Luận văn;luận văn thạc sĩ;luận án tiến sĩ;tài liệu; khóa luận tốt nghiệp; báo cáo khoa học;đồ án tốt nghiệp;khoán luận 17012015094829
- 105 trang
- file .pdf
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
NGUYỄN THỊ QUỲNH GIANG
CHUYỂN GIÁ TRONG CÁC CÔNG TY ĐA
QUỐC GIA Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kinh tế tài chính – Ngân hàng
Mã số : 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS. SỬ ĐÌNH THÀNH
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế : “Chuyển giá trong các công ty đa
quốc gia ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các phân tích, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Thị Quỳnh Giang
MỤC LỤC
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHUYỂN GIÁ TRONG CÁC CÔNG TY ĐA
QUỐC GIA 1
1.1. Tổng quan về công ty đa quốc gia 1
1.1.1. Khái niệm 1
1.1.2. Cơ cấu tổ chức của công ty đa quốc gia 2
1.1.3. Các nghiệp vụ mua bán nội bộ của công ty đa quốc gia 2
1.2. Chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI 5
1.2.1. Khái niệm 5
1.2.2. Các dấu hiệu nhận biết hiện tượng chuyển giá 6
1.2.3. Phạm vi chuyển giá 7
1.2.4. Các phương thức chuyển giá phổ biến 9
1.2.5. Động cơ khiến các MNC thực hiện chuyển giá 10
1.2.6. Tác động của chuyển giá 13
1.3. Các phương pháp chống chuyển giá 17
1.3.1. Phương pháp định giá chuyển giao trên cơ sở giá tự do có thể so sánh
được 18
1.3.2. Phương pháp giá bán lại 20
1.3.3. Phương pháp giá vốn cộng lãi 22
1.3.4. Phương pháp chiết tách lợi nhuận 24
1.3.5. Phương pháp lợi nhuận ròng của nghiệp vụ chuyển giao 26
1.4. Hoạt động chống chuyển giá của một số nước trên thế giới – Rút kinh
nghiệm cho Việt Nam 26
i
1.4.1. Kinh nghiệm của Mỹ 27
1.4.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc 28
1.4.3. Kinh nghiệm của ASEAN 31
1.4.4. Rút bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 33
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ VÀ CHỐNG
CHUYỂN GIÁ Ở VIỆT NAM 36
2.1. Thực trạng hoạt động của các công ty đa quốc gia tại Việt Nam 36
2.1.1. Tình hình thu hút vốn FDI của Việt Nam 36
2.1.2. Một số tồn tại và nguyên nhân trong thực tế thu hút FDI của các công ty
đa quốc gia của Việt Nam 43
2.2. Thực trạng hoạt động chuyển giá trong các MNC ở Việt Nam 44
2.2.1. Môi trường pháp lý 44
2.2.2. Một số hình thức chuyển giá tiêu biểu ở Việt Nam 44
2.3. Đánh giá hoạt động chống chuyển giá ở Việt Nam 55
2.3.1. Những thay đổi về cơ chế, chính sách 55
2.3.2. Những khó khăn trong hoạt động chống chuyển giá 57
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 61
CHƯƠNG 3 :GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ TẠI
CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA Ở VIỆT NAM 62
3.1. Tăng cường kiểm soát hoạt động chuyển giá tại các MNC ở Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập 62
3.2. Điều kiện để thực hiện biện pháp chống chuyển giá có hiệu quả 63
3.3. Đề xuất một số biện pháp chống chuyển giá ở Việt Nam 64
3.3.1. Đối với cơ quan thuế 64
3.3.2. Đối với Chính phủ Việt Nam 67
ii
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 72
KẾT LUẬN 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2
iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
ALP: Nguyên tắc căn bản giá thị trường
APA: Thỏa thuận định giá trước
BOT: Xây dựng vận hành và chuyển giao
BT: Xây dựng và chuyển giao
BTO: Xây dựng, chuyển giao và vận hành
CUP: Phương pháp giá tự do có thể so sanh được
CPM: Phương pháp giá vốn cộng thêm
EU: Thị trường chung Châu Âu
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
IRS: Cơ quan thuế nội địa của Mỹ
MNC: Công ty đa quốc gia
OECD: Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển
SAT Cơ quan thuế Trung Quốc
TSCĐ Tài sản cố định
Thuế TNDN (CIT) Thuế thu nhập doanh nghiệp
TNMM Phương pháp lợi nhuận ròng của nghiệp vụ chuyển giao
VAT (GTGT) Thuế giá trị gia tăng
WTO Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Nguồn vốn kiều hối của một số nước Châu Á năm 2006..................... 38
Bảng 2.2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988-2008 (tính tới ngày
22/10/2008)……………………………………………………………………….40
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI trong tổng xuất khẩu của cả
nước (1996-2007)..................................................................................................37
LỜI MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của quá trình toàn cầu hoá,
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đã tăng lên rất mạnh, đóng góp vai trò
rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực
ngành công nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, khu vực kinh tế này
không kém phần phức tạp. Số lượng các giao dịch thương mại xuyên biên giới diễn ra
giữa các công ty liên kết ngày một tăng. Với môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt,
khốc liệt, vấn đề tối đa hoá lợi nhuận cho tổng thể tập đoàn luôn là mục tiêu quan tâm
hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài việc nỗ lực nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp đầu tư, chuyển giá (transfer pricing) được xem là một trong
những phương pháp mà các nhà đầu tư thường áp dụng nhằm mục đích tránh thuế, từ
đó tổng lợi ích cuối cùng sẽ được gia tăng.
Tuy chuyển giá là một trong những vấn đề còn khá mới mẻ trong hoạt động
thương mại Việt Nam, nhưng gần đây các giao dịch có yếu tố nước ngoài ngày càng
xuất hiện nhiều dấu hiệu của hiện tượng chuyển giá. Hiện tượng chuyển giá không chỉ
gây thiệt hại cho chính phủ nước chủ nhà do bị thất thu thuế, giảm phần lợi nhuận của
bên góp vốn của nước chủ nhà do giá trị góp vốn của họ thấp mà còn ảnh hưởng tiêu
cực đến thương mại quốc tế. Do các quy luật của thị trường tự do, đặc biệt là quy luật
cung cầu không hoạt động trong các tập đoàn đa quốc gia, nên gây ra nhiễu loạn quá
trình lưu thông quốc tế. Điều này dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.
Đề tài nghiên cứu sẽ tập trung tìm hiểu vấn đề “Chuyển giá trong các công ty đa quốc
gia tại Việt Nam”
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục đích của đề tài này là tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích hiện tượng chuyển
giá ngày càng phổ biến trong các doanh nghiệp FDI đang có mặt tại Việt Nam trong
thời gian từ khi Việt Nam bắt đầu mở cửa kinh tế đến khi Việt Nam đã chính thức là
thành viên của tổ chức thương mại thế giới. Thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu này
sẽ đề ra một số biện pháp chống chuyển giá nhằm đảm bảo ổn định phát triển kinh tế
tại Việt Nam và phù hợp với kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ở Việt
Nam và hiện tượng chuyển giá của các doanh nghiệp này tại Việt Nam trong khoảng
thời gian từ khi mở cửa kinh tế đến nay. Chuyển giá là một vấn đề rất nhạy cảm trong
việc kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như là đối với cơ quan quản lý nhà nước,
vì vậy trong đề tài sẽ tập trung vào các sự kiện đã được công bố trên phương tiện
truyền thông đại chúng và trong giới hạn tìm hiểu các ví dụ thực tế cho phép.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng các phương pháp lý thuyết suy luận logic, phân tích - tổng hợp,
so sánh - đối chiếu.
Để có thể nhìn nhận tương đối chính xác về các vấn đề liên quan đến hiện tượng
chuyển giá, ngoài một số thông tư, văn bản quy định của nhà nước và quốc tế, người
viết nghiên cứu thêm một số bài báo ở Việt Nam và quốc tế. Phương pháp nghiên cứu
của đề tài là đi từ thực tiễn tình hình các giao dịch liên kết, thực trạng chuyển giá và
công tác chống chuyển giá tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới, từ đó đề ra
các giải pháp cho vấn đề chống chuyển giá tại Việt Nam. Sơ đồ dưới đây thể hiện rõ
phương pháp nghiên cứu của đề tài:
Lý thuyết FDI, chuyển
giá, chống chuyển giá
Đánh giá thực trạng
Kinh nghiệm (đối chiếu, so sánh dựa vào
các giá trị chuẩn tắc của các
phương pháp chuyển giá)
Phát hiện vấn đề nghiên
cứu
Kết luận và các
khuyến nghị
5. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình bày trong phạm vi 3 chương
như sau:
Chương 1: Tổng quan về chuyển giá trong các công ty đa quốc gia.
Chương 2: Thực trạng hoạt động chuyển giá và chống chuyển giá ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp kiểm soát hoạt động chuyển giá tại các công ty đa quốc gia ở
Việt Nam
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CHUYỂN GIÁ TRONG CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA
1.1.Tổng quan về công ty đa quốc gia
1.1.1.Khái niệm
Ban đầu, các công ty đa quốc gia cũng được thành lập tại một quốc gia tức là
công ty quốc gia. Công ty quốc gia này mang quốc tịch của một nước và vốn đầu tư
vào công ty này thuộc quyền sở hữu của các nhà tư bản nước sở tại. Công ty quốc
gia này kinh doanh ngày càng phát triển và hàng hóa, dịch vụ do công ty này sản
xuất ra ngày càng nhiều và chất lượng. Vì vậy mà nhu cầu mở rộng thị trường tiêu
thụ các sản phẩm của công ty là tất yếu. Lúc bấy giờ, thị trường các nước lân cận
hay các nước có nhu cầu sản phẩm của công ty trở nên thật hấp dẫn. Các công ty
này sẽ bắt đầu tiến hành mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm sang các thị trường
này bằng cách xuất khẩu các sản phẩm. Thị trường ngày càng được mở rộng vì vậy
mà các công ty bắt đầu nghĩ đến việc mở rộng sản xuất kinh doanh sang các nước
lân cận, các nước mà có nhu cầu sản phẩm của công ty nhiều. Do quá trình phát
triển thị trường tiêu thụ, các công ty này tìm được các nguồn nguyên liệu và nhân
công có chi phí thấp hơn tại quốc gia mà công ty trú ngụ. Vì vậy mà công ty sẽ tiến
hành xây dựng các chi nhánh hay các công ty con tại các quốc gia mà có những lợi
thế so sánh về chi phí nguyên vật liệu, nhân công đầu vào nhằm tìm kiếm mức lợi
nhuận ngày càng cao. Như vậy do nhu cầu phát triển và mở rộng thị trường của
mình mà các công ty này đã thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn
rộng lớn và vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia nên được gọi là công ty đa quốc
gia. Vì vậy chúng ta có thể xây dựng khái niệm công ty đa quốc gia như sau:
Công ty đa quốc gia – Multinational Corporations (MNC) hoặc Multinational
Enterprises (MNE) là công ty có hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc cung cấp dịch
vụ không chỉ nằm gói gọn trong lãnh thổ của một quốc gia mà hoạt động sản xuất
kinh doanh và cung cấp dịch vụ trải dài ít nhất ở hai quốc gia và có công ty có mặt
lên đến hơn trăm quốc gia khác nhau.
1
Công ty đa quốc gia bao gồm công ty mẹ ở một nước, và thực hiện các đầu
tư FDI ra nước ngoài để hình thành các công ty con. Các công ty mẹ con này ảnh
hưởng lẫn nhau và cùng chia sẻ kiến thức, nguồn lực và trách nhiệm lẫn nhau.
1.1.2. Cơ cấu tổ chức của công ty đa quốc gia
Các công ty quốc gia thành lập các chi nhánh và các công ty con tại các quốc
gia khác sẽ trở thành công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia này với hoạt
động sản xuất và kinh doanh ngày càng phát triển chúng sản xuất ra ngày càng
nhiều hàng hóa và của cải, khai thác các thị trường hiện tại một cách hiệu quả và
tìm kiếm các thị trường mới. Mục tiêu của các MNC này còn bao hàm cả việc tìm
kiếm các nguồn nguyên liệu, nhân công với giá cả so sánh, tìm kiếm những ưu đãi
về thuế, ưu đãi về kinh tế nhằm phục vụ cho mục tiêu to lớn nhất của các công ty là
tối đa hóa lợi nhuận và tối đa hóa giá trị tài sản công ty.
Các MNC có thể xếp vào 3 nhóm lớn theo cấu trúc phương tiện sản xuất như
sau:
Công ty đa quốc gia “theo chiều ngang” là các công ty đa quốc gia mà có
hoạt động sản xuất kinh doanh các sản phẩm cùng loại hoặc tương tự tại các quốc
gia mà công ty này có mặt. Một công ty điển hình với cấu trúc này là công ty Mc
Donalds.
Công ty đa quốc gia “theo chiều dọc” là công ty có các cơ sở sản xuất hay
các chi nhánh, công ty con tại một số quốc gia sản xuất ra các sản phẩm mà các sản
phẩm này lại là đầu vào để sản xuất ra sản phẩm của các công ty con hay các chi
nhánh tại các quốc gia khác. Một ví dụ điển hình cho loại hình cấu trúc công ty
“theo chiều dọc” là công ty Adidas.
Công ty đa quốc gia “nhiều chiều” là công ty có nhiều chi nhánh hay công ty
con tại nhiều quốc gia khác nhau mà các công ty này phát triển và hợp tác với nhau
cả chiều ngang lẫn chiều dọc. Một ví dụ điển hình cho loại hình công ty đa quốc gia
có cấu trúc như trên là Microsoft.
1.1.3. Các nghiệp vụ mua bán nội bộ của công ty đa quốc gia
2
Các MNC do hoạt động trên phạm vi của nhiều quốc gia khác nhau và ở mỗi
quốc gia thường có chi nhánh hay công ty con vì vậy mà hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty phải phù hợp với phong tục, tập quán và luật pháp kinh doanh tại
quốc gia đó. Các đặc điểm kinh doanh trên đã dẫn đến các giao dịch nội bộ của các
MNC diễn ra rất đa dạng và phức tạp vì vậy mà các cơ quan thuế riêng lẻ của từng
quốc gia sẽ rất khó khăn trong việc quản lý và kiểm soát. Các hoạt động mua bán
qua lại giữa công ty mẹ và công ty con hoặc giữa các công ty con với nhau diễn ra
với số lượng ngày càng nhiều và giá trị ngày càng lớn. Các hoạt động mua bán nội
bộ này tuy diễn ra với nhiều hình thức và biểu hiện khác nhau nhưng chúng ta có
thể nhận dạng chúng thông qua các giao dịch như: giao dịch chuyển giao nội bộ tài
sản cố định hữu hình hay tài sản cố định vô hình; chuyển giao nguyên vật liệu,
thành phẩm, thông qua sư dịch chuyển nguồn vốn như cho vay và đi vay nội bộ;
qua sự cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, tư vấn quản lý; qua các chi phí cho
việc quảng cáo và chi phí nghiên cứu phát triển … Với tính chất đặc biệt quan trọng
và tính bảo mật cao của các nghiệp vụ này, các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ sẽ
được bảo mật và chỉ có các nhà quản trị cấp cao trong MNC mới tiếp cận được. Các
nghiệp vụ chuyển giao nội bộ này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược phát triển
của các MNC.
Do tính bảo mật, tầm ảnh hưởng quan trọng của các nghiệp vụ chuyển giao
nội bộ vì các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ thường được thực hiện theo ý muốn, chủ
trương trong chiến lược phát triển công ty của các nhà quản lý cao cấp. Trong thực
tế đã có các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ được thực hiện theo chỉ thị của các nhà
quản trị cao cấp với các giá trị rất lớn nhưng giá trị này đã không được ghi nhận
hoặc chỉ thể hiện một số rất nhỏ. Các chứng từ, chứng cứ kèm theo không thể hiện
chính xác các giá trị và bản chất của nghiệp vụ vì vậy đã gây khó khăn cho các cơ
quan thuế trong việc đưa ra bằng chứng chứng minh các MNC đã thực hiện hành vi
chuyển giá.
3
Dựa vào tính chất và các đặc điểm của các nghiệp vụ mua bán nội bộ phổ
biến trên thị trường, chúng ta có thể phân chia các nghiệp vụ mua bán nội bộ ra
thành các nhóm như sau:
Các nghiệp vụ mua bán nội bộ liên quan nguyên vật liệu có tính đặc thù cao, hay
các nguyên vật liệu mà một công ty con đặt tại một quốc gia có các lợi thế riêng
làm cho giá của nguyên vật liệu ấy thấp.
Các nghiệp vụ mua bán nội bộ liên quan đến các thành phẩm, các công ty con tại
các quốc gia khác nhau có thể mua thành phẩm được sản xuất tại một quốc gia
(Sourcing Country) và sau đó bán lại mà không cần phải đầu tư máy móc hay
nhân công cho sản xuất.
Các giao dịch liên quan việc dịch chuyển một lượng lớn máy móc, thiết bị cho
sản xuất mà đặc biệt hơn là điểm đến của các giao dịch này là các quốc gia đang
phát triển.
Các giao dịch liên quan đến các tài sản vô hình như nhượng quyền, bản quyền,
thương hiệu, nhãn hàng, các chi phí liên quan đến nghiên cứu và phát triển sản
phẩm.
Có sự cung cấp các dịch vụ quản lý, dịch vụ tài chính hay chi phí cho các
chuyên gia vào làm việc tại nước nhận chuyển giao.
Có sự tài trợ và nhận tài trợ về các nguồn lực như tài lực và nhân lực
Có các khoản đi vay và cho vay nội bộ các công ty con của MNC hay giữa công
ty mẹ và các công ty con.
Các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ này diễn ra thường xuyên với giá trị lớn, vì
vậy mà để hạn chế các tác động tiêu cực của các nghiệp vụ này thì cần phải có một
nguyên tắc áp dụng chung và thông nhất trên các quốc gia. Nguyên tắc này được lập
ra nhằm đảm bảo tính công bằng trong thương mại, là cơ sở cho các nghiệp vụ mua
bán, trao đổi hàng hóa và cung cấp dịch vụ giữa các quốc gia. Một nguyên tắc được
áp dụng là nguyên tắc dựa trên căn bản giá thị trường ALP (The Arm’s –Length
Principle). Nguyên tắc này đòi hỏi các nghiệp vụ mua bán nội bộ trong các MNC
4
phải được thực hiện như các nghiệp vụ mua bán diễn ra giữa các bên độc lập với
nhau nhằm thể hiện được tính khách quan của quan hệ thị trường, quan hệ cung cầu.
1.2. Chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI
1.2.1. Khái niệm
Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch
vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới
không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia
trên toàn cầu.
Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện
nhằm thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết.
Hành vi ấy có đối tượng tác động chính là giá cả. Sở dĩ giá cả có thể xác định lại
trong những giao dịch như thế xuất phát từ ba lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể
hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó họ hoàn toàn có
quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn.
Thứ hai, xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên kết
nên sự khác biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh có
cùng lợi ích không làm thay đổi lợi ích toàn cục.
Thứ ba, việc quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên trong
nhóm liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng
nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị
điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Tồn tại sự khác nhau về
chính sách thuế của các quốc gia là điều không tránh khỏi do chính sách kinh tế - xã
hội của họ không thể đồng nhất, cũng như sự hiện hữu của các quy định ưu đãi thuế
là điều tất yếu. Chênh lệch mức độ điều tiết thuế vì thế hoàn toàn có thể xảy ra.
Vì vậy, chuyển giá chỉ có ý nghĩa đối với các giao dịch được thực hiện giữa
các chủ thể có mối quan hệ liên kết. Để làm điều này họ phải thiết lập một chính
sách về giá mà ở đó giá chuyển giao có thể được định ở mức cao hay thấp tùy vào
lợi ích đạt được từ những giao dịch như thế. Chúng ta cần phân biệt điều này với
5
trường hợp khai giá giao dịch thấp đối với cơ quan quản lý để trốn thuế nhưng đằng
sau đó họ vẫn thực hiện thanh toán đầy đủ theo giá thỏa thuận. Trong khi đó nếu
giao dịch bị chuyển giá, họ sẽ không phải thực hiện vế sau của việc thanh toán trên
và thậm chí họ có thể định giá giao dịch cao. Các đối tượng này nắm bắt và vận
dụng được những quy định khác biệt về thuế giữa các quốc gia, các ưu đãi trong
quy định thuế để hưởng lợi có vẻ như hoàn toàn hợp pháp. Như thế, vô hình chung,
chuyển giá đã gây ra sự bất bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế do xác
định không chính xác nghĩa vụ thuế, dẫn đến bất bình đẳng về lợi ích, tạo ra sự cách
biệt trong ưu thế cạnh tranh.
Tuy vậy, thật không đơn giản để xác định một chủ thể đã thực hiện chuyển
giá. Vấn đề ở chỗ, nếu định giá cao hoặc thấp mà làm tăng số thu thuế một cách cục
bộ cho một nhà nước thì cơ quan có thẩm quyền nên định lại giá chuyển giao.
Chẳng hạn, giá mua đầu vào nếu được xác định thấp, điều đó có thể hình thành chi
phí thấp và hệ quả là thu nhập trước thuế sẽ cao, kéo theo thuế TNDN tăng; hoặc
giả như giá xuất khẩu định cao cũng làm doanh thu tăng và kết quả là cũng làm tăng
số thuế mà nhà nước thu được. Nhưng cần hiểu rằng điều đó cũng có nghĩa rằng
nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp liên kết ở đầu kia có khả năng đã giảm xuống do
chuyển một phần nghĩa vụ của mình qua giá sang doanh nghiệp liên kết này.
Hành vi này chỉ có thể được thực hiện thông qua giao dịch của các chủ thể có
quan hệ liên kết. Biểu hiện cụ thể của hành vi là giao kết về giá. Nhưng giao kết về
giá chưa đủ để kết luận rằng chủ thể đã thực hiện hành vi chuyển giá. Bởi lẽ nếu
giao kết đó chưa thực hiện trên thực tế hoặc chưa có sự chuyển dịch quyền đối với
đối tượng giao dịch thì không có cơ sở để xác định sự chuyển dịch về mặt lợi ích.
Như vậy, ta có thể xem chuyển giá hoàn thành khi có sự chuyển giao đối tượng giao
dịch cho dù đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán hay chưa.
1.2.2. Các dấu hiệu nhận biết hiện tượng chuyển giá
Khi thực hiện các phương pháp chống chuyển giá, điều mà cơ quan thuế
quan tâm trước hết là làm sao nhận biết được tại một doanh nghiệp có quan hệ liên
kết nào đó có tồn tại hiện tượng chuyển giá hay không? Đây là một vấn đề vô cùng
6
khó khăn, phức tạp trong thực tế và thậm chí đôi khi nó chịu tác động chủ quan bởi
cán bộ quản lý thuế. Do đó, đứng trên quan điểm khách quan, một số dấu hiệu cho
thấy có thể tồn tại hiện tượng chuyển giá trong một doanh nghiệp có quan hệ liên
kết là:
Các doanh nghiệp bị lỗ trong 2 năm liên tiếp trở lên, sau giai đoạn mới thành
lập;
Có các nghiệp vụ chuyển giao từ các doanh nghiệp liên kết ở những quốc gia
có thuế suất thấp;
Các doanh nghiệp có tình hình lãi và lỗ luân phiên hoặc tình hình lãi lỗ phát
sinh không bình thường;
Các doanh nghiệp mà tỷ suất lợi nhuận của chúng nhỏ hơn nhiều (chênh lệch
khá lớn) so với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành;
Các doanh nghiệp mà tỷ suất lợi nhuận của chúng thấp hơn tỷ suất lợi nhuận
của các doanh nghiệp khác trong cùng một tập đoàn.
Các doanh nghiệp mà có chi phí sản xuất thực tế khá thấp.
Ở đây cũng xin lưu ý những dấu hiệu nêu trên chỉ mang tính chất tham khảo chứ
không phải là chắc chắn sẽ có chuyển giá trong những doanh nghiệp có những dấu
hiệu đó. Tuy nhiên, khi một trong những dấu hiệu trên xuất hiện tại một doanh
nghiệp kèm theo những trường hợp như: thiết bị sản xuất của doanh nghiệp đó được
mua từ công ty mẹ ở nước ngoài; nguyên liệu hoặc các bộ phận của sản phẩm được
cung cấp bởi các công ty mẹ hoặc các công ty liên kết trong cùng 1 tập đoàn hay
sản phẩm của doanh nghiệp được bán cho công ty mẹ hoặc những doanh nghiệp liên
kết khác, thì khả năng xảy ra hiện tượng chuyển giá là rất cao.
1.2.3. Phạm vi chuyển giá
Chuyển giá với ý nghĩa chuyển giao giá trị trong quan hệ nội bộ nên hành vi
phải được xem xét trong phạm vi giao dịch của các chủ thể liên kết. Điều 9 Công
ước mẫu của OECD năm 2009 về định giá chuyển giao ghi nhận “Hai doanh nghiệp
được xem là liên kết (associated enterprises) khi:
7
Một doanh nghiệp tham gia vào quản lý, điều hành hay góp vốn vào doanh
nghiệp kia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc qua trung gian;
Hai doanh nghiệp có cùng một hoặc nhiều người hay những thực thể
(entities) khác tham gia quản lý, điều hành hay góp vốn một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp hoặc thông qua trung gian”.
Yếu tố quản lý, điều hành hay góp vốn chính là điều kiện quyết định sự ảnh
hưởng, sự giao hòa về mặt lợi ích của các chủ thể này nên cũng là cơ sở để xác định
mối quan hệ liên kết. Tính chất của những biểu hiện này không mang tính quyết
định. Như thế các doanh nghiệp liên kết có thể được hình thành trong cùng một
quốc gia hoặc có thể ở nhiều quốc gia khác nhau. Từ đó, chuyển giá không chỉ diễn
ra trong các giao dịch quốc tế mà có thể cả trong những giao dịch quốc nội.
Trên thực tế, chuyển giá thường được quan tâm đánh giá đối với các giao
dịch quốc tế hơn do sự khác biệt về chính sách thuế giữa các quốc gia được thể hiện
rõ hơn. Trong khi đó, do phải tuân thủ nguyên tắc đối xử quốc gia nên các nghĩa vụ
thuế hình thành từ các giao dịch trong nước ít có sự cách biệt. Vì thế, phần lớn các
quốc gia hiện nay thường chỉ quy định về chuyển giá đối với giao dịch quốc tế.
Theo đó, giao dịch quốc tế được xác định là giao dịch giữa hai hay nhiều doanh
nghiệp liên kết mà trong số đó có đối tượng tham gia là chủ thể không cư trú (non-
residents). Sự khác biệt chính yếu nằm ở sự cách biệt về mức thuế suất thuế TNDN
của các quốc gia. Một giá trị lợi nhuận chuyển qua giá từ doanh nghiệp liên kết cư
trú tại quốc gia có thuế suất cao sang doanh nghiệp liên kết ở quốc gia có thuế suất
thấp. Ngược lại một lượng chi phí tăng lên qua giá mua sẽ làm giảm thu nhập cục
bộ ở quốc gia có thuế suất thuế thu nhập cao. Trong hai trường hợp đều cho ra
những kết quả tương tự là làm tổng thu nhập sau thuế của toàn bộ nhóm liên kết
tăng lên.
Khía cạnh khác, các giao dịch trong nước có thể hưởng lợi từ chế độ ưu đãi,
miễn giảm thuế. Thu nhập sẽ lại dịch chuyển từ doanh nghiệp liên kết không được
hưởng ưu đãi hoặc ưu đãi với tỉ lệ thấp hơn sang doanh nghiệp liên kết có lợi thế
hơn về điều này.
8
1.2.4. Các phương thức chuyển giá phổ biến
Qua nghiên cứu thực tế thì nhận thấy các MNC thường áp dụng các phương
thức chuyển giá sau:
Chuyển giá thông qua việc mua bán nguyên vật liệu sản xuất, bán thành
phẩm hay thành phẩm. Các thành viên của MNC có trụ sở tại các quốc gia có thuế
suất thuế TNDN cao sẽ mua vào các nguyên vật liệu, bán thành phẩm hay thành
phẩm với giá cao và bán ra cho các công ty thành viên với giá thấp nhằm tối thiểu
hóa thuế TNDN. Giá mua vào và giá bán ra cho các thành viên trong MNC bị áp đặt
nhằm tối thiểu hóa thu nhập phải nộp thuế.Ngoài ra, thông qua việc xuất khẩu và
nhập khẩu hàng hóa các MNC cũng thu lợi từ các biểu thuế xuất khẩu hay nhập
khẩu nhằm tối đa hóa lợi nhuận sau thuế của MNC.
Chuyển giá thông qua các TSCĐ hữu hình như định giá thật cao các TSCĐ
chuyển giao cho các công ty thành viên tại các quốc gia có thuế suất cao. Giá
chuyển giao được xác định cao hơn nhiều lần so với giá trị thật của tài sản đó.
Thông qua hoạt động chuyển giao tài sản này thì các MNC đã chuyển một phần thu
nhập ra nước ngoài. Vì vậy mà thu nhập chịu thuế sẽ bị giảm. Khi thực hiện hành
động này thì các MNC một mặt tiết kiệm được chi phí thanh lý các TSCĐ lỗi thời,
một mặt lại chuyển được thu nhập về quốc gia có thuế suất thấp từ đó có thể tối đa
hóa lợi nhuận của MNC.
Chuyển giá thông qua việc mua các TSCĐ vô hình với giá thật cao hay chi
trả các chi phí bản quyền, các chi phí để xây dựng thương hiệu sản phẩm, các chi
phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm. Các MNC sẽ xây dựng các phòng nghiên
cứu và phát triển sản phẩm tại các quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
cao, tất cả các chi phí nghiên cứu phát triển sản phẩm sẽ do thành viên MNC tại
quốc gia có thuế suất cao này gánh chịu. Nhưng kết quả của việc nghiên cứu và phát
triển sản phẩm thì các thành viên khác vẫn được áp dụng như nhau. Hoặc một
chương trình quảng cáo nhằm xây dựng thương hiệu cho sản phẩm trên phạm vi
khu vực, nhưng chi phí lại được phân bổ hết về cho thành viên có trụ sở tại quốc gia
có thuế suất cao. Các hoạt động trên đều nhằm tối thiểu hóa số thuế phải nộp và
9
việc phân bổ chi phí trên hoàn toàn là hành động chủ quan của các nhà quản lý của
MNC vì vậy đây cũng là hình thức chuyển giá.
Các thành viên trong MNC có sự cung ứng các dịch vụ tài chính, tư vấn pháp
lý với giá cả cao hơn nhiều lần so với giá cả thị trường. Cung cấp các khoản tín
dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với lãi suất cao hơn mức thị trường.
Có sự tài trợ liên quan đến các nguồn lực cơ bản như nhân sự, vật chất. Các
chi phí cho các chuyên gia tham gia tư vấn như các chi phí về tiền lương, chi phí
nhà ở, đi lại, các chi phí khác phục vụ cho các chuyên gia yên tâm làm việc.
1.2.5. Động cơ khiến các MNC thực hiện chuyển giá
1.2.5.1. Động cơ bên ngoài
Một là, khi phát hiện ra thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giữa hai quốc
gia có sự khác biệt lớn, với mục tiêu luôn muốn tối đa hóa lợi nhuận của mình các
MNC sẽ tiến hành thực hiện hành vi chuyển giá nhằm mục đích giảm thiểu tối đa
khoản thuế mà MNC này phải nộp cũng như là tối đa hóa lợi nhuận sau thuế của
MNC. Khi có chênh lệch về thuế suất thì thủ thuật chuyển giá mà các MNC thường
sử dụng đó là nâng giá mua đầu vào các nguyên, vật liệu, hàng hóa và định giá bán
ra hay giá xuất khẩu thấp tại các công ty con đóng trên các quốc gia có thuế suất
thuế thu nhập doanh nghiệp cao. Như vậy, bằng cách thực hiện này thì MNC đã
chuyển một phần lợi nhuận từ quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cao
sang quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp và như vậy mục tiêu tối
đa hóa lợi nhuận đã được thực hiện thành công. Như vậy động cơ ở đây là có sự
khác biệt về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
Hai là, MNC mong muốn bảo toàn vốn đầu tư theo nguyên tệ, kỳ vọng về sự
biến đổi trong tỷ giá và trong chi phí cơ hội đầu tư. Với mục đích là bảo toàn và
phát triển nguồn vốn đầu tư ban đầu, các MNC sẽ tiến hành đầu tư vào một quốc gia
nếu họ dự đoán rằng trong tương lai đồng tiền của quốc gia này sẽ mạnh lên nghĩa
là số vốn đầu tư ban đầu của họ được bảo toàn và phát triển, ngược lại họ sẽ rút đầu
tư ra khỏi một quốc gia nếu họ dự đoán rằng trong tương lai đồng tiền của quốc gia
này sẽ bị yếu đi nghĩa là vốn đầu tư ban đầu của họ bị giảm đi. Ví dụ sau: giả sử có
10
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
NGUYỄN THỊ QUỲNH GIANG
CHUYỂN GIÁ TRONG CÁC CÔNG TY ĐA
QUỐC GIA Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kinh tế tài chính – Ngân hàng
Mã số : 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS. SỬ ĐÌNH THÀNH
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế : “Chuyển giá trong các công ty đa
quốc gia ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các phân tích, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Thị Quỳnh Giang
MỤC LỤC
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHUYỂN GIÁ TRONG CÁC CÔNG TY ĐA
QUỐC GIA 1
1.1. Tổng quan về công ty đa quốc gia 1
1.1.1. Khái niệm 1
1.1.2. Cơ cấu tổ chức của công ty đa quốc gia 2
1.1.3. Các nghiệp vụ mua bán nội bộ của công ty đa quốc gia 2
1.2. Chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI 5
1.2.1. Khái niệm 5
1.2.2. Các dấu hiệu nhận biết hiện tượng chuyển giá 6
1.2.3. Phạm vi chuyển giá 7
1.2.4. Các phương thức chuyển giá phổ biến 9
1.2.5. Động cơ khiến các MNC thực hiện chuyển giá 10
1.2.6. Tác động của chuyển giá 13
1.3. Các phương pháp chống chuyển giá 17
1.3.1. Phương pháp định giá chuyển giao trên cơ sở giá tự do có thể so sánh
được 18
1.3.2. Phương pháp giá bán lại 20
1.3.3. Phương pháp giá vốn cộng lãi 22
1.3.4. Phương pháp chiết tách lợi nhuận 24
1.3.5. Phương pháp lợi nhuận ròng của nghiệp vụ chuyển giao 26
1.4. Hoạt động chống chuyển giá của một số nước trên thế giới – Rút kinh
nghiệm cho Việt Nam 26
i
1.4.1. Kinh nghiệm của Mỹ 27
1.4.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc 28
1.4.3. Kinh nghiệm của ASEAN 31
1.4.4. Rút bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 33
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ VÀ CHỐNG
CHUYỂN GIÁ Ở VIỆT NAM 36
2.1. Thực trạng hoạt động của các công ty đa quốc gia tại Việt Nam 36
2.1.1. Tình hình thu hút vốn FDI của Việt Nam 36
2.1.2. Một số tồn tại và nguyên nhân trong thực tế thu hút FDI của các công ty
đa quốc gia của Việt Nam 43
2.2. Thực trạng hoạt động chuyển giá trong các MNC ở Việt Nam 44
2.2.1. Môi trường pháp lý 44
2.2.2. Một số hình thức chuyển giá tiêu biểu ở Việt Nam 44
2.3. Đánh giá hoạt động chống chuyển giá ở Việt Nam 55
2.3.1. Những thay đổi về cơ chế, chính sách 55
2.3.2. Những khó khăn trong hoạt động chống chuyển giá 57
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 61
CHƯƠNG 3 :GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ TẠI
CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA Ở VIỆT NAM 62
3.1. Tăng cường kiểm soát hoạt động chuyển giá tại các MNC ở Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập 62
3.2. Điều kiện để thực hiện biện pháp chống chuyển giá có hiệu quả 63
3.3. Đề xuất một số biện pháp chống chuyển giá ở Việt Nam 64
3.3.1. Đối với cơ quan thuế 64
3.3.2. Đối với Chính phủ Việt Nam 67
ii
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 72
KẾT LUẬN 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2
iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
ALP: Nguyên tắc căn bản giá thị trường
APA: Thỏa thuận định giá trước
BOT: Xây dựng vận hành và chuyển giao
BT: Xây dựng và chuyển giao
BTO: Xây dựng, chuyển giao và vận hành
CUP: Phương pháp giá tự do có thể so sanh được
CPM: Phương pháp giá vốn cộng thêm
EU: Thị trường chung Châu Âu
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
IRS: Cơ quan thuế nội địa của Mỹ
MNC: Công ty đa quốc gia
OECD: Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển
SAT Cơ quan thuế Trung Quốc
TSCĐ Tài sản cố định
Thuế TNDN (CIT) Thuế thu nhập doanh nghiệp
TNMM Phương pháp lợi nhuận ròng của nghiệp vụ chuyển giao
VAT (GTGT) Thuế giá trị gia tăng
WTO Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Nguồn vốn kiều hối của một số nước Châu Á năm 2006..................... 38
Bảng 2.2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988-2008 (tính tới ngày
22/10/2008)……………………………………………………………………….40
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI trong tổng xuất khẩu của cả
nước (1996-2007)..................................................................................................37
LỜI MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của quá trình toàn cầu hoá,
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đã tăng lên rất mạnh, đóng góp vai trò
rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực
ngành công nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, khu vực kinh tế này
không kém phần phức tạp. Số lượng các giao dịch thương mại xuyên biên giới diễn ra
giữa các công ty liên kết ngày một tăng. Với môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt,
khốc liệt, vấn đề tối đa hoá lợi nhuận cho tổng thể tập đoàn luôn là mục tiêu quan tâm
hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài việc nỗ lực nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp đầu tư, chuyển giá (transfer pricing) được xem là một trong
những phương pháp mà các nhà đầu tư thường áp dụng nhằm mục đích tránh thuế, từ
đó tổng lợi ích cuối cùng sẽ được gia tăng.
Tuy chuyển giá là một trong những vấn đề còn khá mới mẻ trong hoạt động
thương mại Việt Nam, nhưng gần đây các giao dịch có yếu tố nước ngoài ngày càng
xuất hiện nhiều dấu hiệu của hiện tượng chuyển giá. Hiện tượng chuyển giá không chỉ
gây thiệt hại cho chính phủ nước chủ nhà do bị thất thu thuế, giảm phần lợi nhuận của
bên góp vốn của nước chủ nhà do giá trị góp vốn của họ thấp mà còn ảnh hưởng tiêu
cực đến thương mại quốc tế. Do các quy luật của thị trường tự do, đặc biệt là quy luật
cung cầu không hoạt động trong các tập đoàn đa quốc gia, nên gây ra nhiễu loạn quá
trình lưu thông quốc tế. Điều này dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.
Đề tài nghiên cứu sẽ tập trung tìm hiểu vấn đề “Chuyển giá trong các công ty đa quốc
gia tại Việt Nam”
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục đích của đề tài này là tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích hiện tượng chuyển
giá ngày càng phổ biến trong các doanh nghiệp FDI đang có mặt tại Việt Nam trong
thời gian từ khi Việt Nam bắt đầu mở cửa kinh tế đến khi Việt Nam đã chính thức là
thành viên của tổ chức thương mại thế giới. Thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu này
sẽ đề ra một số biện pháp chống chuyển giá nhằm đảm bảo ổn định phát triển kinh tế
tại Việt Nam và phù hợp với kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ở Việt
Nam và hiện tượng chuyển giá của các doanh nghiệp này tại Việt Nam trong khoảng
thời gian từ khi mở cửa kinh tế đến nay. Chuyển giá là một vấn đề rất nhạy cảm trong
việc kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như là đối với cơ quan quản lý nhà nước,
vì vậy trong đề tài sẽ tập trung vào các sự kiện đã được công bố trên phương tiện
truyền thông đại chúng và trong giới hạn tìm hiểu các ví dụ thực tế cho phép.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng các phương pháp lý thuyết suy luận logic, phân tích - tổng hợp,
so sánh - đối chiếu.
Để có thể nhìn nhận tương đối chính xác về các vấn đề liên quan đến hiện tượng
chuyển giá, ngoài một số thông tư, văn bản quy định của nhà nước và quốc tế, người
viết nghiên cứu thêm một số bài báo ở Việt Nam và quốc tế. Phương pháp nghiên cứu
của đề tài là đi từ thực tiễn tình hình các giao dịch liên kết, thực trạng chuyển giá và
công tác chống chuyển giá tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới, từ đó đề ra
các giải pháp cho vấn đề chống chuyển giá tại Việt Nam. Sơ đồ dưới đây thể hiện rõ
phương pháp nghiên cứu của đề tài:
Lý thuyết FDI, chuyển
giá, chống chuyển giá
Đánh giá thực trạng
Kinh nghiệm (đối chiếu, so sánh dựa vào
các giá trị chuẩn tắc của các
phương pháp chuyển giá)
Phát hiện vấn đề nghiên
cứu
Kết luận và các
khuyến nghị
5. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình bày trong phạm vi 3 chương
như sau:
Chương 1: Tổng quan về chuyển giá trong các công ty đa quốc gia.
Chương 2: Thực trạng hoạt động chuyển giá và chống chuyển giá ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp kiểm soát hoạt động chuyển giá tại các công ty đa quốc gia ở
Việt Nam
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CHUYỂN GIÁ TRONG CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA
1.1.Tổng quan về công ty đa quốc gia
1.1.1.Khái niệm
Ban đầu, các công ty đa quốc gia cũng được thành lập tại một quốc gia tức là
công ty quốc gia. Công ty quốc gia này mang quốc tịch của một nước và vốn đầu tư
vào công ty này thuộc quyền sở hữu của các nhà tư bản nước sở tại. Công ty quốc
gia này kinh doanh ngày càng phát triển và hàng hóa, dịch vụ do công ty này sản
xuất ra ngày càng nhiều và chất lượng. Vì vậy mà nhu cầu mở rộng thị trường tiêu
thụ các sản phẩm của công ty là tất yếu. Lúc bấy giờ, thị trường các nước lân cận
hay các nước có nhu cầu sản phẩm của công ty trở nên thật hấp dẫn. Các công ty
này sẽ bắt đầu tiến hành mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm sang các thị trường
này bằng cách xuất khẩu các sản phẩm. Thị trường ngày càng được mở rộng vì vậy
mà các công ty bắt đầu nghĩ đến việc mở rộng sản xuất kinh doanh sang các nước
lân cận, các nước mà có nhu cầu sản phẩm của công ty nhiều. Do quá trình phát
triển thị trường tiêu thụ, các công ty này tìm được các nguồn nguyên liệu và nhân
công có chi phí thấp hơn tại quốc gia mà công ty trú ngụ. Vì vậy mà công ty sẽ tiến
hành xây dựng các chi nhánh hay các công ty con tại các quốc gia mà có những lợi
thế so sánh về chi phí nguyên vật liệu, nhân công đầu vào nhằm tìm kiếm mức lợi
nhuận ngày càng cao. Như vậy do nhu cầu phát triển và mở rộng thị trường của
mình mà các công ty này đã thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn
rộng lớn và vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia nên được gọi là công ty đa quốc
gia. Vì vậy chúng ta có thể xây dựng khái niệm công ty đa quốc gia như sau:
Công ty đa quốc gia – Multinational Corporations (MNC) hoặc Multinational
Enterprises (MNE) là công ty có hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc cung cấp dịch
vụ không chỉ nằm gói gọn trong lãnh thổ của một quốc gia mà hoạt động sản xuất
kinh doanh và cung cấp dịch vụ trải dài ít nhất ở hai quốc gia và có công ty có mặt
lên đến hơn trăm quốc gia khác nhau.
1
Công ty đa quốc gia bao gồm công ty mẹ ở một nước, và thực hiện các đầu
tư FDI ra nước ngoài để hình thành các công ty con. Các công ty mẹ con này ảnh
hưởng lẫn nhau và cùng chia sẻ kiến thức, nguồn lực và trách nhiệm lẫn nhau.
1.1.2. Cơ cấu tổ chức của công ty đa quốc gia
Các công ty quốc gia thành lập các chi nhánh và các công ty con tại các quốc
gia khác sẽ trở thành công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia này với hoạt
động sản xuất và kinh doanh ngày càng phát triển chúng sản xuất ra ngày càng
nhiều hàng hóa và của cải, khai thác các thị trường hiện tại một cách hiệu quả và
tìm kiếm các thị trường mới. Mục tiêu của các MNC này còn bao hàm cả việc tìm
kiếm các nguồn nguyên liệu, nhân công với giá cả so sánh, tìm kiếm những ưu đãi
về thuế, ưu đãi về kinh tế nhằm phục vụ cho mục tiêu to lớn nhất của các công ty là
tối đa hóa lợi nhuận và tối đa hóa giá trị tài sản công ty.
Các MNC có thể xếp vào 3 nhóm lớn theo cấu trúc phương tiện sản xuất như
sau:
Công ty đa quốc gia “theo chiều ngang” là các công ty đa quốc gia mà có
hoạt động sản xuất kinh doanh các sản phẩm cùng loại hoặc tương tự tại các quốc
gia mà công ty này có mặt. Một công ty điển hình với cấu trúc này là công ty Mc
Donalds.
Công ty đa quốc gia “theo chiều dọc” là công ty có các cơ sở sản xuất hay
các chi nhánh, công ty con tại một số quốc gia sản xuất ra các sản phẩm mà các sản
phẩm này lại là đầu vào để sản xuất ra sản phẩm của các công ty con hay các chi
nhánh tại các quốc gia khác. Một ví dụ điển hình cho loại hình cấu trúc công ty
“theo chiều dọc” là công ty Adidas.
Công ty đa quốc gia “nhiều chiều” là công ty có nhiều chi nhánh hay công ty
con tại nhiều quốc gia khác nhau mà các công ty này phát triển và hợp tác với nhau
cả chiều ngang lẫn chiều dọc. Một ví dụ điển hình cho loại hình công ty đa quốc gia
có cấu trúc như trên là Microsoft.
1.1.3. Các nghiệp vụ mua bán nội bộ của công ty đa quốc gia
2
Các MNC do hoạt động trên phạm vi của nhiều quốc gia khác nhau và ở mỗi
quốc gia thường có chi nhánh hay công ty con vì vậy mà hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty phải phù hợp với phong tục, tập quán và luật pháp kinh doanh tại
quốc gia đó. Các đặc điểm kinh doanh trên đã dẫn đến các giao dịch nội bộ của các
MNC diễn ra rất đa dạng và phức tạp vì vậy mà các cơ quan thuế riêng lẻ của từng
quốc gia sẽ rất khó khăn trong việc quản lý và kiểm soát. Các hoạt động mua bán
qua lại giữa công ty mẹ và công ty con hoặc giữa các công ty con với nhau diễn ra
với số lượng ngày càng nhiều và giá trị ngày càng lớn. Các hoạt động mua bán nội
bộ này tuy diễn ra với nhiều hình thức và biểu hiện khác nhau nhưng chúng ta có
thể nhận dạng chúng thông qua các giao dịch như: giao dịch chuyển giao nội bộ tài
sản cố định hữu hình hay tài sản cố định vô hình; chuyển giao nguyên vật liệu,
thành phẩm, thông qua sư dịch chuyển nguồn vốn như cho vay và đi vay nội bộ;
qua sự cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, tư vấn quản lý; qua các chi phí cho
việc quảng cáo và chi phí nghiên cứu phát triển … Với tính chất đặc biệt quan trọng
và tính bảo mật cao của các nghiệp vụ này, các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ sẽ
được bảo mật và chỉ có các nhà quản trị cấp cao trong MNC mới tiếp cận được. Các
nghiệp vụ chuyển giao nội bộ này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược phát triển
của các MNC.
Do tính bảo mật, tầm ảnh hưởng quan trọng của các nghiệp vụ chuyển giao
nội bộ vì các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ thường được thực hiện theo ý muốn, chủ
trương trong chiến lược phát triển công ty của các nhà quản lý cao cấp. Trong thực
tế đã có các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ được thực hiện theo chỉ thị của các nhà
quản trị cao cấp với các giá trị rất lớn nhưng giá trị này đã không được ghi nhận
hoặc chỉ thể hiện một số rất nhỏ. Các chứng từ, chứng cứ kèm theo không thể hiện
chính xác các giá trị và bản chất của nghiệp vụ vì vậy đã gây khó khăn cho các cơ
quan thuế trong việc đưa ra bằng chứng chứng minh các MNC đã thực hiện hành vi
chuyển giá.
3
Dựa vào tính chất và các đặc điểm của các nghiệp vụ mua bán nội bộ phổ
biến trên thị trường, chúng ta có thể phân chia các nghiệp vụ mua bán nội bộ ra
thành các nhóm như sau:
Các nghiệp vụ mua bán nội bộ liên quan nguyên vật liệu có tính đặc thù cao, hay
các nguyên vật liệu mà một công ty con đặt tại một quốc gia có các lợi thế riêng
làm cho giá của nguyên vật liệu ấy thấp.
Các nghiệp vụ mua bán nội bộ liên quan đến các thành phẩm, các công ty con tại
các quốc gia khác nhau có thể mua thành phẩm được sản xuất tại một quốc gia
(Sourcing Country) và sau đó bán lại mà không cần phải đầu tư máy móc hay
nhân công cho sản xuất.
Các giao dịch liên quan việc dịch chuyển một lượng lớn máy móc, thiết bị cho
sản xuất mà đặc biệt hơn là điểm đến của các giao dịch này là các quốc gia đang
phát triển.
Các giao dịch liên quan đến các tài sản vô hình như nhượng quyền, bản quyền,
thương hiệu, nhãn hàng, các chi phí liên quan đến nghiên cứu và phát triển sản
phẩm.
Có sự cung cấp các dịch vụ quản lý, dịch vụ tài chính hay chi phí cho các
chuyên gia vào làm việc tại nước nhận chuyển giao.
Có sự tài trợ và nhận tài trợ về các nguồn lực như tài lực và nhân lực
Có các khoản đi vay và cho vay nội bộ các công ty con của MNC hay giữa công
ty mẹ và các công ty con.
Các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ này diễn ra thường xuyên với giá trị lớn, vì
vậy mà để hạn chế các tác động tiêu cực của các nghiệp vụ này thì cần phải có một
nguyên tắc áp dụng chung và thông nhất trên các quốc gia. Nguyên tắc này được lập
ra nhằm đảm bảo tính công bằng trong thương mại, là cơ sở cho các nghiệp vụ mua
bán, trao đổi hàng hóa và cung cấp dịch vụ giữa các quốc gia. Một nguyên tắc được
áp dụng là nguyên tắc dựa trên căn bản giá thị trường ALP (The Arm’s –Length
Principle). Nguyên tắc này đòi hỏi các nghiệp vụ mua bán nội bộ trong các MNC
4
phải được thực hiện như các nghiệp vụ mua bán diễn ra giữa các bên độc lập với
nhau nhằm thể hiện được tính khách quan của quan hệ thị trường, quan hệ cung cầu.
1.2. Chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI
1.2.1. Khái niệm
Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch
vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới
không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia
trên toàn cầu.
Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện
nhằm thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết.
Hành vi ấy có đối tượng tác động chính là giá cả. Sở dĩ giá cả có thể xác định lại
trong những giao dịch như thế xuất phát từ ba lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể
hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó họ hoàn toàn có
quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn.
Thứ hai, xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên kết
nên sự khác biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh có
cùng lợi ích không làm thay đổi lợi ích toàn cục.
Thứ ba, việc quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên trong
nhóm liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng
nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị
điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Tồn tại sự khác nhau về
chính sách thuế của các quốc gia là điều không tránh khỏi do chính sách kinh tế - xã
hội của họ không thể đồng nhất, cũng như sự hiện hữu của các quy định ưu đãi thuế
là điều tất yếu. Chênh lệch mức độ điều tiết thuế vì thế hoàn toàn có thể xảy ra.
Vì vậy, chuyển giá chỉ có ý nghĩa đối với các giao dịch được thực hiện giữa
các chủ thể có mối quan hệ liên kết. Để làm điều này họ phải thiết lập một chính
sách về giá mà ở đó giá chuyển giao có thể được định ở mức cao hay thấp tùy vào
lợi ích đạt được từ những giao dịch như thế. Chúng ta cần phân biệt điều này với
5
trường hợp khai giá giao dịch thấp đối với cơ quan quản lý để trốn thuế nhưng đằng
sau đó họ vẫn thực hiện thanh toán đầy đủ theo giá thỏa thuận. Trong khi đó nếu
giao dịch bị chuyển giá, họ sẽ không phải thực hiện vế sau của việc thanh toán trên
và thậm chí họ có thể định giá giao dịch cao. Các đối tượng này nắm bắt và vận
dụng được những quy định khác biệt về thuế giữa các quốc gia, các ưu đãi trong
quy định thuế để hưởng lợi có vẻ như hoàn toàn hợp pháp. Như thế, vô hình chung,
chuyển giá đã gây ra sự bất bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế do xác
định không chính xác nghĩa vụ thuế, dẫn đến bất bình đẳng về lợi ích, tạo ra sự cách
biệt trong ưu thế cạnh tranh.
Tuy vậy, thật không đơn giản để xác định một chủ thể đã thực hiện chuyển
giá. Vấn đề ở chỗ, nếu định giá cao hoặc thấp mà làm tăng số thu thuế một cách cục
bộ cho một nhà nước thì cơ quan có thẩm quyền nên định lại giá chuyển giao.
Chẳng hạn, giá mua đầu vào nếu được xác định thấp, điều đó có thể hình thành chi
phí thấp và hệ quả là thu nhập trước thuế sẽ cao, kéo theo thuế TNDN tăng; hoặc
giả như giá xuất khẩu định cao cũng làm doanh thu tăng và kết quả là cũng làm tăng
số thuế mà nhà nước thu được. Nhưng cần hiểu rằng điều đó cũng có nghĩa rằng
nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp liên kết ở đầu kia có khả năng đã giảm xuống do
chuyển một phần nghĩa vụ của mình qua giá sang doanh nghiệp liên kết này.
Hành vi này chỉ có thể được thực hiện thông qua giao dịch của các chủ thể có
quan hệ liên kết. Biểu hiện cụ thể của hành vi là giao kết về giá. Nhưng giao kết về
giá chưa đủ để kết luận rằng chủ thể đã thực hiện hành vi chuyển giá. Bởi lẽ nếu
giao kết đó chưa thực hiện trên thực tế hoặc chưa có sự chuyển dịch quyền đối với
đối tượng giao dịch thì không có cơ sở để xác định sự chuyển dịch về mặt lợi ích.
Như vậy, ta có thể xem chuyển giá hoàn thành khi có sự chuyển giao đối tượng giao
dịch cho dù đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán hay chưa.
1.2.2. Các dấu hiệu nhận biết hiện tượng chuyển giá
Khi thực hiện các phương pháp chống chuyển giá, điều mà cơ quan thuế
quan tâm trước hết là làm sao nhận biết được tại một doanh nghiệp có quan hệ liên
kết nào đó có tồn tại hiện tượng chuyển giá hay không? Đây là một vấn đề vô cùng
6
khó khăn, phức tạp trong thực tế và thậm chí đôi khi nó chịu tác động chủ quan bởi
cán bộ quản lý thuế. Do đó, đứng trên quan điểm khách quan, một số dấu hiệu cho
thấy có thể tồn tại hiện tượng chuyển giá trong một doanh nghiệp có quan hệ liên
kết là:
Các doanh nghiệp bị lỗ trong 2 năm liên tiếp trở lên, sau giai đoạn mới thành
lập;
Có các nghiệp vụ chuyển giao từ các doanh nghiệp liên kết ở những quốc gia
có thuế suất thấp;
Các doanh nghiệp có tình hình lãi và lỗ luân phiên hoặc tình hình lãi lỗ phát
sinh không bình thường;
Các doanh nghiệp mà tỷ suất lợi nhuận của chúng nhỏ hơn nhiều (chênh lệch
khá lớn) so với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành;
Các doanh nghiệp mà tỷ suất lợi nhuận của chúng thấp hơn tỷ suất lợi nhuận
của các doanh nghiệp khác trong cùng một tập đoàn.
Các doanh nghiệp mà có chi phí sản xuất thực tế khá thấp.
Ở đây cũng xin lưu ý những dấu hiệu nêu trên chỉ mang tính chất tham khảo chứ
không phải là chắc chắn sẽ có chuyển giá trong những doanh nghiệp có những dấu
hiệu đó. Tuy nhiên, khi một trong những dấu hiệu trên xuất hiện tại một doanh
nghiệp kèm theo những trường hợp như: thiết bị sản xuất của doanh nghiệp đó được
mua từ công ty mẹ ở nước ngoài; nguyên liệu hoặc các bộ phận của sản phẩm được
cung cấp bởi các công ty mẹ hoặc các công ty liên kết trong cùng 1 tập đoàn hay
sản phẩm của doanh nghiệp được bán cho công ty mẹ hoặc những doanh nghiệp liên
kết khác, thì khả năng xảy ra hiện tượng chuyển giá là rất cao.
1.2.3. Phạm vi chuyển giá
Chuyển giá với ý nghĩa chuyển giao giá trị trong quan hệ nội bộ nên hành vi
phải được xem xét trong phạm vi giao dịch của các chủ thể liên kết. Điều 9 Công
ước mẫu của OECD năm 2009 về định giá chuyển giao ghi nhận “Hai doanh nghiệp
được xem là liên kết (associated enterprises) khi:
7
Một doanh nghiệp tham gia vào quản lý, điều hành hay góp vốn vào doanh
nghiệp kia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc qua trung gian;
Hai doanh nghiệp có cùng một hoặc nhiều người hay những thực thể
(entities) khác tham gia quản lý, điều hành hay góp vốn một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp hoặc thông qua trung gian”.
Yếu tố quản lý, điều hành hay góp vốn chính là điều kiện quyết định sự ảnh
hưởng, sự giao hòa về mặt lợi ích của các chủ thể này nên cũng là cơ sở để xác định
mối quan hệ liên kết. Tính chất của những biểu hiện này không mang tính quyết
định. Như thế các doanh nghiệp liên kết có thể được hình thành trong cùng một
quốc gia hoặc có thể ở nhiều quốc gia khác nhau. Từ đó, chuyển giá không chỉ diễn
ra trong các giao dịch quốc tế mà có thể cả trong những giao dịch quốc nội.
Trên thực tế, chuyển giá thường được quan tâm đánh giá đối với các giao
dịch quốc tế hơn do sự khác biệt về chính sách thuế giữa các quốc gia được thể hiện
rõ hơn. Trong khi đó, do phải tuân thủ nguyên tắc đối xử quốc gia nên các nghĩa vụ
thuế hình thành từ các giao dịch trong nước ít có sự cách biệt. Vì thế, phần lớn các
quốc gia hiện nay thường chỉ quy định về chuyển giá đối với giao dịch quốc tế.
Theo đó, giao dịch quốc tế được xác định là giao dịch giữa hai hay nhiều doanh
nghiệp liên kết mà trong số đó có đối tượng tham gia là chủ thể không cư trú (non-
residents). Sự khác biệt chính yếu nằm ở sự cách biệt về mức thuế suất thuế TNDN
của các quốc gia. Một giá trị lợi nhuận chuyển qua giá từ doanh nghiệp liên kết cư
trú tại quốc gia có thuế suất cao sang doanh nghiệp liên kết ở quốc gia có thuế suất
thấp. Ngược lại một lượng chi phí tăng lên qua giá mua sẽ làm giảm thu nhập cục
bộ ở quốc gia có thuế suất thuế thu nhập cao. Trong hai trường hợp đều cho ra
những kết quả tương tự là làm tổng thu nhập sau thuế của toàn bộ nhóm liên kết
tăng lên.
Khía cạnh khác, các giao dịch trong nước có thể hưởng lợi từ chế độ ưu đãi,
miễn giảm thuế. Thu nhập sẽ lại dịch chuyển từ doanh nghiệp liên kết không được
hưởng ưu đãi hoặc ưu đãi với tỉ lệ thấp hơn sang doanh nghiệp liên kết có lợi thế
hơn về điều này.
8
1.2.4. Các phương thức chuyển giá phổ biến
Qua nghiên cứu thực tế thì nhận thấy các MNC thường áp dụng các phương
thức chuyển giá sau:
Chuyển giá thông qua việc mua bán nguyên vật liệu sản xuất, bán thành
phẩm hay thành phẩm. Các thành viên của MNC có trụ sở tại các quốc gia có thuế
suất thuế TNDN cao sẽ mua vào các nguyên vật liệu, bán thành phẩm hay thành
phẩm với giá cao và bán ra cho các công ty thành viên với giá thấp nhằm tối thiểu
hóa thuế TNDN. Giá mua vào và giá bán ra cho các thành viên trong MNC bị áp đặt
nhằm tối thiểu hóa thu nhập phải nộp thuế.Ngoài ra, thông qua việc xuất khẩu và
nhập khẩu hàng hóa các MNC cũng thu lợi từ các biểu thuế xuất khẩu hay nhập
khẩu nhằm tối đa hóa lợi nhuận sau thuế của MNC.
Chuyển giá thông qua các TSCĐ hữu hình như định giá thật cao các TSCĐ
chuyển giao cho các công ty thành viên tại các quốc gia có thuế suất cao. Giá
chuyển giao được xác định cao hơn nhiều lần so với giá trị thật của tài sản đó.
Thông qua hoạt động chuyển giao tài sản này thì các MNC đã chuyển một phần thu
nhập ra nước ngoài. Vì vậy mà thu nhập chịu thuế sẽ bị giảm. Khi thực hiện hành
động này thì các MNC một mặt tiết kiệm được chi phí thanh lý các TSCĐ lỗi thời,
một mặt lại chuyển được thu nhập về quốc gia có thuế suất thấp từ đó có thể tối đa
hóa lợi nhuận của MNC.
Chuyển giá thông qua việc mua các TSCĐ vô hình với giá thật cao hay chi
trả các chi phí bản quyền, các chi phí để xây dựng thương hiệu sản phẩm, các chi
phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm. Các MNC sẽ xây dựng các phòng nghiên
cứu và phát triển sản phẩm tại các quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
cao, tất cả các chi phí nghiên cứu phát triển sản phẩm sẽ do thành viên MNC tại
quốc gia có thuế suất cao này gánh chịu. Nhưng kết quả của việc nghiên cứu và phát
triển sản phẩm thì các thành viên khác vẫn được áp dụng như nhau. Hoặc một
chương trình quảng cáo nhằm xây dựng thương hiệu cho sản phẩm trên phạm vi
khu vực, nhưng chi phí lại được phân bổ hết về cho thành viên có trụ sở tại quốc gia
có thuế suất cao. Các hoạt động trên đều nhằm tối thiểu hóa số thuế phải nộp và
9
việc phân bổ chi phí trên hoàn toàn là hành động chủ quan của các nhà quản lý của
MNC vì vậy đây cũng là hình thức chuyển giá.
Các thành viên trong MNC có sự cung ứng các dịch vụ tài chính, tư vấn pháp
lý với giá cả cao hơn nhiều lần so với giá cả thị trường. Cung cấp các khoản tín
dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với lãi suất cao hơn mức thị trường.
Có sự tài trợ liên quan đến các nguồn lực cơ bản như nhân sự, vật chất. Các
chi phí cho các chuyên gia tham gia tư vấn như các chi phí về tiền lương, chi phí
nhà ở, đi lại, các chi phí khác phục vụ cho các chuyên gia yên tâm làm việc.
1.2.5. Động cơ khiến các MNC thực hiện chuyển giá
1.2.5.1. Động cơ bên ngoài
Một là, khi phát hiện ra thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giữa hai quốc
gia có sự khác biệt lớn, với mục tiêu luôn muốn tối đa hóa lợi nhuận của mình các
MNC sẽ tiến hành thực hiện hành vi chuyển giá nhằm mục đích giảm thiểu tối đa
khoản thuế mà MNC này phải nộp cũng như là tối đa hóa lợi nhuận sau thuế của
MNC. Khi có chênh lệch về thuế suất thì thủ thuật chuyển giá mà các MNC thường
sử dụng đó là nâng giá mua đầu vào các nguyên, vật liệu, hàng hóa và định giá bán
ra hay giá xuất khẩu thấp tại các công ty con đóng trên các quốc gia có thuế suất
thuế thu nhập doanh nghiệp cao. Như vậy, bằng cách thực hiện này thì MNC đã
chuyển một phần lợi nhuận từ quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cao
sang quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp và như vậy mục tiêu tối
đa hóa lợi nhuận đã được thực hiện thành công. Như vậy động cơ ở đây là có sự
khác biệt về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
Hai là, MNC mong muốn bảo toàn vốn đầu tư theo nguyên tệ, kỳ vọng về sự
biến đổi trong tỷ giá và trong chi phí cơ hội đầu tư. Với mục đích là bảo toàn và
phát triển nguồn vốn đầu tư ban đầu, các MNC sẽ tiến hành đầu tư vào một quốc gia
nếu họ dự đoán rằng trong tương lai đồng tiền của quốc gia này sẽ mạnh lên nghĩa
là số vốn đầu tư ban đầu của họ được bảo toàn và phát triển, ngược lại họ sẽ rút đầu
tư ra khỏi một quốc gia nếu họ dự đoán rằng trong tương lai đồng tiền của quốc gia
này sẽ bị yếu đi nghĩa là vốn đầu tư ban đầu của họ bị giảm đi. Ví dụ sau: giả sử có
10