Luận văn hoàn thiện hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa tại công ty tnhh sản xuất công nghiệp việt d.e.l.t.a
- 103 trang
- file .doc
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
I/ MỤC ĐÍCH VÀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Sau một thời gian đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các doanh
nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã bộc lộ khá nhiều mặt
mạnh cũng như mặt yếu của mình. Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời
trong công cuộc đổi mới. Họ ngày càng có vai trò quan trọng đóng góp vào tốc độ
tăng trưởng kinh tế của đất nước, hội nhập quốc tế, giữ vững an sinh xã hội, thu hút
và sử dụng được nhiều lao động, đóng góp cho ngân sách, xoá đói giảm nghèo,
bảo đảm các yếu tố bền vững cho phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Song nhìn lại
quá trình phát triển và hiện tại, hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đang đứng trước những khó khăn và thách thức.
Công ty Việt D.E.L.T.A là một doanh nghiệp mới và ra đời trong cơ chế thị
trường. Cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác, công ty đang phải đối đầu
với những khó khăn trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Công ty hoạt động
kinh doanh với quy mô nhỏ nên trong bối cảnh kinh tế hiện nay những thách thức
và khó khăn về vốn, về xây dựng thương hiệu, về công nghệ, về nguồn nhân lực,
về pháp lý....là không thể tránh khỏi. Song những vấn đề này lại hết sức quan trọng
vì: Danh tiếng và thương hiệu được coi là tài sản quý giá và là vũ khí cạnh tranh
hữu hiệu; Khả năng về tài chính, khả năng giữ được nhân viên giỏi là một trong
những điểm mạnh giúp doanh nghiệp có đủ sức cạnh tranh với các đối thủ của
mình; Chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh đầy lợi hại trên thị trường; Nhân
viên giỏi là một trong những nhân tố quyết định chất lượng của công việc, quyết
định hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh….Do đó, để xâm nhập vào được
các thị trường trên Thế giới như thị trường châu Mỹ, châu Âu và các châu lục khác
công ty Việt D.E.L.T.A cần phải xây dựng được cho mình một danh tiếng về thương
hiệu, về chất lượng hàng hóa…
Hiện nay, các nền kinh tế nằm trong top 10 lớn nhất Thế giới như Đức, Pháp,
Trung Quốc, Nhật, Ấn Độ, Brazil vừa công bố tăng trưởng kinh tế quý 2/2009 ở
mức dương và các nền kinh tế trong khu vực như Đài Loan, Singapore, Indonesia,
Hàn Quốc và Hồng Kông cũng đều đã thông báo về sự khởi sắc mạnh mẽ của tăng
trưởng GDP. Trong đó tăng trưởng xuất khẩu là động lực chính đưa kinh tế các
nước như Đức, Nhật, Trung Quốc thoát suy thoái. Điều này chứng tỏ kinh doanh
xuất khẩu đã chiếm một vị trí quan trọng như thế nào trong nền kinh tế. Ngoài ra,
tình hình trên còn đánh dấu sự trở lại với sức tăng trưởng nhanh chóng và việc
cạnh tranh trên thị trường Quốc tế sẽ ngày càng gay gắt, khốc liệt hơn trước.
Nhưng khả năng cạnh tranh của công ty Việt D.E.L.T.A còn yếu vì chưa chuẩn bị
cho mình một hành trang đầy đủ; do có sự hạn chế về vốn, công nghệ, năng lực và
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 1
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
bộ máy quản lý điều hành chưa tốt; chưa có đủ thông tin về thị trường, chưa có
được vũ khí cạnh tranh đem lại sức mạnh để đương đầu với các đối thủ, mang lại
lợi thế cạnh tranh bền vững. Do vậy, yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh của
công ty trong giai đoạn hiện nay là vấn đề cấp thiết.
Với tình hình đó, việc ứng dụng Thương mại điện tử là một giải pháp, một
công cụ hữu dụng hỗ trợ đắc lực cho công ty trong việc mở rộng thị trường kinh
doanh xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường Quốc tế. Tuy hiện
nay công ty đã và đang ứng dụng Thương mại điện tử nhưng chỉ ở mức độ sơ cấp
và chưa chuyên nghiệp. Do đó, công ty cần coi việc triển khai các quy trình Thương
mại điện tử là một nhân tố thiết yếu trong việc nâng cao sức cạnh tranh, tác động
trực tiếp lên triển vọng gia tăng doanh số bán hàng; ứng dụng Thương mại điện tử
là một phần của chiến lược kinh doanh tổng thể của công ty, là nhân tố nền tảng
cho chiến lược phát triển kinh doanh dài hạn.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã và đang đem lại những chuyển biến
mạnh mẽ trên toàn Thế giới. Việc áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kinh
tế đem lại những lợi ích to lớn cho toàn xã hội. Thương mại điện tử là lĩnh vực hoạt
động kinh tế không còn xa lạ với nhiều quốc gia . Người ta không còn phải mất
nhiều thời gian ,công sức, tiền bạc .... cho những giao dịch kinh tế. Việc áp dụng
Thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh là một xu thế tất yếu của mọi thời
đại, và Việt nam – trong quá trình hội nhập không nằm ngoài xu hướng phát triển
đó. Tuy Thương mại điện tử không còn là vấn đề mới mẻ ở Việt Nam, nhưng rất
nhiều doanh nhân Việt Nam thậm chí còn chưa hiểu rõ bản chất , lợi ích của
Thương mại điện tử chứ chưa nói đến việc áp dụng nó. Do đó, quá trình phát triển
Thương mại điện tử ở Việt nam còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc đòi hỏi phải có
những công trình nghiên cứu khách quan về quy luật vận động và phát triển
Thương mại điện tử để từ đó xây dựng và triển khai chiến lược phát triển lĩnh vực
hoạt động thương mại này vào trong hoạt động phát triển nền kinh tế quốc gia,
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập.
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 2
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
II/MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ:
1. Khái niệm , bản chất của thương mại điện tử:
1.1 Khái niệm về thương mại điện tử:
Thương mại điện tử là hình thức mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua
mạng máy tính toàn cầu. Thương mại điện tử theo nghĩa rộng được định nghĩa
trong Luật mẫu về Thương mại điện tử của Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật Thương
mại Quốc tế (UNCITRAL):
“Thuật ngữ Thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các
vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có
hợp đồng . Các quan hệ mang tính thương mại bao gồm các giao dịch sau đây : bất
cứ giao dịch nào về thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch
vụ ; thỏa thuận phân phối ; đại diện hoặc đại lý thương mại ,ủy thác hoa hồng ; cho
thuê dài hạn ; xây dựng các công trình ; tư vấn ; kỹ thuật công trình ; đầu tư ;cấp
vốn ; ngân hàng ; bảo hiểm ; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng ; liên doanh các
hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh ; chuyên chở hàng hóa hay
hành khách bằng đường biển , đường không , đường sắt hoặc đường bộ.”
Như vậy , có thể thấy rằng phạm vi của Thương mại điện tử rất rộng , bao
quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ
là một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của Thương mại điện tử . Theo nghĩa hẹp
Thương mại điện tử chỉ gồm các hoạt động thương mại được tiến hành trên mạng
máy tính mở như Internet . Trên thực tế , chính các hoạt động thương mại thông
qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ Thương mại điên tử.
Thương mại điện tử gồm các hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ qua
phương tiện điện tử , giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng , chuyển tiền
điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử , vận đơn điện tử , đấu giá thương mại, hợp tác
thiết kế , tài nguyên mạng, mua sắm công cộng , tiếp thị trực tuyến với người tiêu
dùng và các dịch vụ sau bán hàng . Thương mại điện tử được thực hiện đối với cả
thương mại hàng hóa ( ví dụ như hàng tiêu dùng , các thiết bị y tế chuyên dụng ) và
thương mại dịch vụ ( ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin , dịch vụ pháp lý , tài
chính ); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khỏe , giáo dục) và các
hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo ). Thương mại điện tử đang trở thành một cuộc
cách mạng làm thay đổi cách thức mua sắm cuả con người.
1.2 Các đặc trưng của Thương mại điện tử:
So với các hoạt động thương mại truyền thống ,Thương mại điện tử có một
số điểm khác biệt cơ bản sau:
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 3
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
a/ Các bên tiến hành giao dịch trong Thương mại điện tử không tiếp xúc trực
tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước.
Trong thương mại truyền thống ,các bên gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành
giao dịch . Các giao dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc vật lý như chuyển
tiền, séc hóa đơn, vận đơn, gửi báo cáo . Các phương tiện viễn thông như: fax,
telex,…chỉ được sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh . Tuy nhiên, việc sử dụng
các phương tiện điện tử trong thương mại truyền thống chỉ để chuyển tải thông tin
một cách trực tiếp giữa hai đối tác của cùng một giao dịch.
Thương mại điện tử cho phép mọi người cùng tham gia từ các vùng xa xôi
hẻo lánh đến các khu vực đô thị lớn , tạo điều kiện cho tất cả mọi người ở khắp mọi
nơi đều có cơ hội ngang nhau tham gia vào thị trường giao dịch toàn cầu và không
đòi hỏi nhất thiết phải có mối quen biết với nhau.
b/ Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của
khái niệm biên giới quốc gia, còn Thương mại điện tử được thực hiện trong một thị
trường không có biên giới ( thị trường thống nhất toàn cầu). Thương mại điện tử
trực tiếp tác động đến môi trường cạnh tranh toàn cầu.
Thương mại điện tử càng phát triển thì máy tính cá nhân trở thành cửa sổ
cho doanh nghiệp hướng ra thị trường trên khắp Thế giới . Với Thương mại điện
tử ,một doanh nhân dù mới thành lập đã có thể kinh doanh ở Nhật Bản , Đức và
Chilê…, mà không hề phải bước ra khỏi nhà , một công việc trước kia phải mất
nhiều năm.
c/ Trong hoạt động giao dịch Thương mại điện tử đều có sự tham gia của ít
nhất ba chủ thể , trong đó có một bên không thể thiếu được là người cung cấp dịch
vụ mạng , các cơ quan chứng thực.
Trong Thương mại điện tử, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch
giống như giao dịch thương mại truyền thống đã xuất hiện một bên thứ ba đó là nhà
cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực ….là những người tạo môi trường
cho các giao dịch Thương mại điện tử . Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan
chứng thực có nhiệm vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao
dịch thương mại điện tử , đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin
trong giao dịch Thương mại điện tử.
d/ Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện
để trao đổi dữ liệu ,còn đối với Thương mại điện tử thì mạng lưới thông tin chính là
thị trường.
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 4
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
Thông qua Thương mại điện tử ,nhiều loại hình kinh doanh mới được hình
thành. Ví dụ : các dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng máy tính hình thành nên các
nhà trung gian ảo làm các dịch vụ môi giới cho giới kinh doanh và tiêu dùng ; các
siêu thị ảo được hình thành để cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên mạng máy tính.
Các trang web khá nổi tiếng như Yahoo!, America Online hay Google đóng
vai trò quan trọng cung cấp thông tin trên mạng . Các trang Web này đã trở thanh
các “khu chợ” khổng lồ trên Internet. Với mỗi lần nhấn chuột , khách hàng có khả
năng truy cập vào hàng ngàn cửa hàng ảo khác nhau và tỷ lệ khách hàng vào hàng
ngàn cửa hàng ảo khác nhau hay tỷ lệ khách hàng vào thăm rồi mua hàng là rất
cao. Người tiêu dùng đã bắt đầu mua trên mạng một số các loại hàng trước đây
được coi là khó bán trên mạng . Nhiều người sẵn sàng trả thêm một chút tiền còn
hơn là phải đi tới tận cửa hàng . Một số công ty đã mời khách may đo quần áo tên
mạng, tức là khách hàng chọn kiểu, gửi số đo theo hướng dẫn tới cửa hàng (qua
Internet) rồi sau một thời gian nhất định nhận được bộ quần áo theo đúng yêu cầu
của mình . Điều tưởng như không thể thực hiện được này cũng có rất nhiều người
hưởng ứng.
Các chủ cửa hàng thông thường ngày nay cũng đang đua nhau đưa thông tin
lên Web để tiến tới khai thác mảng thị trường rộng lớn trên Web bằng cách mở cửa
hàng ảo.
2. Lợi ích của Thương mại điện tử:
Những lợi ích mà Thương mại điện tử mang lại cho doanh nghiệp cụ thể như
sau :
_Thu thập được nhiều thông tin: với việc tham gia vào môi trường Thương
mại điện tử toàn cầu , doanh nghiệp có cơ hội được tiếp cận với nguồn thông tin đa
dạng và khổng lồ qua đó có cơ hội lựa chọn các thông tin phù hợp nhất cho hoạt
động kinh doanh của mình.
_Giảm chi phí bán hàng , tiếp thị và giao dịch :
+ Thương mại điện tử giúp giảm chi phí văn phòng . Điều quan trọng hơn ,
với góc độ chiến lược, là các nhân viên có năng lực giải phóng khỏi nhiều công
đoạn , có thể tập trung phát triển vào công việc chính , đưa đến nhiều lợi ích to lớn
lâu dài.
+ Thương mại điện tử giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị
bằng phương tiện Internet web , một nhân viên bán hàng có thể giao dịch với rất
nhiều khách hàng , catalogue điện tử trên web phong phú hơn nhiều và thường
xuyên cập nhật so với catalogue in ấn chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi
thời.
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 5
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
+ Thương mại điện tử qua Internet web giúp các nhà xuất nhập khẩu và
các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch . Trong những yếu tố
cắt giảm , yếu tố thời gian là đáng kể nhất , vì việc nhanh chóng làm cho thông tin
hàng hóa tiếp cận với khách hàng (mà không phải qua trung gian) có ý nghĩa sống
còn đối với buôn bán và cạnh tranh buôn bán . Ngoài ra ,việc giao dịch nhanh
chóng sớm nắm bắt được nhu cầu của thị trường.
_Tăng chất lượng phục vụ khách hàng : Sử dụng các tiện ích của Thương
mại điện tử , doanh nghiệp có thể nhanh chóng cung cấp cho khách hàng các
catalogue , brochure , bảng giá , Hợp đồng một cách gần như tức thời . Bên cạnh
đó với website bán hàng của mình , doanh nghiệp tạo điều kiện cho khách hàng có
cơ hội lựa chọn sản phẩm phù hợp với đầy đủ các thông tin mà không cần thiết
phải tới tận trụ sở hay xưởng sản xuất của doanh nghiệp.
_Tăng doanh thu: Do một trong những đặc trưng của Thương mại điện tử là
thị trường không biên giới nên chính vì thế giúp cho doanh nghiệp có cơ hội quảng
bá thông tin sản phẩm , dịch vụ của mình ra thị trường toàn cầu qua đó giúp tăng số
lượng khách hàng và tăng doanh thu. Bên cạnh đó , với các tiện ích và công cụ
hiệu quả của Thương mại điện tử sẽ giúp cho doanh nghiệp không còn thụ động
ngồi chờ khách hàng đến mà sẽ chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng qua đó
góp phần đẩy nhanh doanh thu của doanh nghiệp.
_Tạo lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp : Khi ứng dụng Thương mại điện tử
khoảng cách về vốn , thị trường , nhân lực và khách hàng sẽ bị thu hẹp lại do bản
thân doanh nghiệp đó có thể cắt giảm nhiều chi phí . Hơn thế nữa , với lợi thế của
kinh doanh trên mạng sẽ giúp cho doanh nghiệp tạo ra bản sắc riêng về một
phương thức mới khác với hình thức kinh doanh truyền thống.
_ Xây dựng quan hệ với đối tác: Thương mại điện tử tạo điều kiện cho việc
thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các thành viên tham gia vào quá trình thương
mại: thông qua mạng (Internet /Web) các thành viên tham gia ( người tiêu thụ,
doanh nghiệp, cơ quan chính phủ…) có thể giao tiếp trực tiếp ( liên lạc “trực tuyến” )
và liên tục với nhau, có cảm giác như không có khoảng cách về địa lý và thời gian
nữa; nhờ đó sự hợp tác và sự quản lý đều được tiến hành nhanh chóng một cách
liên tục: các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới được phát hiện nhanh chóng
trên phạm vi toàn quốc, toàn khu vực, toàn Thế giới và có nhiều cơ hội để lựa chọn
hơn.
_ Tạo điều kiện sớm tiếp cận kinh tế tri thức: Trước hết, Thương mại điện tử
sẽ kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin tạo cơ sở cho phát triển
kinh tế tri thức. Lợi ích này có một ý nghĩa lớn đối với các nước đang phát triển: nếu
không nhanh chóng tiếp cận nền kinh tế tri thức thì sau khoảng một thập kỷ nữa,
nước đang phát triển có thể bị bỏ rơi hoàn toàn. Khía cạnh lợi ích này mang tính
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 6
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
chiến lược công nghệ và tính chính sách phát triển cần cho các nước công nghiệp
hóa.
3. Các hình thức hoạt động và giao dịch Thương mại điện tử:
3.1 Các hình thức hoạt động Thương mại điện tử:
a/ Thư tín điện tử (E-mail):
Giống như trao đổi thư từ bình thường , các đối tác ( Người tiêu thụ , Doanh
nghiệp, các Cơ quan Chính phủ) sử dụng thư điện tử để gửi thông tin cho nhau một
cách “trực tuyến” thông qua mạng , gọi là thư tín điện tử (electronic mail , gọi tắc là
e-mail) . Thư tín điện tử có tốc độ truyền nhanh , có thể gửi cùng một lúc một nội
dung cho nhiều đối tượng vào mọi lúc , ở mọi nơi trên Thế giới , ngoài ra cước phí
của thư điện tử lại thấp hơn nhiều so với gửi thư qua bưu điện và điện thoại.
b/ Thanh toán điện tử (Electronic payment):
Thanh toán điện tử là việc thanh toán tiền thông qua thông điệp điện tử
( Electronic message) thay cho việc trao tay tiền mặt . Việc trả lương bằng cách
chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản ,trả tiền mua hàng bằng thẻ mua hàng , thẻ tín
dụng v..v.. đã quen thuộc lâu nay thực chất đều là các dạng thanh toán điện tử . Với
sự phát triển của Thương mại điện tử , thanh toán điện tử đã mở rộng sang lĩnh vực
mới đáng đề cập là:
+Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial Electronic Data Interchange, gọi
tắc là FEDI) chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện tử giữa các công ty giao dịch
với nhau bằng điện tử.
+Tiền mặt Internet (Internet Cash)
Là tiền mặt được mua từ một nơi phát hành ( Ngân hàng hoặc tổ chức tín
dụng ) , sau đó được chuyển đổi tự do sang các đồng tiền khác thông qua Internet ,
áp dụng trong phạm vi cả một nước cũng như giữa các quốc gia . Tất cả đều được
thực hiện bằng kỹ thuật số hóa , vì thế tiền mặt này còn có tên gọi là “tiền mặt số
hóa” (Digital cash) . Công nghệ đặc thù chuyên phục vụ mục đích này có tên gọi là
“mã hóa khóa công khai / bí mật” (Public / Private key Crytography) . Tiền mặt
Internet được người mua hàng mua bằng đồng nội tệ , rồi dùng Internet để chuyển
cho người bán hàng.
+Túi tiền điện tử ( Electronic purse: còn gọi tắt là “ví điện tử”)
Nói đơn giản là nơi để tiền mặt Internet mà chủ yếu là thẻ thông minh (Smart
card , còn có tên gọi là thẻ giữ tiền :stored value card) . Tiền được trả cho bất cứ ai
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 7
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
đọc được thẻ đó . Kỹ thuật của túi tiền điện tử về cơ bản là kỹ thuật “mã hóa khóa
công khai / bí mật ” tương tự như kỹ thuật áp dụng cho “tiền mặt Internet”.
+Thẻ thông minh (Smart card)
Nhìn bề ngoài như thẻ tín dụng ,nhưng ở mặt sau của thẻ , thay vì cho dải
từ , lại là một chip máy tính điện tử có một bộ nhớ nhỏ để lưu trữ tiền số hóa .Tiền
ấy chỉ được “chi trả” khi người sử dụng và thông điệp (ví dụ xác nhận thanh toán
hóa đơn) được xác thực là “đúng”.
+ Giao dịch ngân hàng số hóa (Digital banking) và Giao dịch chứng khoán số
hóa (Digital securities trading) :
Hệ thống thanh toán điện tử của Ngân hàng là một đại hệ thống : (1) Thanh
toán giữa Ngân hàng với khách hàng (qua điện thoại , các điểm bán lẻ , các ki-ốt ,
giao dịch cá nhân tại nhà , giao dịch tại trụ sở khách hàng , giao dịch qua Internet ,
chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng, vấn tin...) ,(2) Thanh toán giữa Ngân hàng với các
đại lý thanh toán (nhà hàng, siêu thị...) ,(3) Thanh toán trong nội bộ một hệ thống
Ngân hàng ,(4) Thanh toán giữa hệ thống Ngân hàng này với hệ thống Ngân hàng
khác.
c/ Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic data interchange):
Trao đổi dữ liệu điện tử (gọi tắt là EDI ) là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng
“có cấu trúc” (structured form) từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác ,
giữa các công ty hay tổ chức đã thỏa thuận buôn bán với nhau theo cách này một
cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người (gọi là dữ liệu có cấu
trúc , vì các bên đối tác phải thỏa thuận từ trước khuôn dạng cấu trúc của các thông
tin).
EDI này càng được sử dụng rộng rãi trên bình diện toàn cầu , chủ yếu phục
vụ cho mua và phân phối hàng ( gửi đơn hàng , các xác nhận , các tài liệu , hóa
đơn v..v..) , nhưng cũng dùng cho các mục đích khác nữa như thanh toán tiền khám
bệnh , trao đổi các kết quả xét nghiệm v.v…EDI chủ yếu được thực hiện thông qua
các mạng ngoại bộ (extranet) và thường được gọi là “thương mại võng mạng” (net-
commerce) . Cũng có cả hình thức “EDI hỗn hợp” (Hybid EDI) dùng cho trường hợp
chỉ có một bên đối tác dùng EDI, còn bên kia vẫn dùng các phương thức thông
thường (như Fax , thư tín qua bưu điện) .
EDI được áp dụng từ trước khi có Internet . Khi ấy người ta dùng “mạng giá
trị gia tăng” (Value Added Network : VAN) để liên kết các đối tác EDI với nhau ; cốt
lõi của VAN là một hệ thống thư tín điện tử cho phép các máy tính điện tử liên lạc
được với nhau và hoạt động như một phương tiện điện tử và tìm gọi . Khi nối vào
VAN , một doanh nghiệp có thể liên lạc được với hàng ngàn máy tính điện tử nằm
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 8
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
ở hàng trăm thành phố trên khắp thế giới . Nay EDI chủ yếu được thực hiện thông
qua Internet.
Thương mại điện tử qua biên giới (Crosss-border electronic commerce) về
bản chất chính là trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) giữa các doanh nghiệp mà được
thực hiện giữa các đối tác ở các quốc gia khác nhau, với các nội dung:
Giao dịch kết nối.
Đặt hàng.
Giao dịch gửi hàng (shipping)
Thanh toán.
Trên bình diện này, nhiều khía cạnh còn phải tiếp tục xử lý ,đặc biệt là buôn
bán giữa các nước có chính sách ,và luật pháp thương mại khác nhau về căn bản,
đòi hỏi phải có từ trước một dàn xếp pháp lý trên nền tảng thống nhất quan điểm về
tự do hóa thương mại và tự do hóa việc sử dụng Internet . Chỉ như vậy mới đảm
bảo được tính khả thi , tính an toàn , và tính có hiệu quả cao của trao đổi dữ liệu
điện tử (EDI).
d/ Giao dịch số hóa của các dung liệu (Digital Delivery of Content) :
Dung liệu (content) là các hàng hóa mà người ta cần đến nội dung của nó
( hay nói cách khác chính nội dung là hàng hóa ) mà không phải bản thân vật mang
nội dung ,ví dụ như: tin tức , sách báo , nhạc , phim , các chương trình phát thanh ,
truyền hình , chương trình phần mềm . Các ý kiến tư vấn , vé bán máy bay , vé xem
phim , xem hát , hợp đồng bảo hiểm v..v.. nay cũng được đưa vào danh mục các
dung liệu.
Trước đây dung liệu cũng được trao đổi dưới dạng hiện vật (Physical form)
bằng cách đưa vào đĩa ,vào băng , in thành sách báo , thành văn bản , đóng gói
bao bì chuyển đến tay người sử dụng, hoặc đến điểm phân phối (như cửa hàng ,
quầy báo v..v..) để người sử dụng đến mua và nhận trực tiếp . Ngày nay, dung liệu
được số hóa và truyền gửi theo mạng , gọi là “giao gửi số hóa” (Digital delivery) .Vì
vậy , hiện nay các loại thông tin kinh tế và kinh doanh trên Internet đều rất phong
phú ,và một nhiệm vụ quan trọng của công tác thông tin ngày nay là khai thác Web
và phân tích tổng hợp các thông tin nhận được.
e/ Mua bán hàng hóa hữu hình (Retail of Tangible Goods):
Tận dụng tính đa năng phương tiện (Multimedia) của môi trường Web và
Java, người bán hàng xây dựng trên mạng các “cửa hàng ảo” (Virtual shop) để thực
hiện việc mua - bán hàng. Khách hàng tìm trang Web của cửa hàng , xem hàng hóa
hiển thị trên màn hình, xác nhận mua hàng ,và trả tiền bằng thanh toán điện tử .Vì
là hàng hóa hữu hình , nên tất yếu sau đó các cửa hàng phải dùng tới các phương
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 9
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
tiện gửi hàng truyền thống để đưa hàng tới tay Người tiêu dùng. Do đó, khách hàng
có thể mua hàng tại nhà (Home shopping) , mà không phải đích thân đi tới cửa
hàng.
3.2 Các hình thức giao dịch của Thương mại điện tử:
Người tiêu dùng
B2C G2C
B2G
Doanh nghiệp Chính phủ
INTERNET
B2B G2G
Doanh nghiệp Chính phủ
Hình 1: Mô hình các giao dịch Thương mại điện tử
Trong Thương mại điện tử có ba chủ thể tham gia : Doanh nghiệp (Business -
B) giữ vai trò động lực phát triển Thương mại điện tử , Người tiêu dùng (Customer -
C) giữ vai trò quyết định thành công của Thương mại điện tử và Chính phủ
(Government - G) giữ vai trò định hướng , điều tiết và quản lý . Từ các mối quan hệ
giữa các chủ thể trên ta có các loại giao dịch Thương mại điện tử chủ yếu sau:
+ Doanh nghiệp với Doanh nghiệp ( Business to Business - B2B)
+ Doanh nghiệp với Người tiêu dùng ( Business to Customer - B2C)
+ Doanh nghiệp với Cơ quan Chính phủ ( Business to Government - B2G)
+ Người tiêu dùng với Người tiêu dùng ( Customer to Customer – C2C)
+ Cơ quan Chính Phủ với Người tiêu dùng ( Government to Customer - G2C)
+ Các Cơ quan Chính phủ với nhau (Government to Government - G2G)
Trong các loại giao dịch nói trên thì giao dịch thương mại B2B và B2C là hai
loại hình giao dịch Thương mại điện tử quan trọng nhất.
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 10
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
a/ Giao dịch Business to Business (B2B):
Hình 2: Các loại hình giao dịch B2B
Thương mại điện tử B2B là việc thực hiện các giao dịch giữa các Doanh
nghiệp với nhau trên mạng . Ta thường gọi là giao dịch B2B . Các bên tham gia
giao dịch B2B gồm : người trung gian trực tuyến (ảo hoặc click – and – mortar),
người mua và người bán. Các loại giao dịch B2B gồm : mua ngay theo yêu cầu khi
giá cả thích hợp và mua theo hợp đồng dài hạn , dựa trên đàm phán cá nhân giữa
người mua và người bán.
Các loại giao dịch B2B cơ bản :
+ Bên bán – (một bên bán-nhiều bên mua) là mô hình dựa trên công nghệ
Web trong đó một công ty bán cho nhiều công ty mua . Có 3 phương pháp bán trực
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 11
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
tiếp trong mô hình này : Bán từ catalog điện tử , Bán qua quá trình đấu giá , Bán
theo hợp đồng cung
ứng dài hạn đã thỏa thuận trước .Công ty bán có thể là nhà sản xuất hoặc click –
and – mortar hoặc nhà trung gian thông thường là nhà phân phối hay đại lý.
+ Bên mua – một bên mua-nhiều bên bán
+ Sàn giao dịch – nhiều bên bán-nhiều bên mua
+ Thương mại điện tử phối hợp – các đối tác phối hợp nhau ngay trong quá
trình thiết kế chế tạo sản phẩm.
Hiện nay Thương mại điện tử B2B phát triển với tốc độ rất nhanh ( chiếm tới
trên 80% doanh số Thương mại điện tử trên toàn cầu ) và ngày càng trở nên phổ
biến ở Việt Nam, bởi nó hỗ trợ rất nhiều cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc
kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài, đem lại nhiều lợi ích cho các doanh
nghiệp, ví dụ như doanh nghiệp có thể rút ngắn chu trình sản xuất nhờ kết hợp với
các doanh nghiệp khác , mỗi bên chuyên môn hóa về một lĩnh vực , hay doanh
nghiệp có thể tiết kiệm được thời gian và chi phí cho việc tìm và mua nguyên vật
liệu phục vụ cho quá trình sản xuất của mình do doanh nghiệp mua nguyên vật liệu
của nhà cung cấp là người bán hàng trực tuyến qua mạng. Một trong những điển
hình trên Thế giới thành công trong hoạt động theo mô hình B2B là Alibaba.com
của Trung Quốc.
b/ Giao dịch Business to Customer (B2C):
Là thương mại giữa các Doanh nghiệp và Người tiêu dùng liên quan đến việc
khách hàng thu thập thông tin, mua các hàng hoá hữu hình (như sách, các sản
phẩm tiêu dùng...) sản phẩm thông tin hàng hoá về nguyên liệu điện tử hoặc nội
dung số hoá như phần mềm, sách điện tử và các thông tin, nhận sản phẩm qua
mạng điện tử. Một trong những công ty kinh doanh thành công trên Thế giới theo
mô hình này là Amazon.com với việc kinh doanh bán lẻ qua mạng các sản phẩm
như sách, đồ chơi, đĩa nhạc, sản phẩm điện tử, phần mềm và các sản phẩm gia
đình.
c/ Giao dịch Business to Government ( B2G)
Thương mại điện tử giữa Doanh nghiệp và Chính phủ được hiểu chung là
thương mại giữa các doanh nghiệp và khối hành chính công . Nó bao hàm việc sử
dụng Internet cho mua bán công, thủ tục cấp phép và các hoạt động có liên quan tới
Chính phủ . Hình thức này có thể phát triển nhanh chóng nếu như có một hệ thống
quản lý thống nhất về thuế , thanh toán bằng tài khoản trực tiếp trên mạng Internet
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 12
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
giữa Doanh nghiệp và Nhà nước . Giao dịch B2G sẽ giúp tiết kiệm thời gian và
tránh gây phiền hà cho doanh nghiệp.
d/ Giao dịch Customer to Customer (C2C)
Là thương mại điện tử giữa các Cá nhân và Người tiêu dùng với nhau. Đây
cũng được coi là mô hình kinh doanh có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng và ngày
càng phổ biến. Hình thái dễ nhận ra nhất của mô hình này là các Website bán đấu
giá trực tuyến, rao vặt trên mạng. Một trong những thành công vang dội của mô
hình này là trang Web đấu giá eBay. Được thành lập tháng 9/1995, hiện nay eBay
là chợ đấu giá điện tử lớn nhất Thế
giới dành cho việc mua bán các sản phẩm cho các khách hàng riêng lẻ và các
doanh nghiệp nhỏ. Trên eBay có tới 55 triệu sản phẩm nằm trong 50.000 danh mục
ngành hàng với 157 triệu thành viên trên toàn Thế giới.
e/ Giao dịch Government to Customer (G2C)
Thương mại điện tử giữa Người tiêu dùng với các Cơ quan Chính phủ nhằm
vào mục đích: các công nhân trả tiền cho các dịch vụ công cộng của Nhà nước như
dịch vụ mua vé máy bay , mua vé tàu hoặc nộp thuế thu nhập cho Nhà nước hay
các phí , lệ phí trả cho các dịch vụ khác ; còn Chính phủ thực hiện chi trả các khoản
trợ cấp xã hội cho các cá nhân thông qua mạng Internet.
f/ Giao dịch Government to Government (G2G) :
Giao dịch này có diễn ra nhưng chiếm tỷ trọng rất ít ,không đáng kể.
4. Hình thái hợp đồng Thương mại điện tử:
Thương mại điện tử bao quát cả giao dịch có hợp đồng và giao dịch không có
hợp đồng . Xét riêng về giao dịch có hợp đồng , thì do đặc thù của giao dịch điện
tử , hợp đồng thương mại điện tử có một số điểm khác biệt so với hợp đồng thông
thường (hợp đồng ở dạng văn bản):
Địa chỉ pháp lý của các bên : ngoài địa chỉ địa lý , còn có địa chỉ e-mail , Mã
doanh nghiệp.
Có các quy định về phạm vi thời gian , và phạm vi địa lý của giao dịch.
Có kèm theo các văn bản và ảnh miêu tả sản phẩm hoặc dung liệu trao đổi ,
và quy định trách nhiệm về các sai sót trong văn bản hoặc ảnh chụp.
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 13
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
Có các xác nhận điện tử (chứng nhận / xác thực : các giao dịch ( kể cả cơ
quan chứng thực) về quyền truy cập và cải chính thông tin điện tử, và cách
thực thi quyền này.
Có các quy định đảm bảo rằng giao dịch điện tử được coi là chứng cớ pháp
lý về bản chất và ngày tháng giao dịch.
Có các quy định chi tiết về phương thức thanh toán điện tử.
Có quy định về trung gian đảm bảo chất lượng (nhằm bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dùng).
5. Thực trạng Thương mại điện tử ở Việt nam hiện nay:
5.1 Tình hình về hạ tầng cơ sở cho Thương mại điện tử ở Việt nam hiện nay:
a/ Hạ tầng cơ sở Công nghệ thông tin – Truyền thông:
Công nghệ thông tin (Information technology) gồm hai nhánh: nhánh tính toán
(computing) - cũng gọi là nhánh máy tính , và nhánh truyền thông (communication) ,
trên cơ sở của một nền công nghiệp điện lực vững mạnh, là nền tảng của kinh tế số
hóa nói chung và Thương mại điện tử nói riêng.
Về công nghệ máy tính , người Việt Nam đã biết đến máy tính điện tử từ năm
1968 khi chiếc máy tính đầu tiên do Liên Xô viện trợ được lắp đặt tại Hà Nội. Trong
những năm 1970 ở miền Nam cũng có sử dụng một số máy tính lớn của Mỹ . Tới
cuối những năm 1970, cả nước có khoảng 40 dàn máy tính vạn năng thuộc các
dòng Minsk và ES ở Hà Nội và IBM 360 ở Thành Phố Hồ Chí Minh.
Đầu những năm 1980 , máy tính bắt đầu được nhập khẩu vào Việt Nam , mở
đầu một thời kỳ phát triển nhanh việc Tin học hóa trong nước. Từ năm 1995 là năm
bắt đầu triển khai Chương trình Quốc gia về Công nghệ thông tin , cũng là lúc các
công ty hàng đầu thế giới như IBM , Compaq , HP v..v.. bắt đầu tham gia thị trường
Việt Nam , số lượng máy tính nhập khẩu tăng vọt với tốc độ +50%/năm.
Theo báo cáo toàn cảnh Công nghệ thông tin Việt Nam 2005 của TS Lê
Trường Tùng - Chủ tịch Hội Tin học Thành phố Hồ Chí Minh, thì Việt Nam có hai
thương hiệu máy tính là Elead và CMS vượt qua mức doanh số 5 triệu USD; còn
phần lớn các thương hiệu khác hầu như không tăng trưởng trong năm 2004. Cũng
theo báo cáo này thì FPT Elead đã vượt qua CMS và trở thành thương hiệu máy
tính Việt Nam đầu tiên vượt qua mức doanh số 10 triệu USD. Thành quả của hai
thương hiệu trên phần nào đạt được nhờ chương trình máy tính Thánh Gióng do
các đối tác chính là FPT Elead, Intel và CMS đưa ra với mục đích ủng hộ dự án
máy tính giá rẻ và phổ cập tin học của Chính phủ Việt Nam. Với hai dòng máy có
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 14
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
giá bán từ 5 triệu đến 6 triệu đồng, các đối tác trong Liên minh Thánh Gióng tuyên
bố đã bán được khoảng 25.000 máy tính.
Năm 2008, ngành Công nghiệp Công nghệ thông tin vẫn duy trì tốc độ tăng
trưởng tốt (đạt 20%), trong đó, Công nghiệp phần cứng – điện tử – viễn thông đạt
16%; Công nghiệp phần mềm đạt 35% và Công nghiệp nội dung số đạt 49%. Tổng
doanh thu toàn ngành ước đạt 4,5 tỷ USD.
Tuy nhiên ,gia công phần mềm vẫn còn thua xa các nước láng giềng. Trong
tháng 2/2009, hãng nghiên cứu Gartner công bố báo cáo 10 quốc gia có dịch vụ gia
công phần mềm đứng đầu khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Việt
Nam. Báo cáo này của Gartner đánh giá theo 10 tiêu chí liên quan đến Gia công
phần mềm, gồm kỹ năng ngoại ngữ, hỗ trợ của Chính phủ, nguồn nhân lực, cơ sở
hạ tầng, hệ thống giáo dục, chi phí, sự ổn định kinh tế và chính trị, tương đồng văn
hóa, khả năng toàn cầu hóa, an ninh và bảo vệ quyền riêng tư. Nhưng xét tổng thể
trên các tiêu chí của Gartner, Việt Nam là quốc gia được đánh giá thấp nhất , sau
cả những quốc gia xếp cuối trong bảng xếp hạng này như Philippines , Thái Lan và
Pakistan.
Song, bên cạnh đó, điểm đáng khích lệ cho ngành Công nghiệp Công nghệ
thông tin Việt Nam là việc duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong suốt 5 – 7 năm vừa
qua , khoảng 20 – 30 %/ năm . Đặc biệt , một số đánh giá quốc tế được công bố
trong thời gian gần đây rất khả quan : Chỉ số Chính phủ điện tử Việt Nam tăng 15
bậc sau 3 năm (tức sau năm 2006) ; Chỉ số sẵn sàng kết nối mạng của Việt Nam
( Networked readiness Index – NRI ) tăng hơn 10 bậc so với xếp hạng 2006 - 2007,
đứng vị trí 73 / 127 ; Chỉ số phát triển hạ tầng viễn thông tăng 20 bậc so với năm
2005 , đứng thứ 101. Hiện tại Việt Nam đứng thứ hạng 92 trong bảng xếp hạng của
Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU).
Nói đến Internet thì Việt Nam gia nhập mạng toàn cầu tương đối chậm : tháng
11 năm 1997 mới chính thức bắt đầu nối mạng Internet , tới đầu năm 1999 mới có
khoảng 17000 thuê bao, chủ yếu thông qua ba nhà cung cấp dịch vụ Internet lớn
nhất là VDC (Công ty dịch vụ gia tăng và truyền số liệu) , FPT (Công ty phát triển
đầu tư công nghệ) và Netnam (Viện công nghệ thông tin, thuộc Trung tâm khoa học
tự nhiên và công nghệ Quốc gia).
Theo số liệu thống kê , tính đến cuối năm 2006, đã có 14,7 triệu người sử
dụng Internet tăng 37%, 517.000 thuê bao băng rộng tăng 146% so với năm 2005.
Đến tháng 5/2007, đã có thêm 1,5 triệu người sử dụng internet và khoảng 236.000
thuê bao băng rộng.
Tỷ lệ tiếp cận Internet của Việt Nam trong tháng 7/2009 tăng đáng kể:
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 15
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
Tình hình phát triển Internet tháng 7/ 2009.
Statistics on Internet development upto 7/2009
- Số người sử dụng :
21571409
Users
- Tỉ lệ số dân sử dụng Internet :
25.14 %
Users per capita
- Tổng băng thông kênh kết nối quốc tế của Việt
Nam : 64603 Mbps
Total International connection bandwidth of Vietnam
- Tổng băng thông kênh kết nối trong nước: 94142 Mbps
Total domestic connection bandwidth
Trong đó băng thông kết nối qua trạm trung chuyển
VNIX: 37000 Mbps
Connection bandwidth through VNIX
- Tổng lưu lượng trao đổi qua trạm trung chuyển
VNIX : 41609229 Gbytes
Total VNIX Network Traffic
- Tổng số tên miền .vn đã đăng ký:
112888
Dot VN domain names
- Tổng số tên miền Tiếng Việt đã đăng ký:
4592
Vietnamese domain names
- Tổng số địa chỉ IPv4 đã cấp :
6762496 địa chỉ
Allocated Ipv4 address
- Số lượng địa chỉ IPv6 qui đổi theo đơn vị /64 đã
cấp : 42065885184 /64 địa chỉ
Allocated Ipv6 address
- Tổng thuê bao băng rộng (xDSL) :
2587716
Total broad bandwidth Subscribers
Nguồn: Bộ thông tin và truyền thông
Các doanh nghiệp đến nay hầu như 100% doanh nghiệp đều có máy tính . Tỷ
lệ doanh nghiệp có từ 11 - 20 máy tính tăng dần qua các năm và đến năm 2008 đạt
trên 20%. Tỷ lệ doanh nghiệp đã xây dựng mạng nội bộ năm 2008 đạt trên 88% so
với 84% của năm 2007. Đến nay, có tới 99% số doanh nghiệp đã kết nối Internet ,
trong đó kết nối băng thông rộng chiếm 98% .
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 16
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
Số lượng máy tính 2006 2007 2008
0 máy 0.1% 0.3% 0.1%
Từ 1-10 máy 67.0% 54.8% 56.0%
Từ 11-20 máy 14% 17.9% 20.1%
Từ 21-50 máy 12.2% 16.1% 16.0%
Từ 51-100 máy 3.0% 7.6% 5.1%
Từ 101-200 máy 1.6% 2.7% 2.0%
Trên 200 máy 0.7% 0.7% 0.7%
Nguồn: Bộ Thông tin và Truyền thông
Bảng 1: So sánh sự phân bổ máy tính trong Doanh nghiệp qua các năm 2006 - 2008
Thị trường viễn thông Việt Nam tiếp tục đạt được các bước tiến vượt bậc, hỗ
trợ đắc lực cho các ngành kinh tế khác cùng phát triển đồng thời cải thiện được vị
trí trong bảng xếp hạng viễn thông Châu Á. (Trên bảng xếp hạng phát triển viễn
thông Châu Á, BMI xếp thị trường viễn thông Việt Nam đứng thứ 13 (sau Thái Lan)
về cả quy mô và tốc độ phát triển của cả lĩnh vực cố định, di động và Internet). Tốc
độ tăng trưởng vượt bậc trên là hệ quả của việc gia nhập WTO.
Về ngành điện lực ( là nền của hai nhánh tính toán và truyền thông ) trong
năm 2009, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tập trung đầu tư 49,989 tỷ đồng cho
các dự án điện, trong đó đầu tư thuần là 42,454 tỷ đồng , trả nợ gốc và lãi 6,497 tỷ
đồng , góp vốn vào các công ty cổ phần đầu tư phát triển nguồn điện 1,038 tỷ đồng.
Với số vốn trên, EVN phấn đấu đưa vào vận hành 9 công trình nguồn điện
với tổng công suất 2.696 MW. Đó là các công trình thuỷ điện: Plêikrông, Sê San 4,
Buôn Kuốp, Buôn Tua Srah, Sông Ba Hạ, Bản Vẽ; các dự án nhiệt điện: Quảng
Ninh 1, Hải Phòng 1, Ô Môn 1; đồng thời đôn đốc Nhà thầu Lilama đưa Nhà máy
điện Uông Bí mở rộng 1 vào vận hành trở lại trong tháng 3/2009.
Bên cạnh việc thu xếp vốn cho 3 dự án là Uông Bí mở rộng 2, Huội Quảng và
Bản Chát, EVN phấn đấu khởi công trong năm 2009 bốn dự án nhiệt điện than với
tổng công suất 3.800 MW là Nghi Sơn 1, Mông Dương 1, Duyên Hải 1 và Vĩnh Tân
2. Cùng đó, EVN chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị đầu tư các dự án nhiệt điện
Thái Bình 1, Sông Bung 4, thuỷ điện Lai Châu, thuỷ điện Trung Sơn và các dự án
nhiệt điện Ô Môn 3, Ô Môn 4 ; hoàn thiện báo cáo đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh
Thuận 1 và 2 . Đồng thời, EVN khởi công 185 công trình lưới điện từ 110-220-
500kV; hoàn thành đóng điện 189 công trình, trong đó có 5 công trình lưới điện
500kV và 49 công trình lưới điện 220kV.
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 17
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
b/ Hạ tầng cơ sở nhân lực:
Lực lượng chuyên gia công nghệ thông tin ở Việt Nam hiện nay có thể chia
thành một số nhóm:
Các chuyên gia kiến thức cao , được đào tạo ở nước ngoài hoặc các nhà
toán học nhiều năm qua đã chuyển hướng sang tin học.
Các cử nhân được đào tạo từ khoa tin học của các trường đại học (chủ yếu
là Đại học tổng hợp , Đại học bách khoa) mỗi năm ra trường trên 1000
người . Theo đánh giá của hội Tin học Việt nam , trong vài năm gần đây , các
sinh viên chuyên ngành Tin học khi tốt nghiệp ra trường đã có trình độ khá
cao và trình độ được nâng lên khá nhanh sau khi họ được sử dụng vào thực
tế.
Một lực lượng đông đảo thanh niên đã qua đào tạo tin học trong khi học phổ
thông và đại học , hoặc đào tạo tại các trường , các trung tâm tin học trên
toàn quốc . Số này ước tính vài vạn người.
Ngoài ra cần tính tới đội ngũ Việt kiều am hiểu về Tin học . Lực lượng này
được các nước đánh giá là giỏi, nhiều người có trình độ rất cao (nhất là
những người ở Mỹ , Pháp và Canada), một số người là chuyên gia đầu đàn
của các tổ chức Tin học Thế giới , có người làm cố vấn về phát triển Tin học
cho Tổng thống nước ngoài.
Hạ tầng cơ sở nhân lực nước ta được đánh giá là thông minh , cần cù , sáng
tạo và thích ứng nhanh với các xu hướng phát triển mới của Công nghệ thông tin .
Đặc biệt có khả năng làm việc tốt ngay cả trong những điều kiện khó khăn , thiếu
thốn.
Hiện Việt Nam có 13 trường Đại học, Viện Nghiên cứu đào tạo sau Đại học
về Công nghệ thông tin ; 230 trường Đại học và Cao đẳng có đào tạo về Công nghệ
thông tin, bình quân mỗi năm đào tạo 10.000 chỉ tiêu; 88 trường có đào tạo về Công
nghệ thông tin bậc trung cấp chuyên nghiệp; cùng nhiều chương trình đào tạo quốc
tế... Thế nhưng, hiện chưa hình thành hệ thống chứng chỉ quốc gia về đào tạo Công
nghệ thông tin để việc đào tạo được chuẩn hóa và liên thông, cũng như việc công
nhận chất lượng. Chương trình đào tạo chưa theo kịp nhu cầu phát triển, đội ngũ
giảng viên, giáo viên vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về năng lực nghề nghiệp, kỹ
năng thực hành, thiếu kiến thức cơ bản về phương pháp giảng dạy... Cơ sở vật
chất, phòng thí nghiệm, trang thiết bị phục vụ công tác đào tạo nghiên cứu khoa học
trong lĩnh vực Công nghệ thông tin còn thiếu và nhanh lạc hậu nhưng không kịp bổ
sung... Từ những nguyên nhân đó, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực Công nghệ
thông tin ở Việt Nam là vấn đề nan giải, khi vẫn chưa theo kịp trình độ của một số
nước tiên tiến trong khu vực, nhiều doanh nghiệp sau khi tuyển kỹ sư là cử nhân
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 18
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
Đại học, Cao đẳng hoặc học viên trường nghề đã phải đào tạo lại. Sự trì trệ về
Công nghệ thông tin do việc thiếu trầm trọng nguồn nhân lực khiến nhiều chuyên
gia ngoại quốc đánh giá tiềm năng Công nghệ thông tin của Việt Nam thua xa nhiều
nước trong khu vực và do đó khó có cơ hội tiếp cận với tốc độ bùng nổ Công nghệ
thông tin trên khắp Thế giới hiện nay.
Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực một cách chính qui cho Thương mại điện tử
ở nước ta bắt đầu chưa lâu. Ngày 15/9/2005 chúng ta mới có Quyết định 222/QĐ -
phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển Thương mại điện tử, trong đó có dự án đầu
tư nguồn nhân lực Thương mại điện tử tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề. Trước đó, một số học viện, trường cũng có đào
tạo nhưng các tiêu chí từ giáo viên, giáo trình cho đến hình thức thi tuyển, đào tạo,
công nhận (bằng, chứng chỉ, chứng nhận...) chưa được qui chuẩn thống nhất.
Theo kết quả điều tra, khảo sát của Bộ Công Thương về tình hình đào tạo
Thương mại điện tử tại các trường Đại học và Cao đẳng trên cả nước năm 2008
cho thấy, trong số 108 trường tham gia khảo sát có 49 trường đã triển khai hoạt
động đào tạo về Thương mại điện tử, bao gồm 30 trường Đại học và 19 trường Cao
đẳng. Trong số 49 trường Đại học và Cao đẳng đã giảng dạy Thương mại điện tử,
có 30 trường có phương pháp tiếp cận đào tạo theo hướng kinh doanh và 19
trường tiếp cận theo hướng Công nghệ thông tin.
Hình 3: Tình hình triển khai đào tạo về Thương mại điện tử qua các năm
Về giảng viên chỉ có 15% trường có giảng viên được đào tạo chuyên ngành
Thương mại điện tử, 35% trường có giảng viên ngành khác được bổ sung thêm về
Thương mại điện tử , gần 50% trường có giảng viên tự nghiên cứu để giảng dạy
Thương mại điện tử.
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 19
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
Nguồn giáo trình Thương mại điện tử cũng chưa được quy chuẩn, chủ yếu từ
nước ngoài và thông qua mạng Internet, cụ thể gồm: Các chương trình đào tạo
Thương mại điện tử ở bậc Đại học, sau Đại học do các giảng viên sau khi tốt
nghiệp ở nước ngoài mang về, chương trình đào tạo của các trường Đại học nước
ngoài cung cấp công khai trên mạng Internet, sách, tài liệu của các tác giả nước
ngoài và Việt Nam. Tất cả các giáo trình này mới chỉ dừng ở mức cung cấp kiến
thức cơ bản, còn chuyên sâu đến kỹ năng ứng dụng, an toàn, bảo mật, thanh toán
điện tử hay chiến lược Thương mại điện tử chưa có nhiều.
Có thể nhận thấy đào tạo Thương mại điện tử tại các trường Đại học và Cao
đẳng đã phát triển khá nhanh . Tuy nhiên còn khá nhiều vấn đề cần phải quan tâm
giải quyết để đào tạo chính quy thực sự phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng.
c/ Hạ tầng cơ sở kinh tế - tài chính:
Trong quý II / 2009 GDP tăng 4,5%, mặc dù mới bằng 79% tốc độ tăng của
cùng kỳ năm trước, nhưng vẫn tăng 1,4 điểm phần trăm so với quý I trước đó, cho
thấy Việt nam đã vượt qua được giai đoạn khó khăn, thách thức từ sự ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính. Tính chung 6 tháng đầu năm 2009, việc GDP của
Việt Nam tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước tuy thấp so với những năm gần đây,
nhưng nếu xét trong bối cảnh Thế giới suy thoái, thì mức tăng này là khả quan.
Nền kinh tế Việt nam vẫn còn nằm trong tầm ngắm của các nhà đầu tư quốc
tế, khi mà ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng toàn cầu đã làm họ phải thận trọng
nhiều hơn trong các quyết định đầu tư với một nguồn vốn khả dụng thấp hơn trước
khủng hoảng rất nhiều do sự sụp đổ của khá nhiều các tập đoàn tài chính lớn và
các quỹ đầu tư rủi ro.
Tháng 5 vừa qua, General Electric đã động thổ dự án đầu tiên ở Việt Nam, tại
Hải Phòng, một nhà máy trị giá 61 triệu USD sản xuất xuất khẩu máy phát điện chạy
bằng turbin gió. Samsung Electronics cũng đã khởi động nhà máy sản xuất điện
thoại di động trị giá 50 triệu USD tại Hà Nội vào tháng 4/2009, và Canon sẽ xây
dựng tại ngoại ô Hà Nội một nhà máy sản xuất xuất khẩu máy in laser trị giá 100
triệu USD, lớn hơn bất kỳ nhà máy nào tương tự của Canon trên toàn cầu.
Trong khi đó Jabil Circuit cũng đã khởi công nhà máy trị giá 100 triệu USD tại
Khu công nghiệp Công nghệ cao của Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng tại đây, nhà
máy trị giá 1 tỉ USD của Intel sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động trong năm 2010,
với mục tiêu sản xuất và xuất khẩu hàng trăm triệu con chip mỗi năm. Việt Nam có
vẻ là một thị trường mới đầy tiềm năng cho các nhà đầu tư.
Trong khi ngành ngoại thương toàn cầu sụt giảm nghiêm trọng (WTO dự báo
một sự sụt giảm từ 9% đến 10%), xuất nhập khẩu của Việt Nam tuy bị ảnh hưởng
nhưng không quá lớn. Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những tháng đầu năm
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 20
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
I/ MỤC ĐÍCH VÀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Sau một thời gian đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các doanh
nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã bộc lộ khá nhiều mặt
mạnh cũng như mặt yếu của mình. Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời
trong công cuộc đổi mới. Họ ngày càng có vai trò quan trọng đóng góp vào tốc độ
tăng trưởng kinh tế của đất nước, hội nhập quốc tế, giữ vững an sinh xã hội, thu hút
và sử dụng được nhiều lao động, đóng góp cho ngân sách, xoá đói giảm nghèo,
bảo đảm các yếu tố bền vững cho phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Song nhìn lại
quá trình phát triển và hiện tại, hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đang đứng trước những khó khăn và thách thức.
Công ty Việt D.E.L.T.A là một doanh nghiệp mới và ra đời trong cơ chế thị
trường. Cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác, công ty đang phải đối đầu
với những khó khăn trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Công ty hoạt động
kinh doanh với quy mô nhỏ nên trong bối cảnh kinh tế hiện nay những thách thức
và khó khăn về vốn, về xây dựng thương hiệu, về công nghệ, về nguồn nhân lực,
về pháp lý....là không thể tránh khỏi. Song những vấn đề này lại hết sức quan trọng
vì: Danh tiếng và thương hiệu được coi là tài sản quý giá và là vũ khí cạnh tranh
hữu hiệu; Khả năng về tài chính, khả năng giữ được nhân viên giỏi là một trong
những điểm mạnh giúp doanh nghiệp có đủ sức cạnh tranh với các đối thủ của
mình; Chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh đầy lợi hại trên thị trường; Nhân
viên giỏi là một trong những nhân tố quyết định chất lượng của công việc, quyết
định hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh….Do đó, để xâm nhập vào được
các thị trường trên Thế giới như thị trường châu Mỹ, châu Âu và các châu lục khác
công ty Việt D.E.L.T.A cần phải xây dựng được cho mình một danh tiếng về thương
hiệu, về chất lượng hàng hóa…
Hiện nay, các nền kinh tế nằm trong top 10 lớn nhất Thế giới như Đức, Pháp,
Trung Quốc, Nhật, Ấn Độ, Brazil vừa công bố tăng trưởng kinh tế quý 2/2009 ở
mức dương và các nền kinh tế trong khu vực như Đài Loan, Singapore, Indonesia,
Hàn Quốc và Hồng Kông cũng đều đã thông báo về sự khởi sắc mạnh mẽ của tăng
trưởng GDP. Trong đó tăng trưởng xuất khẩu là động lực chính đưa kinh tế các
nước như Đức, Nhật, Trung Quốc thoát suy thoái. Điều này chứng tỏ kinh doanh
xuất khẩu đã chiếm một vị trí quan trọng như thế nào trong nền kinh tế. Ngoài ra,
tình hình trên còn đánh dấu sự trở lại với sức tăng trưởng nhanh chóng và việc
cạnh tranh trên thị trường Quốc tế sẽ ngày càng gay gắt, khốc liệt hơn trước.
Nhưng khả năng cạnh tranh của công ty Việt D.E.L.T.A còn yếu vì chưa chuẩn bị
cho mình một hành trang đầy đủ; do có sự hạn chế về vốn, công nghệ, năng lực và
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 1
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
bộ máy quản lý điều hành chưa tốt; chưa có đủ thông tin về thị trường, chưa có
được vũ khí cạnh tranh đem lại sức mạnh để đương đầu với các đối thủ, mang lại
lợi thế cạnh tranh bền vững. Do vậy, yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh của
công ty trong giai đoạn hiện nay là vấn đề cấp thiết.
Với tình hình đó, việc ứng dụng Thương mại điện tử là một giải pháp, một
công cụ hữu dụng hỗ trợ đắc lực cho công ty trong việc mở rộng thị trường kinh
doanh xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường Quốc tế. Tuy hiện
nay công ty đã và đang ứng dụng Thương mại điện tử nhưng chỉ ở mức độ sơ cấp
và chưa chuyên nghiệp. Do đó, công ty cần coi việc triển khai các quy trình Thương
mại điện tử là một nhân tố thiết yếu trong việc nâng cao sức cạnh tranh, tác động
trực tiếp lên triển vọng gia tăng doanh số bán hàng; ứng dụng Thương mại điện tử
là một phần của chiến lược kinh doanh tổng thể của công ty, là nhân tố nền tảng
cho chiến lược phát triển kinh doanh dài hạn.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã và đang đem lại những chuyển biến
mạnh mẽ trên toàn Thế giới. Việc áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kinh
tế đem lại những lợi ích to lớn cho toàn xã hội. Thương mại điện tử là lĩnh vực hoạt
động kinh tế không còn xa lạ với nhiều quốc gia . Người ta không còn phải mất
nhiều thời gian ,công sức, tiền bạc .... cho những giao dịch kinh tế. Việc áp dụng
Thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh là một xu thế tất yếu của mọi thời
đại, và Việt nam – trong quá trình hội nhập không nằm ngoài xu hướng phát triển
đó. Tuy Thương mại điện tử không còn là vấn đề mới mẻ ở Việt Nam, nhưng rất
nhiều doanh nhân Việt Nam thậm chí còn chưa hiểu rõ bản chất , lợi ích của
Thương mại điện tử chứ chưa nói đến việc áp dụng nó. Do đó, quá trình phát triển
Thương mại điện tử ở Việt nam còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc đòi hỏi phải có
những công trình nghiên cứu khách quan về quy luật vận động và phát triển
Thương mại điện tử để từ đó xây dựng và triển khai chiến lược phát triển lĩnh vực
hoạt động thương mại này vào trong hoạt động phát triển nền kinh tế quốc gia,
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập.
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 2
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
II/MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ:
1. Khái niệm , bản chất của thương mại điện tử:
1.1 Khái niệm về thương mại điện tử:
Thương mại điện tử là hình thức mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua
mạng máy tính toàn cầu. Thương mại điện tử theo nghĩa rộng được định nghĩa
trong Luật mẫu về Thương mại điện tử của Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật Thương
mại Quốc tế (UNCITRAL):
“Thuật ngữ Thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các
vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có
hợp đồng . Các quan hệ mang tính thương mại bao gồm các giao dịch sau đây : bất
cứ giao dịch nào về thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch
vụ ; thỏa thuận phân phối ; đại diện hoặc đại lý thương mại ,ủy thác hoa hồng ; cho
thuê dài hạn ; xây dựng các công trình ; tư vấn ; kỹ thuật công trình ; đầu tư ;cấp
vốn ; ngân hàng ; bảo hiểm ; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng ; liên doanh các
hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh ; chuyên chở hàng hóa hay
hành khách bằng đường biển , đường không , đường sắt hoặc đường bộ.”
Như vậy , có thể thấy rằng phạm vi của Thương mại điện tử rất rộng , bao
quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ
là một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của Thương mại điện tử . Theo nghĩa hẹp
Thương mại điện tử chỉ gồm các hoạt động thương mại được tiến hành trên mạng
máy tính mở như Internet . Trên thực tế , chính các hoạt động thương mại thông
qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ Thương mại điên tử.
Thương mại điện tử gồm các hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ qua
phương tiện điện tử , giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng , chuyển tiền
điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử , vận đơn điện tử , đấu giá thương mại, hợp tác
thiết kế , tài nguyên mạng, mua sắm công cộng , tiếp thị trực tuyến với người tiêu
dùng và các dịch vụ sau bán hàng . Thương mại điện tử được thực hiện đối với cả
thương mại hàng hóa ( ví dụ như hàng tiêu dùng , các thiết bị y tế chuyên dụng ) và
thương mại dịch vụ ( ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin , dịch vụ pháp lý , tài
chính ); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khỏe , giáo dục) và các
hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo ). Thương mại điện tử đang trở thành một cuộc
cách mạng làm thay đổi cách thức mua sắm cuả con người.
1.2 Các đặc trưng của Thương mại điện tử:
So với các hoạt động thương mại truyền thống ,Thương mại điện tử có một
số điểm khác biệt cơ bản sau:
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 3
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
a/ Các bên tiến hành giao dịch trong Thương mại điện tử không tiếp xúc trực
tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước.
Trong thương mại truyền thống ,các bên gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành
giao dịch . Các giao dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc vật lý như chuyển
tiền, séc hóa đơn, vận đơn, gửi báo cáo . Các phương tiện viễn thông như: fax,
telex,…chỉ được sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh . Tuy nhiên, việc sử dụng
các phương tiện điện tử trong thương mại truyền thống chỉ để chuyển tải thông tin
một cách trực tiếp giữa hai đối tác của cùng một giao dịch.
Thương mại điện tử cho phép mọi người cùng tham gia từ các vùng xa xôi
hẻo lánh đến các khu vực đô thị lớn , tạo điều kiện cho tất cả mọi người ở khắp mọi
nơi đều có cơ hội ngang nhau tham gia vào thị trường giao dịch toàn cầu và không
đòi hỏi nhất thiết phải có mối quen biết với nhau.
b/ Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của
khái niệm biên giới quốc gia, còn Thương mại điện tử được thực hiện trong một thị
trường không có biên giới ( thị trường thống nhất toàn cầu). Thương mại điện tử
trực tiếp tác động đến môi trường cạnh tranh toàn cầu.
Thương mại điện tử càng phát triển thì máy tính cá nhân trở thành cửa sổ
cho doanh nghiệp hướng ra thị trường trên khắp Thế giới . Với Thương mại điện
tử ,một doanh nhân dù mới thành lập đã có thể kinh doanh ở Nhật Bản , Đức và
Chilê…, mà không hề phải bước ra khỏi nhà , một công việc trước kia phải mất
nhiều năm.
c/ Trong hoạt động giao dịch Thương mại điện tử đều có sự tham gia của ít
nhất ba chủ thể , trong đó có một bên không thể thiếu được là người cung cấp dịch
vụ mạng , các cơ quan chứng thực.
Trong Thương mại điện tử, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch
giống như giao dịch thương mại truyền thống đã xuất hiện một bên thứ ba đó là nhà
cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực ….là những người tạo môi trường
cho các giao dịch Thương mại điện tử . Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan
chứng thực có nhiệm vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao
dịch thương mại điện tử , đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin
trong giao dịch Thương mại điện tử.
d/ Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện
để trao đổi dữ liệu ,còn đối với Thương mại điện tử thì mạng lưới thông tin chính là
thị trường.
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 4
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
Thông qua Thương mại điện tử ,nhiều loại hình kinh doanh mới được hình
thành. Ví dụ : các dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng máy tính hình thành nên các
nhà trung gian ảo làm các dịch vụ môi giới cho giới kinh doanh và tiêu dùng ; các
siêu thị ảo được hình thành để cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên mạng máy tính.
Các trang web khá nổi tiếng như Yahoo!, America Online hay Google đóng
vai trò quan trọng cung cấp thông tin trên mạng . Các trang Web này đã trở thanh
các “khu chợ” khổng lồ trên Internet. Với mỗi lần nhấn chuột , khách hàng có khả
năng truy cập vào hàng ngàn cửa hàng ảo khác nhau và tỷ lệ khách hàng vào hàng
ngàn cửa hàng ảo khác nhau hay tỷ lệ khách hàng vào thăm rồi mua hàng là rất
cao. Người tiêu dùng đã bắt đầu mua trên mạng một số các loại hàng trước đây
được coi là khó bán trên mạng . Nhiều người sẵn sàng trả thêm một chút tiền còn
hơn là phải đi tới tận cửa hàng . Một số công ty đã mời khách may đo quần áo tên
mạng, tức là khách hàng chọn kiểu, gửi số đo theo hướng dẫn tới cửa hàng (qua
Internet) rồi sau một thời gian nhất định nhận được bộ quần áo theo đúng yêu cầu
của mình . Điều tưởng như không thể thực hiện được này cũng có rất nhiều người
hưởng ứng.
Các chủ cửa hàng thông thường ngày nay cũng đang đua nhau đưa thông tin
lên Web để tiến tới khai thác mảng thị trường rộng lớn trên Web bằng cách mở cửa
hàng ảo.
2. Lợi ích của Thương mại điện tử:
Những lợi ích mà Thương mại điện tử mang lại cho doanh nghiệp cụ thể như
sau :
_Thu thập được nhiều thông tin: với việc tham gia vào môi trường Thương
mại điện tử toàn cầu , doanh nghiệp có cơ hội được tiếp cận với nguồn thông tin đa
dạng và khổng lồ qua đó có cơ hội lựa chọn các thông tin phù hợp nhất cho hoạt
động kinh doanh của mình.
_Giảm chi phí bán hàng , tiếp thị và giao dịch :
+ Thương mại điện tử giúp giảm chi phí văn phòng . Điều quan trọng hơn ,
với góc độ chiến lược, là các nhân viên có năng lực giải phóng khỏi nhiều công
đoạn , có thể tập trung phát triển vào công việc chính , đưa đến nhiều lợi ích to lớn
lâu dài.
+ Thương mại điện tử giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị
bằng phương tiện Internet web , một nhân viên bán hàng có thể giao dịch với rất
nhiều khách hàng , catalogue điện tử trên web phong phú hơn nhiều và thường
xuyên cập nhật so với catalogue in ấn chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi
thời.
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 5
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
+ Thương mại điện tử qua Internet web giúp các nhà xuất nhập khẩu và
các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch . Trong những yếu tố
cắt giảm , yếu tố thời gian là đáng kể nhất , vì việc nhanh chóng làm cho thông tin
hàng hóa tiếp cận với khách hàng (mà không phải qua trung gian) có ý nghĩa sống
còn đối với buôn bán và cạnh tranh buôn bán . Ngoài ra ,việc giao dịch nhanh
chóng sớm nắm bắt được nhu cầu của thị trường.
_Tăng chất lượng phục vụ khách hàng : Sử dụng các tiện ích của Thương
mại điện tử , doanh nghiệp có thể nhanh chóng cung cấp cho khách hàng các
catalogue , brochure , bảng giá , Hợp đồng một cách gần như tức thời . Bên cạnh
đó với website bán hàng của mình , doanh nghiệp tạo điều kiện cho khách hàng có
cơ hội lựa chọn sản phẩm phù hợp với đầy đủ các thông tin mà không cần thiết
phải tới tận trụ sở hay xưởng sản xuất của doanh nghiệp.
_Tăng doanh thu: Do một trong những đặc trưng của Thương mại điện tử là
thị trường không biên giới nên chính vì thế giúp cho doanh nghiệp có cơ hội quảng
bá thông tin sản phẩm , dịch vụ của mình ra thị trường toàn cầu qua đó giúp tăng số
lượng khách hàng và tăng doanh thu. Bên cạnh đó , với các tiện ích và công cụ
hiệu quả của Thương mại điện tử sẽ giúp cho doanh nghiệp không còn thụ động
ngồi chờ khách hàng đến mà sẽ chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng qua đó
góp phần đẩy nhanh doanh thu của doanh nghiệp.
_Tạo lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp : Khi ứng dụng Thương mại điện tử
khoảng cách về vốn , thị trường , nhân lực và khách hàng sẽ bị thu hẹp lại do bản
thân doanh nghiệp đó có thể cắt giảm nhiều chi phí . Hơn thế nữa , với lợi thế của
kinh doanh trên mạng sẽ giúp cho doanh nghiệp tạo ra bản sắc riêng về một
phương thức mới khác với hình thức kinh doanh truyền thống.
_ Xây dựng quan hệ với đối tác: Thương mại điện tử tạo điều kiện cho việc
thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các thành viên tham gia vào quá trình thương
mại: thông qua mạng (Internet /Web) các thành viên tham gia ( người tiêu thụ,
doanh nghiệp, cơ quan chính phủ…) có thể giao tiếp trực tiếp ( liên lạc “trực tuyến” )
và liên tục với nhau, có cảm giác như không có khoảng cách về địa lý và thời gian
nữa; nhờ đó sự hợp tác và sự quản lý đều được tiến hành nhanh chóng một cách
liên tục: các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới được phát hiện nhanh chóng
trên phạm vi toàn quốc, toàn khu vực, toàn Thế giới và có nhiều cơ hội để lựa chọn
hơn.
_ Tạo điều kiện sớm tiếp cận kinh tế tri thức: Trước hết, Thương mại điện tử
sẽ kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin tạo cơ sở cho phát triển
kinh tế tri thức. Lợi ích này có một ý nghĩa lớn đối với các nước đang phát triển: nếu
không nhanh chóng tiếp cận nền kinh tế tri thức thì sau khoảng một thập kỷ nữa,
nước đang phát triển có thể bị bỏ rơi hoàn toàn. Khía cạnh lợi ích này mang tính
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 6
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
chiến lược công nghệ và tính chính sách phát triển cần cho các nước công nghiệp
hóa.
3. Các hình thức hoạt động và giao dịch Thương mại điện tử:
3.1 Các hình thức hoạt động Thương mại điện tử:
a/ Thư tín điện tử (E-mail):
Giống như trao đổi thư từ bình thường , các đối tác ( Người tiêu thụ , Doanh
nghiệp, các Cơ quan Chính phủ) sử dụng thư điện tử để gửi thông tin cho nhau một
cách “trực tuyến” thông qua mạng , gọi là thư tín điện tử (electronic mail , gọi tắc là
e-mail) . Thư tín điện tử có tốc độ truyền nhanh , có thể gửi cùng một lúc một nội
dung cho nhiều đối tượng vào mọi lúc , ở mọi nơi trên Thế giới , ngoài ra cước phí
của thư điện tử lại thấp hơn nhiều so với gửi thư qua bưu điện và điện thoại.
b/ Thanh toán điện tử (Electronic payment):
Thanh toán điện tử là việc thanh toán tiền thông qua thông điệp điện tử
( Electronic message) thay cho việc trao tay tiền mặt . Việc trả lương bằng cách
chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản ,trả tiền mua hàng bằng thẻ mua hàng , thẻ tín
dụng v..v.. đã quen thuộc lâu nay thực chất đều là các dạng thanh toán điện tử . Với
sự phát triển của Thương mại điện tử , thanh toán điện tử đã mở rộng sang lĩnh vực
mới đáng đề cập là:
+Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial Electronic Data Interchange, gọi
tắc là FEDI) chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện tử giữa các công ty giao dịch
với nhau bằng điện tử.
+Tiền mặt Internet (Internet Cash)
Là tiền mặt được mua từ một nơi phát hành ( Ngân hàng hoặc tổ chức tín
dụng ) , sau đó được chuyển đổi tự do sang các đồng tiền khác thông qua Internet ,
áp dụng trong phạm vi cả một nước cũng như giữa các quốc gia . Tất cả đều được
thực hiện bằng kỹ thuật số hóa , vì thế tiền mặt này còn có tên gọi là “tiền mặt số
hóa” (Digital cash) . Công nghệ đặc thù chuyên phục vụ mục đích này có tên gọi là
“mã hóa khóa công khai / bí mật” (Public / Private key Crytography) . Tiền mặt
Internet được người mua hàng mua bằng đồng nội tệ , rồi dùng Internet để chuyển
cho người bán hàng.
+Túi tiền điện tử ( Electronic purse: còn gọi tắt là “ví điện tử”)
Nói đơn giản là nơi để tiền mặt Internet mà chủ yếu là thẻ thông minh (Smart
card , còn có tên gọi là thẻ giữ tiền :stored value card) . Tiền được trả cho bất cứ ai
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 7
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
đọc được thẻ đó . Kỹ thuật của túi tiền điện tử về cơ bản là kỹ thuật “mã hóa khóa
công khai / bí mật ” tương tự như kỹ thuật áp dụng cho “tiền mặt Internet”.
+Thẻ thông minh (Smart card)
Nhìn bề ngoài như thẻ tín dụng ,nhưng ở mặt sau của thẻ , thay vì cho dải
từ , lại là một chip máy tính điện tử có một bộ nhớ nhỏ để lưu trữ tiền số hóa .Tiền
ấy chỉ được “chi trả” khi người sử dụng và thông điệp (ví dụ xác nhận thanh toán
hóa đơn) được xác thực là “đúng”.
+ Giao dịch ngân hàng số hóa (Digital banking) và Giao dịch chứng khoán số
hóa (Digital securities trading) :
Hệ thống thanh toán điện tử của Ngân hàng là một đại hệ thống : (1) Thanh
toán giữa Ngân hàng với khách hàng (qua điện thoại , các điểm bán lẻ , các ki-ốt ,
giao dịch cá nhân tại nhà , giao dịch tại trụ sở khách hàng , giao dịch qua Internet ,
chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng, vấn tin...) ,(2) Thanh toán giữa Ngân hàng với các
đại lý thanh toán (nhà hàng, siêu thị...) ,(3) Thanh toán trong nội bộ một hệ thống
Ngân hàng ,(4) Thanh toán giữa hệ thống Ngân hàng này với hệ thống Ngân hàng
khác.
c/ Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic data interchange):
Trao đổi dữ liệu điện tử (gọi tắt là EDI ) là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng
“có cấu trúc” (structured form) từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác ,
giữa các công ty hay tổ chức đã thỏa thuận buôn bán với nhau theo cách này một
cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người (gọi là dữ liệu có cấu
trúc , vì các bên đối tác phải thỏa thuận từ trước khuôn dạng cấu trúc của các thông
tin).
EDI này càng được sử dụng rộng rãi trên bình diện toàn cầu , chủ yếu phục
vụ cho mua và phân phối hàng ( gửi đơn hàng , các xác nhận , các tài liệu , hóa
đơn v..v..) , nhưng cũng dùng cho các mục đích khác nữa như thanh toán tiền khám
bệnh , trao đổi các kết quả xét nghiệm v.v…EDI chủ yếu được thực hiện thông qua
các mạng ngoại bộ (extranet) và thường được gọi là “thương mại võng mạng” (net-
commerce) . Cũng có cả hình thức “EDI hỗn hợp” (Hybid EDI) dùng cho trường hợp
chỉ có một bên đối tác dùng EDI, còn bên kia vẫn dùng các phương thức thông
thường (như Fax , thư tín qua bưu điện) .
EDI được áp dụng từ trước khi có Internet . Khi ấy người ta dùng “mạng giá
trị gia tăng” (Value Added Network : VAN) để liên kết các đối tác EDI với nhau ; cốt
lõi của VAN là một hệ thống thư tín điện tử cho phép các máy tính điện tử liên lạc
được với nhau và hoạt động như một phương tiện điện tử và tìm gọi . Khi nối vào
VAN , một doanh nghiệp có thể liên lạc được với hàng ngàn máy tính điện tử nằm
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 8
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
ở hàng trăm thành phố trên khắp thế giới . Nay EDI chủ yếu được thực hiện thông
qua Internet.
Thương mại điện tử qua biên giới (Crosss-border electronic commerce) về
bản chất chính là trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) giữa các doanh nghiệp mà được
thực hiện giữa các đối tác ở các quốc gia khác nhau, với các nội dung:
Giao dịch kết nối.
Đặt hàng.
Giao dịch gửi hàng (shipping)
Thanh toán.
Trên bình diện này, nhiều khía cạnh còn phải tiếp tục xử lý ,đặc biệt là buôn
bán giữa các nước có chính sách ,và luật pháp thương mại khác nhau về căn bản,
đòi hỏi phải có từ trước một dàn xếp pháp lý trên nền tảng thống nhất quan điểm về
tự do hóa thương mại và tự do hóa việc sử dụng Internet . Chỉ như vậy mới đảm
bảo được tính khả thi , tính an toàn , và tính có hiệu quả cao của trao đổi dữ liệu
điện tử (EDI).
d/ Giao dịch số hóa của các dung liệu (Digital Delivery of Content) :
Dung liệu (content) là các hàng hóa mà người ta cần đến nội dung của nó
( hay nói cách khác chính nội dung là hàng hóa ) mà không phải bản thân vật mang
nội dung ,ví dụ như: tin tức , sách báo , nhạc , phim , các chương trình phát thanh ,
truyền hình , chương trình phần mềm . Các ý kiến tư vấn , vé bán máy bay , vé xem
phim , xem hát , hợp đồng bảo hiểm v..v.. nay cũng được đưa vào danh mục các
dung liệu.
Trước đây dung liệu cũng được trao đổi dưới dạng hiện vật (Physical form)
bằng cách đưa vào đĩa ,vào băng , in thành sách báo , thành văn bản , đóng gói
bao bì chuyển đến tay người sử dụng, hoặc đến điểm phân phối (như cửa hàng ,
quầy báo v..v..) để người sử dụng đến mua và nhận trực tiếp . Ngày nay, dung liệu
được số hóa và truyền gửi theo mạng , gọi là “giao gửi số hóa” (Digital delivery) .Vì
vậy , hiện nay các loại thông tin kinh tế và kinh doanh trên Internet đều rất phong
phú ,và một nhiệm vụ quan trọng của công tác thông tin ngày nay là khai thác Web
và phân tích tổng hợp các thông tin nhận được.
e/ Mua bán hàng hóa hữu hình (Retail of Tangible Goods):
Tận dụng tính đa năng phương tiện (Multimedia) của môi trường Web và
Java, người bán hàng xây dựng trên mạng các “cửa hàng ảo” (Virtual shop) để thực
hiện việc mua - bán hàng. Khách hàng tìm trang Web của cửa hàng , xem hàng hóa
hiển thị trên màn hình, xác nhận mua hàng ,và trả tiền bằng thanh toán điện tử .Vì
là hàng hóa hữu hình , nên tất yếu sau đó các cửa hàng phải dùng tới các phương
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 9
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
tiện gửi hàng truyền thống để đưa hàng tới tay Người tiêu dùng. Do đó, khách hàng
có thể mua hàng tại nhà (Home shopping) , mà không phải đích thân đi tới cửa
hàng.
3.2 Các hình thức giao dịch của Thương mại điện tử:
Người tiêu dùng
B2C G2C
B2G
Doanh nghiệp Chính phủ
INTERNET
B2B G2G
Doanh nghiệp Chính phủ
Hình 1: Mô hình các giao dịch Thương mại điện tử
Trong Thương mại điện tử có ba chủ thể tham gia : Doanh nghiệp (Business -
B) giữ vai trò động lực phát triển Thương mại điện tử , Người tiêu dùng (Customer -
C) giữ vai trò quyết định thành công của Thương mại điện tử và Chính phủ
(Government - G) giữ vai trò định hướng , điều tiết và quản lý . Từ các mối quan hệ
giữa các chủ thể trên ta có các loại giao dịch Thương mại điện tử chủ yếu sau:
+ Doanh nghiệp với Doanh nghiệp ( Business to Business - B2B)
+ Doanh nghiệp với Người tiêu dùng ( Business to Customer - B2C)
+ Doanh nghiệp với Cơ quan Chính phủ ( Business to Government - B2G)
+ Người tiêu dùng với Người tiêu dùng ( Customer to Customer – C2C)
+ Cơ quan Chính Phủ với Người tiêu dùng ( Government to Customer - G2C)
+ Các Cơ quan Chính phủ với nhau (Government to Government - G2G)
Trong các loại giao dịch nói trên thì giao dịch thương mại B2B và B2C là hai
loại hình giao dịch Thương mại điện tử quan trọng nhất.
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 10
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
a/ Giao dịch Business to Business (B2B):
Hình 2: Các loại hình giao dịch B2B
Thương mại điện tử B2B là việc thực hiện các giao dịch giữa các Doanh
nghiệp với nhau trên mạng . Ta thường gọi là giao dịch B2B . Các bên tham gia
giao dịch B2B gồm : người trung gian trực tuyến (ảo hoặc click – and – mortar),
người mua và người bán. Các loại giao dịch B2B gồm : mua ngay theo yêu cầu khi
giá cả thích hợp và mua theo hợp đồng dài hạn , dựa trên đàm phán cá nhân giữa
người mua và người bán.
Các loại giao dịch B2B cơ bản :
+ Bên bán – (một bên bán-nhiều bên mua) là mô hình dựa trên công nghệ
Web trong đó một công ty bán cho nhiều công ty mua . Có 3 phương pháp bán trực
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 11
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
tiếp trong mô hình này : Bán từ catalog điện tử , Bán qua quá trình đấu giá , Bán
theo hợp đồng cung
ứng dài hạn đã thỏa thuận trước .Công ty bán có thể là nhà sản xuất hoặc click –
and – mortar hoặc nhà trung gian thông thường là nhà phân phối hay đại lý.
+ Bên mua – một bên mua-nhiều bên bán
+ Sàn giao dịch – nhiều bên bán-nhiều bên mua
+ Thương mại điện tử phối hợp – các đối tác phối hợp nhau ngay trong quá
trình thiết kế chế tạo sản phẩm.
Hiện nay Thương mại điện tử B2B phát triển với tốc độ rất nhanh ( chiếm tới
trên 80% doanh số Thương mại điện tử trên toàn cầu ) và ngày càng trở nên phổ
biến ở Việt Nam, bởi nó hỗ trợ rất nhiều cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc
kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài, đem lại nhiều lợi ích cho các doanh
nghiệp, ví dụ như doanh nghiệp có thể rút ngắn chu trình sản xuất nhờ kết hợp với
các doanh nghiệp khác , mỗi bên chuyên môn hóa về một lĩnh vực , hay doanh
nghiệp có thể tiết kiệm được thời gian và chi phí cho việc tìm và mua nguyên vật
liệu phục vụ cho quá trình sản xuất của mình do doanh nghiệp mua nguyên vật liệu
của nhà cung cấp là người bán hàng trực tuyến qua mạng. Một trong những điển
hình trên Thế giới thành công trong hoạt động theo mô hình B2B là Alibaba.com
của Trung Quốc.
b/ Giao dịch Business to Customer (B2C):
Là thương mại giữa các Doanh nghiệp và Người tiêu dùng liên quan đến việc
khách hàng thu thập thông tin, mua các hàng hoá hữu hình (như sách, các sản
phẩm tiêu dùng...) sản phẩm thông tin hàng hoá về nguyên liệu điện tử hoặc nội
dung số hoá như phần mềm, sách điện tử và các thông tin, nhận sản phẩm qua
mạng điện tử. Một trong những công ty kinh doanh thành công trên Thế giới theo
mô hình này là Amazon.com với việc kinh doanh bán lẻ qua mạng các sản phẩm
như sách, đồ chơi, đĩa nhạc, sản phẩm điện tử, phần mềm và các sản phẩm gia
đình.
c/ Giao dịch Business to Government ( B2G)
Thương mại điện tử giữa Doanh nghiệp và Chính phủ được hiểu chung là
thương mại giữa các doanh nghiệp và khối hành chính công . Nó bao hàm việc sử
dụng Internet cho mua bán công, thủ tục cấp phép và các hoạt động có liên quan tới
Chính phủ . Hình thức này có thể phát triển nhanh chóng nếu như có một hệ thống
quản lý thống nhất về thuế , thanh toán bằng tài khoản trực tiếp trên mạng Internet
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 12
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
giữa Doanh nghiệp và Nhà nước . Giao dịch B2G sẽ giúp tiết kiệm thời gian và
tránh gây phiền hà cho doanh nghiệp.
d/ Giao dịch Customer to Customer (C2C)
Là thương mại điện tử giữa các Cá nhân và Người tiêu dùng với nhau. Đây
cũng được coi là mô hình kinh doanh có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng và ngày
càng phổ biến. Hình thái dễ nhận ra nhất của mô hình này là các Website bán đấu
giá trực tuyến, rao vặt trên mạng. Một trong những thành công vang dội của mô
hình này là trang Web đấu giá eBay. Được thành lập tháng 9/1995, hiện nay eBay
là chợ đấu giá điện tử lớn nhất Thế
giới dành cho việc mua bán các sản phẩm cho các khách hàng riêng lẻ và các
doanh nghiệp nhỏ. Trên eBay có tới 55 triệu sản phẩm nằm trong 50.000 danh mục
ngành hàng với 157 triệu thành viên trên toàn Thế giới.
e/ Giao dịch Government to Customer (G2C)
Thương mại điện tử giữa Người tiêu dùng với các Cơ quan Chính phủ nhằm
vào mục đích: các công nhân trả tiền cho các dịch vụ công cộng của Nhà nước như
dịch vụ mua vé máy bay , mua vé tàu hoặc nộp thuế thu nhập cho Nhà nước hay
các phí , lệ phí trả cho các dịch vụ khác ; còn Chính phủ thực hiện chi trả các khoản
trợ cấp xã hội cho các cá nhân thông qua mạng Internet.
f/ Giao dịch Government to Government (G2G) :
Giao dịch này có diễn ra nhưng chiếm tỷ trọng rất ít ,không đáng kể.
4. Hình thái hợp đồng Thương mại điện tử:
Thương mại điện tử bao quát cả giao dịch có hợp đồng và giao dịch không có
hợp đồng . Xét riêng về giao dịch có hợp đồng , thì do đặc thù của giao dịch điện
tử , hợp đồng thương mại điện tử có một số điểm khác biệt so với hợp đồng thông
thường (hợp đồng ở dạng văn bản):
Địa chỉ pháp lý của các bên : ngoài địa chỉ địa lý , còn có địa chỉ e-mail , Mã
doanh nghiệp.
Có các quy định về phạm vi thời gian , và phạm vi địa lý của giao dịch.
Có kèm theo các văn bản và ảnh miêu tả sản phẩm hoặc dung liệu trao đổi ,
và quy định trách nhiệm về các sai sót trong văn bản hoặc ảnh chụp.
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 13
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
Có các xác nhận điện tử (chứng nhận / xác thực : các giao dịch ( kể cả cơ
quan chứng thực) về quyền truy cập và cải chính thông tin điện tử, và cách
thực thi quyền này.
Có các quy định đảm bảo rằng giao dịch điện tử được coi là chứng cớ pháp
lý về bản chất và ngày tháng giao dịch.
Có các quy định chi tiết về phương thức thanh toán điện tử.
Có quy định về trung gian đảm bảo chất lượng (nhằm bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dùng).
5. Thực trạng Thương mại điện tử ở Việt nam hiện nay:
5.1 Tình hình về hạ tầng cơ sở cho Thương mại điện tử ở Việt nam hiện nay:
a/ Hạ tầng cơ sở Công nghệ thông tin – Truyền thông:
Công nghệ thông tin (Information technology) gồm hai nhánh: nhánh tính toán
(computing) - cũng gọi là nhánh máy tính , và nhánh truyền thông (communication) ,
trên cơ sở của một nền công nghiệp điện lực vững mạnh, là nền tảng của kinh tế số
hóa nói chung và Thương mại điện tử nói riêng.
Về công nghệ máy tính , người Việt Nam đã biết đến máy tính điện tử từ năm
1968 khi chiếc máy tính đầu tiên do Liên Xô viện trợ được lắp đặt tại Hà Nội. Trong
những năm 1970 ở miền Nam cũng có sử dụng một số máy tính lớn của Mỹ . Tới
cuối những năm 1970, cả nước có khoảng 40 dàn máy tính vạn năng thuộc các
dòng Minsk và ES ở Hà Nội và IBM 360 ở Thành Phố Hồ Chí Minh.
Đầu những năm 1980 , máy tính bắt đầu được nhập khẩu vào Việt Nam , mở
đầu một thời kỳ phát triển nhanh việc Tin học hóa trong nước. Từ năm 1995 là năm
bắt đầu triển khai Chương trình Quốc gia về Công nghệ thông tin , cũng là lúc các
công ty hàng đầu thế giới như IBM , Compaq , HP v..v.. bắt đầu tham gia thị trường
Việt Nam , số lượng máy tính nhập khẩu tăng vọt với tốc độ +50%/năm.
Theo báo cáo toàn cảnh Công nghệ thông tin Việt Nam 2005 của TS Lê
Trường Tùng - Chủ tịch Hội Tin học Thành phố Hồ Chí Minh, thì Việt Nam có hai
thương hiệu máy tính là Elead và CMS vượt qua mức doanh số 5 triệu USD; còn
phần lớn các thương hiệu khác hầu như không tăng trưởng trong năm 2004. Cũng
theo báo cáo này thì FPT Elead đã vượt qua CMS và trở thành thương hiệu máy
tính Việt Nam đầu tiên vượt qua mức doanh số 10 triệu USD. Thành quả của hai
thương hiệu trên phần nào đạt được nhờ chương trình máy tính Thánh Gióng do
các đối tác chính là FPT Elead, Intel và CMS đưa ra với mục đích ủng hộ dự án
máy tính giá rẻ và phổ cập tin học của Chính phủ Việt Nam. Với hai dòng máy có
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 14
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
giá bán từ 5 triệu đến 6 triệu đồng, các đối tác trong Liên minh Thánh Gióng tuyên
bố đã bán được khoảng 25.000 máy tính.
Năm 2008, ngành Công nghiệp Công nghệ thông tin vẫn duy trì tốc độ tăng
trưởng tốt (đạt 20%), trong đó, Công nghiệp phần cứng – điện tử – viễn thông đạt
16%; Công nghiệp phần mềm đạt 35% và Công nghiệp nội dung số đạt 49%. Tổng
doanh thu toàn ngành ước đạt 4,5 tỷ USD.
Tuy nhiên ,gia công phần mềm vẫn còn thua xa các nước láng giềng. Trong
tháng 2/2009, hãng nghiên cứu Gartner công bố báo cáo 10 quốc gia có dịch vụ gia
công phần mềm đứng đầu khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Việt
Nam. Báo cáo này của Gartner đánh giá theo 10 tiêu chí liên quan đến Gia công
phần mềm, gồm kỹ năng ngoại ngữ, hỗ trợ của Chính phủ, nguồn nhân lực, cơ sở
hạ tầng, hệ thống giáo dục, chi phí, sự ổn định kinh tế và chính trị, tương đồng văn
hóa, khả năng toàn cầu hóa, an ninh và bảo vệ quyền riêng tư. Nhưng xét tổng thể
trên các tiêu chí của Gartner, Việt Nam là quốc gia được đánh giá thấp nhất , sau
cả những quốc gia xếp cuối trong bảng xếp hạng này như Philippines , Thái Lan và
Pakistan.
Song, bên cạnh đó, điểm đáng khích lệ cho ngành Công nghiệp Công nghệ
thông tin Việt Nam là việc duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong suốt 5 – 7 năm vừa
qua , khoảng 20 – 30 %/ năm . Đặc biệt , một số đánh giá quốc tế được công bố
trong thời gian gần đây rất khả quan : Chỉ số Chính phủ điện tử Việt Nam tăng 15
bậc sau 3 năm (tức sau năm 2006) ; Chỉ số sẵn sàng kết nối mạng của Việt Nam
( Networked readiness Index – NRI ) tăng hơn 10 bậc so với xếp hạng 2006 - 2007,
đứng vị trí 73 / 127 ; Chỉ số phát triển hạ tầng viễn thông tăng 20 bậc so với năm
2005 , đứng thứ 101. Hiện tại Việt Nam đứng thứ hạng 92 trong bảng xếp hạng của
Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU).
Nói đến Internet thì Việt Nam gia nhập mạng toàn cầu tương đối chậm : tháng
11 năm 1997 mới chính thức bắt đầu nối mạng Internet , tới đầu năm 1999 mới có
khoảng 17000 thuê bao, chủ yếu thông qua ba nhà cung cấp dịch vụ Internet lớn
nhất là VDC (Công ty dịch vụ gia tăng và truyền số liệu) , FPT (Công ty phát triển
đầu tư công nghệ) và Netnam (Viện công nghệ thông tin, thuộc Trung tâm khoa học
tự nhiên và công nghệ Quốc gia).
Theo số liệu thống kê , tính đến cuối năm 2006, đã có 14,7 triệu người sử
dụng Internet tăng 37%, 517.000 thuê bao băng rộng tăng 146% so với năm 2005.
Đến tháng 5/2007, đã có thêm 1,5 triệu người sử dụng internet và khoảng 236.000
thuê bao băng rộng.
Tỷ lệ tiếp cận Internet của Việt Nam trong tháng 7/2009 tăng đáng kể:
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 15
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
Tình hình phát triển Internet tháng 7/ 2009.
Statistics on Internet development upto 7/2009
- Số người sử dụng :
21571409
Users
- Tỉ lệ số dân sử dụng Internet :
25.14 %
Users per capita
- Tổng băng thông kênh kết nối quốc tế của Việt
Nam : 64603 Mbps
Total International connection bandwidth of Vietnam
- Tổng băng thông kênh kết nối trong nước: 94142 Mbps
Total domestic connection bandwidth
Trong đó băng thông kết nối qua trạm trung chuyển
VNIX: 37000 Mbps
Connection bandwidth through VNIX
- Tổng lưu lượng trao đổi qua trạm trung chuyển
VNIX : 41609229 Gbytes
Total VNIX Network Traffic
- Tổng số tên miền .vn đã đăng ký:
112888
Dot VN domain names
- Tổng số tên miền Tiếng Việt đã đăng ký:
4592
Vietnamese domain names
- Tổng số địa chỉ IPv4 đã cấp :
6762496 địa chỉ
Allocated Ipv4 address
- Số lượng địa chỉ IPv6 qui đổi theo đơn vị /64 đã
cấp : 42065885184 /64 địa chỉ
Allocated Ipv6 address
- Tổng thuê bao băng rộng (xDSL) :
2587716
Total broad bandwidth Subscribers
Nguồn: Bộ thông tin và truyền thông
Các doanh nghiệp đến nay hầu như 100% doanh nghiệp đều có máy tính . Tỷ
lệ doanh nghiệp có từ 11 - 20 máy tính tăng dần qua các năm và đến năm 2008 đạt
trên 20%. Tỷ lệ doanh nghiệp đã xây dựng mạng nội bộ năm 2008 đạt trên 88% so
với 84% của năm 2007. Đến nay, có tới 99% số doanh nghiệp đã kết nối Internet ,
trong đó kết nối băng thông rộng chiếm 98% .
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 16
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
Số lượng máy tính 2006 2007 2008
0 máy 0.1% 0.3% 0.1%
Từ 1-10 máy 67.0% 54.8% 56.0%
Từ 11-20 máy 14% 17.9% 20.1%
Từ 21-50 máy 12.2% 16.1% 16.0%
Từ 51-100 máy 3.0% 7.6% 5.1%
Từ 101-200 máy 1.6% 2.7% 2.0%
Trên 200 máy 0.7% 0.7% 0.7%
Nguồn: Bộ Thông tin và Truyền thông
Bảng 1: So sánh sự phân bổ máy tính trong Doanh nghiệp qua các năm 2006 - 2008
Thị trường viễn thông Việt Nam tiếp tục đạt được các bước tiến vượt bậc, hỗ
trợ đắc lực cho các ngành kinh tế khác cùng phát triển đồng thời cải thiện được vị
trí trong bảng xếp hạng viễn thông Châu Á. (Trên bảng xếp hạng phát triển viễn
thông Châu Á, BMI xếp thị trường viễn thông Việt Nam đứng thứ 13 (sau Thái Lan)
về cả quy mô và tốc độ phát triển của cả lĩnh vực cố định, di động và Internet). Tốc
độ tăng trưởng vượt bậc trên là hệ quả của việc gia nhập WTO.
Về ngành điện lực ( là nền của hai nhánh tính toán và truyền thông ) trong
năm 2009, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tập trung đầu tư 49,989 tỷ đồng cho
các dự án điện, trong đó đầu tư thuần là 42,454 tỷ đồng , trả nợ gốc và lãi 6,497 tỷ
đồng , góp vốn vào các công ty cổ phần đầu tư phát triển nguồn điện 1,038 tỷ đồng.
Với số vốn trên, EVN phấn đấu đưa vào vận hành 9 công trình nguồn điện
với tổng công suất 2.696 MW. Đó là các công trình thuỷ điện: Plêikrông, Sê San 4,
Buôn Kuốp, Buôn Tua Srah, Sông Ba Hạ, Bản Vẽ; các dự án nhiệt điện: Quảng
Ninh 1, Hải Phòng 1, Ô Môn 1; đồng thời đôn đốc Nhà thầu Lilama đưa Nhà máy
điện Uông Bí mở rộng 1 vào vận hành trở lại trong tháng 3/2009.
Bên cạnh việc thu xếp vốn cho 3 dự án là Uông Bí mở rộng 2, Huội Quảng và
Bản Chát, EVN phấn đấu khởi công trong năm 2009 bốn dự án nhiệt điện than với
tổng công suất 3.800 MW là Nghi Sơn 1, Mông Dương 1, Duyên Hải 1 và Vĩnh Tân
2. Cùng đó, EVN chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị đầu tư các dự án nhiệt điện
Thái Bình 1, Sông Bung 4, thuỷ điện Lai Châu, thuỷ điện Trung Sơn và các dự án
nhiệt điện Ô Môn 3, Ô Môn 4 ; hoàn thiện báo cáo đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh
Thuận 1 và 2 . Đồng thời, EVN khởi công 185 công trình lưới điện từ 110-220-
500kV; hoàn thành đóng điện 189 công trình, trong đó có 5 công trình lưới điện
500kV và 49 công trình lưới điện 220kV.
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 17
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
b/ Hạ tầng cơ sở nhân lực:
Lực lượng chuyên gia công nghệ thông tin ở Việt Nam hiện nay có thể chia
thành một số nhóm:
Các chuyên gia kiến thức cao , được đào tạo ở nước ngoài hoặc các nhà
toán học nhiều năm qua đã chuyển hướng sang tin học.
Các cử nhân được đào tạo từ khoa tin học của các trường đại học (chủ yếu
là Đại học tổng hợp , Đại học bách khoa) mỗi năm ra trường trên 1000
người . Theo đánh giá của hội Tin học Việt nam , trong vài năm gần đây , các
sinh viên chuyên ngành Tin học khi tốt nghiệp ra trường đã có trình độ khá
cao và trình độ được nâng lên khá nhanh sau khi họ được sử dụng vào thực
tế.
Một lực lượng đông đảo thanh niên đã qua đào tạo tin học trong khi học phổ
thông và đại học , hoặc đào tạo tại các trường , các trung tâm tin học trên
toàn quốc . Số này ước tính vài vạn người.
Ngoài ra cần tính tới đội ngũ Việt kiều am hiểu về Tin học . Lực lượng này
được các nước đánh giá là giỏi, nhiều người có trình độ rất cao (nhất là
những người ở Mỹ , Pháp và Canada), một số người là chuyên gia đầu đàn
của các tổ chức Tin học Thế giới , có người làm cố vấn về phát triển Tin học
cho Tổng thống nước ngoài.
Hạ tầng cơ sở nhân lực nước ta được đánh giá là thông minh , cần cù , sáng
tạo và thích ứng nhanh với các xu hướng phát triển mới của Công nghệ thông tin .
Đặc biệt có khả năng làm việc tốt ngay cả trong những điều kiện khó khăn , thiếu
thốn.
Hiện Việt Nam có 13 trường Đại học, Viện Nghiên cứu đào tạo sau Đại học
về Công nghệ thông tin ; 230 trường Đại học và Cao đẳng có đào tạo về Công nghệ
thông tin, bình quân mỗi năm đào tạo 10.000 chỉ tiêu; 88 trường có đào tạo về Công
nghệ thông tin bậc trung cấp chuyên nghiệp; cùng nhiều chương trình đào tạo quốc
tế... Thế nhưng, hiện chưa hình thành hệ thống chứng chỉ quốc gia về đào tạo Công
nghệ thông tin để việc đào tạo được chuẩn hóa và liên thông, cũng như việc công
nhận chất lượng. Chương trình đào tạo chưa theo kịp nhu cầu phát triển, đội ngũ
giảng viên, giáo viên vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về năng lực nghề nghiệp, kỹ
năng thực hành, thiếu kiến thức cơ bản về phương pháp giảng dạy... Cơ sở vật
chất, phòng thí nghiệm, trang thiết bị phục vụ công tác đào tạo nghiên cứu khoa học
trong lĩnh vực Công nghệ thông tin còn thiếu và nhanh lạc hậu nhưng không kịp bổ
sung... Từ những nguyên nhân đó, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực Công nghệ
thông tin ở Việt Nam là vấn đề nan giải, khi vẫn chưa theo kịp trình độ của một số
nước tiên tiến trong khu vực, nhiều doanh nghiệp sau khi tuyển kỹ sư là cử nhân
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 18
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
Đại học, Cao đẳng hoặc học viên trường nghề đã phải đào tạo lại. Sự trì trệ về
Công nghệ thông tin do việc thiếu trầm trọng nguồn nhân lực khiến nhiều chuyên
gia ngoại quốc đánh giá tiềm năng Công nghệ thông tin của Việt Nam thua xa nhiều
nước trong khu vực và do đó khó có cơ hội tiếp cận với tốc độ bùng nổ Công nghệ
thông tin trên khắp Thế giới hiện nay.
Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực một cách chính qui cho Thương mại điện tử
ở nước ta bắt đầu chưa lâu. Ngày 15/9/2005 chúng ta mới có Quyết định 222/QĐ -
phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển Thương mại điện tử, trong đó có dự án đầu
tư nguồn nhân lực Thương mại điện tử tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề. Trước đó, một số học viện, trường cũng có đào
tạo nhưng các tiêu chí từ giáo viên, giáo trình cho đến hình thức thi tuyển, đào tạo,
công nhận (bằng, chứng chỉ, chứng nhận...) chưa được qui chuẩn thống nhất.
Theo kết quả điều tra, khảo sát của Bộ Công Thương về tình hình đào tạo
Thương mại điện tử tại các trường Đại học và Cao đẳng trên cả nước năm 2008
cho thấy, trong số 108 trường tham gia khảo sát có 49 trường đã triển khai hoạt
động đào tạo về Thương mại điện tử, bao gồm 30 trường Đại học và 19 trường Cao
đẳng. Trong số 49 trường Đại học và Cao đẳng đã giảng dạy Thương mại điện tử,
có 30 trường có phương pháp tiếp cận đào tạo theo hướng kinh doanh và 19
trường tiếp cận theo hướng Công nghệ thông tin.
Hình 3: Tình hình triển khai đào tạo về Thương mại điện tử qua các năm
Về giảng viên chỉ có 15% trường có giảng viên được đào tạo chuyên ngành
Thương mại điện tử, 35% trường có giảng viên ngành khác được bổ sung thêm về
Thương mại điện tử , gần 50% trường có giảng viên tự nghiên cứu để giảng dạy
Thương mại điện tử.
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 19
Luận văn Tốt nghiệp GVHD : Th.S Hà Ngọc Minh
Nguồn giáo trình Thương mại điện tử cũng chưa được quy chuẩn, chủ yếu từ
nước ngoài và thông qua mạng Internet, cụ thể gồm: Các chương trình đào tạo
Thương mại điện tử ở bậc Đại học, sau Đại học do các giảng viên sau khi tốt
nghiệp ở nước ngoài mang về, chương trình đào tạo của các trường Đại học nước
ngoài cung cấp công khai trên mạng Internet, sách, tài liệu của các tác giả nước
ngoài và Việt Nam. Tất cả các giáo trình này mới chỉ dừng ở mức cung cấp kiến
thức cơ bản, còn chuyên sâu đến kỹ năng ứng dụng, an toàn, bảo mật, thanh toán
điện tử hay chiến lược Thương mại điện tử chưa có nhiều.
Có thể nhận thấy đào tạo Thương mại điện tử tại các trường Đại học và Cao
đẳng đã phát triển khá nhanh . Tuy nhiên còn khá nhiều vấn đề cần phải quan tâm
giải quyết để đào tạo chính quy thực sự phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng.
c/ Hạ tầng cơ sở kinh tế - tài chính:
Trong quý II / 2009 GDP tăng 4,5%, mặc dù mới bằng 79% tốc độ tăng của
cùng kỳ năm trước, nhưng vẫn tăng 1,4 điểm phần trăm so với quý I trước đó, cho
thấy Việt nam đã vượt qua được giai đoạn khó khăn, thách thức từ sự ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính. Tính chung 6 tháng đầu năm 2009, việc GDP của
Việt Nam tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước tuy thấp so với những năm gần đây,
nhưng nếu xét trong bối cảnh Thế giới suy thoái, thì mức tăng này là khả quan.
Nền kinh tế Việt nam vẫn còn nằm trong tầm ngắm của các nhà đầu tư quốc
tế, khi mà ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng toàn cầu đã làm họ phải thận trọng
nhiều hơn trong các quyết định đầu tư với một nguồn vốn khả dụng thấp hơn trước
khủng hoảng rất nhiều do sự sụp đổ của khá nhiều các tập đoàn tài chính lớn và
các quỹ đầu tư rủi ro.
Tháng 5 vừa qua, General Electric đã động thổ dự án đầu tiên ở Việt Nam, tại
Hải Phòng, một nhà máy trị giá 61 triệu USD sản xuất xuất khẩu máy phát điện chạy
bằng turbin gió. Samsung Electronics cũng đã khởi động nhà máy sản xuất điện
thoại di động trị giá 50 triệu USD tại Hà Nội vào tháng 4/2009, và Canon sẽ xây
dựng tại ngoại ô Hà Nội một nhà máy sản xuất xuất khẩu máy in laser trị giá 100
triệu USD, lớn hơn bất kỳ nhà máy nào tương tự của Canon trên toàn cầu.
Trong khi đó Jabil Circuit cũng đã khởi công nhà máy trị giá 100 triệu USD tại
Khu công nghiệp Công nghệ cao của Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng tại đây, nhà
máy trị giá 1 tỉ USD của Intel sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động trong năm 2010,
với mục tiêu sản xuất và xuất khẩu hàng trăm triệu con chip mỗi năm. Việt Nam có
vẻ là một thị trường mới đầy tiềm năng cho các nhà đầu tư.
Trong khi ngành ngoại thương toàn cầu sụt giảm nghiêm trọng (WTO dự báo
một sự sụt giảm từ 9% đến 10%), xuất nhập khẩu của Việt Nam tuy bị ảnh hưởng
nhưng không quá lớn. Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những tháng đầu năm
SVTH : Phạm Nguyễn Yến Sương Trang 20