Kỹ thuật canh tác trên đất dốc
- 91 trang
- file .pdf
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
NGUYỄN VIẾT KHOA - VÕ ĐẠI HẢI
NGUYỄN ĐỨC THANH
Kỹ thuật canh tác
TRÊN ĐẤT DỐC
NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP
HÀ NỘI - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
1
LỜI NÓI ĐẦU
Diện tích đất đồi núi nước ta chiếm tới 75% diện tích của cả nước, vì vậy đời sống
của phần lớn người dân đều dựa chủ yếu vào canh tác trên đất dốc. Chính vì vậy mà đất
dốc chiếm vị trí quan trọng trong phát triển nông nghiệp cả nước. Đây là vùng đất mà
môi trường sinh thái đã phần nào bị suy thoái do quá khứ khai thác và canh tác chưa
hợp lý. Hiện tượng xói mòn và rửa trôi do con người gây nên cũng đã biến những vùng
đất vốn rất màu mỡ thành đất thoái hoá bạc màu, có độ phì nhiêu thấp.
Do sức ép về dân số, đất đai ở những vùng sâu vùng xa, thậm chí kể cả rừng cấm
đầu nguồn cũng đã và đang bị xâm hại dẫn đến sự thoái hoá tài nguyên thiên nhiên,
biểu hiện ở độ che phủ rừng giảm sút một cách đáng báo động, sức sản xuất của đất
cũng kém dần và thoái hoá về đa dạng sinh học. Lối canh tác truyền thống tỏ ra không
thích hợp cho phát triển nông-lâm nghiệp bền vững không những trên đất dốc mà ngay
cả vùng đồng bằng.
Như vậy, nếu chúng ta không có những phương thức canh tác hợp lý trên vùng đất
dốc thì hậu quả không những chỉ người nông dân miền đất dốc mà cả xã hội phải gánh
chịu kèm theo những khủng hoảng về môi trường và tài nguyên.
Con đường thoát khỏi tình trạng trên chỉ có thể là tìm một phương thức canh tác
nông lâm kết hợp trên vùng đất dốc, gắn sản xuất lương thực với sản xuất hàng hoá,
gắn nông nghiệp với lâm nghiệp với bảo vệ đất, nước và môi trường từ đó tiến tới định
canh, định cư và xây dựng dần cuộc sống mới của người dân trên vùng đất dốc miền
núi.
Tài liệu “Kỹ thuật canh tác trên đất dốc” được biên soạn dựa trên những đúc kết
từ những kinh nghiệm thực tế và tổng hợp từ các tài liệu khoa học, khuyến nông-khuyến
lâm nhằm mục đích giúp các cán bộ khuyến nông cấp tỉnh và huyện hiểu biết hơn về
những phương thức canh tác nông lâm kết hợp trên vùng đất dốc và từ đó có thể giúp
bà con nông dân canh tác trên vùng đất dốc một cách có hiệu quả và bền vững.
Trong quá trình biên soạn tài liệu, chúng tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót,
rất mong các đồng nghiệp cùng các bạn đọc đóng góp ý kiến để cuốn sách được hoàn
thiện hơn.
Nhóm tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
2
Chương I
TỔNG QUAN VỀ NÔNG LÂM KẾT HỢP
1. Khái niệm về nông lâm kết hợp
Thuật ngữ Nông lâm kết hợp (NLKH) (Agroforestry) đã được tiến sỹ King (1977)
đưa ra để thay thế Taungya, một danh từ địa phương của Myanmar có nghĩa là “canh tác
trên đồi”.
Một thực tế quan trọng là danh từ NLKH chỉ mới về thuật ngữ, không mới về thực
hành, bởi lẽ kỹ thuật canh tác NLKH đã có từ lâu đời, nằm trong các kinh nghiệm sản
xuất cổ truyền của nhân dân ta và ở hầu hết các nước nhiệt đới đang phát triển.
Ví dụ như phương thức trồng xen các cây nông nghiệp ngắn ngày với rừng tếch
(Techtona grandis), trong giai đoạn đầu khi rừng trồng chưa khép tán (hệ canh tác
NLKH Taungya), của người dân Myanmar, có các ưu điểm như chống được cháy rừng
tếch trong mùa khô, rừng tếch trồng sinh trưởng tốt hơn, rừng được bảo vệ tốt, giảm
được giá thành rừng trồng... cho nên ngay từ năm 1856, phương thức canh tác này
(Taungya) đã được áp dụng rộng rãi trong ngành lâm nghiệp Myanmar để gây trồng
rừng tếch.
2. Định nghĩa về NLKH
Định nghĩa về NLKH đã được thừa nhận rộng rãi hiện nay trên thế giới là: Nông
lâm kết hợp được bao gồm các hệ canh tác sử dụng đất khác nhau; trong đó có các loài
cây thân gỗ sống lâu năm (bao gồm cả cây bụi thân gỗ, các loài cây trong họ dừa và họ
tre nứa) được trồng kết hợp với các loài cây nông nghiệp, hoặc vật nuôi trên cùng một
đơn vị diện tích đất đai canh tác đã được quy hoạch sử dụng trong sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, chăn nuôi, hoặc thủy sản.
Chúng được kết hợp với nhau hợp lý trong không gian, hoặc theo trình tự về thời
gian. Giữa chúng luôn có tác động qua lại lẫn nhau cả về phương diện sinh thái và kinh
tế theo hướng có lợi.
Theo như King (1977); Hurley (1983); Nair (1989); Chun.K.Lai (1991):
“NLKH là một lĩnh vực khoa học độc lập; nó được hình thành và xây dựng trên cơ
sở của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, có liên quan đến các phương thức sử dụng
đất đai như: nghề làm ruộng, nghề chăn nuôi, nghề làm rừng, nghề làm vườn, nghề nuôi
trồng thủy sản, thậm chí cả nghề nuôi ong...”.
Như vậy, kỹ thuật sản xuất NLKH không phải là một kỹ thuật canh tác đơn giản,
như thực hiện phép tính cộng các kỹ thuật trồng cây nông nghiệp, với các kỹ thuật trồng
cây lâm nghiệp... nó cũng không phải là con số cộng đơn giản về các nội dung khoa học
của các ngành có liên quan để hình thành ra nội dung khoa học của phương thức canh
tác NLKH.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
3
Nói tóm lại, phương thức sản xuất NLKH phải được thực hiện trên các cơ sở khoa
học của bản thân nó và được biểu hiện qua trình độ thiết kế và điều chế các hệ canh tác
NLKH trên một địa bàn sản xuất cụ thể.
3. Lược sử phát triển nông lâm kết hợp ở Việt Nam
Thật khó có thể xác định một cách chính xác thời điểm ra đời của hệ thống nông
lâm kết hợp. Mặc dù vậy, người ta vẫn thừa nhận rằng sự hình thành và phát triển của
nó gắn liền với sự phát triển của các ngành khoa học thuộc nông lâm nghiệp và gắn liền
với sự nhận thức của con người về sử dụng đất và nhu cầu kinh tế. Lúc đầu, du canh
được xem là phương thức canh tác cổ xưa nhất; tiếp theo cuộc cách mạng về kỹ thuật
chăn nuôi, trồng trọt, sau du canh, sự ra đời của phương thức Taungya (canh tác đồi núi)
ở vùng nhiệt đới được xem là một dấu hiệu báo trước cho phương thức nông lâm kết
hợp sau này.
Ở Việt Nam, tập quán canh tác nông lâm kết hợp đã có từ lâu đời, như các hệ thống
canh tác nương rẫy truyền thống của đồng bào các dân tộc ít người, hệ sinh thái vườn
nhà ở nhiều vùng địa lý sinh thái trên cả nước...
Xét ở khía cạnh mô hình và kỹ thuật thì nông lâm kết hợp ở Việt Nam đã phát triển
không ngừng. Từ những năm 1960, hệ sinh thái Vườn-Ao-Chuồng (VAC) được nông
dân các tỉnh miền Bắc phát triển mạnh mẽ và lan rộng khắp cả nước với nhiều cải tiến
khác nhau để thích hợp cho từng vùng sinh thái cụ thể.
Sau đó là hệ thống Rừng-Vườn-Ao-Chuồng (RVAC) và vườn đồi được phát triển
mạnh mẽ ở các khu vực dân cư miền núi.
Các hệ thống rừng ngập mặn-nuôi trồng thuỷ sản cũng được phát triển mạnh mẽ ở
vùng duyên hải các tỉnh miền Trung và miền Nam.
Các dự án ODA cũng giới thiệu các mô hình canh tác trên đất dốc theo đường đồng
mức (SALT) ở một số khu vực miền núi.
Theo đó, cho đến nay các mô hình nông lâm kết hợp bao gồm:
Các mô hình NLKH vùng đồi núi
Trồng xen cây nông nghiệp ngắn ngày với cây rừng trong giai đoạn rừng trồng
chưa khép tán.
Trồng xen cây lương thực, thực phẩm, dược liệu dưới tán rừng.
Trồng xen cây nông nghiệp ở cả 2 giai đoạn của rừng trồng: khi rừng chưa khép
tán: trồng xen lúa nương, sắn, lạc...; khi rừng trồng đã khép tán: trồng xen sa
nhân dưới tán rừng.
Trồng và kinh doanh các cây công nghiệp lâu năm (cà phê, ca cao, cao su...) với
cây rừng.
Trồng và kinh doanh “rừng lương thực, thực phẩm” (rừng dẻ, rừng sến mật,
rừng dừa, rừng điều...).
Vườn quả, vườn rừng và rừng vườn (táo + lạc + đậu tương; vải thiều + dong
riềng; mít + chè, dứa; ...).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
4
Chăn nuôi trâu bò, chăn thả luân phiên dưới tán rừng trồng (bạch đàn + keo lá
trầm + cỏ Panggola).
Mô hình nông lâm kết hợp vùng trung du
Các mô hình NLKH vùng ven biển
Trên đất cát ven biển: Các dải rừng phi lao + lúa, khoai, lạc, vừng, củ đậu,
sắn...).
Trên đất ngập mặn ven biển: Lâm ngư kết hợp trên đất ngập mặn ven biển
(trồng cây rừng ngập mặn + nuôi tôm).
Trên đất phèn: Lên líp để trồng cây rừng gỗ lớn + cây hoa màu trên mặt líp.
Chăn nuôi bò dưới tán rừng phi lao ven biển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
5
Rừng phi lao ven biển và nuôi trồng thủy sản
Xét ở góc độ nhận thức về nông lâm kết hợp thì nó có quá trình lịch sử phát triển
như sau:
Nông lâm kết hợp trên địa bàn thực chất là sự sắp xếp hợp lý các loại hình sản xuất
nông nghiệp, chăn nuôi, ngư nghiệp, cây nông nghiệp dài ngày và cây lâm nghiệp trên
một địa bàn đất đai sản xuất cụ thể của một huyện, một xã, một đội sản xuất, thậm chí
trên một quả đồi.
Trong thời kỳ kinh tế tập trung, trước đây việc kết hợp nông lâm nghiệp đã đóng
góp cho nền kinh tế tự cung tự cấp. Trong thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay, việc trao
đổi hàng hoá và tiếp thị là yếu tố cơ bản trong nền kinh tế. Sự kết hợp nông nghiệp và
lâm nghiệp trên địa bàn sẽ phát triển hàng loạt sản phẩm và tạo ra thu nhập cho cộng
đồng.
Hiện nay, nhiều vùng núi hẻo lánh của nước ta, nông lâm kết hợp đã tạo ra sản
phẩm lương thực tại chỗ nhằm duy trì cuộc sống của đồng bào địa phương. Nhiều vùng,
sản phẩm nông lâm kết hợp đã trở thành hàng hoá, cần được chế biến, tiêu thụ nhằm
nâng cao thu nhập của người dân. Mặt khác, sự phát triển đòi hỏi những chính sách
thích hợp của Chính phủ nhằm khuyến khích sản xuất và các chính sách thuận tiện cho
xây dựng hạ tầng cơ sở như đường sá, bến bãi và mối giao lưu tới các thị trường lớn ở
mọi miền. Có như vậy, mới phát triển được sản xuất, cải thiện đời sống vật chất cũng
như văn hoá xã hội của nông dân sống ở vùng nông thôn miền núi.
Tóm lại, nông lâm kết hợp được tiến hành không chỉ nhằm nâng cao năng suất nông
lâm nghiệp mà còn tạo ra môi trường ổn định cho mọi vùng.
4. Cơ sở pháp lý liên quan đến nông lâm kết hợp trên các loại đất khác nhau
4.1. Các văn bản pháp luật liên quan đến các loại đất nông lâm khác nhau
Luật Đất đai (năm 2003), Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (2004), Luật Bảo vệ Môi
trường (2005) là ba đạo luật cao nhất và quan trọng nhất liên quan đến sử dụng đất nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
6
nghiệp và lâm nghiệp nói chung và sản xuất nông lâm kết hợp nói riêng. Trong Luật Đất
đai nêu rõ phải “Thực hiện các biện pháp bảo vệ đất” (Mục 4, Điều 107). Luật Bảo vệ
và Phát triển rừng cũng quy định: Được sản xuất lâm nghiệp-nông nghiệp-ngư nghiệp
kết hợp theo quy chế quản lý rừng, trừ rừng đặc dụng (Mục 3, Điều 59). Luật Bảo vệ
môi trường quy định trách nhiệm bảo vệ môi trường của các tổ chức, cá nhân trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ (Điều 35).
4.2. Chính sách hỗ trợ phát triển nông lâm kết hợp
4.2.1. Chính sách về đất đai
Chính sách về đất đai để hỗ trợ phát triển NLKH của Chính phủ được phản ánh
trong các nghị định, quyết định và thông tư dưới đây:
- Nghị định 163/1999/NĐ-CP, ngày 16/11/1999 của Chính phủ về giao đất, cho
thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào
mục đích lâm nghiệp. Theo Nghị định này, Nhà nước giao đất lâm nghiệp không thu
tiền sử dụng đất cho các hộ gia đình, tổ chức và cá nhân để sử dụng ổn định và lâu dài
(Điều 4). Đồng thời, người nhận đất được sản xuất nông lâm kết hợp (Điều 15); được
hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất được giao; được miễn giảm thuế sử
dụng đất theo quy định của pháp luật; được hưởng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước
trong việc bảo vệ và phát triển rừng (Điều 18).
- Thông tư liên tịch số 62/2000/TTLT/BNN-TCĐC, ngày 6/6/2000 về Hướng dẫn
việc giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp.
- Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg, ngày 12/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ về
quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được thuê, nhận khoán rừng và đất
lâm nghiệp. Theo Quyết định này, quyền lợi của chủ đất và rừng liên quan đến sử dụng
đất theo phương thức nông lâm kết hợp được xác định, cụ thể:
+ Hộ gia đình, cá nhân được giao rừng phòng hộ để quản lý, bảo vệ, khoanh nuôi tái
sinh được thu hái lâm sản phụ, hoa, quả, dầu, nhựa..., trong quá trình bảo vệ, khoanh
nuôi tái sinh theo quy định hiện hành (Điều 5).
+ Hộ gia đình, cá nhân được giao đất lâm nghiệp chưa có rừng thuộc quy hoạch
rừng phòng hộ được sử dụng cây nông nghiệp lâu năm làm cây trồng chính rừng phòng
hộ hoặc xen với cây rừng bản địa lâu năm theo thiết kế trồng rừng được Sở NN-PTNT
phê duyệt. Được hưởng 100% sản phẩm khai thác từ cây phù trợ, cây trồng xen, sản
phẩm tỉa thưa theo thiết kế được Sở NN-PTNT phê duyệt và phải đảm bảo độ tàn che
của rừng trên 0,6 sau khi tỉa thưa. Được sử dụng tối đa không quá 20% diện tích đất lâm
nghiệp chưa có rừng để sản xuất nông nghiệp và ngư nghiệp (Điều 6).
+ Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao rừng tự nhiên quy hoạch rừng sản xuất
được trồng xen cây nông nghiệp, cây dược liệu, chăn thả gia súc và khai thác các lợi ích
khác của rừng phù hợp với quy chế quản lý rừng sản xuất (Điều 7).
Đối với các hộ gia đình, cá nhân nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng
rừng cũng được hưởng các quyền lợi trong quá trình làm nông lâm kết hợp như quy
định đối với giao rừng như trên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
7
- Nghị định số 01-CP ngày 4/1/1995 của Chính phủ về việc giao khoán đất sử dụng
vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản trong các doanh
nghiệp nhà nước. Nghị định này quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của bên nhận khoán
(hộ gia đình và cá nhân): Được chủ động sản xuất trên diện tích đất nhận khoán theo
hợp đồng. Được nuôi trồng xen theo hợp đồng và được hưởng toàn bộ sản phẩm nuôi
trồng xen (Điều 8). Được giao khoán đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm và cây hàng
năm (Điều 9 và 10). Được giao khoán đất lâm nghiệp được quy hoạch cho rừng phòng
hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất (Điều 12,13 và 15).
- Quyết định số 08/2001/QĐ-TTG, ngày 11/1/2001 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành Quy chế quản lý rừng đặc dụng, phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên
cũng có những quy định khuyến khích làm nông lâm kết hợp. Ví dụ như: được tận dụng
tối đa 20% diện tích đất chưa có rừng được giao để sản xuất nông nghiệp và ngư nghiệp
(Điều 30).
- Quyết định số 661/QĐ-TTg, ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về mục
tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. Trong
Quyết định này hàng loạt các chính sách được đề ra, trong đó có tác động thúc đẩy sản
xuất nông lâm kết hợp. Ví dụ như: Chính sách về đất đai; chính sách về đầu tư và tín
dụng; chính sách hưởng lợi và tiêu thụ sản phẩm; chính sách thuế; chính sách về khoa
học và công nghệ...
- Thông tư liên tịch số 28/1999/TTg-LT, ngày 3/2/1999 của Bộ NN-PTNT, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính về Hướng dẫn việc thực hiện Quyết định 661/QĐ-TTg
ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ.
4.2.2. Chính sách về khoa học công nghệ
Chính sách về khoa học công nghệ trong nông lâm kết hợp, tại Điều 9 của Quyết
định 661/QĐ-TTG đã nêu rõ: Bộ NN-PTNT phối hợp với Bộ Khoa học Công nghệ và
Môi trường, tập trung chỉ đạo việc nghiên cứu tuyển chọn, lai tạo, nhập nội các giống
cây rừng có khả năng thích nghi tốt, đạt hiệu quả cao và kỹ thuật trồng rừng thâm canh,
các biện pháp bảo vệ và phòng chống cháy rừng... để phổ biến nhanh ra diện rộng
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành nhiều quy trình, quy phạm,
hướng dẫn kỹ thuật trong đó đề cập đến các biện pháp kỹ thuật áp dụng hệ thống nông
lâm kết hợp trong trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh và làm giầu rừng.
Viện Khoa học Lâm nghiệp đã có nhiều nghiên cứu và rất thành công trong việc
xây dựng các mô hình nông lâm kết hợp trong các vùng sinh thái trên phạm vi cả nước.
Những kết quả nghiên cứu khoa học cùng với các mô hình này đã giúp cho nông dân áp
dụng trên diện tích đất được giao của các hộ và các trang trại đem lại hiệu quả sử dụng
đất cao cả về kinh tế và môi trường sinh thái.
4.2.3. Chính sách về khuyến nông lâm đối với nông lâm kết hợp
Chính sách về khuyến lâm để hỗ trợ phát triển NLKH của Chính phủ được phản ánh
trong:
- Nghị định 13/CP ngày 2/3/1993 về quy định công tác khuyến nông. Theo đó, ngày
2/8/1993 đã ban hành Thông tư liên bộ số 02/LBTT về hướng dẫn thi hành Nghị định số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
8
13/CP. Sau khi có Nghị định 13/CP, công tác khuyến nông lâm ở Việt Nam đã có những
bước phát triển rất nhanh chóng. Hệ thống tổ chức khuyến nông lâm đã được thiết lập từ
trung ương đến địa phương. Ngoài các hoạt động khuyến nông của Chính phủ, nhiều tổ
chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước đã thực hiện nhiều chương
trình khuyến nông khuyến lâm trên phạm vi cả nước.
- Đối với Nghị định 13/CP, nội dung chính của chính sách này là:
a./ Thành lập hệ thống khuyến nông-khuyến lâm của Nhà nước từ cấp trung ương
đến cấp huyện với số lượng cán bộ trong biên chế nhà nước và mạng lưới khuyến nông
viên ở cấp xã theo chế độ hợp đồng.
Khuyến khích và cho phép thành lập các tổ chức khuyến nông tự nguyện của các cơ
quan nghiên cứu, đào tạo, các đoàn thể và các tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân ở
trong và ngoài nước.
b./ Kinh phí cho hoạt động của hệ thống khuyến nông Nhà nước được hình thành từ
các nguồn:
+ Ngân sách Nhà nước cấp hàng năm.
+ Tài trợ của các tổ chức và cá nhân trong nước và ngoài nước.
+ Thu của nông dân một phần giá trị sản phẩm tăng thêm nhờ áp dụng khuyến nông.
c./ Chính sách đối với cán bộ khuyến nông-khuyến lâm: Cán bộ khuyến nông được
Nhà nước đào tạo về kỹ năng và nghiệp vụ khuyến nông-khuyến lâm. Khi đi công tác
tại cơ sở, cán bộ khuyến nông-khuyến lâm được hưởng một khoản phụ cấp ngoài lương.
Cán bộ khuyến nông-khuyến lâm có thể ký hợp đồng kỹ thuật với nông dân và được
nhận thưởng theo hợp đồng.
- Ngày 26 tháng 4 năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số
56/2005/NĐ-CP về nội dung, tổ chức và chính sách khuyến nông, khuyến ngư (trong đó
bao gồm cả khuyến lâm) đã thay thế Nghị định 13/CP. Ngoài một số nội dung đã nêu
trên, Nghị định 56/2005/NĐ-CP có một số đổi mới là:
a./ Nguyên tắc hoạt động khuyến nông, khuyến ngư:
+ Xuất phát từ nhu cầu của người sản xuất (Nông dân, diêm dân, ngư dân, hộ gia
đình, công nhân nông-lâm trường, chủ trang trại, doanh nghiệp...) và yêu cầu phát triển
nông nghiệp, thuỷ sản.
+ Tạo điều kiện liên kết chặt chẽ giữa nhà quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp
với người sản xuất và giữa người sản xuất với nhau.
+ Xã hội hoá hoạt động khuyến nông, khuyến ngư.
b./ Nội dung hoạt động khuyến nông, khuyến ngư
Ngoài các hoạt động như đã quy định trong Nghị định 13/CP, hoạt động tư vấn và
dịch vụ đã được quy định rõ trong Nghị định 56-2005/NĐ-CP. Trong đó đáng chú ý một
số đổi mới trong nội dung hoạt động dịch vụ khuyến nông, khuyến ngư là: Tập huấn,
đào tạo, cung cấp thông tin, chuyển giao khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại, thị
trường... và các hoạt động khác liên quan đến nông nghiệp, thủy sản.
c./ Tổ chức khuyến nông, khuyến ngư cơ sở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
9
+ Mỗi xã, phường, thị trấn (cấp xã) có ít nhất 1 nhân viên làm công tác khuyến
nông, khuyến ngư.
+ Ở các thôn, bản, buôn, sóc (cấp thôn) có cộng tác viên khuyến nông, khuyên ngư.
Nói riêng về công tác khuyến lâm, đánh giá chung kết quả trong 10 năm qua là: các
chương trình khuyến lâm đã thực hiện đúng mục tiêu; giúp chuyển biến được nhận thức
của người dân miền núi từ chỗ chỉ biết khai thác, lợi dụng rừng, sang kinh doanh tổng
hợp, tạo thu nhập từ đất rừng, đồng thời tái tạo lại rừng đảm bảo lợi ích cho toàn xã hội.
Chương trình khuyến lâm mang lại cả hai mục đích: kinh tế và môi trường. Nhiều
tiến bộ kỹ thuật canh tác trên đất dốc, quản lý rừng bền vững được chuyển tải đến nông
dân và được áp dụng rộng rãi vào sản xuất thông qua xây dựng các mô hình nông lâm
kết hợp trình diễn.
Thực tế khuyến lâm có tác động thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động nông lâm kết hợp trên
diện tích đất lâm nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và các lâm nông trường.
Ngày 06/04/2006 Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp & PTNT, Bộ Thuỷ sản ban hành
thông tư liên tịch hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp kinh tế đối với
hoạt động khuyến nông, khuyến ngư (Hướng dẫn thực hiện Nghị định 56/CP). Thông tư
đã thể hiện một số chính sách ưu tiên cho người nghèo xây dựng mô hình Nông lâm kết
hợp ở miền núi đó là Nhà nước hỗ trợ kinh phí (80% giống và 60 % đối với vật tư sản
xuất) cho người nghèo vùng núi xây dựng mô hình khuyến nông, khuyến lâm. Thông tư
qui định có hai loại kinh phí cho hoạt động khuyến nông, khuyến lâm: (1) Hoạt động
khuyến nông, khuyến ngư trung ương do ngân sách trung ương bảo đảm; (2) Hoạt động
khuyến nông khuyến ngư địa phương do ngân sách địa phương đảm bảo. Hàng năm
Nhà nước sẽ hỗ trợ kinh phí từ ngân sách Nhà nước để hỗ trợ nông dân xây dựng mô
hình khuyến nông khuyến lâm trên toàn quốc.
5. Thực tiễn nông lâm kết hợp ở Việt Nam
5.1. Tổng quan về sử dụng đất ở Việt Nam
Diện tích tự nhiên (phần đất liền) nước ta khoảng 33 triệu hécta, đứng hàng thứ 58
trên thế giới nhưng dân số lại đông cho nên bình quân đất đai tính theo đầu người thuộc
loại thấp, chỉ khoảng 0,5 ha/người, là một trong số 40 nước có diện tích đất đai bình
quân tính theo đầu người thấp nhất trên thế giới hiện nay. Đặc biệt là trong tổng diện
tích tự nhiên đó, có tới hơn hai phần ba diện tích là đất đồi núi dốc, còn lại gần một
phần ba là đất đồng bằng.
Tính đến năm 2003, đất đã được sử dụng cho sản xuất nông lâm nghiệp là gần 17
triệu hecta, chiếm hơn một nửa diện tích đất cả nước (51,5%) và được chia ra như sau:
- Đất nông nghiệp hơn 7,3 triệu hecta, trong đó đất trồng cây hàng năm là 5,6 triệu
hecta, cây lâu năm là 1,4 triệu hecta và mặt nước là 0,273 triệu hecta.
- Đất lâm nghiệp hơn 9,6 triệu hecta gồm đất rừng tự nhiên hơn 8,8 triệu hecta và
đất rừng gần 0,8 triệu hecta.
Như vậy là tỷ lệ đất đã sử dụng còn thấp, về nông nghiệp mới có 22,3%, trong đó
đất trồng cây hàng năm chiếm đến 17% diện tích tự nhiên. Đất lâm nghiệp có cao hơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
10
chiếm 29,2% nhưng vẫn còn quá thấp so với yêu cầu nhất là về mặt đảm bảo an toàn về
sinh thái và phòng hộ.
Đất chưa sử dụng còn 14,2 triệu hecta chiếm 43% diện tích tự nhiên; trong đó gần
6,7 triệu ha là đồi núi trọc, chiếm gần 20,3 % diện tích tự nhiên. Đáng chú ý là trong
diện tích đất này có khoảng 10,4 triệu hecta (31,5% diện tích tự nhiên) là có khả năng
sử dụng cho nông lâm nghiệp nhưng đã bị thoái hoá mạnh, đòi hỏi phải có đầu tư lớn.
Thực trạng nêu trên cho thấy là quĩ đất đai của nước ta quá ít, đất đai được sử dụng
càng ít. Đất trống đồi núi trọc đang bị thoái hoá nghiêm trọng. Đó là một nguy cơ đe
doạ sự tồn tại và phát triển ổn định, lâu dài của đất nước.
5.2. Hiện trạng canh tác nông lâm kết hợp
Thời gian gần đây đã xuất hiện một số mô hình canh tác nông lâm kết hợp ở các
vùng sinh thái khác nhau. Mô hình này được thực hiện trên đất nông hộ, đất trang trại tư
nhân, nông lâm trường. Việc thiết kế xây dựng mô hình được nông dân, các cơ quan
nghiên cứu, dự án, chương trình của Chính phủ thực hiện.
Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp, đất có khả năng sử dụng cho mục đích NLKH
Đất trồng cây hàng năm 5.958.406 ha
Đất ruộng lúa, lúa màu 4.022.093 ha
Đất nương rẫy 653.188 ha
Đất trồng cây hàng năm khác 1.283.125 ha
Đất vườn tạp 622.521 ha
Đất trồng cây lâu năm 2.314.037 ha
Đất cỏ dùng vào chăn nuôi 42.057 ha
Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 594.810 ha
Tổng cộng 9.531.831 ha
Nguồn số liệu: Thống kê lâm nghiệp năm 2003
6. Một số tác động tích cực và tiêu cực trong nông lâm kết hợp ở Việt Nam
Tác động của nông lâm kết hợp là rất lớn, đặc biệt là tác động tích cực. Những tác
động này được thể hiện trên cả ba lĩnh vực: (1) Kinh tế hộ gia đình; (2) Xã hội; (3) Sử
dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Hoạt động nông lâm kết hợp rất đa dạng và phong phú, nên những tác động này
được thể hiện trong từng mô hình áp dụng cụ thể.
6.1. Tác động tích cực
6.1.1. Tác động của NLKH đối với kinh tế nông hộ
Các lợi ích mà nông lâm kết hợp mang lại cho kinh tế hộ gia đình rất đa dạng. Cụ
thể:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
11
- Cung cấp lương thực và thực phẩm: Nhiều mô hình NLKH được hình thành và
phát triển đã đáp ứng mục tiêu sản xuất nhiều loại lương thực, thực phẩm có giá trị dinh
dưỡng cao đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình. Điển hình là hệ thống VAC được phát triển
rộng rãi ở nhiều vùng nông thôn ở nước ta. Nhờ đó, có khả năng tạo ra sản phẩm lương
thực và thực phẩm đa dạng trên một diện tích mà không yêu cầu đầu tư lớn.
- Tăng thu nhập nông hộ: Với sự phong phú về sản phẩm đầu ra và ít đòi hỏi về đầu
vào, các hệ thống NLKH dễ có khả năng đem lại thu nhập cao cho hộ gia đình. Các hộ
gia đình tận dụng được thời gian, nguồn lao động, tạo ra nhiều loại sản phẩm hàng hoá,
tăng thu nhập cho gia đình và có điều kiện đầu tư trở lại cho cây trồng, điều hoà được
lợi ích trước mắt và lâu dài.
Tận dụng được đất đai giữa các hàng cây rừng để trồng cây lương thực, hoa màu...
phục vụ cho đời sống người dân làm nghề rừng trong các năm đầu của rừng trồng chưa
khép tán (hệ thống Taungya).
- Tạo việc làm: Nông lâm kết hợp gồm nhiều thành phần canh tác đa dạng có tác
dụng thu hút lao động, tạo thêm ngành nghề phụ cho nông dân. Tăng được sản phẩm
cần dùng hàng ngày: củi đun, thức ăn,... tạo thêm việc làm, tận dụng mọi nguồn lao
động ở nông thôn.
- Đa dạng hóa sản phẩm: Việc kết hợp cây thân gỗ trên nông trại có thể tạo ra các
sản phẩm từ cây thân gỗ như: gỗ, củi, tinh dầu, v.v... để đáp ứng nhu cầu về nguyên vật
liệu cho hộ gia đình.
Mặt khác, việc kết hợp trồng các loài cây nông nghiệp, không chỉ tạo lương thực
thực phẩm cho người mà còn tạo nguồn thức ăn cho gia súc. Thức ăn của gia súc (dê,
trâu, bò...) được cắt từ cỏ và cây họ đậu trên đường đồng mức. Sau đó phân của gia súc
lại dùng để bón cho đất canh tác, tạo cho đất được tốt hơn. Ngoài nông lâm sản, còn thu
được sữa, thịt...nên sẽ làm tăng và đa dạng hóa thu nhập của phương thức nông lâm kết
hợp, đặc biệt là trong các trang trại.
- Giảm rủi ro trong sản xuất và tăng mức độ an toàn lương thực: Nhờ có cấu trúc
phức tạp, đa dạng được thiết kế nhằm làm tăng các quan hệ tương hỗ (có lợi) giữa các
thành phần trong hệ thống, các hệ thống NLKH thường có tính ổn định cao hơn trước
các biến động bất lợi về điều kiện tự nhiên như: dịch sâu bệnh, hạn hán v.v... Sự đa
dạng về loại sản phẩm đầu ra cũng góp phần giảm rủi ro về thị trường và giá cả cho
nông hộ. Đa dạng hoá các loài cây trồng, cung cấp sản phẩm hàng hoá và hạn chế các
rủi ro về sinh học và thị trường.
- Hỗ trợ cây trồng chính: Cung cấp phân hữu cơ cho canh tác, giúp rừng trồng sinh
trưởng tốt nhờ vào chăm sóc vệ sinh lô rừng; quay vòng vốn đầu tư nhanh và tạo điều
kiện phù hợp để thu hạt giống cây rừng (rừng và đồng cỏ).
Hỗ trợ cho các cây lâm nghiệp, nông dân chăm sóc hoa màu có ảnh hưởng tốt đối
với sinh trưởng và phát triển của rừng non mới trồng (hệ thống Taungya).
6.1.2. Tác động về mặt xã hội
- Góp phần giải quyết khó khăn về gia tăng dân số: Gia tăng dân số mối quan tâm
của người dân đến quản lý bảo vệ rừng. Giảm sức ép của việc gia tăng dân số nhờ vào
việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên thông qua mô hình nông lâm kết hợp, ví
dụ như rừng-vườn-ao-chuồng (RVAC).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
12
-Thúc đẩy lâm nghiệp xã hội phát triển: Xuất phát từ mục tiêu chính của LNXH về
mặt kinh tế là cung cấp lương thực, gỗ củi và các sản phẩm khác. Về mặt xã hội là sự
cân bằng trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên, việc làm, kiến thức, sức khoẻ và lao
động. Về mặt môi trường là sự bền vững hướng tới sử dụng các nguồn tài nguyên thiên
nhiên của cộng đồng và môi trường sống. Vì vậy, nông lâm kết hợp là một công cụ
thích hợp nhất cho phát triển lâm nghiệp xã hội.
- Góp phần hạn chế tình trạng du canh du cư, đốt nương làm rẫy và góp phần xóa
đói giảm nghèo cho một bộ phận nông dân miền núi: Nhờ vào canh tác theo phương
thức nông lâm kết hợp, việc sử dụng đất đồi núi được ổn định; góp phần hạn chế tình
trạng du canh, du cư, ổn định cuộc sống của người dân miền núi.
6.1.3. Tác động đối với việc sử dụng tài nguyên và môi trường
- Nông lâm kết hợp trong bảo tồn tài nguyên đất nước:
Các hệ thống NLKH nếu được thiết kế và quản lý thích hợp sẽ có khả năng: Giảm
dòng chảy bề mặt và xói mòn đất; duy trì độ mùn và cải thiện lý tính của đất và phát
huy chu trình tuần hoàn dinh dưỡng, tăng hiệu quả sử dụng dinh dưỡng của cây trồng và
vật nuôi. Nhờ vậy, làm gia tăng độ phì của đất, tăng hiệu quả sử dụng đất và giảm sức
ép của dân số gia tăng lên tài nguyên đất. Ngoài ra, trong các hệ thống NLKH do hiệu
quả sử dụng chất dinh dưỡng của cây trồng cao nên làm giảm nhu cầu bón phân hoá
học, vì thế giảm nguy cơ ô nhiễm các nguồn nước ngầm.
- Nông lâm kết hợp trong bảo tồn tài nguyên rừng và đa dạng sinh học
Thông qua việc cung cấp một phần lâm sản cho nông hộ (củi đun, vật liệu làm nhà,
chuồng trại, ...) nông lâm kết hợp có thể làm giảm tốc độ khai thác lâm sản từ rừng. Mặt
khác, NLKH là phương thức tận dụng đất có hiệu quả nên làm giảm nhu cầu mở rộng
đất nông nghiệp bằng việc khai phá rừng, đốt nương làm rẫy. Chính vì vậy, canh tác
NLKH sẽ làm giảm sức ép của con người vào rừng tự nhiên, giảm tốc độ phá rừng. các
hộ nông dân qua canh tác theo phương thức này sẽ dần dần nhận thức được vai trò của
cây thân gỗ trong bảo vệ đất, nước và sẽ có đổi mới về kiến thức, thái độ có lợi cho
công tác bảo tồn tài nguyên rừng.
Việc phối hợp các loài cây thân gỗ vào nông trại đã tận dụng không gian của hệ
thống trong sản xuất làm tăng tính đa dạng sinh học ở phạm vi nông trại và cảnh quan.
Chính vì các lợi ích này mà NLKH thường được chú trọng phát triển trong công tác
quản lý vùng đệm xung quanh các khu bảo tồn thiên nhiên và bảo tồn nguồn gen.
- Nông lâm kết hợp trong bảo vệ và cải tạo nguồn tài nguyên đất:
Nhờ tác dụng của các cây trồng (đặc biệt là cây lâu năm) trong hệ thống nông lâm
kết hợp nên đã: (1) Giúp phục hồi và lưu giữ đất thông qua ảnh hưởng của nó đến lý,
hoá tính và chu trình chất dinh dưỡng của đất; (2) Hạn chế xói mòn đất và cải thiện bảo
tồn nước; (3) Cải tạo tiểu khí hậu và đất đai phù hợp cho cây trồng xen canh; (4) Phòng
hộ chắn gió cho cây trồng ngắn ngày và vật nuôi.
Cây lâu năm còn có chức năng sản xuất/kinh tế, nghĩa là cung cấp nhiều sản phẩm kinh
tế có giá trị: Gỗ gia dụng, gỗ làm bột giấy và củi; quả ăn được; lá cây làm thức ăn gia súc;
nhựa và mủ dùng trong công nghiệp; thuốc phòng trừ sâu bệnh hại sinh học; thuốc chữa
bệnh cho người và gia súc; thực phẩm cho người và gia súc; tanin, chất nhuộm...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
13
Băng cây xanh trong hệ canh tác nông lâm kết hợp hạn chế xói mòn đất
- Nông lâm kết hợp trong quản lý và sử dụng tài nguyên thiên nhiên:
Nông lâm kết hợp góp phần:
- Tạo ra một hệ thống sử dụng đất và rừng bền vững.
- Phục hồi đất mầu mỡ.
- Bảo tồn được nguồn tài nguyên đất và nước.
- Vườn cây công nghiệp, tầng cây sinh thái có tác dụng che phủ đất, hạn chế dòng
chảy bề mặt, che bóng, giữ ẩm và điều tiết nước cho cây trồng chính.
- Vườn cây ăn quả thường được tạo lập theo cấu trúc nhiều tầng, rậm, kín tán
thường xanh. Do vậy đã sử dụng được một cách có hiệu quả đất canh tác, bảo vệ và cải
thiện môi trường sinh thái, tạo nên được cảnh quan tươi đẹp.
- Trong hệ thống RVAC bền vững về mặt sinh thái và kinh tế; có khả năng chống
chịu và giảm rủi ro về sinh thái và kinh tế. Góp phần duy trì và bảo vệ được tính đa dạng
sinh học. Duy trì được cân bằng sinh thái đảm bảo cho sự phát triển ổn định lâu bền.
- Đất đai được bảo vệ và sử dụng có hiệu quả hơn không chỉ cho trước mắt mà lâu
dài nhờ vào tác dụng hỗ trợ nhiều mặt của rừng (Hệ thống canh tác nông-lâm bền vững-
SALT3).
- Hạn chế đuợc xói mòn đất trong giai đoạn rừng non chưa khép tán nhờ lớp phủ
cây nông nghiệp (hệ thống Taungya).
- Các kiểu rừng ngập mặn là môi trường thích hợp để nuôi trồng các loài thủy sản
như: tôm, sò, cá, một số loài bò sát (lâm ngư kết hợp).
6.2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực của nông lâm là chính thì việc thực hiện nông
lâm kết hợp cũng có thể đem lại những mặt tiêu cực, dù rằng tác động tiêu cực này là rất
nhỏ và chỉ xẩy ra trong những điều kiện nhất định. Vì vậy, cần thấy trước các mặt trái
này để có biện pháp hạn chế trong quá trình canh tác theo phương thức nông lâm kết
hợp. Những tác động đó là:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
14
- Việc trồng xen cây lâm nghiệp và nông nghiệp có thể dẫn đến sự cạnh tranh về
ánh sáng, nước và chất dinh dưỡng trong đất ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây trồng
chính và các loại hoa màu trồng xen.
- Một số loài cây trồng (như cây keo dậu) thường tạo ra các chất kháng hóa học khi
vật rơi rụng của chúng bị phân hủy hay rễ cây tiết ra các chất cản nảy mầm gây ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển của các loài thực vật khác kể cả hoa màu.
- Khi người dân càng chăm sóc tốt hơn vùng đất canh tác (làm cỏ, bón phân cho hoa
màu và cây trồng chính), cây rừng càng phát triển nhanh thì họ càng sớm phải rời khỏi
đất canh tác. Điều này có thể dễ dẫn đến mâu thuẫn giữa diện tích đất canh tác cây nông
nghiệp và cây rừng (Taungya) hoặc làm nản lòng nông dân khi họ tiến hành trồng xen
cây nông nghiệp với cây lâm nghiệp.
- Gia súc có thể gây hại đến các loại cây ăn quả, hoa màu và những thực vật khác
khi áp dụng việc chăn thả kết hợp dưới rừng trồng. Hoặc có thể tăng khả năng xói mòn
đất nếu chăn thả gia súc quá mức (rừng và đồng cỏ phối hợp).
- Xây dựng vườn rừng (trồng cây lâm nghiệp và cây ăn quả theo hướng thâm canh
để có nhiều loại sản phẩm có giá trị hàng hoá cao) thường ít được các hộ nghèo chấp
nhận vì chu kỳ sản xuất cây lâm nghiệp dài và đầu tư vốn, lao động cao.
- Nếu chọn và bố trí cây trồng (vườn cây ăn quả) không phù hợp có thể dẫn đến
hiện tượng cạnh tranh về ánh sáng, chất dinh dưỡng và nước trong đất cũng như các
chất kìm hãm sinh trưởng.
7. Phân tích các hệ thống nông lâm kết hợp ở Việt Nam
7.1. Phân loại các hệ thống nông lâm kết hợp
Một số tác giả như Hoàng Hoè, Nguyễn Đình Hưởng, Nguyễn Ngọc Bình... đã tập
hợp các mô hình nông lâm kết hợp điển hình ở Việt Nam và bước đầu có những đánh
giá khả năng áp dụng và hiệu quả của những mô hình này. Các tác giả đã phân chia các
vùng hoạt động nông lâm kết hợp chính trên cơ sở phân chia vùng địa lý tự nhiên để xác
định khả năng thực hiện ở các vùng:
- Vùng ven biển: Với các mô hình trồng các loài cây ngập mặn, chịu phèn và các
vùng cát di động.
- Vùng đồng bằng: Là các mô hình VAC, mô hình trồng cây phân tán, trồng cây
trong các đai phòng hộ và vườn gia đình.
- Vùng đồi và trung du: Các mô hình trồng cây trong vườn rừng, VAC... chống xói
mòn và bảo vệ đất.
- Vùng núi cao: Với các mô hình luân canh rừng - rẫy, chăn thả dưới tán rừng, canh
tác nông nghiệp trên ruộng bậc thang, rừng phòng hộ đầu nguồn...
Các tác giả trên đã thống nhất một hệ thống nông lâm kết hợp như quan điểm của
ICRAF, bao gồm 3 thành phần:
+ Cây thân gỗ sống lâu năm.
+ Cây thân thảo.
+ Vật nuôi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
15
Kết hợp phân tích các mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố trên với các đặc điểm
tự nhiên và kinh tế - xã hội ở Việt Nam, các hệ canh tác nông lâm kết hợp ở nước ta
được phân chia làm 8 hệ thống chính. Các “hệ canh tác” là đơn vị phân loại lớn nhất,
đơn vị dưới “hệ canh tác” là các “phương thức” hoặc các “kiểu” và cuối cùng là các
“mô hình”.
Theo nguyên tắc phân loại này, các hệ canh tác, các phương thức nông lâm kết hợp
ở Việt Nam có thể tóm tắt như sau:
* Hệ nông lâm kết hợp
Mục tiêu của hệ canh tác này là sản xuất nông nghiệp; các loài cây gỗ kết hợp ở các
phương thức cụ thể trong hệ thống nhằm phát huy các tác dụng phòng hộ của cây lâm
nghiệp như chắn sóng, chắn gió, chống cát bay, hạn chế xói mòn...
Về nguyên tắc, các cây thân gỗ lâm nghiệp không được làm giảm năng suất cây
nông nghiệp.
+ Luân canh rừng, rẫy.
+ Đai chống xói mòn.
+ Đai chắn gió hại.
+ Đai chắn sóng
* Hệ lâm nông kết hợp
Trong hệ thống này, mục tiêu lâm nghiệp là chính: Cung cấp gỗ, củi, tre, nứa. ... cây
nông nghiệp có tác dụng hỗ trợ cho cây lâm nghiệp và giải quyết một phần lương thực,
thực phẩm thiếu hụt. Các cây nông nghiệp có tác dụng hạn chế cỏ dại, xói mòn và gián
tiếp bảo vệ các cây lâm nghiệp.
+ Xen cây lương thực, thực phẩm, dược liệu giai đoạn trước khi rừng khép tán.
+ Xen cây lương thực, thực phẩm, dược liệu sau khi rừng khép tán.
Hình 1. Mô hình trồng cây lâm nghiệp xen cây ăn quả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
16
+ Xen cây lương thực, thực phẩm, dược liệu trong cả hai giai đoạn trước và sau khi
rừng khép tán.
* Hệ nông lâm súc kết hợp
Đây là một hệ thống được áp dụng ở quy mô và mức độ khác nhau. Các cây gỗ
thường phân tán trên các bãi chăn thả hoặc được trồng trên ranh giới các ô đất (thường
là hình chữ nhật hoặc là hình vuông) với tác dụng bảo vệ cho ruộng lúa, hoa màu, hoặc
các bãi cỏ. Ở một số địa phương kết hợp trồng luồng với chăn nuôi đại gia súc (trâu,
bò...) như ở Thanh Hoá, Hoà Bình, ở Hương Sơn (Hà Tĩnh) nhân dân còn nuôi hươu sao
để lấy nhung, ở nhiều tỉnh người dân kết hợp nuôi dê dưới tán rừng trồng, ở Tây
Nguyên đồng bào dân tộc còn thuần hoá và nuôi voi.
+ Lâm súc kết hợp với nông nghiệp.
+ Nông lâm súc kết hợp.
+ Chăn thả dưới tán rừng.
+ Đồng cỏ xen cây gỗ che bóng.
* Hệ canh tác các loài cây thân gỗ đa tác dụng
Trong hệ thống canh tác này việc tuyển chọn các loài cây có nhiều tác dụng phải
dựa vào kinh nghiệm và truyền thống canh tác của nhân dân từng địa phương. Ngoài
những tác dụng như cung cấp: Thực phẩm, chất đốt, gỗ gia dụng, dược liệu, thương
phẩm... chúng còn có tác dụng đặc biệt quan trọng là cải tạo đất, hạn chế xói mòn và cải
thiện môi trường sinh thái. Đây là một hệ thống canh tác đòi hỏi có sự kết hợp chặt chẽ
giữa các biện pháp kỹ thuật thâm canh trong nông nghiệp với các quy luật kết cấu cây
lâm nghiệp về mặt không gian và thời gian.
+ Cây công nghiệp thân gỗ sống lâu năm.
+ Cây ăn quả thân gỗ.
+ Rừng cung cấp thực phẩm, dược liệu, củi, thức ăn gia súc.
* Hệ lâm ngư kết hợp
Rừng ngập mặn Việt Nam có tới 30 loài cây cho gỗ, củi, 21 loài cây làm dược liệu,
21 loài cây có hoa nuôi ong mật, 14 loài cây cho tanin, 24 loài cây cho phân xanh cải
tạo đất (Phan Nguyên Hồng, 1999). Rừng ngập mặn (Mangrove) là một hệ sinh thái
chuyển tiếp giữa hệ sinh thái đất liền và hệ sinh thái biển. Tiềm năng sinh học của hệ
sinh thái này rất lớn và phong phú. Các trạng thái rừng ngập mặn được đánh giá là môi
trường tốt nhất để nuôi trồng thuỷ hải sản. Phát huy thế mạnh này, ngoài những giá trị
cung cấp, các cây gỗ rừng ngập mặn còn có giá trị phòng hộ và mở mang thêm diện tích
nhờ có quá trình cố định và lắng đọng phù sa bởi có cấu tạo của hệ rễ “cà kheo” của
phần lớn các loài cây gỗ rừng ngập mặn.
+ Rừng tràm + cá + ong.
+ Rừng ngập mặn + hải sản.
* Hệ canh tác lâm ngư nông
Trong quá trình diễn thế rừng ngập mặn, rừng tràm (Melaleuca leucadendron) được
coi là giai đoạn cuối cùng khi đất không chịu ảnh hưởng của thuỷ triều và đã rắn chắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
17
lại, nhưng hàng năm vẫn bị ngập nước vào mùa lũ, đất ở giai đoạn này thường có pH rất
thấp và độ nhiễm mặn cao. Thực vật ưu thế là cỏ năn (Eleocharis dulis).
Ở hệ canh tác này, người ta đã cải tạo đất bằng cây tràm với các hệ thống kênh,
mương dẫn nước ngọt để nuôi tôm cá, vừa “xổ phèn” lấy đất sạ lúa và trồng các cây ăn
quả khác. Trong các khu vực rừng tràm còn có thể kết hợp nuôi ong. Ngoài cây tràm
một số loài cây gỗ khác như bạch đàn trắng (Eucalyptus spp); điều (Ancardium
occdentale) ... cũng được trồng trên các bờ kênh.
+ Rừng tràm + lúa nước.
+ Rừng tràm + cây gỗ + hải sản.
* Hệ kinh doanh Ong mật và các cây thân gỗ
Hệ thống kinh doanh này không chỉ áp dụng riêng ở các rừng ngập mặn, rừng tràm,
mà còn được áp dụng rất có hiệu quả ở các vùng phân bố các loài cây ăn quả trồng tập
trung, như các kiểu vườn cây ăn quả ở Lái Thiêu.
+ Rừng ngập mặn + ong.
+ Rừng tràm + ong.
+ Bạch đàn + ong.
+ Vườn quả, vườn rừng + ong.
* Hệ nông lâm ngư súc kết hợp trên địa bàn rộng
So với hệ thống phân loại của Nair -1986 đây là một hệ thống canh tác kết hợp
nếu như không muốn nói là riêng khi phân loại các hệ thống nông lâm kết hợp ở Việt
Nam. Có thể đây là một vấn đề cần được thảo luận thêm, nhưng từ thực tế để tận dụng
một cách triệt để tiềm năng sản xuất của một vùng (có thể là các đơn vị hành chính:
huyện, xã, thôn) thậm chí là từng quả đồi, vấn đề tạo ra được sự cân bằng sinh thái
trong cả khu vực phải xuất phát từ mối quan hệ tương tác giữa các hệ sinh thái với
nhau. Trong mối quan hệ này để thiết lập nên cân bằng sinh thái nói chung, các cây
lâm nghiệp (hay nói đúng hơn là hệ sinh thái rừng) phải giữ vai trò chủ đạo. Để làm
được điều này, vấn đề quy hoạch sản xuất tổng thể và tổ chức lại sản xuất trên vùng
lãnh thổ cụ thể là rất quan trọng.
Theo quan điểm trên, Việt Nam có 8 hệ thống và 27 kiểu (phương thức) kết hợp
chính và rất nhiều các mô hình nông lâm kết hợp khác nhau. Hy vọng rằng những kết
quả phân loại ban đầu này ở Việt Nam sẽ là một trong những cơ sở để từ đó có thể cải
tiến, xây dựng các mô hình sản xuất nông lâm kết hợp nhiều hơn.
7.2. Nông lâm kết hợp trên các vùng kinh tế-sinh thái
Trong sản xuất nông lâm nghiệp, chỉ có một hệ canh tác bao gồm một tổ hợp vật
nuôi và cây trồng thích hợp mới có khả năng sử dụng có hiệu quả cao các điều kiện tự
nhiên của từng vùng lãnh thổ và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của vùng đó. Điều
đó có nghĩa là sản xuất nông lâm nghiệp bao giờ cũng gắn với vùng kinh tế - sinh thái,
chỉ có như vậy mới tạo cho cây trồng và vật nuôi đạt năng suất và chất lượng cao, đồng
thời quá trình sản xuất mới ổn định và hiệu quả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
18
Căn cứ vào các đặc điểm tự nhiên (địa hình, khí hậu, thực bì...) và các yếu tố kinh tế
- xã hội (mật độ dân số, tập quán canh tác, thị trường...), các nhà khoa học nông lâm
nghiệp đã phân chia nước ta thành 8 vùng kinh tế - sinh thái nông lâm nghiệp: Vùng núi
Bắc Bộ, vùng trung du Bắc Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung Bộ, vùng
duyên hải Nam Trung Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ, vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Đặc điểm chính và hướng sản xuất nông lâm kết hợp ở từng vùng như
sau:
7.2.1. Vùng núi Bắc Bộ
Vùng núi Bắc Bộ bao gồm 10 tỉnh: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La,
Hà Giang, Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Lạng Sơn.
Diện tích tự nhiên là 7,94 triệu ha, là vùng có diện tích lớn nhất trong 8 vùng (chiếm
24,1% diện tích của cả nước), độ che phủ rừng 40,6% (Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, 2003) nhưng địa hình phức tạp, đất dốc chiếm chủ yếu, giao thông kém phát
triển. Đây cũng là địa bàn sinh sống chủ yếu của các dân tộc ít người phía Bắc. Các dân
tộc khác nhau cư trú ở các rẻo cao khác nhau theo kiểu phân tầng từ thung lũng ven suối
đến độ cao hơn 2000 m. Trình độ học vấn và khoa học kỹ thuật nói chung của vùng còn
thấp. Địa hình trong toàn vùng tất cả đều là núi, đặc biệt có dãy Hoàng Liên Sơn đồ sộ
với những đỉnh cao nhất nước (3000m).
Tỉ lệ rừng che phủ hiện nay là còn thấp, trong vùng núi Bắc Bộ có một vấn đề nổi
cộm về sử dụng đất rừng, đó là phương thức canh tác “du canh”; tất nhiên “du canh”
không chỉ có ở vùng núi Bắc Bộ, mà có ở các vùng đồi núi khắp cả nước.
Du canh ở Việt Nam có thể chia làm 3 nhóm:
- Nhóm thứ nhất là du canh truyền thống, ở đây du canh gắn liền với du cư, khi di
chuyển vị trí nương rẫy người dân di chuyển cả nhà ở. Đây là phương thức canh tác rất
lạc hậu gắn liền là đời sống thấp, tạm bợ và thường gặp ở các dân tộc ít người như
H’mông, Dao.
- Nhóm thứ hai là du canh không du cư, nơi trồng trọt thay đổi còn nhà ở cố định.
Phần lớn đây cũng là những dân tộc ít người sống ở các làng bản.
- Nhóm thứ ba là “du canh phụ”, bao gồm những người chủ yếu sống bằng canh tác
ruộng đất cố định, thường là trồng lúa. Để bổ sung cho nhu cầu lương thực họ trồng
thêm ngô, sắn hoặc rau quả ở nương rẫy. Trước đây kiểu canh tác bổ sung này hạn chế
về quy mô. Nhưng với sức ép tăng dân số nó trở thành phổ biến ở nhiều vùng khắp Việt
Nam. Nhiều đồi núi đã bị mất hết độ màu mỡ đến mức không thể trồng trọt hàng năm
được.
Ở vùng núi Bắc Bộ, du canh thuộc nhóm thứ nhất và nhóm thứ hai là chủ yếu. Khi
mật độ dân số rất thấp, du canh tỏ ra vẫn có tác dụng nhất định để đảm bảo cuộc sống
của người dân mà không phải đầu tư nhiều vật tư trong điều kiện của người dân sống
cách biệt với các trung tâm kĩ thuật và dịch vụ, giao thông lại cực kì khó khăn. Mặt khác
nó cũng không làm tổn hại nhiều đến đất rừng do thời gian bỏ hoá rất dài (10 đến 15
năm) đủ để có thể phục hồi lại được độ phì của đất rừng đã bị mất do xói mòn và canh
tác nông nghiệp nhờ vào cây rừng thứ sinh mọc lên nhanh chóng trên diện tích đó.
Nhưng khi sức ép dân số tăng lên thời gian bỏ hoá bị rút ngắn đi rất nhiều, việc canh tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
19
liên tục với sự trả lại cho đất rất ít, cộng với mưa mùa nhiệt đới đã làm suy giảm độ phì
của đất theo đó là sản lượng cây trồng bị giảm sút. Như vậy lại phải phát quang nhiều
diện tích hơn để đủ bù số lương thực bị giảm năng suất, dẫn đến vòng quay “đất nghỉ”
càng ngắn hơn, cứ như vậy hình thành cái vòng luẩn quẩn không thể thoát ra khỏi. Hiện
nay, có hiện tượng di cư tự phát của đồng bào dân tộc ít người ở vùng núi Bắc Bộ vào
các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, nguyên nhân chính là do đất đai của họ bị nghèo
xấu đi không thể canh tác được nữa, họ kéo nhau cả bản vào các vùng đất mới hoang
vu, rừng rậm của Tây Nguyên để khai hoang trồng trọt. Như vậy chu trình mới của lối
canh tác cũ lại bắt đầu ở đây.
Ở vùng núi Bắc Bộ, đất bằng trồng lúa rất hiếm, vì thế để đảm bảo lương thực
người ta phải canh tác ở đất dốc là điều không thể tránh khỏi và trải qua quá trình lâu
đời lối canh tác nương rẫy trở thành tập quán ăn sâu vào đời sống đồng bào các dân tộc
ở đây. Chính vì vậy ý muốn loại bỏ phương thức “du canh” trong vùng này là không thể
thực hiện triệt để ngay được. Có lẽ tốt hơn cả là đồng thời với cuộc vận động định canh,
định cư chúng ta phải chấp nhận canh tác nương rẫy trong một thời kì, nhưng cần có qui
hoạch để tránh phát quang ở khu vực đầu nguồn, ở đỉnh núi, đường dông. Đồng thời
hướng dẫn người dân biết gieo hạt hoặc trồng cây con, các cây họ đậu dạng cây bụi
ngay sau khi kết thúc chu kì sản xuất để bảo vệ và cải tạo đất, làm như vậy có thể rút
ngắn được thời gian “đất nghỉ” và có nghĩa là giảm được diện tích phát quang. Tiến tới
áp dụng phương thức Taungya để đảm bảo nguồn lương thực tại chỗ vừa chuyển thu
nhập chủ yếu bằng sản phẩm lâm nghiệp trong đời sống của người dân miền núi ở
những nơi đủ điều kiện (vốn trồng rừng, thị trường tiêu thụ lâm sản...).
Do điều kiện đất rộng nên một thế mạnh của vùng núi Bắc Bộ là có thể thực hiện hệ
thống lâm súc. Ngoài việc chăn thả trâu bò dưới tán rừng tự nhiên của các hộ gia đình
vốn đã có truyền thống ở đây, việc chăn nuôi gia súc lớn qui mô tập trung là có cơ sở.
Muốn vậy phải có qui hoạch trồng rừng kết hợp với đồng cỏ chăn nuôi, nên chọn những
khu vực có độ dốc dưới 200 thiết kế các băng cây rừng, giữa các băng cây này trồng các
thảm cỏ để tổ chức chăn thả theo phương thức luân phiên. Đồng thời dành ra những lô
trồng cỏ thâm canh làm nơi chuyên cắt thức ăn bổ sung tại chuồng. Có thể dùng các cây
họ đậu thân gỗ (như keo dậu, keo lá phượng, keo lá tràm,...) trồng làm các hàng rào
phân lô đồng cỏ thay thế cho các hàng rào dây thép gai vừa có tác dụng bảo vệ và cải
tạo đất vừa làm thức ăn bổ sung cho gia súc. Ngoài ra một vấn đề quan trọng khác trong
chăn nuôi tập trung là xác định tập đoàn giống cỏ. Hiện nay có một số giống cỏ thích
hợp cho vùng này là cỏ voi, cỏ Ghinê, cỏ stylo, cỏ Mộc Châu, cỏ lông Ruzi, cỏ tín hiệu,
cỏ lông Humi,...
Đồng bào các dân tộc miền núi thường không có vườn nhà, mọi thứ phục vụ cho
sinh hoạt như rau, quả,... đều ở nương rẫy, điều này gây lãng phí sức lao động và thời
gian. Trong điều kiện đất rộng cần phát triển loại hình RVAC để tạo ra một hệ sinh thái
khép kín. Ở đây rừng (R), tốt nhất là rừng tự nhiên được giữ lại trên đỉnh núi có tác
dụng phòng hộ giữ đất, giữ nước, đồng thời là nơi cung cấp củi cho từng gia đình trong
quá trình chăm sóc, làm giàu rừng và cũng là nơi để chăn thả gia súc lớn dưới tán rừng.
Ở những nơi có điều kiện, nên phát triển loại hình ruộng bậc thang chỉ nên ở giữa
sườn núi trở xuống đến chân núi, còn phần trên đỉnh núi cần để lại rừng tự nhiên hoặc
rừng trồng các loài cây gỗ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
20
TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
NGUYỄN VIẾT KHOA - VÕ ĐẠI HẢI
NGUYỄN ĐỨC THANH
Kỹ thuật canh tác
TRÊN ĐẤT DỐC
NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP
HÀ NỘI - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
1
LỜI NÓI ĐẦU
Diện tích đất đồi núi nước ta chiếm tới 75% diện tích của cả nước, vì vậy đời sống
của phần lớn người dân đều dựa chủ yếu vào canh tác trên đất dốc. Chính vì vậy mà đất
dốc chiếm vị trí quan trọng trong phát triển nông nghiệp cả nước. Đây là vùng đất mà
môi trường sinh thái đã phần nào bị suy thoái do quá khứ khai thác và canh tác chưa
hợp lý. Hiện tượng xói mòn và rửa trôi do con người gây nên cũng đã biến những vùng
đất vốn rất màu mỡ thành đất thoái hoá bạc màu, có độ phì nhiêu thấp.
Do sức ép về dân số, đất đai ở những vùng sâu vùng xa, thậm chí kể cả rừng cấm
đầu nguồn cũng đã và đang bị xâm hại dẫn đến sự thoái hoá tài nguyên thiên nhiên,
biểu hiện ở độ che phủ rừng giảm sút một cách đáng báo động, sức sản xuất của đất
cũng kém dần và thoái hoá về đa dạng sinh học. Lối canh tác truyền thống tỏ ra không
thích hợp cho phát triển nông-lâm nghiệp bền vững không những trên đất dốc mà ngay
cả vùng đồng bằng.
Như vậy, nếu chúng ta không có những phương thức canh tác hợp lý trên vùng đất
dốc thì hậu quả không những chỉ người nông dân miền đất dốc mà cả xã hội phải gánh
chịu kèm theo những khủng hoảng về môi trường và tài nguyên.
Con đường thoát khỏi tình trạng trên chỉ có thể là tìm một phương thức canh tác
nông lâm kết hợp trên vùng đất dốc, gắn sản xuất lương thực với sản xuất hàng hoá,
gắn nông nghiệp với lâm nghiệp với bảo vệ đất, nước và môi trường từ đó tiến tới định
canh, định cư và xây dựng dần cuộc sống mới của người dân trên vùng đất dốc miền
núi.
Tài liệu “Kỹ thuật canh tác trên đất dốc” được biên soạn dựa trên những đúc kết
từ những kinh nghiệm thực tế và tổng hợp từ các tài liệu khoa học, khuyến nông-khuyến
lâm nhằm mục đích giúp các cán bộ khuyến nông cấp tỉnh và huyện hiểu biết hơn về
những phương thức canh tác nông lâm kết hợp trên vùng đất dốc và từ đó có thể giúp
bà con nông dân canh tác trên vùng đất dốc một cách có hiệu quả và bền vững.
Trong quá trình biên soạn tài liệu, chúng tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót,
rất mong các đồng nghiệp cùng các bạn đọc đóng góp ý kiến để cuốn sách được hoàn
thiện hơn.
Nhóm tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
2
Chương I
TỔNG QUAN VỀ NÔNG LÂM KẾT HỢP
1. Khái niệm về nông lâm kết hợp
Thuật ngữ Nông lâm kết hợp (NLKH) (Agroforestry) đã được tiến sỹ King (1977)
đưa ra để thay thế Taungya, một danh từ địa phương của Myanmar có nghĩa là “canh tác
trên đồi”.
Một thực tế quan trọng là danh từ NLKH chỉ mới về thuật ngữ, không mới về thực
hành, bởi lẽ kỹ thuật canh tác NLKH đã có từ lâu đời, nằm trong các kinh nghiệm sản
xuất cổ truyền của nhân dân ta và ở hầu hết các nước nhiệt đới đang phát triển.
Ví dụ như phương thức trồng xen các cây nông nghiệp ngắn ngày với rừng tếch
(Techtona grandis), trong giai đoạn đầu khi rừng trồng chưa khép tán (hệ canh tác
NLKH Taungya), của người dân Myanmar, có các ưu điểm như chống được cháy rừng
tếch trong mùa khô, rừng tếch trồng sinh trưởng tốt hơn, rừng được bảo vệ tốt, giảm
được giá thành rừng trồng... cho nên ngay từ năm 1856, phương thức canh tác này
(Taungya) đã được áp dụng rộng rãi trong ngành lâm nghiệp Myanmar để gây trồng
rừng tếch.
2. Định nghĩa về NLKH
Định nghĩa về NLKH đã được thừa nhận rộng rãi hiện nay trên thế giới là: Nông
lâm kết hợp được bao gồm các hệ canh tác sử dụng đất khác nhau; trong đó có các loài
cây thân gỗ sống lâu năm (bao gồm cả cây bụi thân gỗ, các loài cây trong họ dừa và họ
tre nứa) được trồng kết hợp với các loài cây nông nghiệp, hoặc vật nuôi trên cùng một
đơn vị diện tích đất đai canh tác đã được quy hoạch sử dụng trong sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, chăn nuôi, hoặc thủy sản.
Chúng được kết hợp với nhau hợp lý trong không gian, hoặc theo trình tự về thời
gian. Giữa chúng luôn có tác động qua lại lẫn nhau cả về phương diện sinh thái và kinh
tế theo hướng có lợi.
Theo như King (1977); Hurley (1983); Nair (1989); Chun.K.Lai (1991):
“NLKH là một lĩnh vực khoa học độc lập; nó được hình thành và xây dựng trên cơ
sở của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, có liên quan đến các phương thức sử dụng
đất đai như: nghề làm ruộng, nghề chăn nuôi, nghề làm rừng, nghề làm vườn, nghề nuôi
trồng thủy sản, thậm chí cả nghề nuôi ong...”.
Như vậy, kỹ thuật sản xuất NLKH không phải là một kỹ thuật canh tác đơn giản,
như thực hiện phép tính cộng các kỹ thuật trồng cây nông nghiệp, với các kỹ thuật trồng
cây lâm nghiệp... nó cũng không phải là con số cộng đơn giản về các nội dung khoa học
của các ngành có liên quan để hình thành ra nội dung khoa học của phương thức canh
tác NLKH.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
3
Nói tóm lại, phương thức sản xuất NLKH phải được thực hiện trên các cơ sở khoa
học của bản thân nó và được biểu hiện qua trình độ thiết kế và điều chế các hệ canh tác
NLKH trên một địa bàn sản xuất cụ thể.
3. Lược sử phát triển nông lâm kết hợp ở Việt Nam
Thật khó có thể xác định một cách chính xác thời điểm ra đời của hệ thống nông
lâm kết hợp. Mặc dù vậy, người ta vẫn thừa nhận rằng sự hình thành và phát triển của
nó gắn liền với sự phát triển của các ngành khoa học thuộc nông lâm nghiệp và gắn liền
với sự nhận thức của con người về sử dụng đất và nhu cầu kinh tế. Lúc đầu, du canh
được xem là phương thức canh tác cổ xưa nhất; tiếp theo cuộc cách mạng về kỹ thuật
chăn nuôi, trồng trọt, sau du canh, sự ra đời của phương thức Taungya (canh tác đồi núi)
ở vùng nhiệt đới được xem là một dấu hiệu báo trước cho phương thức nông lâm kết
hợp sau này.
Ở Việt Nam, tập quán canh tác nông lâm kết hợp đã có từ lâu đời, như các hệ thống
canh tác nương rẫy truyền thống của đồng bào các dân tộc ít người, hệ sinh thái vườn
nhà ở nhiều vùng địa lý sinh thái trên cả nước...
Xét ở khía cạnh mô hình và kỹ thuật thì nông lâm kết hợp ở Việt Nam đã phát triển
không ngừng. Từ những năm 1960, hệ sinh thái Vườn-Ao-Chuồng (VAC) được nông
dân các tỉnh miền Bắc phát triển mạnh mẽ và lan rộng khắp cả nước với nhiều cải tiến
khác nhau để thích hợp cho từng vùng sinh thái cụ thể.
Sau đó là hệ thống Rừng-Vườn-Ao-Chuồng (RVAC) và vườn đồi được phát triển
mạnh mẽ ở các khu vực dân cư miền núi.
Các hệ thống rừng ngập mặn-nuôi trồng thuỷ sản cũng được phát triển mạnh mẽ ở
vùng duyên hải các tỉnh miền Trung và miền Nam.
Các dự án ODA cũng giới thiệu các mô hình canh tác trên đất dốc theo đường đồng
mức (SALT) ở một số khu vực miền núi.
Theo đó, cho đến nay các mô hình nông lâm kết hợp bao gồm:
Các mô hình NLKH vùng đồi núi
Trồng xen cây nông nghiệp ngắn ngày với cây rừng trong giai đoạn rừng trồng
chưa khép tán.
Trồng xen cây lương thực, thực phẩm, dược liệu dưới tán rừng.
Trồng xen cây nông nghiệp ở cả 2 giai đoạn của rừng trồng: khi rừng chưa khép
tán: trồng xen lúa nương, sắn, lạc...; khi rừng trồng đã khép tán: trồng xen sa
nhân dưới tán rừng.
Trồng và kinh doanh các cây công nghiệp lâu năm (cà phê, ca cao, cao su...) với
cây rừng.
Trồng và kinh doanh “rừng lương thực, thực phẩm” (rừng dẻ, rừng sến mật,
rừng dừa, rừng điều...).
Vườn quả, vườn rừng và rừng vườn (táo + lạc + đậu tương; vải thiều + dong
riềng; mít + chè, dứa; ...).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
4
Chăn nuôi trâu bò, chăn thả luân phiên dưới tán rừng trồng (bạch đàn + keo lá
trầm + cỏ Panggola).
Mô hình nông lâm kết hợp vùng trung du
Các mô hình NLKH vùng ven biển
Trên đất cát ven biển: Các dải rừng phi lao + lúa, khoai, lạc, vừng, củ đậu,
sắn...).
Trên đất ngập mặn ven biển: Lâm ngư kết hợp trên đất ngập mặn ven biển
(trồng cây rừng ngập mặn + nuôi tôm).
Trên đất phèn: Lên líp để trồng cây rừng gỗ lớn + cây hoa màu trên mặt líp.
Chăn nuôi bò dưới tán rừng phi lao ven biển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
5
Rừng phi lao ven biển và nuôi trồng thủy sản
Xét ở góc độ nhận thức về nông lâm kết hợp thì nó có quá trình lịch sử phát triển
như sau:
Nông lâm kết hợp trên địa bàn thực chất là sự sắp xếp hợp lý các loại hình sản xuất
nông nghiệp, chăn nuôi, ngư nghiệp, cây nông nghiệp dài ngày và cây lâm nghiệp trên
một địa bàn đất đai sản xuất cụ thể của một huyện, một xã, một đội sản xuất, thậm chí
trên một quả đồi.
Trong thời kỳ kinh tế tập trung, trước đây việc kết hợp nông lâm nghiệp đã đóng
góp cho nền kinh tế tự cung tự cấp. Trong thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay, việc trao
đổi hàng hoá và tiếp thị là yếu tố cơ bản trong nền kinh tế. Sự kết hợp nông nghiệp và
lâm nghiệp trên địa bàn sẽ phát triển hàng loạt sản phẩm và tạo ra thu nhập cho cộng
đồng.
Hiện nay, nhiều vùng núi hẻo lánh của nước ta, nông lâm kết hợp đã tạo ra sản
phẩm lương thực tại chỗ nhằm duy trì cuộc sống của đồng bào địa phương. Nhiều vùng,
sản phẩm nông lâm kết hợp đã trở thành hàng hoá, cần được chế biến, tiêu thụ nhằm
nâng cao thu nhập của người dân. Mặt khác, sự phát triển đòi hỏi những chính sách
thích hợp của Chính phủ nhằm khuyến khích sản xuất và các chính sách thuận tiện cho
xây dựng hạ tầng cơ sở như đường sá, bến bãi và mối giao lưu tới các thị trường lớn ở
mọi miền. Có như vậy, mới phát triển được sản xuất, cải thiện đời sống vật chất cũng
như văn hoá xã hội của nông dân sống ở vùng nông thôn miền núi.
Tóm lại, nông lâm kết hợp được tiến hành không chỉ nhằm nâng cao năng suất nông
lâm nghiệp mà còn tạo ra môi trường ổn định cho mọi vùng.
4. Cơ sở pháp lý liên quan đến nông lâm kết hợp trên các loại đất khác nhau
4.1. Các văn bản pháp luật liên quan đến các loại đất nông lâm khác nhau
Luật Đất đai (năm 2003), Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (2004), Luật Bảo vệ Môi
trường (2005) là ba đạo luật cao nhất và quan trọng nhất liên quan đến sử dụng đất nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
6
nghiệp và lâm nghiệp nói chung và sản xuất nông lâm kết hợp nói riêng. Trong Luật Đất
đai nêu rõ phải “Thực hiện các biện pháp bảo vệ đất” (Mục 4, Điều 107). Luật Bảo vệ
và Phát triển rừng cũng quy định: Được sản xuất lâm nghiệp-nông nghiệp-ngư nghiệp
kết hợp theo quy chế quản lý rừng, trừ rừng đặc dụng (Mục 3, Điều 59). Luật Bảo vệ
môi trường quy định trách nhiệm bảo vệ môi trường của các tổ chức, cá nhân trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ (Điều 35).
4.2. Chính sách hỗ trợ phát triển nông lâm kết hợp
4.2.1. Chính sách về đất đai
Chính sách về đất đai để hỗ trợ phát triển NLKH của Chính phủ được phản ánh
trong các nghị định, quyết định và thông tư dưới đây:
- Nghị định 163/1999/NĐ-CP, ngày 16/11/1999 của Chính phủ về giao đất, cho
thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào
mục đích lâm nghiệp. Theo Nghị định này, Nhà nước giao đất lâm nghiệp không thu
tiền sử dụng đất cho các hộ gia đình, tổ chức và cá nhân để sử dụng ổn định và lâu dài
(Điều 4). Đồng thời, người nhận đất được sản xuất nông lâm kết hợp (Điều 15); được
hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất được giao; được miễn giảm thuế sử
dụng đất theo quy định của pháp luật; được hưởng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước
trong việc bảo vệ và phát triển rừng (Điều 18).
- Thông tư liên tịch số 62/2000/TTLT/BNN-TCĐC, ngày 6/6/2000 về Hướng dẫn
việc giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp.
- Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg, ngày 12/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ về
quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được thuê, nhận khoán rừng và đất
lâm nghiệp. Theo Quyết định này, quyền lợi của chủ đất và rừng liên quan đến sử dụng
đất theo phương thức nông lâm kết hợp được xác định, cụ thể:
+ Hộ gia đình, cá nhân được giao rừng phòng hộ để quản lý, bảo vệ, khoanh nuôi tái
sinh được thu hái lâm sản phụ, hoa, quả, dầu, nhựa..., trong quá trình bảo vệ, khoanh
nuôi tái sinh theo quy định hiện hành (Điều 5).
+ Hộ gia đình, cá nhân được giao đất lâm nghiệp chưa có rừng thuộc quy hoạch
rừng phòng hộ được sử dụng cây nông nghiệp lâu năm làm cây trồng chính rừng phòng
hộ hoặc xen với cây rừng bản địa lâu năm theo thiết kế trồng rừng được Sở NN-PTNT
phê duyệt. Được hưởng 100% sản phẩm khai thác từ cây phù trợ, cây trồng xen, sản
phẩm tỉa thưa theo thiết kế được Sở NN-PTNT phê duyệt và phải đảm bảo độ tàn che
của rừng trên 0,6 sau khi tỉa thưa. Được sử dụng tối đa không quá 20% diện tích đất lâm
nghiệp chưa có rừng để sản xuất nông nghiệp và ngư nghiệp (Điều 6).
+ Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao rừng tự nhiên quy hoạch rừng sản xuất
được trồng xen cây nông nghiệp, cây dược liệu, chăn thả gia súc và khai thác các lợi ích
khác của rừng phù hợp với quy chế quản lý rừng sản xuất (Điều 7).
Đối với các hộ gia đình, cá nhân nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng
rừng cũng được hưởng các quyền lợi trong quá trình làm nông lâm kết hợp như quy
định đối với giao rừng như trên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
7
- Nghị định số 01-CP ngày 4/1/1995 của Chính phủ về việc giao khoán đất sử dụng
vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản trong các doanh
nghiệp nhà nước. Nghị định này quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của bên nhận khoán
(hộ gia đình và cá nhân): Được chủ động sản xuất trên diện tích đất nhận khoán theo
hợp đồng. Được nuôi trồng xen theo hợp đồng và được hưởng toàn bộ sản phẩm nuôi
trồng xen (Điều 8). Được giao khoán đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm và cây hàng
năm (Điều 9 và 10). Được giao khoán đất lâm nghiệp được quy hoạch cho rừng phòng
hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất (Điều 12,13 và 15).
- Quyết định số 08/2001/QĐ-TTG, ngày 11/1/2001 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành Quy chế quản lý rừng đặc dụng, phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên
cũng có những quy định khuyến khích làm nông lâm kết hợp. Ví dụ như: được tận dụng
tối đa 20% diện tích đất chưa có rừng được giao để sản xuất nông nghiệp và ngư nghiệp
(Điều 30).
- Quyết định số 661/QĐ-TTg, ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về mục
tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. Trong
Quyết định này hàng loạt các chính sách được đề ra, trong đó có tác động thúc đẩy sản
xuất nông lâm kết hợp. Ví dụ như: Chính sách về đất đai; chính sách về đầu tư và tín
dụng; chính sách hưởng lợi và tiêu thụ sản phẩm; chính sách thuế; chính sách về khoa
học và công nghệ...
- Thông tư liên tịch số 28/1999/TTg-LT, ngày 3/2/1999 của Bộ NN-PTNT, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính về Hướng dẫn việc thực hiện Quyết định 661/QĐ-TTg
ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ.
4.2.2. Chính sách về khoa học công nghệ
Chính sách về khoa học công nghệ trong nông lâm kết hợp, tại Điều 9 của Quyết
định 661/QĐ-TTG đã nêu rõ: Bộ NN-PTNT phối hợp với Bộ Khoa học Công nghệ và
Môi trường, tập trung chỉ đạo việc nghiên cứu tuyển chọn, lai tạo, nhập nội các giống
cây rừng có khả năng thích nghi tốt, đạt hiệu quả cao và kỹ thuật trồng rừng thâm canh,
các biện pháp bảo vệ và phòng chống cháy rừng... để phổ biến nhanh ra diện rộng
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành nhiều quy trình, quy phạm,
hướng dẫn kỹ thuật trong đó đề cập đến các biện pháp kỹ thuật áp dụng hệ thống nông
lâm kết hợp trong trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh và làm giầu rừng.
Viện Khoa học Lâm nghiệp đã có nhiều nghiên cứu và rất thành công trong việc
xây dựng các mô hình nông lâm kết hợp trong các vùng sinh thái trên phạm vi cả nước.
Những kết quả nghiên cứu khoa học cùng với các mô hình này đã giúp cho nông dân áp
dụng trên diện tích đất được giao của các hộ và các trang trại đem lại hiệu quả sử dụng
đất cao cả về kinh tế và môi trường sinh thái.
4.2.3. Chính sách về khuyến nông lâm đối với nông lâm kết hợp
Chính sách về khuyến lâm để hỗ trợ phát triển NLKH của Chính phủ được phản ánh
trong:
- Nghị định 13/CP ngày 2/3/1993 về quy định công tác khuyến nông. Theo đó, ngày
2/8/1993 đã ban hành Thông tư liên bộ số 02/LBTT về hướng dẫn thi hành Nghị định số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
8
13/CP. Sau khi có Nghị định 13/CP, công tác khuyến nông lâm ở Việt Nam đã có những
bước phát triển rất nhanh chóng. Hệ thống tổ chức khuyến nông lâm đã được thiết lập từ
trung ương đến địa phương. Ngoài các hoạt động khuyến nông của Chính phủ, nhiều tổ
chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước đã thực hiện nhiều chương
trình khuyến nông khuyến lâm trên phạm vi cả nước.
- Đối với Nghị định 13/CP, nội dung chính của chính sách này là:
a./ Thành lập hệ thống khuyến nông-khuyến lâm của Nhà nước từ cấp trung ương
đến cấp huyện với số lượng cán bộ trong biên chế nhà nước và mạng lưới khuyến nông
viên ở cấp xã theo chế độ hợp đồng.
Khuyến khích và cho phép thành lập các tổ chức khuyến nông tự nguyện của các cơ
quan nghiên cứu, đào tạo, các đoàn thể và các tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân ở
trong và ngoài nước.
b./ Kinh phí cho hoạt động của hệ thống khuyến nông Nhà nước được hình thành từ
các nguồn:
+ Ngân sách Nhà nước cấp hàng năm.
+ Tài trợ của các tổ chức và cá nhân trong nước và ngoài nước.
+ Thu của nông dân một phần giá trị sản phẩm tăng thêm nhờ áp dụng khuyến nông.
c./ Chính sách đối với cán bộ khuyến nông-khuyến lâm: Cán bộ khuyến nông được
Nhà nước đào tạo về kỹ năng và nghiệp vụ khuyến nông-khuyến lâm. Khi đi công tác
tại cơ sở, cán bộ khuyến nông-khuyến lâm được hưởng một khoản phụ cấp ngoài lương.
Cán bộ khuyến nông-khuyến lâm có thể ký hợp đồng kỹ thuật với nông dân và được
nhận thưởng theo hợp đồng.
- Ngày 26 tháng 4 năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số
56/2005/NĐ-CP về nội dung, tổ chức và chính sách khuyến nông, khuyến ngư (trong đó
bao gồm cả khuyến lâm) đã thay thế Nghị định 13/CP. Ngoài một số nội dung đã nêu
trên, Nghị định 56/2005/NĐ-CP có một số đổi mới là:
a./ Nguyên tắc hoạt động khuyến nông, khuyến ngư:
+ Xuất phát từ nhu cầu của người sản xuất (Nông dân, diêm dân, ngư dân, hộ gia
đình, công nhân nông-lâm trường, chủ trang trại, doanh nghiệp...) và yêu cầu phát triển
nông nghiệp, thuỷ sản.
+ Tạo điều kiện liên kết chặt chẽ giữa nhà quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp
với người sản xuất và giữa người sản xuất với nhau.
+ Xã hội hoá hoạt động khuyến nông, khuyến ngư.
b./ Nội dung hoạt động khuyến nông, khuyến ngư
Ngoài các hoạt động như đã quy định trong Nghị định 13/CP, hoạt động tư vấn và
dịch vụ đã được quy định rõ trong Nghị định 56-2005/NĐ-CP. Trong đó đáng chú ý một
số đổi mới trong nội dung hoạt động dịch vụ khuyến nông, khuyến ngư là: Tập huấn,
đào tạo, cung cấp thông tin, chuyển giao khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại, thị
trường... và các hoạt động khác liên quan đến nông nghiệp, thủy sản.
c./ Tổ chức khuyến nông, khuyến ngư cơ sở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
9
+ Mỗi xã, phường, thị trấn (cấp xã) có ít nhất 1 nhân viên làm công tác khuyến
nông, khuyến ngư.
+ Ở các thôn, bản, buôn, sóc (cấp thôn) có cộng tác viên khuyến nông, khuyên ngư.
Nói riêng về công tác khuyến lâm, đánh giá chung kết quả trong 10 năm qua là: các
chương trình khuyến lâm đã thực hiện đúng mục tiêu; giúp chuyển biến được nhận thức
của người dân miền núi từ chỗ chỉ biết khai thác, lợi dụng rừng, sang kinh doanh tổng
hợp, tạo thu nhập từ đất rừng, đồng thời tái tạo lại rừng đảm bảo lợi ích cho toàn xã hội.
Chương trình khuyến lâm mang lại cả hai mục đích: kinh tế và môi trường. Nhiều
tiến bộ kỹ thuật canh tác trên đất dốc, quản lý rừng bền vững được chuyển tải đến nông
dân và được áp dụng rộng rãi vào sản xuất thông qua xây dựng các mô hình nông lâm
kết hợp trình diễn.
Thực tế khuyến lâm có tác động thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động nông lâm kết hợp trên
diện tích đất lâm nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và các lâm nông trường.
Ngày 06/04/2006 Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp & PTNT, Bộ Thuỷ sản ban hành
thông tư liên tịch hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp kinh tế đối với
hoạt động khuyến nông, khuyến ngư (Hướng dẫn thực hiện Nghị định 56/CP). Thông tư
đã thể hiện một số chính sách ưu tiên cho người nghèo xây dựng mô hình Nông lâm kết
hợp ở miền núi đó là Nhà nước hỗ trợ kinh phí (80% giống và 60 % đối với vật tư sản
xuất) cho người nghèo vùng núi xây dựng mô hình khuyến nông, khuyến lâm. Thông tư
qui định có hai loại kinh phí cho hoạt động khuyến nông, khuyến lâm: (1) Hoạt động
khuyến nông, khuyến ngư trung ương do ngân sách trung ương bảo đảm; (2) Hoạt động
khuyến nông khuyến ngư địa phương do ngân sách địa phương đảm bảo. Hàng năm
Nhà nước sẽ hỗ trợ kinh phí từ ngân sách Nhà nước để hỗ trợ nông dân xây dựng mô
hình khuyến nông khuyến lâm trên toàn quốc.
5. Thực tiễn nông lâm kết hợp ở Việt Nam
5.1. Tổng quan về sử dụng đất ở Việt Nam
Diện tích tự nhiên (phần đất liền) nước ta khoảng 33 triệu hécta, đứng hàng thứ 58
trên thế giới nhưng dân số lại đông cho nên bình quân đất đai tính theo đầu người thuộc
loại thấp, chỉ khoảng 0,5 ha/người, là một trong số 40 nước có diện tích đất đai bình
quân tính theo đầu người thấp nhất trên thế giới hiện nay. Đặc biệt là trong tổng diện
tích tự nhiên đó, có tới hơn hai phần ba diện tích là đất đồi núi dốc, còn lại gần một
phần ba là đất đồng bằng.
Tính đến năm 2003, đất đã được sử dụng cho sản xuất nông lâm nghiệp là gần 17
triệu hecta, chiếm hơn một nửa diện tích đất cả nước (51,5%) và được chia ra như sau:
- Đất nông nghiệp hơn 7,3 triệu hecta, trong đó đất trồng cây hàng năm là 5,6 triệu
hecta, cây lâu năm là 1,4 triệu hecta và mặt nước là 0,273 triệu hecta.
- Đất lâm nghiệp hơn 9,6 triệu hecta gồm đất rừng tự nhiên hơn 8,8 triệu hecta và
đất rừng gần 0,8 triệu hecta.
Như vậy là tỷ lệ đất đã sử dụng còn thấp, về nông nghiệp mới có 22,3%, trong đó
đất trồng cây hàng năm chiếm đến 17% diện tích tự nhiên. Đất lâm nghiệp có cao hơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
10
chiếm 29,2% nhưng vẫn còn quá thấp so với yêu cầu nhất là về mặt đảm bảo an toàn về
sinh thái và phòng hộ.
Đất chưa sử dụng còn 14,2 triệu hecta chiếm 43% diện tích tự nhiên; trong đó gần
6,7 triệu ha là đồi núi trọc, chiếm gần 20,3 % diện tích tự nhiên. Đáng chú ý là trong
diện tích đất này có khoảng 10,4 triệu hecta (31,5% diện tích tự nhiên) là có khả năng
sử dụng cho nông lâm nghiệp nhưng đã bị thoái hoá mạnh, đòi hỏi phải có đầu tư lớn.
Thực trạng nêu trên cho thấy là quĩ đất đai của nước ta quá ít, đất đai được sử dụng
càng ít. Đất trống đồi núi trọc đang bị thoái hoá nghiêm trọng. Đó là một nguy cơ đe
doạ sự tồn tại và phát triển ổn định, lâu dài của đất nước.
5.2. Hiện trạng canh tác nông lâm kết hợp
Thời gian gần đây đã xuất hiện một số mô hình canh tác nông lâm kết hợp ở các
vùng sinh thái khác nhau. Mô hình này được thực hiện trên đất nông hộ, đất trang trại tư
nhân, nông lâm trường. Việc thiết kế xây dựng mô hình được nông dân, các cơ quan
nghiên cứu, dự án, chương trình của Chính phủ thực hiện.
Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp, đất có khả năng sử dụng cho mục đích NLKH
Đất trồng cây hàng năm 5.958.406 ha
Đất ruộng lúa, lúa màu 4.022.093 ha
Đất nương rẫy 653.188 ha
Đất trồng cây hàng năm khác 1.283.125 ha
Đất vườn tạp 622.521 ha
Đất trồng cây lâu năm 2.314.037 ha
Đất cỏ dùng vào chăn nuôi 42.057 ha
Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 594.810 ha
Tổng cộng 9.531.831 ha
Nguồn số liệu: Thống kê lâm nghiệp năm 2003
6. Một số tác động tích cực và tiêu cực trong nông lâm kết hợp ở Việt Nam
Tác động của nông lâm kết hợp là rất lớn, đặc biệt là tác động tích cực. Những tác
động này được thể hiện trên cả ba lĩnh vực: (1) Kinh tế hộ gia đình; (2) Xã hội; (3) Sử
dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Hoạt động nông lâm kết hợp rất đa dạng và phong phú, nên những tác động này
được thể hiện trong từng mô hình áp dụng cụ thể.
6.1. Tác động tích cực
6.1.1. Tác động của NLKH đối với kinh tế nông hộ
Các lợi ích mà nông lâm kết hợp mang lại cho kinh tế hộ gia đình rất đa dạng. Cụ
thể:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
11
- Cung cấp lương thực và thực phẩm: Nhiều mô hình NLKH được hình thành và
phát triển đã đáp ứng mục tiêu sản xuất nhiều loại lương thực, thực phẩm có giá trị dinh
dưỡng cao đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình. Điển hình là hệ thống VAC được phát triển
rộng rãi ở nhiều vùng nông thôn ở nước ta. Nhờ đó, có khả năng tạo ra sản phẩm lương
thực và thực phẩm đa dạng trên một diện tích mà không yêu cầu đầu tư lớn.
- Tăng thu nhập nông hộ: Với sự phong phú về sản phẩm đầu ra và ít đòi hỏi về đầu
vào, các hệ thống NLKH dễ có khả năng đem lại thu nhập cao cho hộ gia đình. Các hộ
gia đình tận dụng được thời gian, nguồn lao động, tạo ra nhiều loại sản phẩm hàng hoá,
tăng thu nhập cho gia đình và có điều kiện đầu tư trở lại cho cây trồng, điều hoà được
lợi ích trước mắt và lâu dài.
Tận dụng được đất đai giữa các hàng cây rừng để trồng cây lương thực, hoa màu...
phục vụ cho đời sống người dân làm nghề rừng trong các năm đầu của rừng trồng chưa
khép tán (hệ thống Taungya).
- Tạo việc làm: Nông lâm kết hợp gồm nhiều thành phần canh tác đa dạng có tác
dụng thu hút lao động, tạo thêm ngành nghề phụ cho nông dân. Tăng được sản phẩm
cần dùng hàng ngày: củi đun, thức ăn,... tạo thêm việc làm, tận dụng mọi nguồn lao
động ở nông thôn.
- Đa dạng hóa sản phẩm: Việc kết hợp cây thân gỗ trên nông trại có thể tạo ra các
sản phẩm từ cây thân gỗ như: gỗ, củi, tinh dầu, v.v... để đáp ứng nhu cầu về nguyên vật
liệu cho hộ gia đình.
Mặt khác, việc kết hợp trồng các loài cây nông nghiệp, không chỉ tạo lương thực
thực phẩm cho người mà còn tạo nguồn thức ăn cho gia súc. Thức ăn của gia súc (dê,
trâu, bò...) được cắt từ cỏ và cây họ đậu trên đường đồng mức. Sau đó phân của gia súc
lại dùng để bón cho đất canh tác, tạo cho đất được tốt hơn. Ngoài nông lâm sản, còn thu
được sữa, thịt...nên sẽ làm tăng và đa dạng hóa thu nhập của phương thức nông lâm kết
hợp, đặc biệt là trong các trang trại.
- Giảm rủi ro trong sản xuất và tăng mức độ an toàn lương thực: Nhờ có cấu trúc
phức tạp, đa dạng được thiết kế nhằm làm tăng các quan hệ tương hỗ (có lợi) giữa các
thành phần trong hệ thống, các hệ thống NLKH thường có tính ổn định cao hơn trước
các biến động bất lợi về điều kiện tự nhiên như: dịch sâu bệnh, hạn hán v.v... Sự đa
dạng về loại sản phẩm đầu ra cũng góp phần giảm rủi ro về thị trường và giá cả cho
nông hộ. Đa dạng hoá các loài cây trồng, cung cấp sản phẩm hàng hoá và hạn chế các
rủi ro về sinh học và thị trường.
- Hỗ trợ cây trồng chính: Cung cấp phân hữu cơ cho canh tác, giúp rừng trồng sinh
trưởng tốt nhờ vào chăm sóc vệ sinh lô rừng; quay vòng vốn đầu tư nhanh và tạo điều
kiện phù hợp để thu hạt giống cây rừng (rừng và đồng cỏ).
Hỗ trợ cho các cây lâm nghiệp, nông dân chăm sóc hoa màu có ảnh hưởng tốt đối
với sinh trưởng và phát triển của rừng non mới trồng (hệ thống Taungya).
6.1.2. Tác động về mặt xã hội
- Góp phần giải quyết khó khăn về gia tăng dân số: Gia tăng dân số mối quan tâm
của người dân đến quản lý bảo vệ rừng. Giảm sức ép của việc gia tăng dân số nhờ vào
việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên thông qua mô hình nông lâm kết hợp, ví
dụ như rừng-vườn-ao-chuồng (RVAC).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
12
-Thúc đẩy lâm nghiệp xã hội phát triển: Xuất phát từ mục tiêu chính của LNXH về
mặt kinh tế là cung cấp lương thực, gỗ củi và các sản phẩm khác. Về mặt xã hội là sự
cân bằng trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên, việc làm, kiến thức, sức khoẻ và lao
động. Về mặt môi trường là sự bền vững hướng tới sử dụng các nguồn tài nguyên thiên
nhiên của cộng đồng và môi trường sống. Vì vậy, nông lâm kết hợp là một công cụ
thích hợp nhất cho phát triển lâm nghiệp xã hội.
- Góp phần hạn chế tình trạng du canh du cư, đốt nương làm rẫy và góp phần xóa
đói giảm nghèo cho một bộ phận nông dân miền núi: Nhờ vào canh tác theo phương
thức nông lâm kết hợp, việc sử dụng đất đồi núi được ổn định; góp phần hạn chế tình
trạng du canh, du cư, ổn định cuộc sống của người dân miền núi.
6.1.3. Tác động đối với việc sử dụng tài nguyên và môi trường
- Nông lâm kết hợp trong bảo tồn tài nguyên đất nước:
Các hệ thống NLKH nếu được thiết kế và quản lý thích hợp sẽ có khả năng: Giảm
dòng chảy bề mặt và xói mòn đất; duy trì độ mùn và cải thiện lý tính của đất và phát
huy chu trình tuần hoàn dinh dưỡng, tăng hiệu quả sử dụng dinh dưỡng của cây trồng và
vật nuôi. Nhờ vậy, làm gia tăng độ phì của đất, tăng hiệu quả sử dụng đất và giảm sức
ép của dân số gia tăng lên tài nguyên đất. Ngoài ra, trong các hệ thống NLKH do hiệu
quả sử dụng chất dinh dưỡng của cây trồng cao nên làm giảm nhu cầu bón phân hoá
học, vì thế giảm nguy cơ ô nhiễm các nguồn nước ngầm.
- Nông lâm kết hợp trong bảo tồn tài nguyên rừng và đa dạng sinh học
Thông qua việc cung cấp một phần lâm sản cho nông hộ (củi đun, vật liệu làm nhà,
chuồng trại, ...) nông lâm kết hợp có thể làm giảm tốc độ khai thác lâm sản từ rừng. Mặt
khác, NLKH là phương thức tận dụng đất có hiệu quả nên làm giảm nhu cầu mở rộng
đất nông nghiệp bằng việc khai phá rừng, đốt nương làm rẫy. Chính vì vậy, canh tác
NLKH sẽ làm giảm sức ép của con người vào rừng tự nhiên, giảm tốc độ phá rừng. các
hộ nông dân qua canh tác theo phương thức này sẽ dần dần nhận thức được vai trò của
cây thân gỗ trong bảo vệ đất, nước và sẽ có đổi mới về kiến thức, thái độ có lợi cho
công tác bảo tồn tài nguyên rừng.
Việc phối hợp các loài cây thân gỗ vào nông trại đã tận dụng không gian của hệ
thống trong sản xuất làm tăng tính đa dạng sinh học ở phạm vi nông trại và cảnh quan.
Chính vì các lợi ích này mà NLKH thường được chú trọng phát triển trong công tác
quản lý vùng đệm xung quanh các khu bảo tồn thiên nhiên và bảo tồn nguồn gen.
- Nông lâm kết hợp trong bảo vệ và cải tạo nguồn tài nguyên đất:
Nhờ tác dụng của các cây trồng (đặc biệt là cây lâu năm) trong hệ thống nông lâm
kết hợp nên đã: (1) Giúp phục hồi và lưu giữ đất thông qua ảnh hưởng của nó đến lý,
hoá tính và chu trình chất dinh dưỡng của đất; (2) Hạn chế xói mòn đất và cải thiện bảo
tồn nước; (3) Cải tạo tiểu khí hậu và đất đai phù hợp cho cây trồng xen canh; (4) Phòng
hộ chắn gió cho cây trồng ngắn ngày và vật nuôi.
Cây lâu năm còn có chức năng sản xuất/kinh tế, nghĩa là cung cấp nhiều sản phẩm kinh
tế có giá trị: Gỗ gia dụng, gỗ làm bột giấy và củi; quả ăn được; lá cây làm thức ăn gia súc;
nhựa và mủ dùng trong công nghiệp; thuốc phòng trừ sâu bệnh hại sinh học; thuốc chữa
bệnh cho người và gia súc; thực phẩm cho người và gia súc; tanin, chất nhuộm...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
13
Băng cây xanh trong hệ canh tác nông lâm kết hợp hạn chế xói mòn đất
- Nông lâm kết hợp trong quản lý và sử dụng tài nguyên thiên nhiên:
Nông lâm kết hợp góp phần:
- Tạo ra một hệ thống sử dụng đất và rừng bền vững.
- Phục hồi đất mầu mỡ.
- Bảo tồn được nguồn tài nguyên đất và nước.
- Vườn cây công nghiệp, tầng cây sinh thái có tác dụng che phủ đất, hạn chế dòng
chảy bề mặt, che bóng, giữ ẩm và điều tiết nước cho cây trồng chính.
- Vườn cây ăn quả thường được tạo lập theo cấu trúc nhiều tầng, rậm, kín tán
thường xanh. Do vậy đã sử dụng được một cách có hiệu quả đất canh tác, bảo vệ và cải
thiện môi trường sinh thái, tạo nên được cảnh quan tươi đẹp.
- Trong hệ thống RVAC bền vững về mặt sinh thái và kinh tế; có khả năng chống
chịu và giảm rủi ro về sinh thái và kinh tế. Góp phần duy trì và bảo vệ được tính đa dạng
sinh học. Duy trì được cân bằng sinh thái đảm bảo cho sự phát triển ổn định lâu bền.
- Đất đai được bảo vệ và sử dụng có hiệu quả hơn không chỉ cho trước mắt mà lâu
dài nhờ vào tác dụng hỗ trợ nhiều mặt của rừng (Hệ thống canh tác nông-lâm bền vững-
SALT3).
- Hạn chế đuợc xói mòn đất trong giai đoạn rừng non chưa khép tán nhờ lớp phủ
cây nông nghiệp (hệ thống Taungya).
- Các kiểu rừng ngập mặn là môi trường thích hợp để nuôi trồng các loài thủy sản
như: tôm, sò, cá, một số loài bò sát (lâm ngư kết hợp).
6.2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực của nông lâm là chính thì việc thực hiện nông
lâm kết hợp cũng có thể đem lại những mặt tiêu cực, dù rằng tác động tiêu cực này là rất
nhỏ và chỉ xẩy ra trong những điều kiện nhất định. Vì vậy, cần thấy trước các mặt trái
này để có biện pháp hạn chế trong quá trình canh tác theo phương thức nông lâm kết
hợp. Những tác động đó là:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
14
- Việc trồng xen cây lâm nghiệp và nông nghiệp có thể dẫn đến sự cạnh tranh về
ánh sáng, nước và chất dinh dưỡng trong đất ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây trồng
chính và các loại hoa màu trồng xen.
- Một số loài cây trồng (như cây keo dậu) thường tạo ra các chất kháng hóa học khi
vật rơi rụng của chúng bị phân hủy hay rễ cây tiết ra các chất cản nảy mầm gây ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển của các loài thực vật khác kể cả hoa màu.
- Khi người dân càng chăm sóc tốt hơn vùng đất canh tác (làm cỏ, bón phân cho hoa
màu và cây trồng chính), cây rừng càng phát triển nhanh thì họ càng sớm phải rời khỏi
đất canh tác. Điều này có thể dễ dẫn đến mâu thuẫn giữa diện tích đất canh tác cây nông
nghiệp và cây rừng (Taungya) hoặc làm nản lòng nông dân khi họ tiến hành trồng xen
cây nông nghiệp với cây lâm nghiệp.
- Gia súc có thể gây hại đến các loại cây ăn quả, hoa màu và những thực vật khác
khi áp dụng việc chăn thả kết hợp dưới rừng trồng. Hoặc có thể tăng khả năng xói mòn
đất nếu chăn thả gia súc quá mức (rừng và đồng cỏ phối hợp).
- Xây dựng vườn rừng (trồng cây lâm nghiệp và cây ăn quả theo hướng thâm canh
để có nhiều loại sản phẩm có giá trị hàng hoá cao) thường ít được các hộ nghèo chấp
nhận vì chu kỳ sản xuất cây lâm nghiệp dài và đầu tư vốn, lao động cao.
- Nếu chọn và bố trí cây trồng (vườn cây ăn quả) không phù hợp có thể dẫn đến
hiện tượng cạnh tranh về ánh sáng, chất dinh dưỡng và nước trong đất cũng như các
chất kìm hãm sinh trưởng.
7. Phân tích các hệ thống nông lâm kết hợp ở Việt Nam
7.1. Phân loại các hệ thống nông lâm kết hợp
Một số tác giả như Hoàng Hoè, Nguyễn Đình Hưởng, Nguyễn Ngọc Bình... đã tập
hợp các mô hình nông lâm kết hợp điển hình ở Việt Nam và bước đầu có những đánh
giá khả năng áp dụng và hiệu quả của những mô hình này. Các tác giả đã phân chia các
vùng hoạt động nông lâm kết hợp chính trên cơ sở phân chia vùng địa lý tự nhiên để xác
định khả năng thực hiện ở các vùng:
- Vùng ven biển: Với các mô hình trồng các loài cây ngập mặn, chịu phèn và các
vùng cát di động.
- Vùng đồng bằng: Là các mô hình VAC, mô hình trồng cây phân tán, trồng cây
trong các đai phòng hộ và vườn gia đình.
- Vùng đồi và trung du: Các mô hình trồng cây trong vườn rừng, VAC... chống xói
mòn và bảo vệ đất.
- Vùng núi cao: Với các mô hình luân canh rừng - rẫy, chăn thả dưới tán rừng, canh
tác nông nghiệp trên ruộng bậc thang, rừng phòng hộ đầu nguồn...
Các tác giả trên đã thống nhất một hệ thống nông lâm kết hợp như quan điểm của
ICRAF, bao gồm 3 thành phần:
+ Cây thân gỗ sống lâu năm.
+ Cây thân thảo.
+ Vật nuôi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
15
Kết hợp phân tích các mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố trên với các đặc điểm
tự nhiên và kinh tế - xã hội ở Việt Nam, các hệ canh tác nông lâm kết hợp ở nước ta
được phân chia làm 8 hệ thống chính. Các “hệ canh tác” là đơn vị phân loại lớn nhất,
đơn vị dưới “hệ canh tác” là các “phương thức” hoặc các “kiểu” và cuối cùng là các
“mô hình”.
Theo nguyên tắc phân loại này, các hệ canh tác, các phương thức nông lâm kết hợp
ở Việt Nam có thể tóm tắt như sau:
* Hệ nông lâm kết hợp
Mục tiêu của hệ canh tác này là sản xuất nông nghiệp; các loài cây gỗ kết hợp ở các
phương thức cụ thể trong hệ thống nhằm phát huy các tác dụng phòng hộ của cây lâm
nghiệp như chắn sóng, chắn gió, chống cát bay, hạn chế xói mòn...
Về nguyên tắc, các cây thân gỗ lâm nghiệp không được làm giảm năng suất cây
nông nghiệp.
+ Luân canh rừng, rẫy.
+ Đai chống xói mòn.
+ Đai chắn gió hại.
+ Đai chắn sóng
* Hệ lâm nông kết hợp
Trong hệ thống này, mục tiêu lâm nghiệp là chính: Cung cấp gỗ, củi, tre, nứa. ... cây
nông nghiệp có tác dụng hỗ trợ cho cây lâm nghiệp và giải quyết một phần lương thực,
thực phẩm thiếu hụt. Các cây nông nghiệp có tác dụng hạn chế cỏ dại, xói mòn và gián
tiếp bảo vệ các cây lâm nghiệp.
+ Xen cây lương thực, thực phẩm, dược liệu giai đoạn trước khi rừng khép tán.
+ Xen cây lương thực, thực phẩm, dược liệu sau khi rừng khép tán.
Hình 1. Mô hình trồng cây lâm nghiệp xen cây ăn quả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
16
+ Xen cây lương thực, thực phẩm, dược liệu trong cả hai giai đoạn trước và sau khi
rừng khép tán.
* Hệ nông lâm súc kết hợp
Đây là một hệ thống được áp dụng ở quy mô và mức độ khác nhau. Các cây gỗ
thường phân tán trên các bãi chăn thả hoặc được trồng trên ranh giới các ô đất (thường
là hình chữ nhật hoặc là hình vuông) với tác dụng bảo vệ cho ruộng lúa, hoa màu, hoặc
các bãi cỏ. Ở một số địa phương kết hợp trồng luồng với chăn nuôi đại gia súc (trâu,
bò...) như ở Thanh Hoá, Hoà Bình, ở Hương Sơn (Hà Tĩnh) nhân dân còn nuôi hươu sao
để lấy nhung, ở nhiều tỉnh người dân kết hợp nuôi dê dưới tán rừng trồng, ở Tây
Nguyên đồng bào dân tộc còn thuần hoá và nuôi voi.
+ Lâm súc kết hợp với nông nghiệp.
+ Nông lâm súc kết hợp.
+ Chăn thả dưới tán rừng.
+ Đồng cỏ xen cây gỗ che bóng.
* Hệ canh tác các loài cây thân gỗ đa tác dụng
Trong hệ thống canh tác này việc tuyển chọn các loài cây có nhiều tác dụng phải
dựa vào kinh nghiệm và truyền thống canh tác của nhân dân từng địa phương. Ngoài
những tác dụng như cung cấp: Thực phẩm, chất đốt, gỗ gia dụng, dược liệu, thương
phẩm... chúng còn có tác dụng đặc biệt quan trọng là cải tạo đất, hạn chế xói mòn và cải
thiện môi trường sinh thái. Đây là một hệ thống canh tác đòi hỏi có sự kết hợp chặt chẽ
giữa các biện pháp kỹ thuật thâm canh trong nông nghiệp với các quy luật kết cấu cây
lâm nghiệp về mặt không gian và thời gian.
+ Cây công nghiệp thân gỗ sống lâu năm.
+ Cây ăn quả thân gỗ.
+ Rừng cung cấp thực phẩm, dược liệu, củi, thức ăn gia súc.
* Hệ lâm ngư kết hợp
Rừng ngập mặn Việt Nam có tới 30 loài cây cho gỗ, củi, 21 loài cây làm dược liệu,
21 loài cây có hoa nuôi ong mật, 14 loài cây cho tanin, 24 loài cây cho phân xanh cải
tạo đất (Phan Nguyên Hồng, 1999). Rừng ngập mặn (Mangrove) là một hệ sinh thái
chuyển tiếp giữa hệ sinh thái đất liền và hệ sinh thái biển. Tiềm năng sinh học của hệ
sinh thái này rất lớn và phong phú. Các trạng thái rừng ngập mặn được đánh giá là môi
trường tốt nhất để nuôi trồng thuỷ hải sản. Phát huy thế mạnh này, ngoài những giá trị
cung cấp, các cây gỗ rừng ngập mặn còn có giá trị phòng hộ và mở mang thêm diện tích
nhờ có quá trình cố định và lắng đọng phù sa bởi có cấu tạo của hệ rễ “cà kheo” của
phần lớn các loài cây gỗ rừng ngập mặn.
+ Rừng tràm + cá + ong.
+ Rừng ngập mặn + hải sản.
* Hệ canh tác lâm ngư nông
Trong quá trình diễn thế rừng ngập mặn, rừng tràm (Melaleuca leucadendron) được
coi là giai đoạn cuối cùng khi đất không chịu ảnh hưởng của thuỷ triều và đã rắn chắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
17
lại, nhưng hàng năm vẫn bị ngập nước vào mùa lũ, đất ở giai đoạn này thường có pH rất
thấp và độ nhiễm mặn cao. Thực vật ưu thế là cỏ năn (Eleocharis dulis).
Ở hệ canh tác này, người ta đã cải tạo đất bằng cây tràm với các hệ thống kênh,
mương dẫn nước ngọt để nuôi tôm cá, vừa “xổ phèn” lấy đất sạ lúa và trồng các cây ăn
quả khác. Trong các khu vực rừng tràm còn có thể kết hợp nuôi ong. Ngoài cây tràm
một số loài cây gỗ khác như bạch đàn trắng (Eucalyptus spp); điều (Ancardium
occdentale) ... cũng được trồng trên các bờ kênh.
+ Rừng tràm + lúa nước.
+ Rừng tràm + cây gỗ + hải sản.
* Hệ kinh doanh Ong mật và các cây thân gỗ
Hệ thống kinh doanh này không chỉ áp dụng riêng ở các rừng ngập mặn, rừng tràm,
mà còn được áp dụng rất có hiệu quả ở các vùng phân bố các loài cây ăn quả trồng tập
trung, như các kiểu vườn cây ăn quả ở Lái Thiêu.
+ Rừng ngập mặn + ong.
+ Rừng tràm + ong.
+ Bạch đàn + ong.
+ Vườn quả, vườn rừng + ong.
* Hệ nông lâm ngư súc kết hợp trên địa bàn rộng
So với hệ thống phân loại của Nair -1986 đây là một hệ thống canh tác kết hợp
nếu như không muốn nói là riêng khi phân loại các hệ thống nông lâm kết hợp ở Việt
Nam. Có thể đây là một vấn đề cần được thảo luận thêm, nhưng từ thực tế để tận dụng
một cách triệt để tiềm năng sản xuất của một vùng (có thể là các đơn vị hành chính:
huyện, xã, thôn) thậm chí là từng quả đồi, vấn đề tạo ra được sự cân bằng sinh thái
trong cả khu vực phải xuất phát từ mối quan hệ tương tác giữa các hệ sinh thái với
nhau. Trong mối quan hệ này để thiết lập nên cân bằng sinh thái nói chung, các cây
lâm nghiệp (hay nói đúng hơn là hệ sinh thái rừng) phải giữ vai trò chủ đạo. Để làm
được điều này, vấn đề quy hoạch sản xuất tổng thể và tổ chức lại sản xuất trên vùng
lãnh thổ cụ thể là rất quan trọng.
Theo quan điểm trên, Việt Nam có 8 hệ thống và 27 kiểu (phương thức) kết hợp
chính và rất nhiều các mô hình nông lâm kết hợp khác nhau. Hy vọng rằng những kết
quả phân loại ban đầu này ở Việt Nam sẽ là một trong những cơ sở để từ đó có thể cải
tiến, xây dựng các mô hình sản xuất nông lâm kết hợp nhiều hơn.
7.2. Nông lâm kết hợp trên các vùng kinh tế-sinh thái
Trong sản xuất nông lâm nghiệp, chỉ có một hệ canh tác bao gồm một tổ hợp vật
nuôi và cây trồng thích hợp mới có khả năng sử dụng có hiệu quả cao các điều kiện tự
nhiên của từng vùng lãnh thổ và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của vùng đó. Điều
đó có nghĩa là sản xuất nông lâm nghiệp bao giờ cũng gắn với vùng kinh tế - sinh thái,
chỉ có như vậy mới tạo cho cây trồng và vật nuôi đạt năng suất và chất lượng cao, đồng
thời quá trình sản xuất mới ổn định và hiệu quả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
18
Căn cứ vào các đặc điểm tự nhiên (địa hình, khí hậu, thực bì...) và các yếu tố kinh tế
- xã hội (mật độ dân số, tập quán canh tác, thị trường...), các nhà khoa học nông lâm
nghiệp đã phân chia nước ta thành 8 vùng kinh tế - sinh thái nông lâm nghiệp: Vùng núi
Bắc Bộ, vùng trung du Bắc Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung Bộ, vùng
duyên hải Nam Trung Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ, vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Đặc điểm chính và hướng sản xuất nông lâm kết hợp ở từng vùng như
sau:
7.2.1. Vùng núi Bắc Bộ
Vùng núi Bắc Bộ bao gồm 10 tỉnh: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La,
Hà Giang, Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Lạng Sơn.
Diện tích tự nhiên là 7,94 triệu ha, là vùng có diện tích lớn nhất trong 8 vùng (chiếm
24,1% diện tích của cả nước), độ che phủ rừng 40,6% (Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, 2003) nhưng địa hình phức tạp, đất dốc chiếm chủ yếu, giao thông kém phát
triển. Đây cũng là địa bàn sinh sống chủ yếu của các dân tộc ít người phía Bắc. Các dân
tộc khác nhau cư trú ở các rẻo cao khác nhau theo kiểu phân tầng từ thung lũng ven suối
đến độ cao hơn 2000 m. Trình độ học vấn và khoa học kỹ thuật nói chung của vùng còn
thấp. Địa hình trong toàn vùng tất cả đều là núi, đặc biệt có dãy Hoàng Liên Sơn đồ sộ
với những đỉnh cao nhất nước (3000m).
Tỉ lệ rừng che phủ hiện nay là còn thấp, trong vùng núi Bắc Bộ có một vấn đề nổi
cộm về sử dụng đất rừng, đó là phương thức canh tác “du canh”; tất nhiên “du canh”
không chỉ có ở vùng núi Bắc Bộ, mà có ở các vùng đồi núi khắp cả nước.
Du canh ở Việt Nam có thể chia làm 3 nhóm:
- Nhóm thứ nhất là du canh truyền thống, ở đây du canh gắn liền với du cư, khi di
chuyển vị trí nương rẫy người dân di chuyển cả nhà ở. Đây là phương thức canh tác rất
lạc hậu gắn liền là đời sống thấp, tạm bợ và thường gặp ở các dân tộc ít người như
H’mông, Dao.
- Nhóm thứ hai là du canh không du cư, nơi trồng trọt thay đổi còn nhà ở cố định.
Phần lớn đây cũng là những dân tộc ít người sống ở các làng bản.
- Nhóm thứ ba là “du canh phụ”, bao gồm những người chủ yếu sống bằng canh tác
ruộng đất cố định, thường là trồng lúa. Để bổ sung cho nhu cầu lương thực họ trồng
thêm ngô, sắn hoặc rau quả ở nương rẫy. Trước đây kiểu canh tác bổ sung này hạn chế
về quy mô. Nhưng với sức ép tăng dân số nó trở thành phổ biến ở nhiều vùng khắp Việt
Nam. Nhiều đồi núi đã bị mất hết độ màu mỡ đến mức không thể trồng trọt hàng năm
được.
Ở vùng núi Bắc Bộ, du canh thuộc nhóm thứ nhất và nhóm thứ hai là chủ yếu. Khi
mật độ dân số rất thấp, du canh tỏ ra vẫn có tác dụng nhất định để đảm bảo cuộc sống
của người dân mà không phải đầu tư nhiều vật tư trong điều kiện của người dân sống
cách biệt với các trung tâm kĩ thuật và dịch vụ, giao thông lại cực kì khó khăn. Mặt khác
nó cũng không làm tổn hại nhiều đến đất rừng do thời gian bỏ hoá rất dài (10 đến 15
năm) đủ để có thể phục hồi lại được độ phì của đất rừng đã bị mất do xói mòn và canh
tác nông nghiệp nhờ vào cây rừng thứ sinh mọc lên nhanh chóng trên diện tích đó.
Nhưng khi sức ép dân số tăng lên thời gian bỏ hoá bị rút ngắn đi rất nhiều, việc canh tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
19
liên tục với sự trả lại cho đất rất ít, cộng với mưa mùa nhiệt đới đã làm suy giảm độ phì
của đất theo đó là sản lượng cây trồng bị giảm sút. Như vậy lại phải phát quang nhiều
diện tích hơn để đủ bù số lương thực bị giảm năng suất, dẫn đến vòng quay “đất nghỉ”
càng ngắn hơn, cứ như vậy hình thành cái vòng luẩn quẩn không thể thoát ra khỏi. Hiện
nay, có hiện tượng di cư tự phát của đồng bào dân tộc ít người ở vùng núi Bắc Bộ vào
các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, nguyên nhân chính là do đất đai của họ bị nghèo
xấu đi không thể canh tác được nữa, họ kéo nhau cả bản vào các vùng đất mới hoang
vu, rừng rậm của Tây Nguyên để khai hoang trồng trọt. Như vậy chu trình mới của lối
canh tác cũ lại bắt đầu ở đây.
Ở vùng núi Bắc Bộ, đất bằng trồng lúa rất hiếm, vì thế để đảm bảo lương thực
người ta phải canh tác ở đất dốc là điều không thể tránh khỏi và trải qua quá trình lâu
đời lối canh tác nương rẫy trở thành tập quán ăn sâu vào đời sống đồng bào các dân tộc
ở đây. Chính vì vậy ý muốn loại bỏ phương thức “du canh” trong vùng này là không thể
thực hiện triệt để ngay được. Có lẽ tốt hơn cả là đồng thời với cuộc vận động định canh,
định cư chúng ta phải chấp nhận canh tác nương rẫy trong một thời kì, nhưng cần có qui
hoạch để tránh phát quang ở khu vực đầu nguồn, ở đỉnh núi, đường dông. Đồng thời
hướng dẫn người dân biết gieo hạt hoặc trồng cây con, các cây họ đậu dạng cây bụi
ngay sau khi kết thúc chu kì sản xuất để bảo vệ và cải tạo đất, làm như vậy có thể rút
ngắn được thời gian “đất nghỉ” và có nghĩa là giảm được diện tích phát quang. Tiến tới
áp dụng phương thức Taungya để đảm bảo nguồn lương thực tại chỗ vừa chuyển thu
nhập chủ yếu bằng sản phẩm lâm nghiệp trong đời sống của người dân miền núi ở
những nơi đủ điều kiện (vốn trồng rừng, thị trường tiêu thụ lâm sản...).
Do điều kiện đất rộng nên một thế mạnh của vùng núi Bắc Bộ là có thể thực hiện hệ
thống lâm súc. Ngoài việc chăn thả trâu bò dưới tán rừng tự nhiên của các hộ gia đình
vốn đã có truyền thống ở đây, việc chăn nuôi gia súc lớn qui mô tập trung là có cơ sở.
Muốn vậy phải có qui hoạch trồng rừng kết hợp với đồng cỏ chăn nuôi, nên chọn những
khu vực có độ dốc dưới 200 thiết kế các băng cây rừng, giữa các băng cây này trồng các
thảm cỏ để tổ chức chăn thả theo phương thức luân phiên. Đồng thời dành ra những lô
trồng cỏ thâm canh làm nơi chuyên cắt thức ăn bổ sung tại chuồng. Có thể dùng các cây
họ đậu thân gỗ (như keo dậu, keo lá phượng, keo lá tràm,...) trồng làm các hàng rào
phân lô đồng cỏ thay thế cho các hàng rào dây thép gai vừa có tác dụng bảo vệ và cải
tạo đất vừa làm thức ăn bổ sung cho gia súc. Ngoài ra một vấn đề quan trọng khác trong
chăn nuôi tập trung là xác định tập đoàn giống cỏ. Hiện nay có một số giống cỏ thích
hợp cho vùng này là cỏ voi, cỏ Ghinê, cỏ stylo, cỏ Mộc Châu, cỏ lông Ruzi, cỏ tín hiệu,
cỏ lông Humi,...
Đồng bào các dân tộc miền núi thường không có vườn nhà, mọi thứ phục vụ cho
sinh hoạt như rau, quả,... đều ở nương rẫy, điều này gây lãng phí sức lao động và thời
gian. Trong điều kiện đất rộng cần phát triển loại hình RVAC để tạo ra một hệ sinh thái
khép kín. Ở đây rừng (R), tốt nhất là rừng tự nhiên được giữ lại trên đỉnh núi có tác
dụng phòng hộ giữ đất, giữ nước, đồng thời là nơi cung cấp củi cho từng gia đình trong
quá trình chăm sóc, làm giàu rừng và cũng là nơi để chăn thả gia súc lớn dưới tán rừng.
Ở những nơi có điều kiện, nên phát triển loại hình ruộng bậc thang chỉ nên ở giữa
sườn núi trở xuống đến chân núi, còn phần trên đỉnh núi cần để lại rừng tự nhiên hoặc
rừng trồng các loài cây gỗ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
20