Luận văn hoàn thiện công tác hạch toán kế toán hàng tồn kho tại tổng công ty rau quả nông sản với việc tăng cường quản trị nội bộ
- 113 trang
- file .doc
PHẦN MỞ ĐẦU
********
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp có nhiều thuận lợi và tiềm năng về đất đai, lao
động và điều kiện sinh thái cho phép phát triển sản xuất nhiều loại rau quả nông sản
có giá trị lớn. Xuất khẩu rau quả nông sản từ lâu đa đóng vai trò quan trọng đối với
nền kinh tã nước ta. Xuất khẩu rau quả nông sản là một trong những nguồn thu nhập
ngoại tệ lớn cho đất nước, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho khu vực nông thôn.
Hơn thế nữa xuất khẩu rau quả nông sản còn kích thích hàng loạt các nghề khác
cùng phát triển đặc biệt là các ngành công nghiệp chế biến, tạo ra một động lực
quan trọng thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển, thực hiện
mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH - HĐH) đất nước, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, xã hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang thực hiện.
Hiện nay sau một thời gian gia nhập WTO vấn đề đặt ra cho TCT RQ Nông sản –
TCT đầu ngành trong lĩnh vực này là phải đổi mới sao cho hiệu quả hơn, sức cạnh
tranh cao hơn nếu không muốn sản phẩm và sức cạnh tranh thua ngay trên sân nhà.
Muốn làm được điều đó TCT phải tự xây dựng cho mình một nền tài chính lành
mạnh cùng với cơ chế quản lý kinh tế - tài chính có hiệu quả trong đó công tác
quản lý tài chính, công tác hạch toán kế toán và công tác phân tích hoạt động kinh
tế phải đặc biệt được coi trọng để TCT từng bước nâng cao vị thế của mình. Trong
các tài sản của TCT, HTK có thể coi là tài sản rất quan trọng bởi vì việc xác định
giá trị HTK ảnh hưởng trực tiếp tới giá vốn hàng bán và do vậy có ảnh hưởng trọng
yếu tới lợi nhuận thuần trong năm của TCT mà công việc xác định chất lượng, tình
trạng và giá trị HTK luôn là công việc khó khăn và phức tạp hơn hầu hết các tài sản
khác. TCT có rất nhiều khoản mục HTK khó phân loại và định giá chính vì thế
thực hiện tốt việc theo dõi hạch toán HTK cho phép TCT thấy được những sai sót,
yếu kém trong công tác kế toán và công tác quản lý và xác định đúng trách nhiệm
của TCT trong việc thực hiện nghiệp vụ đối với Nhà nước tiết. kiệm được thời
gian, chi phí và nâng cao được hiệu quả quản lý. Thực tế kế toán HTK tại TCT đã
1
và đang ngày càng được hoàn thiện đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin trong
việc điều hành, quản lý sản xuất kinh doanh với tư cách là một trong những công cụ
mạnh phục vụ quản lý. Tuy nhiên hạch toán tại TCT rau quả nông sản cho thấy về
cơ bản mới chỉ thoả mãn nhu cầu nắm bắt thông tin tổng hợp chứ chưa đáp ứng
được nhu cầu thông tin cần thiết cho các nhà quản lý bởi vì yêu cầu của quản lý là
thông tin đầy đủ kịp thời chính xác do kế toán cung cấp để bảo đảm quá trình sản
xuất kinh doanh diễn ra liên tục, sử dụng vật tư hàng hóa tiết kiệm có hiệu quả
nhằm giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ đồng thời xây dựng mức dự trữ
HTK hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Nhận thức được tầm quan trọng như vậy tác giả đã chọn đề tài “ Hoàn thiện công
tác hạch toán kế toán HTK tại TCT rau quả nông sản với việc tăng cường quản trị
nội bộ”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Từ lý luận về hạch toán HTK và trên cơ sở xem xét , phân tích thực trạng tổ chức
kế toán HTK ở các đơn vị thành viên TCT rau quả nông sản, đối chiếu với những
cơ sở lý luận đã được tổng kết, luận văn đề xuất một số giải pháp kiến nghị nhằm
hoàn thiện công tác kế toán hạch toán HTK , phục vụ nhu cầu quản trị HTK tại
TCT để nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a.Về lý luận: Hệ thống hoá các cơ sở lý luận về tổ chức kế toán HTK trong các
DN .
b.Về thực tiễn: Nêu và phân tích thực trạng công tác tổ chức kế toán HTK (NVL,
CCDC, SPDD) tại TCT Rau quả nông sản.
c.Phạm vi nghiên cứu: tại văn phòng TCT rau quả nông sản. Đây là đơn vị có ảnh
hưởng lớn đến công tác kế toán phục vụ mục tiêu quản trị DN.
d. Thời gian nghiên cứu: từ năm 2005 tới nay.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin để luận giải các vấn đề liên quan.
2
Phương pháp: khảo sát thu thập tài liệu, thống kê, so sánh kết hợp với phương pháp
tổng hợp, phân tích tình hình thực tiễn.
5. Những đóng góp
Về mặt khoa học luận văn sẽ hệ thống hoá và tổng kết những vẫn đề lý luận về tổ
chức kế toán HTK trong các DN .
Về thực tiễn trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng công tác kế toán HTK luận
văn đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác này phục vụ nhu
cầu quản trị HTK trong đơn vị.
6. Nội dung nghiên cứu
Ngoài lời mở đầu, kết cấu luận văn gồm 3 chương
Chương I : Lý luận chung về tổ chức kế toán HTK tại các DN .
Chương II: Thực trạng công tác tổ chức kế toán HTK tại TCT Rau quả Nông Sản.
Chương III: Phương pháp và giải pháp hoàn thiện tổ chức kế toán hàng tồn TCT
Rau quả Nông Sản để nâng cao hiệu quả quản trị.
3
Chương I: Lý luận chung về tổ chức kế toán HTK trong các DN
I.1. HTK và quản lý HTK tại các DN
I.1.1 Khái niệm, đặc điểm , phân loại HTK trong các DN
I.1.1.1 Khái niê êm
Mô êt trong những tài sản có lớn nhất ở mô êt cửa hàng bán lẻ hoă êc mô êt cơ sở kinh
doanh là hàng hoá tồn kho và viê êc bán các hàng hoá đó với mức giá cao hơn chi phí
là nguồn thu nhâ pê chủ yếu của các cơ sở này.
Đối với 1 công ty thương mại hàng tồn kho(HTK) bao gồm tất cả các hàng hoá
thuô êc sở hữu của công ty và được dùng để bán trong hoạt đô êng kinh doanh thường
xuyên. Hàng hoá dùng để bán thường được chuyển đổi sang tiền mă tê trong thời
gian dưới 1 năm và vì thế chúng được coi là tài sản lưu đô êng. Trong bảng cân đối
HTK được ghi ngay dưới khoản phải thu, bởi vì so với các khoản phải thu thì chúng
chỉ còn mô êt bước nữa là được chuyển đổi thành tiền mă tê .
Trong ngành công nghiê êp chế tạo có ba loại HTK chính: nguyên liê uê thô, hàng hoá
trong quá trình sản xuất, và hàng thành phẩm. Tất cả 3 loại HTK đều được đưa vào
phần tài sản có lưu đô nê g của bảng cân đối.
Theo bách khoa toàn thư Việt Nam thì “HÀNG TỒN KHO là hàng chưa đưa ra
bán, còn nằm trong kho bảo quản của các DN sản xuất, kinh doanh. Một bộ phận
chủ yếu của HTK là hàng hoá dự trữ của các kho bảo quản. HTK được tính theo chỉ
tiêu hiện vật và chỉ tiêu giá trị. Trong công tác kế hoạch, thống kê và kế toán, HTK
được phân thành HTK đầu kì và HTK cuối kì. Trong sản xuất - kinh doanh, HTK
phải được giữ ở mức độ hợp lí. HTK quá nhiều sẽ gây ra ứ đọng hàng hoá, tăng chi
phí lưu thông, vốn luân chuyển chậm. HTK quá thấp sẽ không bảo đảm quá trình
lưu thông và kinh doanh được liên tục”.
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế số 02(ISA 02) có quy định:
- Hàng tồn kho (Inventories) là tài sản gồm:
Giữ để bán trong quá trình hoạt đô êng kinh doanh thông thường hoă êc trong quá
trình sản xuất để bán hoă êc dưới dạng nguyên liê uê hoă êc hàng cung cấp được tiêu
thụ trong quá trình sản xuất hoă êc cung cấp dịch vụ. Đối với nhà cung cấp dịch vụ,
4
HTK gồm có chi phí dịch vụ có khoản doanh thu tương ứng chưa được ghi nhâ nê
( chẳng hạn như các công viê êc đang tiến hành của kiểm toán viên nhà thiết kế luâ tê
sư)
HTK phải được tính toán với mức thấp hơn giữa chi phí hoă êc giá trị ròng có thể
thực hiê nê theo nguyên tắc thâ ên trọng
Chi phí hàng hoá bao gồm tất cả chi phí mua (ví dụ giá mua và chi phí nhâ pê
khẩu ..), chi phí chuyển đổi (nhân công trực tiếp, chi phí sxchung, chi phí chung
biến đổi, chi phí chung cố định được phân bổ với năng suất thông thường) và các
chi phí khác (như thiết kế, đi vay.v.v) phát sinh trong quá trình chuyển HTK sang
địa điểm và tình trạng hiê ên tại. tại chuẩn mực này đã đề cấp tới cách thức kế toán
HTK theo hê ê thống chi phí lịch sử (hisfoincalcosst).
Còn ở Việt Nam để theo dõi, quản lý và hạch toán HTK , Bộ tài chính đã ban hành
chuẩn mực kế toán số 02 (VAS02) và thông tư hướng dẫn TT89/BTC. Chuẩn mực
kế toán Viê êt Nam số 02(VSA 02) ban hành theo quyết định 149/2001/QĐ-BTC
ngày 31/12/2001 trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các quan điểm về HTK trong các
văn bản, tài liê uê pháp lý của Viê êt Nam và quốc tế từ trước tới nay đã khẳng định
được tổng quan cũng như đã hướng dẫn cụ thể về phạm vi ghi nhận HTK , tính giá
HTK , quản lý HTK và phương pháp hạch toán HTK .
Theo chuẩn mực kế toán số 02(VAS02) thì
- Hàng tồn kho : Là những tài sản:
(a) Được giữ để bán trong kỳ sản xuất, kinh doanh bình thường;
(b) Đang trong quá trình sản xuất, kinh doanh dở dang;
(c) Nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ để sử dụng trong quá trình sản xuất, kinh
doanh hoặc cung cấp dịch vụ.
Theo khái niệm như trên thì HTK trong DN gồm:
- Hàng hoá mua để bán: Hàng hoá tồn kho, hàng mua đang đi đường, hàng gửi
bán, hàng gửi đi gia công chế biến.
- Thành phẩm: Thành phẩm tồn kho và thành phẩm gửi đi bán.
5
- Sản phẩm dở dang: Sản phẩm chưa hoàn thành hoặc sản phẩm hoàn thành
nhưng chưa làm thủ tục nhập kho.
- Nguyên liệu, vật liệu, công cụ dụng cụ tồn kho, đã mua đang đi trên đường
hoặc gửi đi gia công chế biến.
- Chi phi dịch vụ dở dang
Ngoài khái niệm về HTK tại VSA 02 nói trên thì theo quy định hiê ên hành, Quyết
định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 thay quyết định 1141/TC/QĐ/CĐKT
ngày 1/11/1995 thì HTK bao gồm :
- Hàng mua đang đi đường
- Nguyên liệu, vật liệu
- Công cụ, dụng cụ
- Chi phí SX, KD dở dang
- Thành phẩm
- Hàng hóa
- Hàng gửi đi bán
- Hàng hoá kho bảo thuế
- Hàng hoá bất động sản
Theo chuẩn mực kế toán HTK Mỹ thì: HTK là toàn bộ số hàng mà DN mua về và
dự trữ để bán bao gồm cả hàng mua đang đi đường, hàng đã bán nhưng chưa giao,
hàng đang gửi, hàng hoá cũ hư hỏng có thể bán được.
Theo chuẩn mực kế toán HTK Pháp thì : HTK là một bộ phận tài sản lưu động dự
trữ cho sản xuất và dự trữ cho lưu thong, hoặc đang trong quá trình chế tạo sản
phẩm ở DN bao gồm nguyên liệu, vật liệu, công cụ dụng cụ, sản phẩm dịch vụ dở
dang, thành phẩm, hàng hoá.
Theo quan điểm của Anh: HTK là một tài sản hữu hình của DN với đặc tính:
dùng để bán ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của DN . HTK được xếp
vào khoản mục Tài sản lưu động trong Bảng cân đối kế toán do nó có khả năng
được chuyển thành tiền mặt trong vòng 1 năm.
I.1.1.2 Đặc điểm
6
Với những nô êi dung như trên có thể nhâ nê xét rằng HTK là loại tài sản lưu đô êng
khá phức tạp và quan trọng trong doanh nghiê êp gồm nhiều loại, đa dạng với vai trò
và công dụng khác nhau tuy vâ êy có thể khái quát những đă êc điểm chính sau:
HTK thường chiếm 1 tỷ trọng lớn trong tài sản lưu động.
HTK thường được bảo quản và cất trữ ở nhiều nơi khác nhau, có điều kiện cất
trữ khác nhau, lại do nhiều đối tượng quản lý với trình độ khác nhau nên dễ xảy ra
mất mát, công việc kiểm soát vật chất , kiểm kê, quản lý và sử dụng nó gặp nhiều
khó khăn, mất thời gian chi phí, đôi khi có sự nhầm lẫn sai sót và dễ bị gian lận.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh HTK thường biến động tăng giảm liên tục
với các nghiệp vụ nhập xuất thường xuyên đòi hỏi các đơn vị phải phân loại HTK
khoa học theo từng loại, từng nhóm, từng danh mục, thống nhất về tên gọi, ký mã
hiệu, quy cách đơn vị tính thì mới tổ chức tốt việc quản lý.
Trong kế toán có nhiều phương pháp định giá HTK và đối với mỗi loại HTK
DN có thể lựa chọn các phương pháp khác nhau. Tuy nhiên các đơn vị phải đảm
bảo tính thống nhất trong việc tính giá HTK giữa các kỳ.
HTK thường khá đa dạng và có thể bị ảnh hưởng lớn bởi hao mòn hữu hình và
hao mòn vô hình như bị hư hỏng trong thời gian nhất định, bị lỗi thời, lỗi mốt do
đó cần phải có sự hiểu biết về đặc điểm từng loại, xu hướng biến động của nó trên
bình diện ngành để có thể xác định được chính xác hao mòn nhằm hạn chế rủi ro
thiệt hại, thất thoát tài sản quan trọng này.
Việc xác định tính giá HTK có ảnh hưởng đến giá vôn từ đó ảnh hưởng tới lãi
chưa phân phối của DN .
Việc xác định chất lượng, tình trạng và giá trị HTK luôn là công việc khó khăn
phức tạp hơn hầu hết các tài sản khác. Có rất nhiều khoản mục HTK rất khó phân
loại và định giá.
I.1.1.3 Phân loại HTK
Tồn kho có thể phân chia thành nhiều loại:
7
Cách thứ nhất là chia tồn kho theo hình thức vật lý của nó, gắn liền với các
giai đoạn của quá trình sản xuất, đó là HTK ở khâu dự trữ (nguyên vật liệu, hàng đi
đường, công cụ dụng cụ...); HTK ở khâu sản xuất (giá trị sản phẩm dở dang) và
HTK ở khâu lưu thông (thành phẩm, hàng hoá, hàng gửi bán).
Cách thứ hai là chia tồn kho theo giá trị đầu tư vốn vào chúng. Đây là hình
thức phân loại tồn kho theo giá trị từng loại. Trong cách phân loại này ta chia tồn
kho thành nhóm A, B và C. Về mặt số lượng, nhóm A chiếm X%, nhóm B chiếm Y
% và nhóm C chiếm Z% (X+Y+Z=100%, Xchiếm đến M%, trong khi nhóm B và nhóm C lần lượt chỉ chiếm có N% và P%
(M+N+P=100%, M>N>P). Điều này cho thấy nhóm A chiếm tỷ trọng cao nhất về
mặt giá trị hay nói khác đi nhóm A là nhóm tồn kho đắt tiền hơn nên cần kiểm tra
thường xuyên hơn. Cách kiểm soát tồn kho kiểu này gọi là phương pháp kiểm soát
tồn kho ABC.
Ngoài ra còn có thể phân loại theo nguồn hình thanh (mua ngoài, tự sản
xuất, thuê gia công, nhận góp vốn, nhập khẩu…), theo quyến sở hữu(HTK tự có từ
sản xuất, HTK do nhận gia công chế biến, HTK giữ hộ …)
Một tiêu thức phân loại thông dụng là phân loại theo công dụng của HTK. Đó
là:
Theo kế toán Mỹ: HTK được chia thành 3 nhóm chính là:
- HTK thương mại: là những hàng mua vào để bán ra.
- HTK sản xuất: bao gồm: nguyên vật liệu, bán thành phẩm, giá trị sản phẩm
dở dang, thành phẩm, vật dụng khác.
- HTK là các vật phẩm khác: các thứ HTK này không trọng yếu nên thường
được ghi nhận thẳng vào chi phí khi chúng được mua về để sử dụng.
Theo kế toán Pháp: HTK được phân chia theo công dụng bao gồm:
nguyên vật liệu, tài sản dự trữ sản xuất khác, giá trị sản phẩm dở dang, dịch
vụ dở dang, tồn kho sản phẩm, tồn kho hàng hoá.[9]
8
Theo kế toán Việt Nam: HTK bao gồm: nguyên vật liệu, hàng mua đi
đường, công cụ dụng cụ, giá trị sản phẩm dở dang, hàng gửi bán, thành phẩm,
hàng hoá.
Như vậy, chúng ta thấy rằng việc phân loại HTK ở các quốc gia về cơ bản là
tương đối thống nhất với nhau.
Trong tất cả các cách phân loại nói trên cách thứ nhất là có ý nghĩa nhất vì nó gắn
quá trình quản lý với từng khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Cách này giúp
cho nhà quản trị thấy rõ vai trò và tác dụng của từng loại HTK trong quá trình sản
xuất kinh doanh qua đó đưa ra quyết định về quản lý và hạch toán từng loại nhằm
nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng HTK.
Việc xác định những gì thuộc về HTK cũng nảy sinh vấn đề sở hữu HTK trong một
số trường hợp. Theo nguyên tắc kế toán nói chung thì thuộc về HTK chỉ là những
thứ mà do DN sở hữu. Tuy nhiên, một điểm quan trọng là quyền kiểm soát gắn bó
với tài sản đó. Trong thực tế, việc ghi nhận là HTK khi nhận được hàng vì người
mua khó xác định chính xác thời điểm pháp lý chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm
cho mỗi lần mua, đồng thời không có những sai sót trọng yếu nào khi ghi nhận theo
cách này.
Như vậy, việc phân loại và xác định những hàng nào thuộc HTK của DN ảnh
hưởng tới việc tính chính xác của HTK phản ánh trên bảng cân đối kế toán và ảnh
hưởng tới các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả kinh doanh. Vì vậy việc phân loại HTK
là cần thiết trong mỗi DN .
I.1.2 Quản lý HTK trong các DN [14]
HTK hình thành mối liên hệ giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Một DN có thể
phải duy trì HTK dưới những hình thức như nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang và
thành phẩm. Tác động tích cực của việc duy trì HTK là giúp cho DN chủ động hơn
trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
+Tồn kho nguyên liệu giúp công ty chủ động trong sản xuất và năng động trong
việc mua nguyên liệu dự trữ.
9
+Tồn kho sản phẩm dở dang giúp cho quá trình sản xuất của công ty được linh hoạt
và liên tục, giai đoạn sản xuất sau không phải chờ đợi giai đoạn sản xuất trước.
+Tồn kho thành phẩm giúp chủ động trong việc hoạch định sản xuất, tiếp thị và tiêu
thụ sản phẩm nhằm khai thác và thoả mãn tối đa nhu cầu thị trường.
Tuy nhiên, duy trì tồn kho cũng có mặt trái của nó là làm phát sinh chi phí liên quan
đến tồn kho bao gồm chi phí kho bãi, bảo quản và cả chi phí cơi hội do vốn kẹt đầu
tư vào tồn kho. Vì thế yêu cầu đặt ra đối với DN là phải có công tác quản lý như thế
nào để thu mua, xuất bán hàng hoá vật tư kịp thời, chính xác, sử dụng hiệu quả tiết
kiệm, công tác bảo quản tốt, dự trữ hợp lý. Trong thực tế xuất phát từ những đặc
điểm của HTK mà tuỳ theo điều kiện quản lý ở mỗi DN mà có những yêu cầu khác
nhau song việc quản lý HTK trong các DN phải bao quát cả trên 3 phương diện:
Quản lý hiện vật của HTK , quản lý kế toán và quản trị kinh tế của HTK . Quản lý
tồn kho cần lưu ý xem xét sự đánh đổi giữa lợi ích và phí tổn của việc duy trì HTK .
I.1.2.1 Quản lý hiện vật của HTK
Quản lý hiện vật của HTK dựa vào việc tối ưu hóa sự lưu kho của sản phẩm: diện
tích và số lượng cần thiết của kho là bao nhiêu ? Kho tàng có những phương tiện
nào, trong số đó có những phương tiện vận chuyển, sắp xếp nào ?, cần phải mua
chúng như thế nào ?. Đáp án cho câu trả lời này cho phép thấy khả năng sinh lợi của
các khoản đầu tư đã chấp nhận.
- Quản lý tốt về mặt vật chất của HTK bảo đảm cho khách hàng của DN một
"mức độ dịch vụ tốt" và có thể tạo ra một lợi thế so với các đối thủ. Muốn vậy yêu
cầu phải nắm được những nguyên tắc cơ bản của kho hàng đó là:
Trong các DN công nghiệp, người ta chia thành kho thành phẩm, kho nguyên vật
liệu, kho các bộ phận linh kiện, kho dụng cụ đồ nghề.v.v.
Trong các DN thương nghiệp bán buôn hoặc bán lẻ, hàng hóa được dự trữ ở các kho
tạm giữ hoặc là các kho dự trữ, nhưng cũng cả ở diện tích bán. Những kho này là
cần thiết, bởi vì các dự trữ phải được bảo vệ chống ăn trộm, chống thời tiết xấu,
chống nóng, ẩm và chống những biến dạng v.v... Những cơ sở dự trữ cần phải kín
và phù hợp với từng loại sản phẩm, hàng hóa, vật tư cần được bảo vệ. Địa điểm kho
10
dự trữ cần phải được bố trí sao cho việc vận chuyển tối thiểu và dễ dàng cho việc
nhập, xuất các hàng hóa.
- Mã hóa và phương pháp xếp đặt các sản phẩm tồn kho.
Để thuận lợi cho công tác dự trữ và tăng tốc độ giải phóng kho, cần thiết phải nhận
dạng sản phẩm một cách nhanh chóng. Giải pháp đơn giản nhất là sử dụng tên gọi
của chúng, nhưng cách gọi tên này thường ít được sử dụng, đặc biệt khi chúng gồm
những chỉ dẫn kỹ thuật hoặc kích cỡ, do đó DN thường sử dụng một bộ mã số
(chẳng hạn như: 1234) hoặc cả chữ cái và số cho mỗi mặt HTK .
- Những phương pháp xếp đặt các mặt hàng tồn kho.
Có nhiều phương pháp để sắp xếp hàng tồn kho, chúng có thể được kết hợp với
nhau.
+ Phương pháp: "Mỗi chỗ một vật, mỗi vật ở chỗ của mình" là dành cho mỗi một
loại hàng một chỗ quy định.
Ưu điểm là dễ dàng định vị sản phẩm, vật tư trong kho; xác định lượng dự
trữ thừa hay thiếu một cách nhanh chóng. Nhưng mắc nhược điểm là không tận
dụng được diện tích kho tàng.
Phương pháp phổ quát vị trí: "bất kỳ vật gì, bất kỳ chỗ nào" là sử dụng vị trí
nào còn trống lúc đưa hàng vào kho, một loại hàng có nhiều điạ chỉ. Ưu điểm của
nó là tận dụng được diện tích kho tàng, nhưng khó về mặt thông tin để định vị được
chỗ trống khi nhập kho và tìm địa chỉ sản phẩm khi xuất kho.
Phương pháp tần suất quay vòng: Loại hàng nào ra vào nhiều nhất được xếp
ở chỗ thuận tiện nhất.
Phương pháp hai kho: Kho được chia làm hai bộ phận: Kho dự trữ được
cung ứng do nhập kho và cung cấp số lượng nhỏ cho kho phân phối từ đó xác lập
các đơn đặt hàng.
Phương pháp vào trước ra trước (first in, first out FI FO)
I.1.2.2 Quản trị kế toán HTK .
Nắm số lượng dự trữ:
11
- DN sử dụng các phiếu kho để ghi chép sự vận động của hàng hóa (nhập và
xuất) và tính toán số lượng tồn kho (dự trữ cuối cùng = dự trữ ban đầu + nhập -
xuất).
- Kiểm kê: Phiếu kho cho phép nắm được hàng tồn trong kho về mặt giấy tờ,
nhưng nó không thể tính được những mất mát hoặc hư hỏng ở tất cả các dạng. Để
khắc phục điều này, quy định các DN thực hiện kiểm kê một cách thường xuyên (kế
toán), hoặc gián đoạn (ngoài kế toán).
Việc kiểm kê này là cơ sở để đánh giá dự trữ được biểu thị ở bảng cân đối, cho phép
nhà quản trị biết được bất cứ lúc nào về tình hình dự trữ của họ. Việc kế toán này
của dự trữ là khá dễ dàng về số lượng hiện vật, nhưng có nhiều khó khăn về giá trị.
Nắm giá trị HTK :
Việc nắm các HTK về mặt giá trị là khó khăn, vì thông thường các mặt hàng nhập
vào có những giá mua khác nhau. Vấn đề cần phải định giá cho chúng khi xuất kho
theo giá nào? Về phương pháp có thể sử dụng
- Phương pháp giá đích danh
- Phương pháp giá bình quân gia quyền
- Phương pháp FIFO
- Phương pháp LIFO
Cả bốn phương pháp trên đều là phương pháp kế toán được thừa nhận. Tuy nhiên,
lựa chọn phương pháp để áp dụng cần chú trọng tới ảnh hưởng của từng phương
pháp đối với bảng tổng kết tài sản và bảng kê lãi lỗ của DN .
I.1.2.3 Quản trị kinh tế của HTK .
Việc duy trì HTK để thực hiện hai mục tiêu có vẻ trái ngược nhau:
- Mục tiêu an toàn: có HTK để tránh mọi gián đoạn.
- Mục tiêu tài chính: giảm đến mức thấp nhất có thể được về mức hàng tồn
trong kho để giảm những chi phí kho tàng.
Để giải quyết điều đó, quản trị HTK cần trả lời hai câu hỏi:
- Đặt hàng khi nào?
- Số lượng mỗi lần đặt hàng là bao nhiêu?
12
Dự trữ trung bình là dự trữ đã được lưu lại bình quân trong DN trong thời gian nhất
định, dự trữ trung bình giảm khi số tái dự trữ tăng lên.
Dự trữ gắn với thời hạn cung ứng: dự trữ tối thiểu.
Nếu như DN chờ lượng dự trữ xuống bằng 0 mới đưa đơn hàng cho nhà cung ứng,
nó sẽ rới vào tình trạng gián đoạn dự trữ trong quãng thời gian được gọi là thời gian
tái dự trữ. Do vậy, vào lúc thực hiện việc đặt hàng cần phải có dự trữ một khối
lượng hàng đủ để đáp ứng nhu cầu trong thời gian từ khi đặt hàng đến khi nhận
hàng. Dự trữ tối thiểu đáp ứng nhu cầu này.
Dự trữ an toàn hoặc dự trữ bảo hiểm
Những chi phí liên quan đến dự trữ:
Khi thực hiện dự trữ, DN cần phải tính toán ba loại chi phí:
Chi phí tồn trữ: là những chi phí có liên quan đến hoạt động thực hiện tồn kho, bao
gồm:
Chi phí kho: Chi phí này nhằm bảo đảm hàng hóa tồn kho, chi phí cho kho tàng
(thuê hoặc khấu hao hàng năm nhà kho), chi phí khai thác kho (tiền lương và bảo
hiểm xã hội cho nhân viên kho, tiền thuê hoặc khấu hao hàng năm máy móc thiết bị,
ánh sáng...), chi phí bảo dưỡng thiết bị, chi phí bảo hiểm, chi phí quản lý
Chi phí sụt giá hàng trong quá trình dự trữ trong kho: phải phân biệt hai nguyên
nhân sụt giá:
- Sụt giá do lỗi thời liên quan đến những mặt hàng theo mốt hoặc công nghệ
tiến triển nhanh
- Sụt giá do hư hỏng, chẳng hạn do những tai nạn khi chuyên chở, bay hơi,
trộm cắp, hoặc bị phá bởi những loại gặm nhấm...
Chí phí đặt hàng: Đó là những chi phí cho mỗi lần DN bắt đầu quá trình mua để tái
dự trữ. Loại chi phí này bao gồm những chi phí có liên quan đến đơn hàng như: chi
phí các mẫu đơn sử dụng và chi phí xử lý các đơn đặt hàng, thư tín, điện thoại, đi
lại, tiền lương và bảo hiểm xã hội của nhân viên mua (tìm người cung ứng, thương
lượng, thảo đơn đặt hàng, thúc dục, nhắc nhở...), của nhân viên kế toán (ghi chép,
13
thanh toán hóa đơn v.v), chi phí bố trí thiết bị, chi phí cho công tác kiểm tra về số và
chất lượng hàng hóa.
Khi chúng ta sản xuất một lô hàng sẽ phát sinh một chi phí cho việc chuyển đổi qui
trình do sự thay đổi sản phẩm từ giai đoạn trước sang giai đoạn tiếp theo. Kích
thước lô hàng càng lớn thì tồn kho vật tư càng lớn, nhưng chúng ta đặt hàng ít lần
trong năm thì chi phí đặt hàng hàng năm thấp hơn.
Chi phí mua hàng: Loại chi phí này phụ thuộc vào nhu cầu hàng năm của DN
và giá mua. Khi mua nguyên vật liệu với kích thước lô hàng lớn sẽ làm tăng chi
phí tồn trữ nhưng chi phí mua hàng thấp hơn do chiết khấu theo số lượng và
cước phí vận chuyển cũng giảm.
I.1.2.4 Quản lý HTK tại các khâu trong quá trình sxkd
Xuất phát từ vai trò , đặc điểm của HTK trong quá trình sản xuất kinh doanh đòi
hỏi phải quản lý chặt chẽ ở mọi khâu từ khâu thu mua , bảo quản ,sử dụng và dự trữ
HTK là tài sản dự trữ sản xuất, thường xuyên biến động, các DN thường xuyên phải
tiến hành mua vật liệu, công cụ dụng cụ để đáp ứng kịp thời cho quá trình sản xuất,
chế tạo sản phẩm và các nhu cầu khác trong DN .
- Ở khâu thu mua: Đòi hỏi phải quản lý về khối lượng, chất lượng, quy cách
chủng loại, giá mua và chi phí mua cũng như kế hoạch mua theo đúng tiến độ thời
gian phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh của DN
- Ở khâu bảo quản: Việc tổ chức tốt kho tàng, bến bãi trang bị đầy đủ các
phương tiện cân đo, thực hiện đúng chế độ bảo quản đối với từng loại HTK tránh hư
hỏng, mất mát, hao hụt, đảm bảo an toàn.
- Ở khâu sử dụng: Đòi hỏi phải thực hiện việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm. trên
cơ sở các định mức, dự toán chi phí nhằm hạ thấp mức tiêu hao vật liệu trong giá
thành sản phẩm, tăng thu nhập, tăng tích luỹ cho DN , do vậy trong khâu này cần tổ
chức tốt việc ghi chép, phản ánh tình hình xuất dùng và sử dụng HTK trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Ở khâu dự trữ: DN phải xác định được định mức dự trữ tối đa, tối thiếu cho
cho từng loại HTK để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được bình
14
thường, không bị ngừng trệ, gián đoạn do việc cung ứng, mua, bán không kịp thời
hoặc gây ứ đọng vốn do dự trữ quá nhiều.
Tóm lại, quản lý chặt chẽ HTK từ khâu mua đến khâu bảo quản, sử dụng và dự trữ
là một trong những khâu quan trọng trong công tác quản lý tài sản ở DN
I.2. Nội dung tổ chức thu thập thông tin kế toán HTK tại các DN
I.2.1. Vai trò của thông tin kế toán quản trị HTK trong các DN
Khi tính tổng lợi nhuâ nê phát sinh do viê êc bán các hàng hoá trong 1 kỳ kế toán
chúng ta lấy tổng doanh số của thời kỳ này trừ đi chi phí hàng hoá bán ra. Tổng
doanh số bán hàng được tính dễ dàng bằng cách cô êng doanh số bán hàng ngày lại,
tuy nhiên trong nhiều doanh nghiê êp không duy trì viê êc ghi chép hàng ngày về chi
phí của hàng hoá bán ra (dùng pp kiểm kê định kỳ). Đối với những doanh nghiê êp
này con số biểu thị chi phí hàng hoá bán ra trong suốt kỳ kế toán được tính vào cuối
kỳ bằng các tách chi phí hàng hoá có sẵn để bán ra làm 2 phần:
- Chi phí hàng hoá bán ra
- Chi phí hàng hoan chưa bán bao gồm HTK vào cuối kỳ kế toán
Mối quan hê ê được biễu diễn như sau:
(Chi phí hàng hoá có sẵn để bán - Hàng hoá tồn kho vào cuối kỳ kế toán) = (Chi phí
hàng hoá đã bán ra).
Như vâ yê viê êc xác định khối lượng hàng hoá tồn kho vào cuối kỳ kế toán là 1 bước
chủ yếu để xác định chi phí của hàng hoá bán ra.Viê êc xác định giá trị hàng hoá tồn
kho và xác định chi phí hàng hoá bán ra về thực chất là hai mă êt của mô êt vấn đề.
Viê nê kiểm toán đô êc lâ êp đã tóm tắt mối quan hê ê giữa giá trị HTK và thu nhâ pê bằng
những từ sau:
" Mục tiêu chính của kế toán HTK là xác định đúng mức thu nhâ pê thông qua quá
trình so sánh chi phí thích hợp với thu nhâ pê " có nghĩa là xác định phần nào trong
chi phí hàng hoá có sẵn để bán phải được loại trừ ra khỏi thu nhâ pê trong kỳ hiê nê
hành và phần nào nên được chuyển sang (như hàng tồn kho) để tương ứng với thu
nhâ pê trong kỳ tiếp sau.
Tầm quan trọng của viêcê đánh giá chính xác hàng tồn kho
15
Viê êc tính đúng giá trị HTK không chỉ giúp cho doanh nghiê êp chỉ đạo kiê êp thời các
nghiê êp vụ kinh tế diễn ra hàng ngày mà còn giúp doanh nghiê êp có mô tê lượng vâ êt
tư hàng hoá dự trữ đúng định mức không dự trữ qua nhiều gây ứ đọng vốn mă tê
khác không dự trữ quá ít để bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiê êp được tiến hành liên tục không bị gián đoạn.
Viê êc tính đúng giá trị HTK còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi lâ êp báo cáo tài
chính. Vì nếu tính sai lê êch giá trị HTK sẽ làm sai lê êch các chỉ tiêu trên báo cáo tài
chính. Nếu giá trị HTK bị tính sai dẫn đến giá trị tài sản lưu đô êng và tổng giá trị tài
sản của doanh nghiê êp thiếu chính xác, giá vốn hàng bán tính sai sẽ làm cho chi tiêu
lãi gô êp , lãi ròng của doanh nghiê êp không còn chính xác.
Những TSLĐ quan trọng nhất trong các bảng cân đối của công ty là tiền mă êt, các
khoản phải thu và hàng tồn kho. Trong ba loại tài sản này HTK thường là lớn nhất
và do đô ê lớn tương đối của tài sản này thì nếu mô êt sai sót trong đánh giá HTK có
thể dẫn đến chỗ báo cáo sai về tình hình tài chính và về thu nhâ pê ròng. Người ta ví
von rằng viê êc tính sai 20% trị giá HTK sẽ có ảnh hưởng lớn đến các báo biểu tài
chính cũng tương tự như loại trừ toàn bô ê tài sản tiền mă êt ra khỏi bảng cân đối.
Thâ êt vâ yê :
Mô êt sai sót về HTK đương nhiên sẽ dãn đén các con số sai lê cê h khác trong bảng
cân đối, chẳng hạn tổng số tài sản lưu đô êng, tổng tài sản, khả năng thanh toán của
chủ sở hữu. Sai sót đó cũng gây ảnh hưởng đến các con số chủ yếu trong bản kê
khai thu nhâ pê , chẳng hạn như chi phí hàng hoá bán ra, tổng lợi nhuâ nê thu được từ
bán hàng và lợi nhuâ nê ròng trong mô êt thời kỳ. Và cuối cùng điều quan trọng là
HTK cuối mô êt năm cũng đồng thời là HTK đầu năm tiếp theo do đó bản khai thu
nhâ pê của năm tiếp theo cũng sẽ bị sai lê êch mô êt khoản đúng bằng khoản sai lê êch
ban đầu khi tính toán hàng tồn kho.
Ảnh hưởng của sai lê êch khi tính toán HTK đối với thu nhâ pê ròng có thể được tóm
tắt như sau:
1. Khi HTK cuối năm bị đánh giá thấp đi thu nhâ pê ròng trong năm đó sẽ bị đành
giá thấp đi theo.
16
2. Khi HTK cuối năm được đánh giá cao hơn thu nhâ pê ròng trong năm đó sẽ được
đánh giá cao lên theo.
3.Khi HTK đầu năm bị đánh giá thấp đi thì thu nhâ pê ròng trong thời gian đó(năm
đó) sẽ được tính cao lên.
4. Khi HTK đầu năm được đánh giá cao hơn thì thu nhâ pê ròng trong thời gian đó sẽ
bị đánh giá thấp đi.
I.2.2. Xác định phương pháp tính giá HTK
I.2.2.1. Cơ sở tính giá HTK
Theo lời của Uỷ ban AICPA về thủ tục kế toán “cơ sở chủ yếu của kế toán HTK là
chi phí mà nói chung chi phí được định nghĩa là giá đã trả hoặc xem xét trả để mua
một tài sản. Khi áp dụng cho HTK về nguyên tắc chi phí có nghĩa là tổng chi tiêu và
phí tổn trực tiếp hoặc gián tiếp bỏ ra để đưa hàng đó đến vị trí và tình trạng hiện
tại”.
Xác định cơ sở tính giá HTK là nguyên tắc cho việc xác định giá cho từng đơn
vị HTK , điều này ảnh huởng tới việc xác định giá cho từng đơn vị HTK , việc
xác định lợi nhuận của kỳ và tới cả chỉ tiêu trị giá HTK trên bảng cân đối kế
toán.
Tính giá HTK có vai trò quan trọng tới tính hữu ích của thông tin kế toán trên
các báo cáo tài chính để cung cấp cho các đối tượng sử dụng khác nhau.
Thông thường kế toán sử dụng ít nhất năm cơ sở tính giá HTK với các mục đích
khác nhau, đó là: giá phí lịch sử (giá gốc); giá phí hiện tại xác định bằng giá phí
thay thế; giá phí hiện tại xác định bằng giá trị thuần có thể thực hiện được; giá thấp
hơn giá gốc và giá thị trường; và giá phí chuẩn. Theo các nguyên tắc kế toán chung
được thừa nhận (GAAP) yêu cầu phải sử dụng nguyên tắc đánh giá theo giá thấp
hơn giữa giá gốc và giá thị trường.
I.2.2.2.1 Phương pháp tính giá hàng nhập kho [13]
* Với DN kinh doanh thương mại: Khi phản ánh trên sổ sách kế toán, HTK được
phản ánh theo giá thực tế nhằm đảm bảo nguyên tắc giá phí.
17
Giá trị thực tế của Giá mua ghi Chi phí thu mua Chiết khấu thương mại, giảm
= + + Thuế -
hàng hoá mua vào trên hoá đơn hàng hoá giá hàng mua được hưởng
Giá trị thực tế của hàng hoá gia công chế
= Trị giá mua thực tế xuất kho + Chi phí sơ chế
biến
* Với DN sản xuất: Ở các DN này HTK gồm nguyên vật liệu, giá trị sản phẩm dở
dang, thành phẩm, hàng gửi bán. Giá thực tế từng loại HTK được xác định như sau:
- Nguyên vật liệu mua chuẩn bị cho sản xuất: Giá thực tế được xác định giống hàng
hoá mua vào.
- Với thành phẩm nhập kho: Giá thực tế là giá thành phẩm sản xuất thực tế tức bao
gồm ba khoản mục chi phí là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
I.2.2.2 Phương pháp tính giá xuất HTK
HTK trong các DN tăng từ nhiều nguồn khác nhau với các đơn giá khác nhau,
vì vậy DN cần lựa chọn phương pháp tính giá thực tế hàng xuất kho… việc lựa
chọn phương pháp nào còn tuỳ thuộc vào đặc điểm của HTK , yêu cầu và trình
độ quản lý của DN .
Song DN áp dụng phương pháp nào đòi hỏi phải nhất quán trong suốt niên độ kế
toán. Nếu có sự thay đổi phải giải trình và thuyết minh, nêu rõ những tác động của
sự thay đổi tới các báo cáo tài chính của DN . Để tính giá HTK xuất, DN có thể áp
dụng một trong các phương pháp sau đây:
* Phương pháp giá thực tế đích danh.
Theo phương pháp này sản phẩm, vật tư, hàng hoá xuất kho thuộc lô hàng nhập nào
thì lấy đơn giá nhập kho của lô hàng đó để tính. Đây là phương án tốt nhất, nó tuân
thủ nguyên tắc phù hợp của kế toán; chi phí thực tế phù hợp với doanh thu thực tế.
Giá trị của hàng xuất kho đem bán phù hợp với doanh thu mà nó tạo ra. Hơn nữa,
giá trị HTK được phản ánh đúng theo giá trị thực tế của nó.
*Phương pháp giá bình quân:
Theo phương pháp này giá trị của từng loại HTK được tính theo giá trị trung bình
của từng loại HTK đầu kỳ và giá trị từng loại HTK được mua hoặc sản xuất trong
18
kỳ. Phương pháp bình quân có thể được tính theo thời kỳ hoặc vào mỗi khi nhập
một lô hàng , phụ thuộc vào tình hình của DN .
** Theo giá bình quân gia quyền cả kỳ dự trữ
Theo phương pháp này, đến cuối kỳ mới tính trị giá vốn của hàng xuất kho trong kỳ.
Tuỳ theo kỳ dự trữ của DN áp dụng mà kế toán HTK căn cứ vào giá mua, giá nhập,
lượng HTK đầu kỳ và nhập trong kỳ để tính giá đơn vị bình quân:
** Theo giá bình quân gia quyền sau mỗi lần nhập:
Sau mỗi lần nhập sản phẩm, vật tư, hàng hoá, kế toán phải xác định lại giá trị thực
của HTK và giá đơn vị bình quân. Phương pháp này có ưu điểm là khắc phục được
những hạn chế của phương pháp trên nhưng việc tính toán phức tạp, nhiều lần, tốn
nhiều công sức. Do đặc điểm trên mà phương pháp này được áp dụng ở các DN có
ít chủng loại HTK , có lưu lượng nhập xuất ít.
** Theo giá bình quân gia quyền cuối kỳ trước: Dựa vào trị giá và số lượng HTK
cuối kỳ trước, kế toán tính giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước để tính giá xuất
phương pháp này có ưu điểm đơn giản, dễ tính toán nhưng trị giá hàng xuất không
chịu ảnh hưởng của sự thay đổi giá cả trong kỳ hiện tại. Vì vậy, phương pháp này
làm cho chỉ tiêu trên báo cáo kết quả kinh doanh không sát với giá thực tế.
* Phương pháp nhập trước xuất trước(FIFO)
Phương pháp này áp dụng dựa trên giả định là hàng được mua trước hoặc sản xuất
trước thì được xuất trước, và hàng còn lại cuối kỳ là hàng được mua hoặc sản xuất ở
thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo
giá của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ, giá trị của HTK được
tính theo giá của hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho.
*Phương pháp nhập sau - xuất trước(LIFO)
Phương pháp này giả định là hàng được mua sau hoặc sản xuất sau thì được xuất
trước, HTK còn lại cuối kỳ là những hàng được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo
phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập sau
hoặc gần sau cùng, giá trị của HTK được tính theo giá của hàng nhập kho đầu kỳ
hoặc gần đầu kỳ. Như vậy với phương pháp này chi phí của lần mua gần nhất sẽ
19
tương đối sát với trị giá vốn của hàng thay thế. Việc thực hiện phương pháp này sẽ
đảm bảo được yêu cầu của nguyên tắc phù hợp trong kế toán. Tuy nhiên, trị giá vốn
của HTK cuối kỳ có thể không sát với giá thị trường của hàng thay thế.
*Phương pháp giá hạch toán
Đối với các DN có nhiều loại hàng, giá cả thường xuyên biến động, nghiệp vụ nhập
xuất hàng diễn ra thường xuyên thì việc hạch toán theo giá thực tế trở nên phức tạp,
tốn nhiều công sức và nhiều khi không thực hiện được. Do đó việc hạch toán hàng
ngày nên sử dụng giá hạch toán.
Sau khi tính hệ số giá, kế toán tiến hành điều chỉnh giá hạch toán trong kỳ thành giá
thực tế vào cuối kỳ kế toán.
Phương pháp hệ số giá cho phép kết hợp chặt chẽ hạch toán chi tiết và hạch toán
tổng hợp về hàng trong công tác tính giá, nên công việc tính giá được tiến hành
nhanh chóng do chỉ phải theo dõi biến động của hàng với cùng một mức giá và đến
cuối kỳ mới điều chỉnh và không bị phụ thuộc vào số lượng danh điểm hàng , số lần
nhập, xuất của mỗi loại nhiều hay ít.
Phương pháp này phù hợp với các DN có nhiều chủng loại hàng và đội ngũ kế toán
có trình độ chuyên môn cao.Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, giá thực tế của
hàng nhập kho luôn biến động phụ thuộc vào các yếu tố thị trường, các chính sách
điều tiết vi mô và vĩ mô, cho nên việc sử dụng giá hạch toán cố định trong suốt kỳ
kế toán là không còn phù hợp nữa.
Nhận xét : Các phương pháp khác nhau có ảnh hưởng khác nhau tới các chỉ tiêu
trên các báo cáo tài chính. Khi giá cả tăng lên, phương pháp FIFO thường dẫn đến
lợi nhuận cao nhất trong 3 phương pháp FIFO, LIFO và bình quân, còn khi giá cả
giảm xuống thì phương pháp FIFO cho lợi nhuận là thấp nhất trong 3 phương pháp
tính giá.. Song một ưu điểm lớn của FIFO là phương pháp này không phải là đối
tượng cho những qui định và những yêu cầu của các điều khoản ràng buộc thuế như
phương pháp LIFO phải gánh chịu. Trong phương pháp LIFO, thông thường thì số
hàng tồn cuối kỳ gồm giá gốc của những mặt hàng mua từ cũ . Khi giá cả tăng lên,
phương pháp LIFO cho số liệu trên bảng cân đối kế toán thường thấp hơn so với giá
20
********
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp có nhiều thuận lợi và tiềm năng về đất đai, lao
động và điều kiện sinh thái cho phép phát triển sản xuất nhiều loại rau quả nông sản
có giá trị lớn. Xuất khẩu rau quả nông sản từ lâu đa đóng vai trò quan trọng đối với
nền kinh tã nước ta. Xuất khẩu rau quả nông sản là một trong những nguồn thu nhập
ngoại tệ lớn cho đất nước, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho khu vực nông thôn.
Hơn thế nữa xuất khẩu rau quả nông sản còn kích thích hàng loạt các nghề khác
cùng phát triển đặc biệt là các ngành công nghiệp chế biến, tạo ra một động lực
quan trọng thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển, thực hiện
mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH - HĐH) đất nước, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, xã hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang thực hiện.
Hiện nay sau một thời gian gia nhập WTO vấn đề đặt ra cho TCT RQ Nông sản –
TCT đầu ngành trong lĩnh vực này là phải đổi mới sao cho hiệu quả hơn, sức cạnh
tranh cao hơn nếu không muốn sản phẩm và sức cạnh tranh thua ngay trên sân nhà.
Muốn làm được điều đó TCT phải tự xây dựng cho mình một nền tài chính lành
mạnh cùng với cơ chế quản lý kinh tế - tài chính có hiệu quả trong đó công tác
quản lý tài chính, công tác hạch toán kế toán và công tác phân tích hoạt động kinh
tế phải đặc biệt được coi trọng để TCT từng bước nâng cao vị thế của mình. Trong
các tài sản của TCT, HTK có thể coi là tài sản rất quan trọng bởi vì việc xác định
giá trị HTK ảnh hưởng trực tiếp tới giá vốn hàng bán và do vậy có ảnh hưởng trọng
yếu tới lợi nhuận thuần trong năm của TCT mà công việc xác định chất lượng, tình
trạng và giá trị HTK luôn là công việc khó khăn và phức tạp hơn hầu hết các tài sản
khác. TCT có rất nhiều khoản mục HTK khó phân loại và định giá chính vì thế
thực hiện tốt việc theo dõi hạch toán HTK cho phép TCT thấy được những sai sót,
yếu kém trong công tác kế toán và công tác quản lý và xác định đúng trách nhiệm
của TCT trong việc thực hiện nghiệp vụ đối với Nhà nước tiết. kiệm được thời
gian, chi phí và nâng cao được hiệu quả quản lý. Thực tế kế toán HTK tại TCT đã
1
và đang ngày càng được hoàn thiện đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin trong
việc điều hành, quản lý sản xuất kinh doanh với tư cách là một trong những công cụ
mạnh phục vụ quản lý. Tuy nhiên hạch toán tại TCT rau quả nông sản cho thấy về
cơ bản mới chỉ thoả mãn nhu cầu nắm bắt thông tin tổng hợp chứ chưa đáp ứng
được nhu cầu thông tin cần thiết cho các nhà quản lý bởi vì yêu cầu của quản lý là
thông tin đầy đủ kịp thời chính xác do kế toán cung cấp để bảo đảm quá trình sản
xuất kinh doanh diễn ra liên tục, sử dụng vật tư hàng hóa tiết kiệm có hiệu quả
nhằm giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ đồng thời xây dựng mức dự trữ
HTK hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Nhận thức được tầm quan trọng như vậy tác giả đã chọn đề tài “ Hoàn thiện công
tác hạch toán kế toán HTK tại TCT rau quả nông sản với việc tăng cường quản trị
nội bộ”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Từ lý luận về hạch toán HTK và trên cơ sở xem xét , phân tích thực trạng tổ chức
kế toán HTK ở các đơn vị thành viên TCT rau quả nông sản, đối chiếu với những
cơ sở lý luận đã được tổng kết, luận văn đề xuất một số giải pháp kiến nghị nhằm
hoàn thiện công tác kế toán hạch toán HTK , phục vụ nhu cầu quản trị HTK tại
TCT để nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a.Về lý luận: Hệ thống hoá các cơ sở lý luận về tổ chức kế toán HTK trong các
DN .
b.Về thực tiễn: Nêu và phân tích thực trạng công tác tổ chức kế toán HTK (NVL,
CCDC, SPDD) tại TCT Rau quả nông sản.
c.Phạm vi nghiên cứu: tại văn phòng TCT rau quả nông sản. Đây là đơn vị có ảnh
hưởng lớn đến công tác kế toán phục vụ mục tiêu quản trị DN.
d. Thời gian nghiên cứu: từ năm 2005 tới nay.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin để luận giải các vấn đề liên quan.
2
Phương pháp: khảo sát thu thập tài liệu, thống kê, so sánh kết hợp với phương pháp
tổng hợp, phân tích tình hình thực tiễn.
5. Những đóng góp
Về mặt khoa học luận văn sẽ hệ thống hoá và tổng kết những vẫn đề lý luận về tổ
chức kế toán HTK trong các DN .
Về thực tiễn trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng công tác kế toán HTK luận
văn đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác này phục vụ nhu
cầu quản trị HTK trong đơn vị.
6. Nội dung nghiên cứu
Ngoài lời mở đầu, kết cấu luận văn gồm 3 chương
Chương I : Lý luận chung về tổ chức kế toán HTK tại các DN .
Chương II: Thực trạng công tác tổ chức kế toán HTK tại TCT Rau quả Nông Sản.
Chương III: Phương pháp và giải pháp hoàn thiện tổ chức kế toán hàng tồn TCT
Rau quả Nông Sản để nâng cao hiệu quả quản trị.
3
Chương I: Lý luận chung về tổ chức kế toán HTK trong các DN
I.1. HTK và quản lý HTK tại các DN
I.1.1 Khái niệm, đặc điểm , phân loại HTK trong các DN
I.1.1.1 Khái niê êm
Mô êt trong những tài sản có lớn nhất ở mô êt cửa hàng bán lẻ hoă êc mô êt cơ sở kinh
doanh là hàng hoá tồn kho và viê êc bán các hàng hoá đó với mức giá cao hơn chi phí
là nguồn thu nhâ pê chủ yếu của các cơ sở này.
Đối với 1 công ty thương mại hàng tồn kho(HTK) bao gồm tất cả các hàng hoá
thuô êc sở hữu của công ty và được dùng để bán trong hoạt đô êng kinh doanh thường
xuyên. Hàng hoá dùng để bán thường được chuyển đổi sang tiền mă tê trong thời
gian dưới 1 năm và vì thế chúng được coi là tài sản lưu đô êng. Trong bảng cân đối
HTK được ghi ngay dưới khoản phải thu, bởi vì so với các khoản phải thu thì chúng
chỉ còn mô êt bước nữa là được chuyển đổi thành tiền mă tê .
Trong ngành công nghiê êp chế tạo có ba loại HTK chính: nguyên liê uê thô, hàng hoá
trong quá trình sản xuất, và hàng thành phẩm. Tất cả 3 loại HTK đều được đưa vào
phần tài sản có lưu đô nê g của bảng cân đối.
Theo bách khoa toàn thư Việt Nam thì “HÀNG TỒN KHO là hàng chưa đưa ra
bán, còn nằm trong kho bảo quản của các DN sản xuất, kinh doanh. Một bộ phận
chủ yếu của HTK là hàng hoá dự trữ của các kho bảo quản. HTK được tính theo chỉ
tiêu hiện vật và chỉ tiêu giá trị. Trong công tác kế hoạch, thống kê và kế toán, HTK
được phân thành HTK đầu kì và HTK cuối kì. Trong sản xuất - kinh doanh, HTK
phải được giữ ở mức độ hợp lí. HTK quá nhiều sẽ gây ra ứ đọng hàng hoá, tăng chi
phí lưu thông, vốn luân chuyển chậm. HTK quá thấp sẽ không bảo đảm quá trình
lưu thông và kinh doanh được liên tục”.
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế số 02(ISA 02) có quy định:
- Hàng tồn kho (Inventories) là tài sản gồm:
Giữ để bán trong quá trình hoạt đô êng kinh doanh thông thường hoă êc trong quá
trình sản xuất để bán hoă êc dưới dạng nguyên liê uê hoă êc hàng cung cấp được tiêu
thụ trong quá trình sản xuất hoă êc cung cấp dịch vụ. Đối với nhà cung cấp dịch vụ,
4
HTK gồm có chi phí dịch vụ có khoản doanh thu tương ứng chưa được ghi nhâ nê
( chẳng hạn như các công viê êc đang tiến hành của kiểm toán viên nhà thiết kế luâ tê
sư)
HTK phải được tính toán với mức thấp hơn giữa chi phí hoă êc giá trị ròng có thể
thực hiê nê theo nguyên tắc thâ ên trọng
Chi phí hàng hoá bao gồm tất cả chi phí mua (ví dụ giá mua và chi phí nhâ pê
khẩu ..), chi phí chuyển đổi (nhân công trực tiếp, chi phí sxchung, chi phí chung
biến đổi, chi phí chung cố định được phân bổ với năng suất thông thường) và các
chi phí khác (như thiết kế, đi vay.v.v) phát sinh trong quá trình chuyển HTK sang
địa điểm và tình trạng hiê ên tại. tại chuẩn mực này đã đề cấp tới cách thức kế toán
HTK theo hê ê thống chi phí lịch sử (hisfoincalcosst).
Còn ở Việt Nam để theo dõi, quản lý và hạch toán HTK , Bộ tài chính đã ban hành
chuẩn mực kế toán số 02 (VAS02) và thông tư hướng dẫn TT89/BTC. Chuẩn mực
kế toán Viê êt Nam số 02(VSA 02) ban hành theo quyết định 149/2001/QĐ-BTC
ngày 31/12/2001 trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các quan điểm về HTK trong các
văn bản, tài liê uê pháp lý của Viê êt Nam và quốc tế từ trước tới nay đã khẳng định
được tổng quan cũng như đã hướng dẫn cụ thể về phạm vi ghi nhận HTK , tính giá
HTK , quản lý HTK và phương pháp hạch toán HTK .
Theo chuẩn mực kế toán số 02(VAS02) thì
- Hàng tồn kho : Là những tài sản:
(a) Được giữ để bán trong kỳ sản xuất, kinh doanh bình thường;
(b) Đang trong quá trình sản xuất, kinh doanh dở dang;
(c) Nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ để sử dụng trong quá trình sản xuất, kinh
doanh hoặc cung cấp dịch vụ.
Theo khái niệm như trên thì HTK trong DN gồm:
- Hàng hoá mua để bán: Hàng hoá tồn kho, hàng mua đang đi đường, hàng gửi
bán, hàng gửi đi gia công chế biến.
- Thành phẩm: Thành phẩm tồn kho và thành phẩm gửi đi bán.
5
- Sản phẩm dở dang: Sản phẩm chưa hoàn thành hoặc sản phẩm hoàn thành
nhưng chưa làm thủ tục nhập kho.
- Nguyên liệu, vật liệu, công cụ dụng cụ tồn kho, đã mua đang đi trên đường
hoặc gửi đi gia công chế biến.
- Chi phi dịch vụ dở dang
Ngoài khái niệm về HTK tại VSA 02 nói trên thì theo quy định hiê ên hành, Quyết
định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 thay quyết định 1141/TC/QĐ/CĐKT
ngày 1/11/1995 thì HTK bao gồm :
- Hàng mua đang đi đường
- Nguyên liệu, vật liệu
- Công cụ, dụng cụ
- Chi phí SX, KD dở dang
- Thành phẩm
- Hàng hóa
- Hàng gửi đi bán
- Hàng hoá kho bảo thuế
- Hàng hoá bất động sản
Theo chuẩn mực kế toán HTK Mỹ thì: HTK là toàn bộ số hàng mà DN mua về và
dự trữ để bán bao gồm cả hàng mua đang đi đường, hàng đã bán nhưng chưa giao,
hàng đang gửi, hàng hoá cũ hư hỏng có thể bán được.
Theo chuẩn mực kế toán HTK Pháp thì : HTK là một bộ phận tài sản lưu động dự
trữ cho sản xuất và dự trữ cho lưu thong, hoặc đang trong quá trình chế tạo sản
phẩm ở DN bao gồm nguyên liệu, vật liệu, công cụ dụng cụ, sản phẩm dịch vụ dở
dang, thành phẩm, hàng hoá.
Theo quan điểm của Anh: HTK là một tài sản hữu hình của DN với đặc tính:
dùng để bán ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của DN . HTK được xếp
vào khoản mục Tài sản lưu động trong Bảng cân đối kế toán do nó có khả năng
được chuyển thành tiền mặt trong vòng 1 năm.
I.1.1.2 Đặc điểm
6
Với những nô êi dung như trên có thể nhâ nê xét rằng HTK là loại tài sản lưu đô êng
khá phức tạp và quan trọng trong doanh nghiê êp gồm nhiều loại, đa dạng với vai trò
và công dụng khác nhau tuy vâ êy có thể khái quát những đă êc điểm chính sau:
HTK thường chiếm 1 tỷ trọng lớn trong tài sản lưu động.
HTK thường được bảo quản và cất trữ ở nhiều nơi khác nhau, có điều kiện cất
trữ khác nhau, lại do nhiều đối tượng quản lý với trình độ khác nhau nên dễ xảy ra
mất mát, công việc kiểm soát vật chất , kiểm kê, quản lý và sử dụng nó gặp nhiều
khó khăn, mất thời gian chi phí, đôi khi có sự nhầm lẫn sai sót và dễ bị gian lận.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh HTK thường biến động tăng giảm liên tục
với các nghiệp vụ nhập xuất thường xuyên đòi hỏi các đơn vị phải phân loại HTK
khoa học theo từng loại, từng nhóm, từng danh mục, thống nhất về tên gọi, ký mã
hiệu, quy cách đơn vị tính thì mới tổ chức tốt việc quản lý.
Trong kế toán có nhiều phương pháp định giá HTK và đối với mỗi loại HTK
DN có thể lựa chọn các phương pháp khác nhau. Tuy nhiên các đơn vị phải đảm
bảo tính thống nhất trong việc tính giá HTK giữa các kỳ.
HTK thường khá đa dạng và có thể bị ảnh hưởng lớn bởi hao mòn hữu hình và
hao mòn vô hình như bị hư hỏng trong thời gian nhất định, bị lỗi thời, lỗi mốt do
đó cần phải có sự hiểu biết về đặc điểm từng loại, xu hướng biến động của nó trên
bình diện ngành để có thể xác định được chính xác hao mòn nhằm hạn chế rủi ro
thiệt hại, thất thoát tài sản quan trọng này.
Việc xác định tính giá HTK có ảnh hưởng đến giá vôn từ đó ảnh hưởng tới lãi
chưa phân phối của DN .
Việc xác định chất lượng, tình trạng và giá trị HTK luôn là công việc khó khăn
phức tạp hơn hầu hết các tài sản khác. Có rất nhiều khoản mục HTK rất khó phân
loại và định giá.
I.1.1.3 Phân loại HTK
Tồn kho có thể phân chia thành nhiều loại:
7
Cách thứ nhất là chia tồn kho theo hình thức vật lý của nó, gắn liền với các
giai đoạn của quá trình sản xuất, đó là HTK ở khâu dự trữ (nguyên vật liệu, hàng đi
đường, công cụ dụng cụ...); HTK ở khâu sản xuất (giá trị sản phẩm dở dang) và
HTK ở khâu lưu thông (thành phẩm, hàng hoá, hàng gửi bán).
Cách thứ hai là chia tồn kho theo giá trị đầu tư vốn vào chúng. Đây là hình
thức phân loại tồn kho theo giá trị từng loại. Trong cách phân loại này ta chia tồn
kho thành nhóm A, B và C. Về mặt số lượng, nhóm A chiếm X%, nhóm B chiếm Y
% và nhóm C chiếm Z% (X+Y+Z=100%, X
(M+N+P=100%, M>N>P). Điều này cho thấy nhóm A chiếm tỷ trọng cao nhất về
mặt giá trị hay nói khác đi nhóm A là nhóm tồn kho đắt tiền hơn nên cần kiểm tra
thường xuyên hơn. Cách kiểm soát tồn kho kiểu này gọi là phương pháp kiểm soát
tồn kho ABC.
Ngoài ra còn có thể phân loại theo nguồn hình thanh (mua ngoài, tự sản
xuất, thuê gia công, nhận góp vốn, nhập khẩu…), theo quyến sở hữu(HTK tự có từ
sản xuất, HTK do nhận gia công chế biến, HTK giữ hộ …)
Một tiêu thức phân loại thông dụng là phân loại theo công dụng của HTK. Đó
là:
Theo kế toán Mỹ: HTK được chia thành 3 nhóm chính là:
- HTK thương mại: là những hàng mua vào để bán ra.
- HTK sản xuất: bao gồm: nguyên vật liệu, bán thành phẩm, giá trị sản phẩm
dở dang, thành phẩm, vật dụng khác.
- HTK là các vật phẩm khác: các thứ HTK này không trọng yếu nên thường
được ghi nhận thẳng vào chi phí khi chúng được mua về để sử dụng.
Theo kế toán Pháp: HTK được phân chia theo công dụng bao gồm:
nguyên vật liệu, tài sản dự trữ sản xuất khác, giá trị sản phẩm dở dang, dịch
vụ dở dang, tồn kho sản phẩm, tồn kho hàng hoá.[9]
8
Theo kế toán Việt Nam: HTK bao gồm: nguyên vật liệu, hàng mua đi
đường, công cụ dụng cụ, giá trị sản phẩm dở dang, hàng gửi bán, thành phẩm,
hàng hoá.
Như vậy, chúng ta thấy rằng việc phân loại HTK ở các quốc gia về cơ bản là
tương đối thống nhất với nhau.
Trong tất cả các cách phân loại nói trên cách thứ nhất là có ý nghĩa nhất vì nó gắn
quá trình quản lý với từng khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Cách này giúp
cho nhà quản trị thấy rõ vai trò và tác dụng của từng loại HTK trong quá trình sản
xuất kinh doanh qua đó đưa ra quyết định về quản lý và hạch toán từng loại nhằm
nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng HTK.
Việc xác định những gì thuộc về HTK cũng nảy sinh vấn đề sở hữu HTK trong một
số trường hợp. Theo nguyên tắc kế toán nói chung thì thuộc về HTK chỉ là những
thứ mà do DN sở hữu. Tuy nhiên, một điểm quan trọng là quyền kiểm soát gắn bó
với tài sản đó. Trong thực tế, việc ghi nhận là HTK khi nhận được hàng vì người
mua khó xác định chính xác thời điểm pháp lý chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm
cho mỗi lần mua, đồng thời không có những sai sót trọng yếu nào khi ghi nhận theo
cách này.
Như vậy, việc phân loại và xác định những hàng nào thuộc HTK của DN ảnh
hưởng tới việc tính chính xác của HTK phản ánh trên bảng cân đối kế toán và ảnh
hưởng tới các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả kinh doanh. Vì vậy việc phân loại HTK
là cần thiết trong mỗi DN .
I.1.2 Quản lý HTK trong các DN [14]
HTK hình thành mối liên hệ giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Một DN có thể
phải duy trì HTK dưới những hình thức như nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang và
thành phẩm. Tác động tích cực của việc duy trì HTK là giúp cho DN chủ động hơn
trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
+Tồn kho nguyên liệu giúp công ty chủ động trong sản xuất và năng động trong
việc mua nguyên liệu dự trữ.
9
+Tồn kho sản phẩm dở dang giúp cho quá trình sản xuất của công ty được linh hoạt
và liên tục, giai đoạn sản xuất sau không phải chờ đợi giai đoạn sản xuất trước.
+Tồn kho thành phẩm giúp chủ động trong việc hoạch định sản xuất, tiếp thị và tiêu
thụ sản phẩm nhằm khai thác và thoả mãn tối đa nhu cầu thị trường.
Tuy nhiên, duy trì tồn kho cũng có mặt trái của nó là làm phát sinh chi phí liên quan
đến tồn kho bao gồm chi phí kho bãi, bảo quản và cả chi phí cơi hội do vốn kẹt đầu
tư vào tồn kho. Vì thế yêu cầu đặt ra đối với DN là phải có công tác quản lý như thế
nào để thu mua, xuất bán hàng hoá vật tư kịp thời, chính xác, sử dụng hiệu quả tiết
kiệm, công tác bảo quản tốt, dự trữ hợp lý. Trong thực tế xuất phát từ những đặc
điểm của HTK mà tuỳ theo điều kiện quản lý ở mỗi DN mà có những yêu cầu khác
nhau song việc quản lý HTK trong các DN phải bao quát cả trên 3 phương diện:
Quản lý hiện vật của HTK , quản lý kế toán và quản trị kinh tế của HTK . Quản lý
tồn kho cần lưu ý xem xét sự đánh đổi giữa lợi ích và phí tổn của việc duy trì HTK .
I.1.2.1 Quản lý hiện vật của HTK
Quản lý hiện vật của HTK dựa vào việc tối ưu hóa sự lưu kho của sản phẩm: diện
tích và số lượng cần thiết của kho là bao nhiêu ? Kho tàng có những phương tiện
nào, trong số đó có những phương tiện vận chuyển, sắp xếp nào ?, cần phải mua
chúng như thế nào ?. Đáp án cho câu trả lời này cho phép thấy khả năng sinh lợi của
các khoản đầu tư đã chấp nhận.
- Quản lý tốt về mặt vật chất của HTK bảo đảm cho khách hàng của DN một
"mức độ dịch vụ tốt" và có thể tạo ra một lợi thế so với các đối thủ. Muốn vậy yêu
cầu phải nắm được những nguyên tắc cơ bản của kho hàng đó là:
Trong các DN công nghiệp, người ta chia thành kho thành phẩm, kho nguyên vật
liệu, kho các bộ phận linh kiện, kho dụng cụ đồ nghề.v.v.
Trong các DN thương nghiệp bán buôn hoặc bán lẻ, hàng hóa được dự trữ ở các kho
tạm giữ hoặc là các kho dự trữ, nhưng cũng cả ở diện tích bán. Những kho này là
cần thiết, bởi vì các dự trữ phải được bảo vệ chống ăn trộm, chống thời tiết xấu,
chống nóng, ẩm và chống những biến dạng v.v... Những cơ sở dự trữ cần phải kín
và phù hợp với từng loại sản phẩm, hàng hóa, vật tư cần được bảo vệ. Địa điểm kho
10
dự trữ cần phải được bố trí sao cho việc vận chuyển tối thiểu và dễ dàng cho việc
nhập, xuất các hàng hóa.
- Mã hóa và phương pháp xếp đặt các sản phẩm tồn kho.
Để thuận lợi cho công tác dự trữ và tăng tốc độ giải phóng kho, cần thiết phải nhận
dạng sản phẩm một cách nhanh chóng. Giải pháp đơn giản nhất là sử dụng tên gọi
của chúng, nhưng cách gọi tên này thường ít được sử dụng, đặc biệt khi chúng gồm
những chỉ dẫn kỹ thuật hoặc kích cỡ, do đó DN thường sử dụng một bộ mã số
(chẳng hạn như: 1234) hoặc cả chữ cái và số cho mỗi mặt HTK .
- Những phương pháp xếp đặt các mặt hàng tồn kho.
Có nhiều phương pháp để sắp xếp hàng tồn kho, chúng có thể được kết hợp với
nhau.
+ Phương pháp: "Mỗi chỗ một vật, mỗi vật ở chỗ của mình" là dành cho mỗi một
loại hàng một chỗ quy định.
Ưu điểm là dễ dàng định vị sản phẩm, vật tư trong kho; xác định lượng dự
trữ thừa hay thiếu một cách nhanh chóng. Nhưng mắc nhược điểm là không tận
dụng được diện tích kho tàng.
Phương pháp phổ quát vị trí: "bất kỳ vật gì, bất kỳ chỗ nào" là sử dụng vị trí
nào còn trống lúc đưa hàng vào kho, một loại hàng có nhiều điạ chỉ. Ưu điểm của
nó là tận dụng được diện tích kho tàng, nhưng khó về mặt thông tin để định vị được
chỗ trống khi nhập kho và tìm địa chỉ sản phẩm khi xuất kho.
Phương pháp tần suất quay vòng: Loại hàng nào ra vào nhiều nhất được xếp
ở chỗ thuận tiện nhất.
Phương pháp hai kho: Kho được chia làm hai bộ phận: Kho dự trữ được
cung ứng do nhập kho và cung cấp số lượng nhỏ cho kho phân phối từ đó xác lập
các đơn đặt hàng.
Phương pháp vào trước ra trước (first in, first out FI FO)
I.1.2.2 Quản trị kế toán HTK .
Nắm số lượng dự trữ:
11
- DN sử dụng các phiếu kho để ghi chép sự vận động của hàng hóa (nhập và
xuất) và tính toán số lượng tồn kho (dự trữ cuối cùng = dự trữ ban đầu + nhập -
xuất).
- Kiểm kê: Phiếu kho cho phép nắm được hàng tồn trong kho về mặt giấy tờ,
nhưng nó không thể tính được những mất mát hoặc hư hỏng ở tất cả các dạng. Để
khắc phục điều này, quy định các DN thực hiện kiểm kê một cách thường xuyên (kế
toán), hoặc gián đoạn (ngoài kế toán).
Việc kiểm kê này là cơ sở để đánh giá dự trữ được biểu thị ở bảng cân đối, cho phép
nhà quản trị biết được bất cứ lúc nào về tình hình dự trữ của họ. Việc kế toán này
của dự trữ là khá dễ dàng về số lượng hiện vật, nhưng có nhiều khó khăn về giá trị.
Nắm giá trị HTK :
Việc nắm các HTK về mặt giá trị là khó khăn, vì thông thường các mặt hàng nhập
vào có những giá mua khác nhau. Vấn đề cần phải định giá cho chúng khi xuất kho
theo giá nào? Về phương pháp có thể sử dụng
- Phương pháp giá đích danh
- Phương pháp giá bình quân gia quyền
- Phương pháp FIFO
- Phương pháp LIFO
Cả bốn phương pháp trên đều là phương pháp kế toán được thừa nhận. Tuy nhiên,
lựa chọn phương pháp để áp dụng cần chú trọng tới ảnh hưởng của từng phương
pháp đối với bảng tổng kết tài sản và bảng kê lãi lỗ của DN .
I.1.2.3 Quản trị kinh tế của HTK .
Việc duy trì HTK để thực hiện hai mục tiêu có vẻ trái ngược nhau:
- Mục tiêu an toàn: có HTK để tránh mọi gián đoạn.
- Mục tiêu tài chính: giảm đến mức thấp nhất có thể được về mức hàng tồn
trong kho để giảm những chi phí kho tàng.
Để giải quyết điều đó, quản trị HTK cần trả lời hai câu hỏi:
- Đặt hàng khi nào?
- Số lượng mỗi lần đặt hàng là bao nhiêu?
12
Dự trữ trung bình là dự trữ đã được lưu lại bình quân trong DN trong thời gian nhất
định, dự trữ trung bình giảm khi số tái dự trữ tăng lên.
Dự trữ gắn với thời hạn cung ứng: dự trữ tối thiểu.
Nếu như DN chờ lượng dự trữ xuống bằng 0 mới đưa đơn hàng cho nhà cung ứng,
nó sẽ rới vào tình trạng gián đoạn dự trữ trong quãng thời gian được gọi là thời gian
tái dự trữ. Do vậy, vào lúc thực hiện việc đặt hàng cần phải có dự trữ một khối
lượng hàng đủ để đáp ứng nhu cầu trong thời gian từ khi đặt hàng đến khi nhận
hàng. Dự trữ tối thiểu đáp ứng nhu cầu này.
Dự trữ an toàn hoặc dự trữ bảo hiểm
Những chi phí liên quan đến dự trữ:
Khi thực hiện dự trữ, DN cần phải tính toán ba loại chi phí:
Chi phí tồn trữ: là những chi phí có liên quan đến hoạt động thực hiện tồn kho, bao
gồm:
Chi phí kho: Chi phí này nhằm bảo đảm hàng hóa tồn kho, chi phí cho kho tàng
(thuê hoặc khấu hao hàng năm nhà kho), chi phí khai thác kho (tiền lương và bảo
hiểm xã hội cho nhân viên kho, tiền thuê hoặc khấu hao hàng năm máy móc thiết bị,
ánh sáng...), chi phí bảo dưỡng thiết bị, chi phí bảo hiểm, chi phí quản lý
Chi phí sụt giá hàng trong quá trình dự trữ trong kho: phải phân biệt hai nguyên
nhân sụt giá:
- Sụt giá do lỗi thời liên quan đến những mặt hàng theo mốt hoặc công nghệ
tiến triển nhanh
- Sụt giá do hư hỏng, chẳng hạn do những tai nạn khi chuyên chở, bay hơi,
trộm cắp, hoặc bị phá bởi những loại gặm nhấm...
Chí phí đặt hàng: Đó là những chi phí cho mỗi lần DN bắt đầu quá trình mua để tái
dự trữ. Loại chi phí này bao gồm những chi phí có liên quan đến đơn hàng như: chi
phí các mẫu đơn sử dụng và chi phí xử lý các đơn đặt hàng, thư tín, điện thoại, đi
lại, tiền lương và bảo hiểm xã hội của nhân viên mua (tìm người cung ứng, thương
lượng, thảo đơn đặt hàng, thúc dục, nhắc nhở...), của nhân viên kế toán (ghi chép,
13
thanh toán hóa đơn v.v), chi phí bố trí thiết bị, chi phí cho công tác kiểm tra về số và
chất lượng hàng hóa.
Khi chúng ta sản xuất một lô hàng sẽ phát sinh một chi phí cho việc chuyển đổi qui
trình do sự thay đổi sản phẩm từ giai đoạn trước sang giai đoạn tiếp theo. Kích
thước lô hàng càng lớn thì tồn kho vật tư càng lớn, nhưng chúng ta đặt hàng ít lần
trong năm thì chi phí đặt hàng hàng năm thấp hơn.
Chi phí mua hàng: Loại chi phí này phụ thuộc vào nhu cầu hàng năm của DN
và giá mua. Khi mua nguyên vật liệu với kích thước lô hàng lớn sẽ làm tăng chi
phí tồn trữ nhưng chi phí mua hàng thấp hơn do chiết khấu theo số lượng và
cước phí vận chuyển cũng giảm.
I.1.2.4 Quản lý HTK tại các khâu trong quá trình sxkd
Xuất phát từ vai trò , đặc điểm của HTK trong quá trình sản xuất kinh doanh đòi
hỏi phải quản lý chặt chẽ ở mọi khâu từ khâu thu mua , bảo quản ,sử dụng và dự trữ
HTK là tài sản dự trữ sản xuất, thường xuyên biến động, các DN thường xuyên phải
tiến hành mua vật liệu, công cụ dụng cụ để đáp ứng kịp thời cho quá trình sản xuất,
chế tạo sản phẩm và các nhu cầu khác trong DN .
- Ở khâu thu mua: Đòi hỏi phải quản lý về khối lượng, chất lượng, quy cách
chủng loại, giá mua và chi phí mua cũng như kế hoạch mua theo đúng tiến độ thời
gian phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh của DN
- Ở khâu bảo quản: Việc tổ chức tốt kho tàng, bến bãi trang bị đầy đủ các
phương tiện cân đo, thực hiện đúng chế độ bảo quản đối với từng loại HTK tránh hư
hỏng, mất mát, hao hụt, đảm bảo an toàn.
- Ở khâu sử dụng: Đòi hỏi phải thực hiện việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm. trên
cơ sở các định mức, dự toán chi phí nhằm hạ thấp mức tiêu hao vật liệu trong giá
thành sản phẩm, tăng thu nhập, tăng tích luỹ cho DN , do vậy trong khâu này cần tổ
chức tốt việc ghi chép, phản ánh tình hình xuất dùng và sử dụng HTK trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Ở khâu dự trữ: DN phải xác định được định mức dự trữ tối đa, tối thiếu cho
cho từng loại HTK để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được bình
14
thường, không bị ngừng trệ, gián đoạn do việc cung ứng, mua, bán không kịp thời
hoặc gây ứ đọng vốn do dự trữ quá nhiều.
Tóm lại, quản lý chặt chẽ HTK từ khâu mua đến khâu bảo quản, sử dụng và dự trữ
là một trong những khâu quan trọng trong công tác quản lý tài sản ở DN
I.2. Nội dung tổ chức thu thập thông tin kế toán HTK tại các DN
I.2.1. Vai trò của thông tin kế toán quản trị HTK trong các DN
Khi tính tổng lợi nhuâ nê phát sinh do viê êc bán các hàng hoá trong 1 kỳ kế toán
chúng ta lấy tổng doanh số của thời kỳ này trừ đi chi phí hàng hoá bán ra. Tổng
doanh số bán hàng được tính dễ dàng bằng cách cô êng doanh số bán hàng ngày lại,
tuy nhiên trong nhiều doanh nghiê êp không duy trì viê êc ghi chép hàng ngày về chi
phí của hàng hoá bán ra (dùng pp kiểm kê định kỳ). Đối với những doanh nghiê êp
này con số biểu thị chi phí hàng hoá bán ra trong suốt kỳ kế toán được tính vào cuối
kỳ bằng các tách chi phí hàng hoá có sẵn để bán ra làm 2 phần:
- Chi phí hàng hoá bán ra
- Chi phí hàng hoan chưa bán bao gồm HTK vào cuối kỳ kế toán
Mối quan hê ê được biễu diễn như sau:
(Chi phí hàng hoá có sẵn để bán - Hàng hoá tồn kho vào cuối kỳ kế toán) = (Chi phí
hàng hoá đã bán ra).
Như vâ yê viê êc xác định khối lượng hàng hoá tồn kho vào cuối kỳ kế toán là 1 bước
chủ yếu để xác định chi phí của hàng hoá bán ra.Viê êc xác định giá trị hàng hoá tồn
kho và xác định chi phí hàng hoá bán ra về thực chất là hai mă êt của mô êt vấn đề.
Viê nê kiểm toán đô êc lâ êp đã tóm tắt mối quan hê ê giữa giá trị HTK và thu nhâ pê bằng
những từ sau:
" Mục tiêu chính của kế toán HTK là xác định đúng mức thu nhâ pê thông qua quá
trình so sánh chi phí thích hợp với thu nhâ pê " có nghĩa là xác định phần nào trong
chi phí hàng hoá có sẵn để bán phải được loại trừ ra khỏi thu nhâ pê trong kỳ hiê nê
hành và phần nào nên được chuyển sang (như hàng tồn kho) để tương ứng với thu
nhâ pê trong kỳ tiếp sau.
Tầm quan trọng của viêcê đánh giá chính xác hàng tồn kho
15
Viê êc tính đúng giá trị HTK không chỉ giúp cho doanh nghiê êp chỉ đạo kiê êp thời các
nghiê êp vụ kinh tế diễn ra hàng ngày mà còn giúp doanh nghiê êp có mô tê lượng vâ êt
tư hàng hoá dự trữ đúng định mức không dự trữ qua nhiều gây ứ đọng vốn mă tê
khác không dự trữ quá ít để bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiê êp được tiến hành liên tục không bị gián đoạn.
Viê êc tính đúng giá trị HTK còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi lâ êp báo cáo tài
chính. Vì nếu tính sai lê êch giá trị HTK sẽ làm sai lê êch các chỉ tiêu trên báo cáo tài
chính. Nếu giá trị HTK bị tính sai dẫn đến giá trị tài sản lưu đô êng và tổng giá trị tài
sản của doanh nghiê êp thiếu chính xác, giá vốn hàng bán tính sai sẽ làm cho chi tiêu
lãi gô êp , lãi ròng của doanh nghiê êp không còn chính xác.
Những TSLĐ quan trọng nhất trong các bảng cân đối của công ty là tiền mă êt, các
khoản phải thu và hàng tồn kho. Trong ba loại tài sản này HTK thường là lớn nhất
và do đô ê lớn tương đối của tài sản này thì nếu mô êt sai sót trong đánh giá HTK có
thể dẫn đến chỗ báo cáo sai về tình hình tài chính và về thu nhâ pê ròng. Người ta ví
von rằng viê êc tính sai 20% trị giá HTK sẽ có ảnh hưởng lớn đến các báo biểu tài
chính cũng tương tự như loại trừ toàn bô ê tài sản tiền mă êt ra khỏi bảng cân đối.
Thâ êt vâ yê :
Mô êt sai sót về HTK đương nhiên sẽ dãn đén các con số sai lê cê h khác trong bảng
cân đối, chẳng hạn tổng số tài sản lưu đô êng, tổng tài sản, khả năng thanh toán của
chủ sở hữu. Sai sót đó cũng gây ảnh hưởng đến các con số chủ yếu trong bản kê
khai thu nhâ pê , chẳng hạn như chi phí hàng hoá bán ra, tổng lợi nhuâ nê thu được từ
bán hàng và lợi nhuâ nê ròng trong mô êt thời kỳ. Và cuối cùng điều quan trọng là
HTK cuối mô êt năm cũng đồng thời là HTK đầu năm tiếp theo do đó bản khai thu
nhâ pê của năm tiếp theo cũng sẽ bị sai lê êch mô êt khoản đúng bằng khoản sai lê êch
ban đầu khi tính toán hàng tồn kho.
Ảnh hưởng của sai lê êch khi tính toán HTK đối với thu nhâ pê ròng có thể được tóm
tắt như sau:
1. Khi HTK cuối năm bị đánh giá thấp đi thu nhâ pê ròng trong năm đó sẽ bị đành
giá thấp đi theo.
16
2. Khi HTK cuối năm được đánh giá cao hơn thu nhâ pê ròng trong năm đó sẽ được
đánh giá cao lên theo.
3.Khi HTK đầu năm bị đánh giá thấp đi thì thu nhâ pê ròng trong thời gian đó(năm
đó) sẽ được tính cao lên.
4. Khi HTK đầu năm được đánh giá cao hơn thì thu nhâ pê ròng trong thời gian đó sẽ
bị đánh giá thấp đi.
I.2.2. Xác định phương pháp tính giá HTK
I.2.2.1. Cơ sở tính giá HTK
Theo lời của Uỷ ban AICPA về thủ tục kế toán “cơ sở chủ yếu của kế toán HTK là
chi phí mà nói chung chi phí được định nghĩa là giá đã trả hoặc xem xét trả để mua
một tài sản. Khi áp dụng cho HTK về nguyên tắc chi phí có nghĩa là tổng chi tiêu và
phí tổn trực tiếp hoặc gián tiếp bỏ ra để đưa hàng đó đến vị trí và tình trạng hiện
tại”.
Xác định cơ sở tính giá HTK là nguyên tắc cho việc xác định giá cho từng đơn
vị HTK , điều này ảnh huởng tới việc xác định giá cho từng đơn vị HTK , việc
xác định lợi nhuận của kỳ và tới cả chỉ tiêu trị giá HTK trên bảng cân đối kế
toán.
Tính giá HTK có vai trò quan trọng tới tính hữu ích của thông tin kế toán trên
các báo cáo tài chính để cung cấp cho các đối tượng sử dụng khác nhau.
Thông thường kế toán sử dụng ít nhất năm cơ sở tính giá HTK với các mục đích
khác nhau, đó là: giá phí lịch sử (giá gốc); giá phí hiện tại xác định bằng giá phí
thay thế; giá phí hiện tại xác định bằng giá trị thuần có thể thực hiện được; giá thấp
hơn giá gốc và giá thị trường; và giá phí chuẩn. Theo các nguyên tắc kế toán chung
được thừa nhận (GAAP) yêu cầu phải sử dụng nguyên tắc đánh giá theo giá thấp
hơn giữa giá gốc và giá thị trường.
I.2.2.2.1 Phương pháp tính giá hàng nhập kho [13]
* Với DN kinh doanh thương mại: Khi phản ánh trên sổ sách kế toán, HTK được
phản ánh theo giá thực tế nhằm đảm bảo nguyên tắc giá phí.
17
Giá trị thực tế của Giá mua ghi Chi phí thu mua Chiết khấu thương mại, giảm
= + + Thuế -
hàng hoá mua vào trên hoá đơn hàng hoá giá hàng mua được hưởng
Giá trị thực tế của hàng hoá gia công chế
= Trị giá mua thực tế xuất kho + Chi phí sơ chế
biến
* Với DN sản xuất: Ở các DN này HTK gồm nguyên vật liệu, giá trị sản phẩm dở
dang, thành phẩm, hàng gửi bán. Giá thực tế từng loại HTK được xác định như sau:
- Nguyên vật liệu mua chuẩn bị cho sản xuất: Giá thực tế được xác định giống hàng
hoá mua vào.
- Với thành phẩm nhập kho: Giá thực tế là giá thành phẩm sản xuất thực tế tức bao
gồm ba khoản mục chi phí là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
I.2.2.2 Phương pháp tính giá xuất HTK
HTK trong các DN tăng từ nhiều nguồn khác nhau với các đơn giá khác nhau,
vì vậy DN cần lựa chọn phương pháp tính giá thực tế hàng xuất kho… việc lựa
chọn phương pháp nào còn tuỳ thuộc vào đặc điểm của HTK , yêu cầu và trình
độ quản lý của DN .
Song DN áp dụng phương pháp nào đòi hỏi phải nhất quán trong suốt niên độ kế
toán. Nếu có sự thay đổi phải giải trình và thuyết minh, nêu rõ những tác động của
sự thay đổi tới các báo cáo tài chính của DN . Để tính giá HTK xuất, DN có thể áp
dụng một trong các phương pháp sau đây:
* Phương pháp giá thực tế đích danh.
Theo phương pháp này sản phẩm, vật tư, hàng hoá xuất kho thuộc lô hàng nhập nào
thì lấy đơn giá nhập kho của lô hàng đó để tính. Đây là phương án tốt nhất, nó tuân
thủ nguyên tắc phù hợp của kế toán; chi phí thực tế phù hợp với doanh thu thực tế.
Giá trị của hàng xuất kho đem bán phù hợp với doanh thu mà nó tạo ra. Hơn nữa,
giá trị HTK được phản ánh đúng theo giá trị thực tế của nó.
*Phương pháp giá bình quân:
Theo phương pháp này giá trị của từng loại HTK được tính theo giá trị trung bình
của từng loại HTK đầu kỳ và giá trị từng loại HTK được mua hoặc sản xuất trong
18
kỳ. Phương pháp bình quân có thể được tính theo thời kỳ hoặc vào mỗi khi nhập
một lô hàng , phụ thuộc vào tình hình của DN .
** Theo giá bình quân gia quyền cả kỳ dự trữ
Theo phương pháp này, đến cuối kỳ mới tính trị giá vốn của hàng xuất kho trong kỳ.
Tuỳ theo kỳ dự trữ của DN áp dụng mà kế toán HTK căn cứ vào giá mua, giá nhập,
lượng HTK đầu kỳ và nhập trong kỳ để tính giá đơn vị bình quân:
** Theo giá bình quân gia quyền sau mỗi lần nhập:
Sau mỗi lần nhập sản phẩm, vật tư, hàng hoá, kế toán phải xác định lại giá trị thực
của HTK và giá đơn vị bình quân. Phương pháp này có ưu điểm là khắc phục được
những hạn chế của phương pháp trên nhưng việc tính toán phức tạp, nhiều lần, tốn
nhiều công sức. Do đặc điểm trên mà phương pháp này được áp dụng ở các DN có
ít chủng loại HTK , có lưu lượng nhập xuất ít.
** Theo giá bình quân gia quyền cuối kỳ trước: Dựa vào trị giá và số lượng HTK
cuối kỳ trước, kế toán tính giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước để tính giá xuất
phương pháp này có ưu điểm đơn giản, dễ tính toán nhưng trị giá hàng xuất không
chịu ảnh hưởng của sự thay đổi giá cả trong kỳ hiện tại. Vì vậy, phương pháp này
làm cho chỉ tiêu trên báo cáo kết quả kinh doanh không sát với giá thực tế.
* Phương pháp nhập trước xuất trước(FIFO)
Phương pháp này áp dụng dựa trên giả định là hàng được mua trước hoặc sản xuất
trước thì được xuất trước, và hàng còn lại cuối kỳ là hàng được mua hoặc sản xuất ở
thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo
giá của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ, giá trị của HTK được
tính theo giá của hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho.
*Phương pháp nhập sau - xuất trước(LIFO)
Phương pháp này giả định là hàng được mua sau hoặc sản xuất sau thì được xuất
trước, HTK còn lại cuối kỳ là những hàng được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo
phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập sau
hoặc gần sau cùng, giá trị của HTK được tính theo giá của hàng nhập kho đầu kỳ
hoặc gần đầu kỳ. Như vậy với phương pháp này chi phí của lần mua gần nhất sẽ
19
tương đối sát với trị giá vốn của hàng thay thế. Việc thực hiện phương pháp này sẽ
đảm bảo được yêu cầu của nguyên tắc phù hợp trong kế toán. Tuy nhiên, trị giá vốn
của HTK cuối kỳ có thể không sát với giá thị trường của hàng thay thế.
*Phương pháp giá hạch toán
Đối với các DN có nhiều loại hàng, giá cả thường xuyên biến động, nghiệp vụ nhập
xuất hàng diễn ra thường xuyên thì việc hạch toán theo giá thực tế trở nên phức tạp,
tốn nhiều công sức và nhiều khi không thực hiện được. Do đó việc hạch toán hàng
ngày nên sử dụng giá hạch toán.
Sau khi tính hệ số giá, kế toán tiến hành điều chỉnh giá hạch toán trong kỳ thành giá
thực tế vào cuối kỳ kế toán.
Phương pháp hệ số giá cho phép kết hợp chặt chẽ hạch toán chi tiết và hạch toán
tổng hợp về hàng trong công tác tính giá, nên công việc tính giá được tiến hành
nhanh chóng do chỉ phải theo dõi biến động của hàng với cùng một mức giá và đến
cuối kỳ mới điều chỉnh và không bị phụ thuộc vào số lượng danh điểm hàng , số lần
nhập, xuất của mỗi loại nhiều hay ít.
Phương pháp này phù hợp với các DN có nhiều chủng loại hàng và đội ngũ kế toán
có trình độ chuyên môn cao.Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, giá thực tế của
hàng nhập kho luôn biến động phụ thuộc vào các yếu tố thị trường, các chính sách
điều tiết vi mô và vĩ mô, cho nên việc sử dụng giá hạch toán cố định trong suốt kỳ
kế toán là không còn phù hợp nữa.
Nhận xét : Các phương pháp khác nhau có ảnh hưởng khác nhau tới các chỉ tiêu
trên các báo cáo tài chính. Khi giá cả tăng lên, phương pháp FIFO thường dẫn đến
lợi nhuận cao nhất trong 3 phương pháp FIFO, LIFO và bình quân, còn khi giá cả
giảm xuống thì phương pháp FIFO cho lợi nhuận là thấp nhất trong 3 phương pháp
tính giá.. Song một ưu điểm lớn của FIFO là phương pháp này không phải là đối
tượng cho những qui định và những yêu cầu của các điều khoản ràng buộc thuế như
phương pháp LIFO phải gánh chịu. Trong phương pháp LIFO, thông thường thì số
hàng tồn cuối kỳ gồm giá gốc của những mặt hàng mua từ cũ . Khi giá cả tăng lên,
phương pháp LIFO cho số liệu trên bảng cân đối kế toán thường thấp hơn so với giá
20