Luận văn ngành báo chí công chúng đbscl với chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh của các đài pt th địa phương
- 162 trang
- file .pdf
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
----------------------------------------------------
HỒ VĂN TRÃI
CÔNG CHÖNG ĐBSCL VỚI CHƢƠNG TRÌNH
VĂN NGHỆ TRÊN SÓNG PHÁT THANH CỦA
CÁC ĐÀI PT-TH ĐỊA PHƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC
Vĩnh Long - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
----------------------------------------------------
HỒ VĂN TRÃI
CÔNG CHÖNG ĐBSCL VỚI CHƢƠNG TRÌNH
VĂN NGHỆ TRÊN SÓNG PHÁT THANH CỦA
CÁC ĐÀI PT-TH ĐỊA PHƢƠNG
Chuyên ngành: Báo chí học định hướng ứng dụng
Mã số : 8320101.01(UD)
LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC
Chủ tịch Hội đồng chấm luận văn Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
thạc sĩ khoa học
PGS.TS Đặng Thị Thu Hƣơng TS. Trần Thị Tri
Vĩnh Long - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn“Công chúng ĐBSCL với chương trình văn
nghệ trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH địa phương” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn tận tình, trách nhiệm của TS. Trần
Thị Tri, các số liệu nêu trong luận văn là trung thực, những kết luận của luận
văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác, các thông tin
trích dẫn trong luận văn đã được trích dẫn rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu trách nhiệm đối với luận văn của mình.
Tác giả luận văn
Hồ Văn Trãi
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành tới TS. Trần Thị Tri,
giảng viên hướng dẫn luận văn đã tận tình định hướng, chỉ dẫn, giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tập thể các thầy cô giáo Khoa Báo chí-
Truyền thông, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học QGHN; cùng các thầy
cô giáo đã tham gia giảng dạy trong suốt thời gian khóa học cao học, để giúp
tôi có được kiến thức, kinh nghiệm thực hiện đề tài này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến lãnh đạo các Đài PT-TH
Vĩnh Long, Kiên Giang và Bạc Liêu, các anh, chị BTV và các bạn đồng
nghiệp cũng như công chúng đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn này.
Tác giả luận văn
2
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu 5
Lý do chọn đề tài 5
Tình hình nghiên cứu đề tài 7
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 12
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 12
Phương pháp nghiên cứu 13
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 13
Kết cấu của luận văn 14
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN
QUAN TỚI CÔNG CHÖNG CÁC CHƢƠNG TRÌNH PHÁT
THANH VĂN NGHỆ 15
1.1. Một số khái niệm 15
1.2. Một số vấn đề lý luận về công chúng phát thanh 23
1.3. Đặc điểm vai trò của công chúng các chương trình PTVN
tại ĐBSCL 35
1.4. Yêu cầu đối với PTVN nhằm phát triển công chúng mảng
VN tại ĐBSCL 39
Tiểu kết chương 1 40
Chƣơng 2: KHẢO SÁT CÔNG CHÚNG ĐBSCL VỚI
CHƢƠNG TRÌNH VĂN NGHỆ TRÊN SÓNG PHÁT THANH
CỦA CÁC ĐÀI PT-TH ĐỊA PHƢƠNG 42
2.1. Giới thiệu về các Đài trong diện khảo sát 42
2.2. Nội dung và hình thức thể hiện các chương trình văn nghệ
được khảo sát 45
1
2.3. Đánh giá của công chúng phát thanh về các chương trình
phát thanh văn nghệ 57
2.4. Thành công, hạn chế của chương trình PTVN 70
Tiểu kết chương 2 84
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM THU
HÚT, PHÁT TRIỂN CÔNG CHÚNG CÁC CHƢƠNG TRÌNH
VĂN NGHỆ TRÊN SÓNG PHÁT THANH CỦA CÁC ĐÀI PT-
TH ĐỊA PHƢƠNG KHU VỰC TÂY NAM BỘ 86
3.1. Các vấn đề đặt ra đối với việc thu hút, phát triển công chúng 86
3.2. Các giải pháp để thu hút và mở rộng các đối tượng phục vụ
của PTVN 91
3.3. Một vài kiến nghị 100
Tiểu kết chương 3 106
KẾT LUẬN 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ban biên tập : BBT
Biên tập viên : BTV
Đờn ca tài tử : ĐCTT
Cộng tác viên : CTV
Đài Tiếng nói Việt Nam : Đài TNVN
Đồng Bằng Sông Cửu Long : ĐBSCL
Kỹ thuật viên : KTV
Phát thanh truyền hình : PT-TH
Phát thanh văn nghệ : PTVN
Phát thanh viên : PTV
Phỏng vấn : PV
Văn hóa văn nghệ : VHVN
Văn học nghệ thuật : VHNT
3
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1: Tần suất nghe Đài 51
Biểu đồ 2.2: Phương tiện nghe Đài của công chúng ĐBSCL 52
Bảng 2.21: Yêu cầu, mong muốn đối với chương trình văn nghệ 68
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát thanh là một trong những phương tiện truyền thông năng động, có
tính tương tác cao, thiết thực, gần gũi với cuộc sống, không chỉ cung cấp
thông tin, mà còn là kênh văn hóa giải trí phục vụ rộng rãi công chúng. Người
làm báo phát thanh ngày nay rất quan tâm đến những thói quen và sở thích
của từng nhóm công chúng nghe Đài, không ngừng cải tiến về hình thức để
các chương trình phát thanh ngày càng gần gũi hơn với thính giả, phù hợp với
từng đối tượng nghe Đài, đáp ứng thị hiếu ở từng độ tuổi...
Từ thực tế trong đời sống hiện đại con người vốn bận rộn và căng
thẳng thì các chương trình văn nghệ ngày càng được quan tâm, có vị thế
quan trọng, trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa, tinh
thần của con người. Văn nghệ còn là một hình thức để phản ánh hiện thực
đời sống xã hội, tư tưởng, tình cảm của con người đối với môi trường xã
hội. Nếu như báo truyền hình mạnh về các chương trình vui chơi, giao lưu;
báo in mạnh về truyện cười, câu đố vui, tranh biếm họa thì báo phát thanh
có thế mạnh trong việc đem lời thoại và âm nhạc đến với con người, mang
lại sự thư giãn, đẩy lùi căng thẳng, tái tạo sức lao động, làm giàu đời sống
tinh thần của công chúng.
Trong nhiều năm qua, đời sống văn hóa, văn nghệ ĐBSCL có nhiều
khởi sắc. Người dân đã có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận, tham gia và thưởng
thức các loại hình văn học nghệ thuật, vui chơi giải trí thông qua nhiều hình
thức, trong đó có các chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh. Với tư cách
là một kênh thông tin văn hóa, giải trí lành mạnh, trong thời gian qua, sóng
phát thanh của các Đài PT-TH trong khu vực đã mang đến công chúng
ĐBSCL nhiều món ăn tinh thần bổ ích, đa dạng, phong phú về nội dung và
6
hình thức thể hiện. Công chúng có nhiều cơ hội tham gia các chương trình âm
nhạc tương tác trực tiếp như: Quà tặng âm nhạc, Ca cổ theo yêu cầu, Tiểu
phẩm, Câu chuyện truyền thanh, Đọc truyện đêm khuya, ĐCTT, Sân khấu cải
lương… mang nhiều sắc thái riêng, đáp ứng đời sống tinh thần, nhu cầu giải
trí của đông đảo công chúng khu vực.
Cũng như một tờ báo hay một chương trình truyền hình, một chương
trình phát thanh, để ra đời, trước hết phải dựa trên nhu cầu công chúng. Việc
thiết lập nội dung, hình thức, thời lượng, thời điểm phát sóng của chương
trình phát thanh cũng đều cần phải căn cứ vào nhu cầu, mong muốn, đặc
điểm, sở thích của công chúng. Mỗi chương trình phát thanh nhằm phục vụ
một nhóm đối tượng thính giả nhất định. Công chúng là yếu tố quyết định đối
với thành công của các chương trình. Công chúng còn là người tiếp nhận và
đánh giá, thẩm định chất lượng của các chương trình phát thanh. Công chúng
là yếu tố quyết định đối với thành công của các chương trình. Tuy nhiên, tại
khu vực Tây Nam bộ chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu về thói quen, sở thích,
mối quan tâm của công chúng nghe Đài đối với các chương trình văn nghệ
trên các Đài địa phương. Các chương trình PTVN được sản xuất hầu hết chưa
dựa trên nghiên cứu công chúng nên chưa thật sự đáp ứng được nhu cầu,
nguyện vọng cũng như những nhận xét, đánh giá của công chúng về chất
lượng nội dung và hình thức thể hiện. Đặc biệt, công chúng hiện nay được
tiếp cận nhiều nội dung văn nghệ tràn ngập trên không gian mạng và các hoạt
động văn nghệ, giải trí trên thực tế cũng diễn ra với tần suất lớn, họ có nhiều
sự lựa chọn cùng với các thiết bị nghe nhìn hiện đại. Cùng với đó là sự phát
triển nhanh như vũ bão về công nghệ và sự cạnh tranh để thu hút công chúng
giữa các loại hình báo chí, những tác phẩm PTVN sản xuất theo truyền thống
không còn thu hút sự theo dõi và tham gia của người nghe. Thực tế này đòi
hỏi chương trình PTVN cần xác định đối tượng công chúng và mục đích của
7
chương trình để từ đó định hướng những công việc phải làm, sản xuất ra
những chương trình văn nghệ thu hút đông đảo thính giả, đi vào lòng người
nghe. Vì vậy việc nghiên cứu công chúng và những giải pháp phát triển, thu
hút công chúng đang là một vấn đề cấp bách để làm căn cứ, hoạch định hoạt
động của các chương trình PTVN trên nguyên tắc xác định rõ công chúng của
mình là ai, họ mong muốn gì, hy vọng gì và chờ đợi điều gì từ phía các Đài
PT-TH. Từ đó có phương án, kế hoạch, phục vụ công chúng của mình một
cách hữu hiệu nhất.
Xuất phát từ thực tế trên tôi chọn đề tài “Công chúng ĐBSCL với
chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH địa phương”
làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
* Nhóm các công trình nghiên cứu về công chúng báo chí
- Năm 1998, Trần Hữu Quang tiến hành bảo vệ Luận án Tiến sĩ Xã hội
học "Truyền thông đại chúng và công chúng - trường hợp thành phố Hồ Chí
Minh”. Luận án là công trình mang tính đại diện và nghiên cứu công chúng
truyền thông, mức độ và cách thức tiếp cận các phương tiện truyền thông đại
chúng của người dân thành phố Hồ Chí Minh, phân tích tương quan giữa đọc
báo, xem truyền hình và nghe Đài phát thanh, "các trục nội dung thường được
theo dõi", "các mô thức tiếp nhận truyền thông đại chúng", "sự tác động của
một số nhân tố", những luận giải khoa học từ kết quả điều tra xã hội học.
- Ở công trình “Truyền thông - Lý thuyết và kỹ năng cơ bản” năm 2006,
tác giả Nguyễn Văn Dững chủ biên, với phương pháp tiếp cận hệ thống, các
tác giả đề cập vấn đề nghiên cứu công chúng - nhóm đối tượng trong mối
quan hệ một chu trình truyền thông, phân tích nội dung của nghiên cứu ban
đầu về công chúng, gồm ba bình diện, các bước tiến hành và phương pháp
nghiên cứu.
8
- Năm 2008, Trần Bá Dung đã bảo vệ Luận án Tiến sĩ với đề tài “Nhu
cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng Hà Nội”. Luận văn mô tả nhu
cầu và mô thức tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng Hà Nội, đồng thời,
chỉ ra những nhân tố tác động, ảnh hưởng đến nhu cầu tiếp nhận này.Trên cơ
sở kết quả nghiên cứu, luận án dự báo một số xu hướng vận động của nhu cầu
và đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động báo chí.
- Bàn luận về công chúng báo chí - truyền thông trên bình diện lý
thuyết xã hội học công chúng, tác giả Mai Quỳnh Nam có nhiều bài viết về lý
luận và tác động của truyền thông đại chúng đối với đời sống xã hội. Cụ thể là
các bài nghiên cứu: “Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội” - Tạp chí Xã
hội học số 1 năm 1996, “Về đặc điểm và tính chất của giao tiếp đại chúng” -
Tạp chí Xã hội học số 2 năm 2000, “Về vấn đề nghiên cứu hiệu quả của
truyền thông đại chúng” - Tạp chí Xã hội học số 4 năm 2001, “Xã hội hóa và
truyền thông đại chúng” - Tạp chí nghiên cứu con người số 6 năm 2010.
* Nhóm công trình nghiên cứu về phát thanh và công chúng phát thanh:
- Sách chuyên luận “Nghề báo nói” của tác giả Nguyễn Đình Lương do
Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn hành năm 1993. Nội dung sách gồm bảy
phần, trong đó đã đề cập một cách tổng quát về đặc trưng, phương pháp, thể
tài và những vấn đề thuộc về nguyên lý, kỹ năng và quy trình nghề báo phát
thanh; phát thanh với thính giả v.v...
- Giáo trình “Báo chí phát thanh” do 13 tác giả ở Phân viện Báo chí và
Tuyên truyền và Đài TNVN viết (Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn hành
năm 2002) có tổng cộng 20 chương, đề cập một cách khá toàn diện về những
vấn đề của phát thanh Việt Nam hiện đại.
- Sách “Lý luận báo phát thanh” của Đức Dũng (Nhà xuất bản Văn hoá
- Thông tin ấn hành năm 2003) gồm 9 chương, trong đó đề cập đến những vấn
đề của đặc trưng loại hình và các thể loại báo phát thanh.
8
- Cuốn Báo phát thanh -lý thuyết và kỹ năng cơ bản của TS Đinh Thị
Thu Hằng bàn về phương thức sản xuất chương trình phát thanh trực tiếp
trong tương quan so sánh với phương thức sản xuất chương trình phát thanh
truyền thống, đồng thời chỉ ra những yêu cầu của phương thức này.
- Cuộc điều tra xã hội học của Đài TNVN và Ban Tư tưởng- Văn hoá
Trung ương (2001), tiến hành trên 30 tỉnh, thành phố trong cả nước, cho thấy,
mức độ, cách thức nghe Đài của thính giả, thay đổi theo giới tính, độ tuổi,
mức sống, nơi sống, học vấn... Tại mỗi tỉnh, thành phố điều tra những lý do
thính giả không nghe Đài, những đánh giá chất lượng, nguyện vọng và đề
xuất của thính giả.
- Sách“Phương pháp điều tra thính giả” năm 2003 của Đài TNVN tập
hợp một số chuyên luận của Nguyễn Đình Lương, Nguyễn Văn Dững, Dương
Xuân Sơn, Phạm Chiến Khu... vừa nêu rõ vai trò của điều tra dư luận xã hội,
dư luận thính giả, vừa đề cập một số vấn đề về công chúng, lý luận về phương
pháp và ngôn ngữ điều tra thính giả.
- Sách “Báo Phát thanh” năm 2002 và sách “Công chúng phát thanh”
của tác giả Nguyễn Văn Dững có định nghĩa khái niệm công chúng, các loại
công chúng báo chí, vai trò công chúng, các nội dung và phương pháp nghiên
cứu công chúng.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về văn hóa- văn nghệ ĐBSCL:
- Sách “Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ”do Trần Ngọc Thêm
chủ biên năm 2013, NXB Văn hóa- Văn nghệ;
- Sách “Văn minh miệt vườn” của nhà văn Sơn Nam, 1992, NXB Văn
học; Sách “Đồng Bằng Sông Cửu Long – Nét sinh hoạt xưa và Văn minh miệt
vườn” của Sơn Nam, 1998, NXB Trẻ;
- Sách “ĐBSCL qua vài nét văn hóa miệt vườn” của tác giả Nguyễn
Văn Trần, 2000, NXB Văn hóa- Văn nghệ;
9
- Công trình nghiên cứu “Dân ca Cửu Long” của các tác giả Lư Nhất
Vũ- Nguyễn Văn Hòa- Lê Giang- Thạch An, Sở VHTT Cửu Long ấn hành
năm 1986;
- Sách “Ca nhạc cổ truyền”, Lê Văn Ngưu biên soạn, NXB Văn nghệ
TPHCM, 1995;
Các sách và công trình trên nghiên cứu một cách toàn diện về ĐBSCL
qua nét sinh hoạt truyền thống và nền văn minh sông nước, những giá trị văn
hóa tinh thần của một bộ phận người đã tạo nên diện mạo của một vùng đất
này; Các giải pháp khắc phục thực trạng đời sống văn hóa, văn nghệ trong
hiện tại, từng bước củng cố, xây dựng chiến lược phát triển con người trên cơ
sở xây
dựng lối sống văn hóa mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về phát thanh địa phương và
PTVN địa phương:
- Luận văn thạc sĩ của Trần Hoàng Kiệm chuyên ngành báo chí học,
Học viện Báo chí tuyên truyền Hà Nội (2015), “Đổi mới phương thức sản
xuất chương trình phát thanh trực tiếp của Đài Phát thanh -Truyền hình Vĩnh
Long hiện nay”. Trên cơ sở phân tích, đánh giá khách quan, luận văn khảo sát
một cách có hệ thống về phương thức sản xuất chương trình phát thanh trực
tiếp của Đài PT-TH Vĩnh Long.
- Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Minh Diễm chuyên ngành báo chí
học, Học viện Báo chí tuyên truyền Hà Nội (2009),“Nâng cao chất lượng
chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực Bắc Sông Hậu, ĐBSCL”. Đây là đề
tài khảo sát một cách có hệ thống về chất lượng các chương trình phát thanh
cấp tỉnh khu vực Bắc Sông Hậu, ĐBSCL, là bức tranh thực tế sinh động về
các chương trình phát thanh Đài tỉnh Bắc Sông Hậu có thể tạo ra những so
10
sánh cần thiết cho các Đài ở khu vực này có cơ sở tham khảo, đối chiếu và
vận dụng để nâng cao chất lượng chương trình của mình.
- Luận văn thạc sĩ báo chí học của Bùi Trọng Điển, Học viện Báo chí
và tuyên truyền (2015), “Nghiên cứu nâng cao đặc trưng văn hóa miệt vườn
sông nước Cửu Long trong các chương trình phát thanh của cơ quan thường
trú khu vực ĐBSCL”. Luận văn đã chỉ rõ những nét đặc trưng cơ bản của văn
hóa miệt
vườn sông nước Cửu Long để xây dựng các sản phẩm phát thanh, chương
trình phát thanh tương thích, phù hợp hơn với văn hóa đặc trưng của người
dân Nam Bộ của cơ quan thường trú khu vực ĐBSCL nói riêng và Đài TNVN
nói chung.
Các tài liệu, công trình nghiên cứu được tác giả luận văn tham khảo đã
nêu ra những vấn đề nghiên cứu công chúng trong mối quan hệ một chu trình
truyền thông, đi sâu phân tích, tìm hiểu về đặc điểm, nhu cầu, mối quan hệ,
thói quen, cách thức tiếp cận thông tin của công chúng đối với báo chí và đề
xuất giải pháp nâng cao chất lượng chương trình, đáp ứng nhu cầu xem truyền
hình, nghe phát thanh và đọc báo của công chúng. Tuy nhiên, hiện chưa có
công trình nào nghiên cứu về công chúng ĐBSCL với chương trình văn nghệ
trên sóng phát thanh, đây vẫn còn là một đề tài đang bỏ ngỏ. Do đó, bản thân
nhận thấy cần phải tiến hành nghiên cứu, khảo sát mức độ thưởng thức, khả
năng đáp ứng và quá trình tham gia, phản hồi của công chúng đối với các
chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH khu vực
ĐBSCL. Từ kết quả trên, luận văn sẽ nhận diện được công chúng của chương
trình, từ đó góp phần vào việc nâng cao hiệu quả phát sóng các chương trình
văn nghệ phục vụ tốt hơn nhu cầu công chúng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
11
Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề lý luận liên quan đến công
chúng, vai trò, đặc điểm, cách thức tìm hiểu về thói quen, nhu cầu, sở thích,
cách thức tiếp cận công chúng và thu hút công chúng, luận văn tiến hành khảo
sát công chúng các chương trình PTVN ở ĐBSCL để từ đó đề xuất những giải
pháp, kiến nghị mang tính khả thi cho việc đổi mới, nâng cao chất lượng
chương trình nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu thưởng thức văn nghệ và phát
triển, mở rộng công chúng văn nghệ ở khu vực ĐBSCL.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, tác giả luận văn thực hiện một số
nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về công chúng phát thanh, xây
dựng khung lý thuyết để làm cơ sở cho việc khảo sát;
- Mô tả, khảo sát và phân tích làm rõ được thực trạng tiếp nhận chương
trình văn nghệ trên sóng phát thanh của công chúng khu vực ĐBSCL; Cách
thức các Đài PT-TH tiếp cận, thu hút công chúng;
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm thu hút, phát triển công
chúng với các chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH
địa phương khu vực Tây Nam bộ.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là công chúng ĐBSCL, các chương trình văn
nghệ trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH địa phương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu là các nhóm công chúng ĐBSCL đang sinh sống
và làm việc tại khu vực thành thị và nông thôn các tỉnh trong diện khảo sát;
Các chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh được nhiều người yêu thích
của các Đài PT-TH Vĩnh Long, Kiên Giang và Bạc Liêu (Quà tặng âm nhạc,
12
ca cổ theo yêu cầu, Đờn ca tài tử Nam bộ, Câu lạc bộ sân khấu, Câu chuyện
truyền thanh, Đọc truyện đêm khuya).
Thời gian khảo sát từ tháng 06 đến 12/2019.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiến hành thực hiện luận văn sẽ sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu, phân tích, khảo sát tài liệu: được sử dụng để
tiếp cận các giáo trình và các sách chuyên khảo, các tài liệu, các công trình
nghiên cứu có liên quan đến đề tài và một số tài liệu liên quan đến báo chí
phát thanh, từ đó rút ra những vấn đề lý luận cần thiết.
- Phương pháp điều tra bằng bằng hỏi: được thực hiện với 300 phiếu
phát đến thính giả chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh ở một số địa
phương ĐBSCL thuộc 3 tỉnh Vĩnh Long, Kiên Giang và Bạc Liêu nhằm thu
thập, phân tích một cách có định lượng ý kiến của thính giả thuộc các tầng lớp
nhân dân đối với chương trình PTVN.
- Phương pháp PV sâu: tác giả PV 9 đối tượng là lãnh đạo các Đài PT-
TH, lãnh đạo phòng phát thanh (văn nghệ - giải trí) và các BTV văn nghệ,
nhằm thu thập tìm hiểu sâu về các biện pháp để thu hút công chúng văn nghệ;
Việc đổi mới nội dung, hình thức chương trình PTVN; Làm thế nào để thỏa
mãn nhu cầu công chúng; Quan điểm của họ về sức hấp dẫn của chương trình
văn nghệ trên sóng phát thanh trong sự cạnh tranh ở lĩnh vực nghe nhìn; Nhận
xét về tầm quan trọng của ý kiến công chúng trong việc đổi mới chương trình
PTVN.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn làm sâu sắc thêm mảng lý luận về công chúng văn nghệ phát
thanh và góp phần bổ sung, làm phong phú hơn những luận điểm khoa học
13
cho hệ thống lý luận báo chí truyền thông ở Việt Nam, đặc biệt là các nghiên
cứu về công chúng truyền thông mang tính chất vùng miền với đặc trưng tâm
lý, văn hóa riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đem lại cái nhìn khách quan, chân thực về công chúng các
chương trình PTVN ở ĐBSCL để từ đó có những điều chỉnh thích hợp về chất
lượng nội dung và hình thức chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh của
các Đài PT-TH khu vực ĐBSCL. Với những cứ liệu thực tế phong phú, luận
văn có thể cung cấp các dữ liệu cần thiết cho cơ quan quản lý báo chí, Ban
Giám đốc, BBT các Đài có thêm cơ sở khoa học để đầu tư đúng mức cho
chương trình văn nghệ thực hiện trên sóng phát thanh. Các nhà báo có thể
tham khảo để nhìn nhận sâu hơn về thực trạng công chúng ĐBSCL và các
chương trình văn nghệ đồng thời tiếp cận cách đổi mới, nâng cao chất lượng
chương trình phù hợp cho báo phát thanh trong thời gian tới. Việc nghiên cứu
đề tài này cũng là cơ hội để tác giả luận văn có thể nâng cao kiến thức sau
thời gian học cao học Báo chí tại Trường Đại học KHXHNV Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan tới công chúng
của các chương trình phát thanh văn nghệ
Chương 2. Khảo sát công chúng ĐBSCL với chương trình văn nghệ
trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH địa phương.
Chương 3. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm thu hút, phát triển công
chúng với các chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH
địa phương khu vực Tây Nam bộ.
14
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN
TỚI CÔNG CHÚNG CỦA CÁC CHƢƠNG TRÌNH PHÁT THANH
VĂN NGHỆ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Công chúng và công chúng báo chí
1.1.1.1. Công chúng
Theo Từ điển Tiếng Việt (1992) định nghĩa: “Công chúng là đông đảo
những người đọc, xem, nghe, trong quan hệ với tác giả, diễn viên…”
Tác giả E.P.Prôkhôrốp, Cơ sở lý luận báo chí (tập 1, tập 2, NXB Thông
Tấn, Hà Nội 2004) nêu khái niệm: “Công chúng tiếng Latinh- auditorium;
audire có nghĩa là nghe; audiotor là người nghe, đó là cộng đồng người,
những người mà phương tiện thông tin đại chúng hướng tới và là những ai
cảm thụ những thông tin được hướng tới họ.
Trong truyền thông: “Công chúng nói chung có thể được hiểu là những
người tiếp nhận và được các sản phẩm báo chí tác động, hoặc hướng vào để
tác động” [13, tr.397].
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Dững tác giả quyển Báo chí và Dư luận xã
hội (2012) thì: Công chúng là đông đảo người trong mối quan hệ với “người
diễn thuyết”, người biễu diễn, với tác giả, tác phẩm báo chí” [13, tr.398].
Còn trong quyển Cơ sở lý luận báo chí (NXB Lao động 2015), tác giả
Nguyễn Văn Dững cho rằng: “Công chúng là quần thể cư dân hay nhóm đối
tượng trực tiếp hay gián tiếp tiếp nhận thông tin hoặc chịu ảnh hưởng từ tác
động của thông tin báo chí” [12, tr.57].
1.1.1.2. Công chúng báo chí
Tác giả Mai Quỳnh Nam đưa ra khái niệm về công chúng báo chí như
sau: “Công chúng báo chí thuộc mọi tầng lớp xã hội, tuổi tác, giới tính, trình
16
độ học vấn... Nói đến công chúng của truyền thông đại chúng là nói đến cá
nhân nặc danh. Khi hướng đến đại chúng, báo chí không thể biết cụ thể ai là
ai, điều đó có nghĩa là truyền thông đại chúng có thể đến với bất kỳ ai, không
riêng một cá nhân nào”.
PGS.TS Nguyễn Văn Dững trong quyển Cơ sở Lý luận Báo chí (Nhà
xuất bản Lao động 2012) cho rằng: “Công chúng báo chí là quần thể dân cư
hay nhóm đối tượng mà báo chí hướng tác động của mình vào để cung cấp,
trao đổi và chia sẻ thông tin, thuyết phục gây ảnh hưởng có thể làm thay đổi
nhận thức, thái độ, hành vi của họ theo mục đích thông tin nhất định. Vế khía
cạnh kinh tế, công chúng báo chí là khách hàng của báo chí; trên khía cạnh
xã hội, là lực lượng quan trọng, quyết định vai trò, vị thế xã hội của cơ quan
báo chí”[14, tr.35].
Còn tác giả Trần Bá Dung trong nghiên cứu Nhu cầu tiếp nhận thông
tin báo chí của công chúng Hà Nội nêu: “Công chúng báo chí là nhóm lớn
dân cư, không đồng nhất trong xã hội, được báo chí hướng vào để tác động
hoặc chịu ảnh hưởng tác động của báo chí và có tác động trở lại, giám sát,
đánh giá, quyết định hiệu quả hoạt động của cơ quan báo chí”[6, tr.78].
Từ những góc nhìn trên cho thấy, công chúng báo chí truyền thông là
một thực thể rất phức tạp. Công chúng báo chí là khái niệm dùng để
chỉ những người tiếp nhận sản phẩm báo chí. Công chúng báo chí được xem
xét trong mối quan hệ với tác phẩm báo chí, với cơ quan báo chí và với nhà
báo. Việc nghiên cứu công chúng đòi hỏi phải có cái nhìn tổng hợp, toàn diện
và đặt đối tượng nghiên cứu trong môi trường văn hóa - xã hội cụ thể. Bên
cạnh đó, tùy theo đặc điểm của mỗi loại hình báo chí mà có thể xác định
những khác biệt của từng loại công chúng. Chẳng hạn như với báo in, công
chúng là bạn đọc (độc giả); với báo phát thanh, công chúng là người nghe
18
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
----------------------------------------------------
HỒ VĂN TRÃI
CÔNG CHÖNG ĐBSCL VỚI CHƢƠNG TRÌNH
VĂN NGHỆ TRÊN SÓNG PHÁT THANH CỦA
CÁC ĐÀI PT-TH ĐỊA PHƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC
Vĩnh Long - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
----------------------------------------------------
HỒ VĂN TRÃI
CÔNG CHÖNG ĐBSCL VỚI CHƢƠNG TRÌNH
VĂN NGHỆ TRÊN SÓNG PHÁT THANH CỦA
CÁC ĐÀI PT-TH ĐỊA PHƢƠNG
Chuyên ngành: Báo chí học định hướng ứng dụng
Mã số : 8320101.01(UD)
LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC
Chủ tịch Hội đồng chấm luận văn Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
thạc sĩ khoa học
PGS.TS Đặng Thị Thu Hƣơng TS. Trần Thị Tri
Vĩnh Long - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn“Công chúng ĐBSCL với chương trình văn
nghệ trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH địa phương” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn tận tình, trách nhiệm của TS. Trần
Thị Tri, các số liệu nêu trong luận văn là trung thực, những kết luận của luận
văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác, các thông tin
trích dẫn trong luận văn đã được trích dẫn rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu trách nhiệm đối với luận văn của mình.
Tác giả luận văn
Hồ Văn Trãi
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành tới TS. Trần Thị Tri,
giảng viên hướng dẫn luận văn đã tận tình định hướng, chỉ dẫn, giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tập thể các thầy cô giáo Khoa Báo chí-
Truyền thông, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học QGHN; cùng các thầy
cô giáo đã tham gia giảng dạy trong suốt thời gian khóa học cao học, để giúp
tôi có được kiến thức, kinh nghiệm thực hiện đề tài này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến lãnh đạo các Đài PT-TH
Vĩnh Long, Kiên Giang và Bạc Liêu, các anh, chị BTV và các bạn đồng
nghiệp cũng như công chúng đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn này.
Tác giả luận văn
2
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu 5
Lý do chọn đề tài 5
Tình hình nghiên cứu đề tài 7
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 12
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 12
Phương pháp nghiên cứu 13
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 13
Kết cấu của luận văn 14
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN
QUAN TỚI CÔNG CHÖNG CÁC CHƢƠNG TRÌNH PHÁT
THANH VĂN NGHỆ 15
1.1. Một số khái niệm 15
1.2. Một số vấn đề lý luận về công chúng phát thanh 23
1.3. Đặc điểm vai trò của công chúng các chương trình PTVN
tại ĐBSCL 35
1.4. Yêu cầu đối với PTVN nhằm phát triển công chúng mảng
VN tại ĐBSCL 39
Tiểu kết chương 1 40
Chƣơng 2: KHẢO SÁT CÔNG CHÚNG ĐBSCL VỚI
CHƢƠNG TRÌNH VĂN NGHỆ TRÊN SÓNG PHÁT THANH
CỦA CÁC ĐÀI PT-TH ĐỊA PHƢƠNG 42
2.1. Giới thiệu về các Đài trong diện khảo sát 42
2.2. Nội dung và hình thức thể hiện các chương trình văn nghệ
được khảo sát 45
1
2.3. Đánh giá của công chúng phát thanh về các chương trình
phát thanh văn nghệ 57
2.4. Thành công, hạn chế của chương trình PTVN 70
Tiểu kết chương 2 84
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM THU
HÚT, PHÁT TRIỂN CÔNG CHÚNG CÁC CHƢƠNG TRÌNH
VĂN NGHỆ TRÊN SÓNG PHÁT THANH CỦA CÁC ĐÀI PT-
TH ĐỊA PHƢƠNG KHU VỰC TÂY NAM BỘ 86
3.1. Các vấn đề đặt ra đối với việc thu hút, phát triển công chúng 86
3.2. Các giải pháp để thu hút và mở rộng các đối tượng phục vụ
của PTVN 91
3.3. Một vài kiến nghị 100
Tiểu kết chương 3 106
KẾT LUẬN 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ban biên tập : BBT
Biên tập viên : BTV
Đờn ca tài tử : ĐCTT
Cộng tác viên : CTV
Đài Tiếng nói Việt Nam : Đài TNVN
Đồng Bằng Sông Cửu Long : ĐBSCL
Kỹ thuật viên : KTV
Phát thanh truyền hình : PT-TH
Phát thanh văn nghệ : PTVN
Phát thanh viên : PTV
Phỏng vấn : PV
Văn hóa văn nghệ : VHVN
Văn học nghệ thuật : VHNT
3
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1: Tần suất nghe Đài 51
Biểu đồ 2.2: Phương tiện nghe Đài của công chúng ĐBSCL 52
Bảng 2.21: Yêu cầu, mong muốn đối với chương trình văn nghệ 68
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát thanh là một trong những phương tiện truyền thông năng động, có
tính tương tác cao, thiết thực, gần gũi với cuộc sống, không chỉ cung cấp
thông tin, mà còn là kênh văn hóa giải trí phục vụ rộng rãi công chúng. Người
làm báo phát thanh ngày nay rất quan tâm đến những thói quen và sở thích
của từng nhóm công chúng nghe Đài, không ngừng cải tiến về hình thức để
các chương trình phát thanh ngày càng gần gũi hơn với thính giả, phù hợp với
từng đối tượng nghe Đài, đáp ứng thị hiếu ở từng độ tuổi...
Từ thực tế trong đời sống hiện đại con người vốn bận rộn và căng
thẳng thì các chương trình văn nghệ ngày càng được quan tâm, có vị thế
quan trọng, trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa, tinh
thần của con người. Văn nghệ còn là một hình thức để phản ánh hiện thực
đời sống xã hội, tư tưởng, tình cảm của con người đối với môi trường xã
hội. Nếu như báo truyền hình mạnh về các chương trình vui chơi, giao lưu;
báo in mạnh về truyện cười, câu đố vui, tranh biếm họa thì báo phát thanh
có thế mạnh trong việc đem lời thoại và âm nhạc đến với con người, mang
lại sự thư giãn, đẩy lùi căng thẳng, tái tạo sức lao động, làm giàu đời sống
tinh thần của công chúng.
Trong nhiều năm qua, đời sống văn hóa, văn nghệ ĐBSCL có nhiều
khởi sắc. Người dân đã có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận, tham gia và thưởng
thức các loại hình văn học nghệ thuật, vui chơi giải trí thông qua nhiều hình
thức, trong đó có các chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh. Với tư cách
là một kênh thông tin văn hóa, giải trí lành mạnh, trong thời gian qua, sóng
phát thanh của các Đài PT-TH trong khu vực đã mang đến công chúng
ĐBSCL nhiều món ăn tinh thần bổ ích, đa dạng, phong phú về nội dung và
6
hình thức thể hiện. Công chúng có nhiều cơ hội tham gia các chương trình âm
nhạc tương tác trực tiếp như: Quà tặng âm nhạc, Ca cổ theo yêu cầu, Tiểu
phẩm, Câu chuyện truyền thanh, Đọc truyện đêm khuya, ĐCTT, Sân khấu cải
lương… mang nhiều sắc thái riêng, đáp ứng đời sống tinh thần, nhu cầu giải
trí của đông đảo công chúng khu vực.
Cũng như một tờ báo hay một chương trình truyền hình, một chương
trình phát thanh, để ra đời, trước hết phải dựa trên nhu cầu công chúng. Việc
thiết lập nội dung, hình thức, thời lượng, thời điểm phát sóng của chương
trình phát thanh cũng đều cần phải căn cứ vào nhu cầu, mong muốn, đặc
điểm, sở thích của công chúng. Mỗi chương trình phát thanh nhằm phục vụ
một nhóm đối tượng thính giả nhất định. Công chúng là yếu tố quyết định đối
với thành công của các chương trình. Công chúng còn là người tiếp nhận và
đánh giá, thẩm định chất lượng của các chương trình phát thanh. Công chúng
là yếu tố quyết định đối với thành công của các chương trình. Tuy nhiên, tại
khu vực Tây Nam bộ chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu về thói quen, sở thích,
mối quan tâm của công chúng nghe Đài đối với các chương trình văn nghệ
trên các Đài địa phương. Các chương trình PTVN được sản xuất hầu hết chưa
dựa trên nghiên cứu công chúng nên chưa thật sự đáp ứng được nhu cầu,
nguyện vọng cũng như những nhận xét, đánh giá của công chúng về chất
lượng nội dung và hình thức thể hiện. Đặc biệt, công chúng hiện nay được
tiếp cận nhiều nội dung văn nghệ tràn ngập trên không gian mạng và các hoạt
động văn nghệ, giải trí trên thực tế cũng diễn ra với tần suất lớn, họ có nhiều
sự lựa chọn cùng với các thiết bị nghe nhìn hiện đại. Cùng với đó là sự phát
triển nhanh như vũ bão về công nghệ và sự cạnh tranh để thu hút công chúng
giữa các loại hình báo chí, những tác phẩm PTVN sản xuất theo truyền thống
không còn thu hút sự theo dõi và tham gia của người nghe. Thực tế này đòi
hỏi chương trình PTVN cần xác định đối tượng công chúng và mục đích của
7
chương trình để từ đó định hướng những công việc phải làm, sản xuất ra
những chương trình văn nghệ thu hút đông đảo thính giả, đi vào lòng người
nghe. Vì vậy việc nghiên cứu công chúng và những giải pháp phát triển, thu
hút công chúng đang là một vấn đề cấp bách để làm căn cứ, hoạch định hoạt
động của các chương trình PTVN trên nguyên tắc xác định rõ công chúng của
mình là ai, họ mong muốn gì, hy vọng gì và chờ đợi điều gì từ phía các Đài
PT-TH. Từ đó có phương án, kế hoạch, phục vụ công chúng của mình một
cách hữu hiệu nhất.
Xuất phát từ thực tế trên tôi chọn đề tài “Công chúng ĐBSCL với
chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH địa phương”
làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
* Nhóm các công trình nghiên cứu về công chúng báo chí
- Năm 1998, Trần Hữu Quang tiến hành bảo vệ Luận án Tiến sĩ Xã hội
học "Truyền thông đại chúng và công chúng - trường hợp thành phố Hồ Chí
Minh”. Luận án là công trình mang tính đại diện và nghiên cứu công chúng
truyền thông, mức độ và cách thức tiếp cận các phương tiện truyền thông đại
chúng của người dân thành phố Hồ Chí Minh, phân tích tương quan giữa đọc
báo, xem truyền hình và nghe Đài phát thanh, "các trục nội dung thường được
theo dõi", "các mô thức tiếp nhận truyền thông đại chúng", "sự tác động của
một số nhân tố", những luận giải khoa học từ kết quả điều tra xã hội học.
- Ở công trình “Truyền thông - Lý thuyết và kỹ năng cơ bản” năm 2006,
tác giả Nguyễn Văn Dững chủ biên, với phương pháp tiếp cận hệ thống, các
tác giả đề cập vấn đề nghiên cứu công chúng - nhóm đối tượng trong mối
quan hệ một chu trình truyền thông, phân tích nội dung của nghiên cứu ban
đầu về công chúng, gồm ba bình diện, các bước tiến hành và phương pháp
nghiên cứu.
8
- Năm 2008, Trần Bá Dung đã bảo vệ Luận án Tiến sĩ với đề tài “Nhu
cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng Hà Nội”. Luận văn mô tả nhu
cầu và mô thức tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng Hà Nội, đồng thời,
chỉ ra những nhân tố tác động, ảnh hưởng đến nhu cầu tiếp nhận này.Trên cơ
sở kết quả nghiên cứu, luận án dự báo một số xu hướng vận động của nhu cầu
và đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động báo chí.
- Bàn luận về công chúng báo chí - truyền thông trên bình diện lý
thuyết xã hội học công chúng, tác giả Mai Quỳnh Nam có nhiều bài viết về lý
luận và tác động của truyền thông đại chúng đối với đời sống xã hội. Cụ thể là
các bài nghiên cứu: “Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội” - Tạp chí Xã
hội học số 1 năm 1996, “Về đặc điểm và tính chất của giao tiếp đại chúng” -
Tạp chí Xã hội học số 2 năm 2000, “Về vấn đề nghiên cứu hiệu quả của
truyền thông đại chúng” - Tạp chí Xã hội học số 4 năm 2001, “Xã hội hóa và
truyền thông đại chúng” - Tạp chí nghiên cứu con người số 6 năm 2010.
* Nhóm công trình nghiên cứu về phát thanh và công chúng phát thanh:
- Sách chuyên luận “Nghề báo nói” của tác giả Nguyễn Đình Lương do
Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn hành năm 1993. Nội dung sách gồm bảy
phần, trong đó đã đề cập một cách tổng quát về đặc trưng, phương pháp, thể
tài và những vấn đề thuộc về nguyên lý, kỹ năng và quy trình nghề báo phát
thanh; phát thanh với thính giả v.v...
- Giáo trình “Báo chí phát thanh” do 13 tác giả ở Phân viện Báo chí và
Tuyên truyền và Đài TNVN viết (Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn hành
năm 2002) có tổng cộng 20 chương, đề cập một cách khá toàn diện về những
vấn đề của phát thanh Việt Nam hiện đại.
- Sách “Lý luận báo phát thanh” của Đức Dũng (Nhà xuất bản Văn hoá
- Thông tin ấn hành năm 2003) gồm 9 chương, trong đó đề cập đến những vấn
đề của đặc trưng loại hình và các thể loại báo phát thanh.
8
- Cuốn Báo phát thanh -lý thuyết và kỹ năng cơ bản của TS Đinh Thị
Thu Hằng bàn về phương thức sản xuất chương trình phát thanh trực tiếp
trong tương quan so sánh với phương thức sản xuất chương trình phát thanh
truyền thống, đồng thời chỉ ra những yêu cầu của phương thức này.
- Cuộc điều tra xã hội học của Đài TNVN và Ban Tư tưởng- Văn hoá
Trung ương (2001), tiến hành trên 30 tỉnh, thành phố trong cả nước, cho thấy,
mức độ, cách thức nghe Đài của thính giả, thay đổi theo giới tính, độ tuổi,
mức sống, nơi sống, học vấn... Tại mỗi tỉnh, thành phố điều tra những lý do
thính giả không nghe Đài, những đánh giá chất lượng, nguyện vọng và đề
xuất của thính giả.
- Sách“Phương pháp điều tra thính giả” năm 2003 của Đài TNVN tập
hợp một số chuyên luận của Nguyễn Đình Lương, Nguyễn Văn Dững, Dương
Xuân Sơn, Phạm Chiến Khu... vừa nêu rõ vai trò của điều tra dư luận xã hội,
dư luận thính giả, vừa đề cập một số vấn đề về công chúng, lý luận về phương
pháp và ngôn ngữ điều tra thính giả.
- Sách “Báo Phát thanh” năm 2002 và sách “Công chúng phát thanh”
của tác giả Nguyễn Văn Dững có định nghĩa khái niệm công chúng, các loại
công chúng báo chí, vai trò công chúng, các nội dung và phương pháp nghiên
cứu công chúng.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về văn hóa- văn nghệ ĐBSCL:
- Sách “Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ”do Trần Ngọc Thêm
chủ biên năm 2013, NXB Văn hóa- Văn nghệ;
- Sách “Văn minh miệt vườn” của nhà văn Sơn Nam, 1992, NXB Văn
học; Sách “Đồng Bằng Sông Cửu Long – Nét sinh hoạt xưa và Văn minh miệt
vườn” của Sơn Nam, 1998, NXB Trẻ;
- Sách “ĐBSCL qua vài nét văn hóa miệt vườn” của tác giả Nguyễn
Văn Trần, 2000, NXB Văn hóa- Văn nghệ;
9
- Công trình nghiên cứu “Dân ca Cửu Long” của các tác giả Lư Nhất
Vũ- Nguyễn Văn Hòa- Lê Giang- Thạch An, Sở VHTT Cửu Long ấn hành
năm 1986;
- Sách “Ca nhạc cổ truyền”, Lê Văn Ngưu biên soạn, NXB Văn nghệ
TPHCM, 1995;
Các sách và công trình trên nghiên cứu một cách toàn diện về ĐBSCL
qua nét sinh hoạt truyền thống và nền văn minh sông nước, những giá trị văn
hóa tinh thần của một bộ phận người đã tạo nên diện mạo của một vùng đất
này; Các giải pháp khắc phục thực trạng đời sống văn hóa, văn nghệ trong
hiện tại, từng bước củng cố, xây dựng chiến lược phát triển con người trên cơ
sở xây
dựng lối sống văn hóa mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về phát thanh địa phương và
PTVN địa phương:
- Luận văn thạc sĩ của Trần Hoàng Kiệm chuyên ngành báo chí học,
Học viện Báo chí tuyên truyền Hà Nội (2015), “Đổi mới phương thức sản
xuất chương trình phát thanh trực tiếp của Đài Phát thanh -Truyền hình Vĩnh
Long hiện nay”. Trên cơ sở phân tích, đánh giá khách quan, luận văn khảo sát
một cách có hệ thống về phương thức sản xuất chương trình phát thanh trực
tiếp của Đài PT-TH Vĩnh Long.
- Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Minh Diễm chuyên ngành báo chí
học, Học viện Báo chí tuyên truyền Hà Nội (2009),“Nâng cao chất lượng
chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực Bắc Sông Hậu, ĐBSCL”. Đây là đề
tài khảo sát một cách có hệ thống về chất lượng các chương trình phát thanh
cấp tỉnh khu vực Bắc Sông Hậu, ĐBSCL, là bức tranh thực tế sinh động về
các chương trình phát thanh Đài tỉnh Bắc Sông Hậu có thể tạo ra những so
10
sánh cần thiết cho các Đài ở khu vực này có cơ sở tham khảo, đối chiếu và
vận dụng để nâng cao chất lượng chương trình của mình.
- Luận văn thạc sĩ báo chí học của Bùi Trọng Điển, Học viện Báo chí
và tuyên truyền (2015), “Nghiên cứu nâng cao đặc trưng văn hóa miệt vườn
sông nước Cửu Long trong các chương trình phát thanh của cơ quan thường
trú khu vực ĐBSCL”. Luận văn đã chỉ rõ những nét đặc trưng cơ bản của văn
hóa miệt
vườn sông nước Cửu Long để xây dựng các sản phẩm phát thanh, chương
trình phát thanh tương thích, phù hợp hơn với văn hóa đặc trưng của người
dân Nam Bộ của cơ quan thường trú khu vực ĐBSCL nói riêng và Đài TNVN
nói chung.
Các tài liệu, công trình nghiên cứu được tác giả luận văn tham khảo đã
nêu ra những vấn đề nghiên cứu công chúng trong mối quan hệ một chu trình
truyền thông, đi sâu phân tích, tìm hiểu về đặc điểm, nhu cầu, mối quan hệ,
thói quen, cách thức tiếp cận thông tin của công chúng đối với báo chí và đề
xuất giải pháp nâng cao chất lượng chương trình, đáp ứng nhu cầu xem truyền
hình, nghe phát thanh và đọc báo của công chúng. Tuy nhiên, hiện chưa có
công trình nào nghiên cứu về công chúng ĐBSCL với chương trình văn nghệ
trên sóng phát thanh, đây vẫn còn là một đề tài đang bỏ ngỏ. Do đó, bản thân
nhận thấy cần phải tiến hành nghiên cứu, khảo sát mức độ thưởng thức, khả
năng đáp ứng và quá trình tham gia, phản hồi của công chúng đối với các
chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH khu vực
ĐBSCL. Từ kết quả trên, luận văn sẽ nhận diện được công chúng của chương
trình, từ đó góp phần vào việc nâng cao hiệu quả phát sóng các chương trình
văn nghệ phục vụ tốt hơn nhu cầu công chúng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
11
Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề lý luận liên quan đến công
chúng, vai trò, đặc điểm, cách thức tìm hiểu về thói quen, nhu cầu, sở thích,
cách thức tiếp cận công chúng và thu hút công chúng, luận văn tiến hành khảo
sát công chúng các chương trình PTVN ở ĐBSCL để từ đó đề xuất những giải
pháp, kiến nghị mang tính khả thi cho việc đổi mới, nâng cao chất lượng
chương trình nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu thưởng thức văn nghệ và phát
triển, mở rộng công chúng văn nghệ ở khu vực ĐBSCL.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, tác giả luận văn thực hiện một số
nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về công chúng phát thanh, xây
dựng khung lý thuyết để làm cơ sở cho việc khảo sát;
- Mô tả, khảo sát và phân tích làm rõ được thực trạng tiếp nhận chương
trình văn nghệ trên sóng phát thanh của công chúng khu vực ĐBSCL; Cách
thức các Đài PT-TH tiếp cận, thu hút công chúng;
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm thu hút, phát triển công
chúng với các chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH
địa phương khu vực Tây Nam bộ.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là công chúng ĐBSCL, các chương trình văn
nghệ trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH địa phương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu là các nhóm công chúng ĐBSCL đang sinh sống
và làm việc tại khu vực thành thị và nông thôn các tỉnh trong diện khảo sát;
Các chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh được nhiều người yêu thích
của các Đài PT-TH Vĩnh Long, Kiên Giang và Bạc Liêu (Quà tặng âm nhạc,
12
ca cổ theo yêu cầu, Đờn ca tài tử Nam bộ, Câu lạc bộ sân khấu, Câu chuyện
truyền thanh, Đọc truyện đêm khuya).
Thời gian khảo sát từ tháng 06 đến 12/2019.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiến hành thực hiện luận văn sẽ sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu, phân tích, khảo sát tài liệu: được sử dụng để
tiếp cận các giáo trình và các sách chuyên khảo, các tài liệu, các công trình
nghiên cứu có liên quan đến đề tài và một số tài liệu liên quan đến báo chí
phát thanh, từ đó rút ra những vấn đề lý luận cần thiết.
- Phương pháp điều tra bằng bằng hỏi: được thực hiện với 300 phiếu
phát đến thính giả chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh ở một số địa
phương ĐBSCL thuộc 3 tỉnh Vĩnh Long, Kiên Giang và Bạc Liêu nhằm thu
thập, phân tích một cách có định lượng ý kiến của thính giả thuộc các tầng lớp
nhân dân đối với chương trình PTVN.
- Phương pháp PV sâu: tác giả PV 9 đối tượng là lãnh đạo các Đài PT-
TH, lãnh đạo phòng phát thanh (văn nghệ - giải trí) và các BTV văn nghệ,
nhằm thu thập tìm hiểu sâu về các biện pháp để thu hút công chúng văn nghệ;
Việc đổi mới nội dung, hình thức chương trình PTVN; Làm thế nào để thỏa
mãn nhu cầu công chúng; Quan điểm của họ về sức hấp dẫn của chương trình
văn nghệ trên sóng phát thanh trong sự cạnh tranh ở lĩnh vực nghe nhìn; Nhận
xét về tầm quan trọng của ý kiến công chúng trong việc đổi mới chương trình
PTVN.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn làm sâu sắc thêm mảng lý luận về công chúng văn nghệ phát
thanh và góp phần bổ sung, làm phong phú hơn những luận điểm khoa học
13
cho hệ thống lý luận báo chí truyền thông ở Việt Nam, đặc biệt là các nghiên
cứu về công chúng truyền thông mang tính chất vùng miền với đặc trưng tâm
lý, văn hóa riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đem lại cái nhìn khách quan, chân thực về công chúng các
chương trình PTVN ở ĐBSCL để từ đó có những điều chỉnh thích hợp về chất
lượng nội dung và hình thức chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh của
các Đài PT-TH khu vực ĐBSCL. Với những cứ liệu thực tế phong phú, luận
văn có thể cung cấp các dữ liệu cần thiết cho cơ quan quản lý báo chí, Ban
Giám đốc, BBT các Đài có thêm cơ sở khoa học để đầu tư đúng mức cho
chương trình văn nghệ thực hiện trên sóng phát thanh. Các nhà báo có thể
tham khảo để nhìn nhận sâu hơn về thực trạng công chúng ĐBSCL và các
chương trình văn nghệ đồng thời tiếp cận cách đổi mới, nâng cao chất lượng
chương trình phù hợp cho báo phát thanh trong thời gian tới. Việc nghiên cứu
đề tài này cũng là cơ hội để tác giả luận văn có thể nâng cao kiến thức sau
thời gian học cao học Báo chí tại Trường Đại học KHXHNV Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan tới công chúng
của các chương trình phát thanh văn nghệ
Chương 2. Khảo sát công chúng ĐBSCL với chương trình văn nghệ
trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH địa phương.
Chương 3. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm thu hút, phát triển công
chúng với các chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH
địa phương khu vực Tây Nam bộ.
14
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN
TỚI CÔNG CHÚNG CỦA CÁC CHƢƠNG TRÌNH PHÁT THANH
VĂN NGHỆ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Công chúng và công chúng báo chí
1.1.1.1. Công chúng
Theo Từ điển Tiếng Việt (1992) định nghĩa: “Công chúng là đông đảo
những người đọc, xem, nghe, trong quan hệ với tác giả, diễn viên…”
Tác giả E.P.Prôkhôrốp, Cơ sở lý luận báo chí (tập 1, tập 2, NXB Thông
Tấn, Hà Nội 2004) nêu khái niệm: “Công chúng tiếng Latinh- auditorium;
audire có nghĩa là nghe; audiotor là người nghe, đó là cộng đồng người,
những người mà phương tiện thông tin đại chúng hướng tới và là những ai
cảm thụ những thông tin được hướng tới họ.
Trong truyền thông: “Công chúng nói chung có thể được hiểu là những
người tiếp nhận và được các sản phẩm báo chí tác động, hoặc hướng vào để
tác động” [13, tr.397].
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Dững tác giả quyển Báo chí và Dư luận xã
hội (2012) thì: Công chúng là đông đảo người trong mối quan hệ với “người
diễn thuyết”, người biễu diễn, với tác giả, tác phẩm báo chí” [13, tr.398].
Còn trong quyển Cơ sở lý luận báo chí (NXB Lao động 2015), tác giả
Nguyễn Văn Dững cho rằng: “Công chúng là quần thể cư dân hay nhóm đối
tượng trực tiếp hay gián tiếp tiếp nhận thông tin hoặc chịu ảnh hưởng từ tác
động của thông tin báo chí” [12, tr.57].
1.1.1.2. Công chúng báo chí
Tác giả Mai Quỳnh Nam đưa ra khái niệm về công chúng báo chí như
sau: “Công chúng báo chí thuộc mọi tầng lớp xã hội, tuổi tác, giới tính, trình
16
độ học vấn... Nói đến công chúng của truyền thông đại chúng là nói đến cá
nhân nặc danh. Khi hướng đến đại chúng, báo chí không thể biết cụ thể ai là
ai, điều đó có nghĩa là truyền thông đại chúng có thể đến với bất kỳ ai, không
riêng một cá nhân nào”.
PGS.TS Nguyễn Văn Dững trong quyển Cơ sở Lý luận Báo chí (Nhà
xuất bản Lao động 2012) cho rằng: “Công chúng báo chí là quần thể dân cư
hay nhóm đối tượng mà báo chí hướng tác động của mình vào để cung cấp,
trao đổi và chia sẻ thông tin, thuyết phục gây ảnh hưởng có thể làm thay đổi
nhận thức, thái độ, hành vi của họ theo mục đích thông tin nhất định. Vế khía
cạnh kinh tế, công chúng báo chí là khách hàng của báo chí; trên khía cạnh
xã hội, là lực lượng quan trọng, quyết định vai trò, vị thế xã hội của cơ quan
báo chí”[14, tr.35].
Còn tác giả Trần Bá Dung trong nghiên cứu Nhu cầu tiếp nhận thông
tin báo chí của công chúng Hà Nội nêu: “Công chúng báo chí là nhóm lớn
dân cư, không đồng nhất trong xã hội, được báo chí hướng vào để tác động
hoặc chịu ảnh hưởng tác động của báo chí và có tác động trở lại, giám sát,
đánh giá, quyết định hiệu quả hoạt động của cơ quan báo chí”[6, tr.78].
Từ những góc nhìn trên cho thấy, công chúng báo chí truyền thông là
một thực thể rất phức tạp. Công chúng báo chí là khái niệm dùng để
chỉ những người tiếp nhận sản phẩm báo chí. Công chúng báo chí được xem
xét trong mối quan hệ với tác phẩm báo chí, với cơ quan báo chí và với nhà
báo. Việc nghiên cứu công chúng đòi hỏi phải có cái nhìn tổng hợp, toàn diện
và đặt đối tượng nghiên cứu trong môi trường văn hóa - xã hội cụ thể. Bên
cạnh đó, tùy theo đặc điểm của mỗi loại hình báo chí mà có thể xác định
những khác biệt của từng loại công chúng. Chẳng hạn như với báo in, công
chúng là bạn đọc (độc giả); với báo phát thanh, công chúng là người nghe
18