn học theo quá trình ngược, nghĩa là khởi sự biết từ ấy dưới dạng chữ
viết, bạn sẽ tra từ điển và đọc là: kèn ô-boa! Bạn thấy hài lòng vì mình đã
hiểu! Nhưng thực ra, nếu bạn không phải là một nhạc sĩ, thì ‘kèn ô-boa’ cũng
chẳng thêm gì trong kiến thức bạn. Ngay trong tiếng mẹ đẻ, ta có thể hài lòng
với khái niệm mơ hồ về một từ, nhưng khi học ngoại ngữ thì ta có cái cảm
giác sai lầm là phải trở lại với từ mẹ đẻ mới gọi là hiểu. Đối với tôi,
nightingale là một loại chim có tiếng hót hay và thường hót vào ban đêm, còn
có dịch ra là ‘sơn ca’ hay ‘họa mi’ thì cũng bằng thừa, vì tôi chưa bao giờ
thấy và biết chim ‘sơn ca’ hay ‘họa mi’. Thậm chí không biết là có phải một
loài chim hay hai loài chim khác nhau, vì cả hai từ đều được dịch là
nightingale.
2. Nghe trong toàn bộ bối cảnh.
Ta thường nghĩ rằng: ‘một từ thì có một nghĩa nhất định’. Hoàn toàn sai.
- Thử tra từ ‘tiêu cực’ trong từ điển: negative. Như thế, ‘một cán bộ tiêu cực’
phải được dịch là ‘a negative cadre’! Nếu cụm từ tiếng Việt có ý nghĩa rõ
ràng thì cụm từ dịch ra tiếng Anh (như trên) là hoàn toàn vô nghĩa! Nói cách
khác: khi người Anh nói ‘negative’, thì người Việt hiểu là ‘tiêu cực’; nhưng
khi người Việt nói ‘tiêu cực’, thì người Anh không thể hiểu là ‘negative.’
- Từ đó ta không thể nào hiểu đúng nghĩa một từ tiếng Anh nếu không đặt vào
trong bối cảnh của nó. Ví dụ: nếu không để ý rằng câu chuyện xảy ra ở Anh
hay ở Mỹ, thì khi nghe từ corn ta có thể hiểu sai: Ở Anh là lúa mì, và ở Mỹ là
bắp!
Nếu thấy một người mở nắp bình xăng lên mà nói ‘Oh my! No more gas’ thì ta
hiểu ngay rằng ‘gas’ chính là ‘xăng’, mặc dù trước đó mình có thể học: petrol
hay gasoline mới là xăng, còn gas có nghĩa là khí đốt!
Mà nhiều khi bối cảnh rõ đến nỗi, người ta dùng một từ sai mình cũng hiểu
đúng. Bạn cứ thử đến cây xăng, mở bình và nói: đổ cho tôi 30.000 dầu! Tôi
cam đoan là người ta không thắc mắc gì cả và sẽ đổ XĂNG chứ không đổ
DẦU vào xe bạn; cao lắm là trong 100 lần, thì một lần người ta nhắc lại: đổ
xăng phải không? Bạn nói là Dầu người ta vẫn hiểu là Xăng. Và trong tiếng
Anh cũng thế! Bạn sẽ hiểu một từ trong toàn bộ bối cảnh của nó.
3. Nghe với tất cả giai điệu của câu.
Trong phần đầu tôi nói rằng khi ‘nghe’ một câu, chủ yếu là làm sao nắm bắt
được thông tin của chuỗi âm thanh ấy. Nói cách khác, ngôn ngữ có nhiệm vụ
là truyền tin. Nhưng ngoài nhiệm vụ truyền tin thì còn một nhiệm vụ thứ hai,
vô cùng quan trọng, ấy là nhiệm vụ truyền cảm (truyền một tình cảm). Một
câu nói giao tiếp hằng ngày, luôn chuyển tải một phần của thất tình (= bảy
tình cảm con người, chứ không phải là bị tình phụ đâu: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố,
dục). Vì thế, cao độ, tốc độ, cường độ của câu nói, trường độ (độ dài) và dấu
nhấn của một từ, có thể là điều mình cần phải ‘nghe’ cùng một lúc với các
âm thanh được phát ra, thậm chí nghe âm điệu là chính. Nếu không thì ta hiểu
sai, hoặc không hiểu gì cả. Đừng tưởng rằng khi ta nghe được từ ‘hate’ là ta
hiểu ngay: ghét!
Vì dụ nghe một cô gái nói với một cậu trai: I hate you! Câu này không phải lúc
nào cũng là ‘Em ghét anh'! Nói với một ngữ điệu nào đó thì có thể hiểu là: Tôi
căm thù anh; hay Thôi, để tôi yên; hay Anh làm tôi bực mình; hoặc trái lại: Anh
làm em cảm động quá; thậm chí: Em yêu anh quá chừng chừng!
Và cách nhấn câu cũng thế. Ví dụ trong câu sau đây:
I didn’t say Paul stole my watch!
Nếu người nói nhấn mạnh các từ theo 7 cách khác nhau, mỗi cách nhấn một
từ ( I - didn’t - say - Paul - stole - my - watch ) thì nghĩa sẽ khác nhau hoàn toàn:
I didn’t say Paul stole my watch! (Somebody else said that!)
I didn’t say Paul stole my watch! (No! I didn't act like that)
I didn’t say Paul stole my watch! (I disclosed by another way, but I didn't SAY)
v.v
Khi học tiếng Việt, chúng ta nghe toàn bộ giai điệu, nên nghe (và nói) đúng
cao độ của một từ (đúng các dấu); thế nhưng khi một người nước ngoài học
tiếng Việt, chúng ta phải khổ công giải thích cho họ lên giọng, xuống giọng,
uốn giọng như thế nào để nói các dấu sắc, huyền, nặng, hỏi - ngã (do học
nghe bằng tai nên người Nam và người Trung đồng hóa ? và ~, trong khi người
Bắc phân biệt chúng rõ ràng). Vì thế, ngược lại, khi nghe tiếng Anh, cần phải
nghe toàn bộ âm điệu để nắm bắt những tình cảm bên dưới câu nói.
Nghe với cả giai điệu, mình sẽ hiểu (và sau này sẽ dùng) những câu hay thành
ngữ một cách chính xác như người bản ngữ, mà không cần phải dịch ra. Ví
dụ: các câu ngắn như: Oh my God! Look at this! Hoặc No way! Hoặc You're
joking/kidding! Với giọng điệu khác nhau, những câu nói hằng ngày đó có thể
được hiểu là một tiếng khen hay chê, thán phục hay thất vọng, bằng lòng hay
bất bình, chấp thuận hay từ chối!
Và từ đó, mình sẽ biết đối xử khi dùng tiếng Anh cho đúng nghĩa, chứ không
chỉ đúng văn phạm. Ví dụ, khi tiếp một nhân vật quan trọng đến công ty bạn,
bạn chuẩn bị nói một câu mời rất trân trọng và đúng nghi thức (formal):
Would you please take a seat? Thế nhưng bạn căng thẳng đến độ nói theo một
âm điệu nào đó khiến người kia bực mình với bạn (mà bạn không hề biết), vì
ngỡ rằng bạn diễu cợt người ta! Thế là hỏng cả một cuộc đàm phán. Thà
rằng bạn nói đơn sơ: Sit down! Với một giọng hòa nhã, thái độ tôn trọng, cử
chỉ lịch thiệp và nụ cười nồng hậu, thì không ai lầm bạn! Trái lại, nói câu rất
formal trên kia, với thái độ căng thẳng và giọng nói cộc lốc (vì sợ nói sai!), thì
tai hại hơn nhiều.
4. Nghe với những gì một từ bao hàm.
Ngôn ngữ dùng để truyền tin, nhưng đồng thời cũng truyền cảm. Vì thế, mỗi
danh từ vừa chỉ định một cái gì cụ thể (denotation), vừa kèm theo một tình
cảm (connotation). Các từ this gentleman, this man, this guy, this rascal đều có
một denotation như nhau là một người nam nào đó, nhưng connotation thì hoàn
toàn khác; cũng như đối với một người nữ nào đó ta có thể dùng: a lady, a
woman, a girl, a whore. Cùng một từ như communism chẳng hạn. Đối với
một đảng viên đảng Cộng Sản hay một cảm tình viên, thì từ ấy gợi lên bao
nhiêu điều dịu dàng cao đẹp, còn đối với người chống cộng, thì từ ấy gợi lên
bao nhiêu điều xấu xa, độc ác! Trong khi denotation của nó chỉ là một triết
thuyết như trăm ngàn thuyết thuyết khác, mà dù thích dù không, người ta cũng
phải dùng để chỉ định triết thuyết do Karl Marx đề ra! Từ đó, câu nói 'You're a
communist!' có thể là một lời khen nồng ấm hoặc là một lời chỉ trích thậm tệ,
tùy theo connotation của nó.
Khi học tiếng Anh, muốn nâng cao vốn từ vựng thì ta cố học nhiều từ đồng
nghĩa (synonyms). Thế nhưng, không bao giờ có synonyms đích thực cả: chỉ
tương đương trong denotation chứ connotation hoàn toàn khác (và cũng vì thế
mà không bao giờ có hai từ hoàn toàn có nghĩa giống nhau ở hai ngôn ngữ khác
nhau: father/mother không hoàn toàn là cha/mẹ - và daddy/mummy không hoàn
toàn là ba/má; vì tình cảm đính kèm với các từ ấy khác hẳn giữa người Việt
và người Anh). "Nghe" tiếng Anh, chính là biết nghe những connotations trong
các thuật ngữ mình nghe.
Cho đến nay, tôi chỉ đề nghị các bạn nghe tin tức. Nhưng đó là giai đoạn nghe
để quen với các âm. Trong giai đoạn ‘nghe’ tiếng Anh này, phải bớt giờ nghe
tin tức mà xem phóng sự hoặc các phim truyện. Trên thế giới, các speakers của
các chương trình tin tức buộc phải nói với thái độ neutral, nghĩa là không được
dùng từ kèm theo tình cảm, và không được xử lý âm điệu để bộc lộ tình cảm
của mình, vì thế họ nói rất dễ nghe, nhưng chỉ nghe tin tức thôi thì ta bỏ sót
một phần khá chủ yếu trong tiếng Anh.
(Trái lại xướng ngôn viên Việt Nam nhiều khi chưa làm chủ được tình cảm mình