Khuôn tạo hình chất dẻo
- 16 trang
- file .docx
Mục lục:
Phần 1: Các Khái Niệm Cơ Bản Về Chất Dẻo
Phần 2: Giới Thiệu Máy Ép Phun.
Phần 3: Giới Thiệu Về Khuôn Ép Tạo Hình Chất Dẻo
Phần 1: Các Khái Niệm Cơ Bản Về Chất Dẻo
1.1 Phân loại và nhận dạng của vật liệu cao phân tử( chất dẻo và chất đàn hồi)
Chất dẻo và chất đàn hồi là cái tên được đưa ra cùng với chất cao phân tử hữu cơ tổng hợp được sản
xuất từ hỗn hợp hữu cơ, có trọng lượng phân tử thấp, được gọi là đơn thể (ví dụ ethelene, styrene, vinyl
chloride). Sự sản xuất chất dẻo và chất đàn hồi thậm chí có thể được dựa trên cấu trúc đơn thể phân tử tự
nhiên. (Ví dụ cao su tự nhiên, xenlulo, protein) một số ví dụ về chất cao phân tử.
Các phương pháp tổng hợp chất cao phân tử gồm:
Chuỗi trùng hợp hoặc trùng trùng hợp ben ngoài
Phản ứng trùng hợp.
Đa trùng hợp
Nhựa nhiệt dẻo (thormophantic) dễ nóng chảy. Nó có thể được lặp đi lặp tái hợp lại nhiều lần và đủ khả
năng hòa tan hoặc trương nở trong dung môi. Ở nhiệt độ phòng (môi trường) chúng biến đổi từ điều
kiện dai, mềm đến dễ uốn và cứng rắn. Một cách định tính, nhựa nhiệt dẻo có thị phần lớn nhất của thị
trường chất dẻo.
Nhựa nhiệt dẻo bất đẳng hướng tương tự như thủy tinh cùng với sự liên quan với cấu trúc phân tử.
Chúng được phân biệt với nhựa nhiệt dẻo bán tinh thể, nó có sự xuất hiện của màu trắng sữa và trắng
mờ. Khi một chất dẻo trong suốt như thủy tinh, nó là một chất nhựa nhiệt dẻo bất đẳng hướngvà nó
thường an toàn.
Các chất đàn hồi (alentemer) không thể tan chảy hoặc hòa tan trong dung môi, nhưng có thể được làm
hóa dẻo. Chúng liên kết chéo trong mô hình lưới rộng do đó tồn tại trong một điều kiện mềm và dàn hồi
ở nhiệt độ bình thường. Ví dụ những phần đúc được làm từ chất đàn hồi bao gồm con dấu, gối ôm, lốp
xe. Cao su tự nhiên (NR) đại diện cho một trường hợp đặc biệt cùng với nhóm các chất đàn hồi. Nó thu
được từ nhựa của cây nhiệt đới.
Nhựa nhiệt rắn thì cứng, chúng được liên kết cùng với mạng lưới hẹp trong mọi hướng. Chúng không
thể biến dạng dẻo, không chảy được và chịu nhiệt độ cao. Bởi vì nhựa nhiệt cứng được liên kết 1 cách
dày đặc, chúng không thể phân tán và hoàn toàn rất khó hóa dẻo. Chúng cứng và dòn ở nhiệt độ bình
thường. Ổ cắm điện được sản xuất bằng nhựa nhiệt cứng là ví dụ, bởi vì tính chống lại nhiệt độ cao và
thấp thì rất quan trọng ở đây.
Trong trường hợp này ta chỉ muốn giới thiệu các tính chất.
1.2 Các đặc tính biến dạng của chất dẻo:
Vật liệu cao phân tử hiển thị các đặc tính khác nhau khi được gia nhiệt, các đặc tính này phụ thuộc
vào các yếu tố khác nhau, bao gồm cấu trúc hóa học của phân tử chất cao phân tử và loại lực liên kết
phân tử.
Một khi nhiệt độ Tg vừa mới vượt quá, lực của các phân tử trở nên yếu đến nối sự ảnh hưởng của các
ngoại lực có thể gây cho các phân tử trượt xa nhau ra từ 1 phân tử khác, độ bền suy giảm, trong khi dãn
dài nhảy lên. Trong phạm vi nhiệt độ này, chất dẻo tồn tại trong trạng thái đàn hồi cao su và đàn hồi
nhiệt.
Ép phun là một phương pháp sơ chế. Nói cách khác, các tài liệu phải tồn tại trong một trạng thái dẻo để
nó có thể được xử lý. Trạng thái dẻo này được đặc trưng bởi các đặc tính dòng chảy nhớt trưng bày bằng
vật liệu nhựa nguyên liệu như bột hoặc hạt.
Các đặc tính hiển thị bằng vật liệu polymer khi chịu nhiệt - được gọi là các đặc tính biến dạng , được
biết như là các đặc tính đàn hồi được đang sử dụng nhựa nhiệt dẻo bất đẳng hướng là ví dụ (hình 1-4)
hình 1-4: Đặc điểm biến dạng của nhựa nhiệt dẻo vô định hình
chú thích: T = nhiệt độ chuyển tiếp thủy tinh
Tf = phạm vi nhiệt độ dòng chảy
Td = nhiệt độ phân hủy
Chất cao phân tử là 1 vật liệu cứng ở nhiệt độ bình thường. Bởi vì các đại phân tử riêng lẻ hầu như
không di chuyển, chúng được giữ cùng với nhau bởi lực liên kết giữa các phân tử. Một sự gia tằng trong
nhiệt độ gây ra cho các phân tử với việc di chuyển cùng với cường độ lớn hơn. Các liên kết giữa các
phân tử lỏng ra và độ bền của vạt liệu giảm trong khi độ dãn dài và độ dẻo của nó tăng lên khi nhiệt độ
tiếp tục tăng, lực giữa các phân tử hầu như bị loại bỏ hoàn toàn. Chất cao phân tử tiến hành trong 1 cách
liên tục từ trạng thái đàn hồi nhiệt đến trạng thái nhiệt dẻo hoặc trạng thái nóng chảy. Sự chuyển đổi này
được mô tả bằng phạm vi của nhiệt độ đông chảy(Tf). Nhiệt độ này không thể được xác định một cách
chính xác. Phương pháp xử lí sơ cấp như là ép phun được thực hiện cùng với phạm vi nhiệt dẻo.
Nếu sự gia nhiệt tiếp tục vượt quá phân hủy Td, chất cao phân tử bị phá hủy.
Các đặc tính bình thường của nhựa nhiệt dẻo bán tinh thể có thể được nhìn thấy trong hình 1-5
Trái với nhựa dẻo bất đẳng hướng, điều kiện sát nhau hầu như tồn tại trong nhựa nhiệt dẻo tinh thể. Một
mặt, có những tinh thể mà trong đó được sắp xếp chặt chẽ hình thành ordered. Sau đó, có những vùng
khác, vùng bất đẳng hướng, nơi mà các tinh thể được lan truyền xa nhau ra hơn, trong một kiểu rất trật
tự. Lực giữa các phân tử giữ vùng tinh thể lại với nhau mạnh hơn cách đáng kể, hơn là những vùng bất
đẳng hướng đó. Nhiệt dẻo bất đẳng hướng của chất cao phân tử được làm mềm trên nhiệt độ chuyển đồi
thủy tinh của nó(Tg).
Nhựa nhiệt dẻo bán tinh thể sở hữu độ bền lớn, sự tăng tính đàn hồi giữa Tg và Tm. Nhiệt độ làm
mềm của vùng đẳng hướng tinh thể của nhựa nhiệt dẻo thông thường. Bên dưới nhiệt độ thông thường
trong phạm vi ứng dụng thực tế (ví dụ ở nhiệt đô thông thường và bên dưới) hầu hết nhựa nhiệt dẻo bán
tinh thể đều dai và mềm. Khi nhiệt độ tan chảy tinh thể (Tm) bị vượt quá, độ bền giảm rõ rệt và độ dãn
dài đạt giá trị cao nhất của nó (trong phạm vi nhiệt đàn hồi). Một khi nhiệt độ lên cao nhựa nhiệt dẻo
bán tinh thể bị loại bỏ hoàn toàn liên kết trong cùng vùng tinh thể, độ dãn dài giảm mạnh rõ rệt và đột
ngột.
Sự khác biệt này trong các đặc tính biến dạng của nhựa nhiệt dẻo bán tính thể và bất dẳng hướng có
thể là do cấu trúc phân tử khác nhau của chúng. Như đã đề cập, trong thực tế , lực giữa các phân tử
hoạt động cùng với độ bên lớn hơn nhiều trong tinh thể hơn là trong trạng thái bất đẳng hướng.
1.3 - Hỗn hợp đúc khuôn và phương pháp định hình:
Phương pháp định hình được sử dụng trong gia công và xử lý chất dẻo, có thể được đưa đi với tình
trạng vật lý ( các phương pháp nhiệt độ) của các vật liệu đó. Hình 1-6 cho thấy sự phân bố của các
phương pháp định hình với hỗn hợp nhựa dẻo trong mỗi quan hệ với phạm vi tình trạng của chùng.
Hình 1-6: phương pháp tạo hình.
Là một trong những phương pháp xử lý sơ cấp. Nó được thực hiện trong trạng thái nhiệt dẻo,
Vd: trong phạm vi nhiệt độ tan chảy tinh thể (Tm) và dưới nhiệt độ phân hủy (Td) hỗn hợp đúc khuôn
(hoặc nhiều đặc biệt hơn, hỗn hợp đúc khuôn phun) chỉ rõ vật liệu thô, từ đó mà sản phẩm đúc được sản
xuất. Hỗn hợp đúc được cung cấp bởi nhà sản xuất của vật liệu đúc khuôn phun bằng :
· Hạt
· Bột
· Bụi
1.4 Keo của chất dẻo
1.4.1 Độ nhớt:
Trong quá trình ép khuôn phun, chất cao phân tử tồn tại trong trạng thái nhiệt dẻo. Nó chảy trong
cách nhớt. Độ nhớt của 1 chất dẻo là 1 biện pháp của sự chặn dòng chảy của nó. Cho một chất lỏng
Newton như là nước, độ nhớt được định nghĩa bằng [m] được cho thấy trong hình 1-7
Để minh họa cho những gì có nghĩa là độ nhớt, chúng ta có thể tưởng tượng hai container kích thước
bằng nhau. Ở dưới cùng của mỗi container là một lỗ khép kín, mỗi với đường kính tương tự. Nếu chúng
ta điền vào một thùng chứa nước và khác với một sơn mài nhớt, sau đó mở cả hai lỗ cùng một lúc, một
số lượng nhất định của sơn mài sẽ đòi hỏi nhiều thời gian hơn để thoát ra ngoài các thùng chứa hơn sẽ
cùng một lượng nước. Chúng ta có thể thấy rằng sơn mài có nhiều nhớt hơn nước. Nếu một chất lỏng
đặc biệt là sở hữu một độ nhớt cao, nó được cho là có độ nhớt cao.
1.4.2 Ứng suất cắt và tốc độ cắt
Khi 1 chất lỏng chảy xiên qua 1 cái ống, tốc độ cao nhất của dòng chảy xảy ra ( tại tâm giữa) của mặt
cắt ngang của ống. Khi chúng ta di chuyển ra phía ngoài về phía thành của ống, chúng ta thấy tốc độ
dòng chảy giảm. ở thành của ống, cuỗi cùng đạt đến không. Bởi độ bán kình của chất lỏng với thành.
Kết quả là biến dạng của tốc độ dòng chảy. Do đó chúng ta có thể tưởng tượng 1 chất lỏng chảy như 1
loạt các lớp chất lỏng chảy ở các tốc độ khác nhau( nhìn hình 1-8).
Hình 1-8 biến dạng tốc độ của 1 chất lỏng đang vượt xiên qua 1 ống.
Tốc độ cắt: ứng suất cắt là kết quả các lớp dòng chảy của các đại phân tử trượt qua 1 phân tử khác.
Tốc độ cắt là sự khác nhau trong tốc độ của dòng chảy hoặc tốc độ cắt. Đó là sự thay đổi trong các tốc
độ của các lớp dòng chảy cách ngang qua bán kính của mặt cắt ngang. Độ nhớt giảm cùng với tốc độ cắt
tăng
1.4.3 Độ nhớt và nhiệt độ
Nếu một chất lỏng được gia nhiệt, độ nhớt của nó giảm xuống. Ví dụ, nếu chúng ta gia nhiệt sơn trong
ví dụ trước đó của chúng ta, nó yêu cầu ít thời gian hơn với việc chảy ra ngoài của bình. Độ nhớt của 1
chất keo nhựa nhiệt dẻo do đó không chỉ phụ thuộc trên tốc độ cắt, nhưng cũng phụ thuộc trên nhiệt
độ( hình 1-9).
Hình 1-9 chức năng độ nhớt của một vật liệu nhựa
Độ nhớt giảm bằng nhiệt độ tăng, nên chất keo dẻo bắt đầu chảy trong ít nhớt hơn.Trong trường hợp
của polyethylene là ví dụ. Giới hạn nhớt khoảng 138 pa.S ở tốc độ cắt của 1000^/s và 1 nhiệt độ của
1500C(3000f). Thế nhưng ở cùng 1 tốc độ cắt và 1 nhiệt độ của 2700C(5200F), ở giới hạn nhớt khoảng
52Pa.S cái ví dụ này áp dụng với Polyethylene (PE).
Phần 2: Giới Thiệu Máy Ép Phun.
2.1 Phân loại của máy ép khuôn
Về nguyên tắc, dĩ nhiên, nó có thể được nói rằng mà kích thước của máy phải được chọn sao cho phù
hớp với kích thước của sản phẩm. Khuôn càng lớn, máy càng lớn. nhưng điều này không luôn đúng, đặc
biệt khi các phần khuôn nhỏ có liên quan. Nó thường nhiều kinh tế hơn với việc sản xuất nhiều khuôn
nhỏ một cách đồng thời trên cùng một máy, hơn là việc sản xuất chỉ một sản phẩm ở cùng một thời gian
trên cùng máy nhỏ.
kích thước của phần khuôn đặc biệt trong mối quan hệ của nó với sự lựa chọn máy. Yêu cầu kiểm tra kĩ
hơn. Đầu tiên, được giải thích rằng kích thước được định nghĩa bằng thể tích. Sản phẩm nặng hơn hỗn
hợp đúc nhiều hơn phải được cung cấp bởi bộ phận phun và hoá dẻo cùng với một giai đoạn nhất đinh.
ngoại trừ thể tích khuôn, các kích thước của nó cũng phải được xem xét. Việc lựa chọn một máy để sản
xuất một khuôn nhất định được chủ yếu được xác định bởi diện tích dự đoán của sản phẩm đó, ví dụ:
diện tích dự đoán trọng lượng kẹp, ý nghĩa của khái niệm này được minh hoạ trong hình 2.1
Hình 2-1: diện tích dự đoán
Để đạt được khuôn chất lượng tốt, lực phân khuôn phải thấp hơn lực kẹp của máy.
Phần 1 cung cấp một tổng quan về các vật liệu khác nhau có thể được xử lý bằng phương pháp đúc.
Những vật liệu này có tính chất rất khác nhau và phải được xử lý theo các điều kiện rất khác nhau. Vì lý
do này, cũng tồn tại nhiều loại máy ép phun. Tuy nhiên, tất cả các máy ép phun được bao gồm các phân
hệ chính như nhau. Ví dụ về máy ép phun được đưa ra trong hình minh họa tiếp theo.
Chế biến nhựa nhiệt thường liên quan đến việc sử dụng các máy ép ngang (xem hình 2-2). Vì lực phân
khuôn ở giữa được bố trí theo chiều dọc, các các vật đúc đã hoàn thành có thể được thả vào một thùng
chứa, một khi chúng được phát hành từ khuôn.
Trong máy theo chiều dọc, máy có mặt phân nửa khuôn chạy theo chiều ngang. Kết quả là, máy này đặc
biệt thích hợp cho việc sản xuất khuôn chèn (ví dụ, phích cắm điện) (xem hình 2-3). Hầu hết các khuôn
làm bằng chất đàn hồi được sản xuất trên các máy theo chiều dọc.
cùng với máy bàn xoay một số bộ phận kẹp được giao cho một bộ hoá dẻo duy nhất. kết quả là, máy này
phù hợp cho sản phẩm đúc yêu cầu giai đoạn gia nhiệt và làm lạnh lâu (hình 2.4)Nhu cầu sản xuất các
bài viết phức tạp như chi phí hiệu quả nhất có thể, mà không làm giảm chất lượng hoặc giảm chậm tiến
độ, đáp ứng các nhiệm vụ mới của công nghiệp chế biến chất dẻo các thông số chế tạo phức tạp có thể
không còn đạt được bởi phương pháp ép phun thông thường, xử lí đặc biệt, như là khuôn đúc khuôn
phun nhiều thành phần phải được ứng dụng ( hình 2.3). cùng với khuôn đúc nhiều thành phần, ít nhất 2
bộ phận phun hoá dẻo được giao cho một bộ phận kẹp duy nhất, phương pháp này cho phép 2 vật liệu
dẻo được tô màu khác nhau ( đèn sau oto) được phun trong thời gian khác nhau.
2.2 Các bộ phận cấu trúc của máy ép khuôn
Sản phẩm được đúc trong một loạt các kích cỡ và hình dạng có thể được sản xuất bằng phương pháp đúc
tiêm. Sản xuất của những bài viết này trong điều kiện tối ưu đòi hỏi thiết kế thay thế cho các kích cỡ
khác nhau của máy ép phun, cũng như thiết bị phụ trợ tương ứng của nó.
Các mô đun chính của 1 máy ép khuôn là chung với tất cả thiết kế
o Bộ phận phun và hoá dẻo
o Bộ phận kẹp
o Điều khiển cùng với hệ thống điện và thuỷ lực
Một máy ép khuôn và bộ phận chính của nó được thể hiện ở hình 2.6
Khuôn bình thường không được xem là một bộ phận cấu trúc của máy ép khuôn, thế nhưng để đơn giản
ta xem như một hệ thống của máy ép khuôn.
Các khuôn với việc được sản xuất xác định vị trí tương đối của bộ phận mô đun và cấu trúc này cùng
với nhau, cũng như kich thước của chúng.
Các sản phẩm khác nhau có thể được sản xuất trên cùng một máy ép khuôn duy nhất, nhưng mỗi sản
phẩm yêu cầu khuôn riêng của nó. Các bộ phận cấu trúc riêng biệt của máy ép khuôn và các chức năng
của chúng sẽ được miêu tả một cách chính xác hơn. Bằng cách qua 1 vd, sự miêu tả này cũng được đề
cập với một máy sử dụng cho khuôn đúc đĩa CD.
Phần 3: Giới Thiệu Về Khuôn Ép Tạo Hình Chất Dẻo
3.1 Các nhiệm vụ và các phương thức hoạt động
Bao gồm sự điều tiết và phân bố chất keo, sự hình thành/ tạo hình và làm mát sản phẩm đúc và sự lấy
ra từ khuôn. (cùng với nhựa nhiệt rắn/ chất đàn hồi: cũng được sản xuất của năng lượng kích hoạt và bảo
dưỡng)
Sự hấp thụ các lực truyền chuyển động và dẫn đường các phần đúc có nguồn gốc từ các nhiệm vụ cơ
bản.
Để làm rõ nhiệm vụ và chức năng của khuôn ép phun. tốt nhất là đi theo con đường của vật liệu bên
trong máy ép phunbằng mọi cách với sự phát triển của sản phẩm sau cùng. Vật liệu đã được chuyển tải
vào buồng phunsuốt quá trình của giai đoạn hoá dẻo. trên đường đi nó vừa được nấu chảy và đồng nhất
Vật liệu được chuẩn bị và có khả năng chảy được vận chuyển từ khoan phun của bộ phận phun và hoá
dẻo vào trong khuôn. Nói cách khác nó là khuôn đúc.
Không gian bên trong mà hỗn hợp đúc được phun - được biết như là lồng khuôn – được nằm trong
khuôn. Vật liệu đông lại bởi sự làm nguội cùng với lồng khuôn, do đó hình thành nên khuôn. Cùng với
nhựa nhiệt rắn và chất đàn hồi, sản phẩm được sản xuất bởi phản ứng liên kết hoá học
Mỗi chu kì của quá trình ép khuôn phun thường sản xuất chỉ duy nhất sản phẩm đúc.Trong trường
hợp này, chúng ta nói về khuôn đúc một sản phẩm.
Số lượng của các phần được sản xuất trong mỗi chu kì có thể vượt qua 100 (vd khuôn đúc silicon
nhỏ). Điều này có liên quan cùng với sử dụng của khuôn đúc nhiều sản phẩm (hình 3.1)
Hình 3-1: hệ thống cổng và kênh dẫn
3.2 Hệ thống cổng và kênh dẫn
3.2.1 Nguyên tắc cơ bản
Hỗn hợp đúc chảy từ vòi phun đi vào trong khuôn và được phân phối vào trong lòng khuôn. Đây là
nhiệm vụ của hệ thống kênh dẫn và cuống phun (hình 4.1). nó bao gồmnhiều phần, mà có lẽ khác trong
thiết kế, đối tượng với yêu cầu. khi keo rời khỏi vòi phun, nó vượt qua cuống bơm vào trong kênh dẫn
và kết nối với các cổng của lồng khuôn. Các yêu cầu đặt lên hệ thống cổng và kênh dẫn có thể được mô
tả trong 1 đoạn duy nhất
Hệ thống cổng và kênh dẫn phải được thiết kế, mà vật liệu được đồng nhất điền đầy tất cả lồng
khuôn 1 cách đồng thời và đồng nhất cùng 1 áp suất
Hệ thống kênh dẫn được thiết kế với việc phù hợp với vị trí của lồng khuôn. Vị trí và thiết kế của cửa
miệng khuôn là 1 chức năng cơ bản của thiết kế các sản phẩm đúc và các yêu cầu kĩ thuật của nó
3.2.3 Các thiết kế cổng
Cổng cuốn và cổng thanh (hình 4.2) đại diện cho loại đơn giản nhất của cổng. nó được sử dụng cho
khuôn đúc thành dày và sự cản trở ít với chất keo bởi mặt cắt ngang lớn của nó. Hình dạng nón của nó
cho phép chất keo chảy 1 cách dễ dàng
Hình 3.2 cổng cuống và cổng kim
Khi khuôn được đầy ra, cuống phun được tách ra ở phần cuối của vòi phun. Do đó, thân vẫn còn
trên khuôn và phải được loại bỏ bởi 1 hoạt động bổ sung.cổng cuống được sử dụng trên các sản phẩm kĩ
thuật chất lượng cao và trên các khuôn thành dày.
Ngược lại, cổng kim được kéo ra ở điểm kết nối trên sản phẩm đúc, khi điều này bị loại bỏ. do
đócổng kim để lại duy nhất 1 dấu chấm nhỏ trên phần đúc, yêu cầu ít và không có kết thúc. Tự động
hoàn toàn là có thể.
Được sử dụng cùng với các sản phẩm bao quanh trục đối xứng. ban đầu, chất keo được phân bố 1
cách đồng đều cắt ngang mặt chắn và sau đó chảy đồng nhất vào trong lồng khuôn. Phương pháp này
ngăn ngừa được các đường hàn, các loại cổng này sau đó sẽ phải được cắt đứt.
Hình 3.3 cổng màng và cổng vòng
Được sử dụng cho các sản phẩm dạng vòng và hình ống mà cái lõi của nó- do chiều dài của nó
cần sự hỗ trợ 1 cách song phương. Điều này thậm chí cho phép các sản phẩm lõi dài được đúc ở thành
dày phù hợp. Nó được sử dụng cùng với khuôn phẳng và sự điền đầy lồng khuôn hỗ trợ.
Được sử dụng chính cùng với khuôn đúc nhiều sản phẩm cho các sản phẩm nhỏ, cũng như các
hỗn hợp đúc khuôn linh hoạt. cái ống- có lẽ cổng tạo nên 1 cái cạnh sắc nét giữa hướng khuôn và ống
dẫn, mà phân tách hệ thống cuống từ sản phẩm trên ở sự tráo khuôn, do đó đảm bảo sự mất tự động. Tất
cả các kiểu cuống khác nhau cho đến nay đều có những nhược điểm, các vật liệu đó bị lãng phí trong hệ
thống cổng và kênh dẫn. duy nhất chỉ 1 phần của các vật liệu này có thể được quay trở lại với quá trình
bởi vì lý do về chi phí và bảo vệ môi trường, 1 nỗ lực được làm với việc tránh các chất thải của vật liệu
bởi sự điều khiển nhiệt độ của hệ thống cổng và kênh dẫn để duy trì khả năng cháy của vật liêu trong
khu vực này.
Hình 3.4 Cổng ống và cổng màng
Hệ thống làm nóng được sử dụng trong chế biến nhựa nhiệt dẻo. Tuy nhiên, việc xử lý các chất
đàn hồi liên quan đến việc sử dụng các hệ thống làm lạnh, mà ngăn chặn các hợp chất đàn hồi từ liên kết
ngang Prema-turely trong hệ thống (xem hình 3-5) hệ thống làm mát.
Sản phẩm được đòi hỏi nhiều hơn và phức tạp hơn cho ép phun làm nên .1 số sản phẩm Sẽ ổn hơn với
việc được xử lý đồng thời ( ví dụ trong một lần phun duy nhất) . lý do là , rằng quá trình sẽ phải được
theo dõi 1 cách rất chính xác, để đạt được các tính chất theo yêu cầu. nhiều lồng khuôn hơn là 1 lồng
khuôn,càng khó khăn để đảm bảo rằng mỗi một phần được thực hiện trong điều kiện quá trình giống hệt
nhau. Do đó, hệ thống kênh dẫn này hầu như được sử dụng trong các khuôn của vài lồng khuôn duy
nhất.
Đĩa CD là 1 ví dụ của 1 khuôn phức tạp được miêu tả. nó là đối tượng với những yêu cầu quang
học đang được đòi hỏi. đĩa CD được sản xuất trong 1 lồng khuôn duy nhất bởi sử dụng 1 loại cổng hình
nón, mà được đục lỗ ra ngoài sau khi phần đúc vừa mới đươc loại bỏ từ khuôn. Dấu hiệu ban đầu của sự
di chuyển về phía hệ thống kênh dẫn màng cho các ứng dụng cũng xuất hiện.
Vật liệu chảy vượt xuyên qua cổng và hệ thống kênh dẫn vào trong lồng khuôn hoặc hốc.ở đây
khuôn được hình thành bởi sự đông lại của hỗn hợp khuôn( nhựa nhiệt dẻo) , hoặc bởi phản ứng liên kết
(chất đàn hồi, nhựa nhiệt rắn).
Một cái lồng khuôn là một hình ảnh không chính xác của sản phẩm đang được sản xuất.( hình 4-6) cũng
với quá trình đúc, thế nhưng sự đông đặc của hỗn hợp khuôn mang lại về sự giảm thể tích của phần đúc
đang được làm nói cách khác, khuôn bị co lại.
Bất cứ loại nào của khuôn đúc bao gồm hốc khuôn trong quá trình ép phun đều phải được làm lớn
hơn 1 chút so với sản phẩm hoàn chỉnh.
Hình 3-6: một ví dụ về sự co rút
Kích thước thêm này phải bằng thể tích mà nó đã bị mất trong sự co rút. Bằn cách này các bộ phận
thành phẩm được sản xuất với kích thước chính xác. Ví dụ như bánh răng phù hợp để gắn vào các cơ
chế ổ đĩa của dụng cụ nhà bếp.Sự co rút của nhựa nhiệt dẻo vô định hình lên tới 0,5-0,8%. Trong nhựa
nhiệt dẻo bán tinh thể là 1-2%.
Phần 1: Các Khái Niệm Cơ Bản Về Chất Dẻo
Phần 2: Giới Thiệu Máy Ép Phun.
Phần 3: Giới Thiệu Về Khuôn Ép Tạo Hình Chất Dẻo
Phần 1: Các Khái Niệm Cơ Bản Về Chất Dẻo
1.1 Phân loại và nhận dạng của vật liệu cao phân tử( chất dẻo và chất đàn hồi)
Chất dẻo và chất đàn hồi là cái tên được đưa ra cùng với chất cao phân tử hữu cơ tổng hợp được sản
xuất từ hỗn hợp hữu cơ, có trọng lượng phân tử thấp, được gọi là đơn thể (ví dụ ethelene, styrene, vinyl
chloride). Sự sản xuất chất dẻo và chất đàn hồi thậm chí có thể được dựa trên cấu trúc đơn thể phân tử tự
nhiên. (Ví dụ cao su tự nhiên, xenlulo, protein) một số ví dụ về chất cao phân tử.
Các phương pháp tổng hợp chất cao phân tử gồm:
Chuỗi trùng hợp hoặc trùng trùng hợp ben ngoài
Phản ứng trùng hợp.
Đa trùng hợp
Nhựa nhiệt dẻo (thormophantic) dễ nóng chảy. Nó có thể được lặp đi lặp tái hợp lại nhiều lần và đủ khả
năng hòa tan hoặc trương nở trong dung môi. Ở nhiệt độ phòng (môi trường) chúng biến đổi từ điều
kiện dai, mềm đến dễ uốn và cứng rắn. Một cách định tính, nhựa nhiệt dẻo có thị phần lớn nhất của thị
trường chất dẻo.
Nhựa nhiệt dẻo bất đẳng hướng tương tự như thủy tinh cùng với sự liên quan với cấu trúc phân tử.
Chúng được phân biệt với nhựa nhiệt dẻo bán tinh thể, nó có sự xuất hiện của màu trắng sữa và trắng
mờ. Khi một chất dẻo trong suốt như thủy tinh, nó là một chất nhựa nhiệt dẻo bất đẳng hướngvà nó
thường an toàn.
Các chất đàn hồi (alentemer) không thể tan chảy hoặc hòa tan trong dung môi, nhưng có thể được làm
hóa dẻo. Chúng liên kết chéo trong mô hình lưới rộng do đó tồn tại trong một điều kiện mềm và dàn hồi
ở nhiệt độ bình thường. Ví dụ những phần đúc được làm từ chất đàn hồi bao gồm con dấu, gối ôm, lốp
xe. Cao su tự nhiên (NR) đại diện cho một trường hợp đặc biệt cùng với nhóm các chất đàn hồi. Nó thu
được từ nhựa của cây nhiệt đới.
Nhựa nhiệt rắn thì cứng, chúng được liên kết cùng với mạng lưới hẹp trong mọi hướng. Chúng không
thể biến dạng dẻo, không chảy được và chịu nhiệt độ cao. Bởi vì nhựa nhiệt cứng được liên kết 1 cách
dày đặc, chúng không thể phân tán và hoàn toàn rất khó hóa dẻo. Chúng cứng và dòn ở nhiệt độ bình
thường. Ổ cắm điện được sản xuất bằng nhựa nhiệt cứng là ví dụ, bởi vì tính chống lại nhiệt độ cao và
thấp thì rất quan trọng ở đây.
Trong trường hợp này ta chỉ muốn giới thiệu các tính chất.
1.2 Các đặc tính biến dạng của chất dẻo:
Vật liệu cao phân tử hiển thị các đặc tính khác nhau khi được gia nhiệt, các đặc tính này phụ thuộc
vào các yếu tố khác nhau, bao gồm cấu trúc hóa học của phân tử chất cao phân tử và loại lực liên kết
phân tử.
Một khi nhiệt độ Tg vừa mới vượt quá, lực của các phân tử trở nên yếu đến nối sự ảnh hưởng của các
ngoại lực có thể gây cho các phân tử trượt xa nhau ra từ 1 phân tử khác, độ bền suy giảm, trong khi dãn
dài nhảy lên. Trong phạm vi nhiệt độ này, chất dẻo tồn tại trong trạng thái đàn hồi cao su và đàn hồi
nhiệt.
Ép phun là một phương pháp sơ chế. Nói cách khác, các tài liệu phải tồn tại trong một trạng thái dẻo để
nó có thể được xử lý. Trạng thái dẻo này được đặc trưng bởi các đặc tính dòng chảy nhớt trưng bày bằng
vật liệu nhựa nguyên liệu như bột hoặc hạt.
Các đặc tính hiển thị bằng vật liệu polymer khi chịu nhiệt - được gọi là các đặc tính biến dạng , được
biết như là các đặc tính đàn hồi được đang sử dụng nhựa nhiệt dẻo bất đẳng hướng là ví dụ (hình 1-4)
hình 1-4: Đặc điểm biến dạng của nhựa nhiệt dẻo vô định hình
chú thích: T = nhiệt độ chuyển tiếp thủy tinh
Tf = phạm vi nhiệt độ dòng chảy
Td = nhiệt độ phân hủy
Chất cao phân tử là 1 vật liệu cứng ở nhiệt độ bình thường. Bởi vì các đại phân tử riêng lẻ hầu như
không di chuyển, chúng được giữ cùng với nhau bởi lực liên kết giữa các phân tử. Một sự gia tằng trong
nhiệt độ gây ra cho các phân tử với việc di chuyển cùng với cường độ lớn hơn. Các liên kết giữa các
phân tử lỏng ra và độ bền của vạt liệu giảm trong khi độ dãn dài và độ dẻo của nó tăng lên khi nhiệt độ
tiếp tục tăng, lực giữa các phân tử hầu như bị loại bỏ hoàn toàn. Chất cao phân tử tiến hành trong 1 cách
liên tục từ trạng thái đàn hồi nhiệt đến trạng thái nhiệt dẻo hoặc trạng thái nóng chảy. Sự chuyển đổi này
được mô tả bằng phạm vi của nhiệt độ đông chảy(Tf). Nhiệt độ này không thể được xác định một cách
chính xác. Phương pháp xử lí sơ cấp như là ép phun được thực hiện cùng với phạm vi nhiệt dẻo.
Nếu sự gia nhiệt tiếp tục vượt quá phân hủy Td, chất cao phân tử bị phá hủy.
Các đặc tính bình thường của nhựa nhiệt dẻo bán tinh thể có thể được nhìn thấy trong hình 1-5
Trái với nhựa dẻo bất đẳng hướng, điều kiện sát nhau hầu như tồn tại trong nhựa nhiệt dẻo tinh thể. Một
mặt, có những tinh thể mà trong đó được sắp xếp chặt chẽ hình thành ordered. Sau đó, có những vùng
khác, vùng bất đẳng hướng, nơi mà các tinh thể được lan truyền xa nhau ra hơn, trong một kiểu rất trật
tự. Lực giữa các phân tử giữ vùng tinh thể lại với nhau mạnh hơn cách đáng kể, hơn là những vùng bất
đẳng hướng đó. Nhiệt dẻo bất đẳng hướng của chất cao phân tử được làm mềm trên nhiệt độ chuyển đồi
thủy tinh của nó(Tg).
Nhựa nhiệt dẻo bán tinh thể sở hữu độ bền lớn, sự tăng tính đàn hồi giữa Tg và Tm. Nhiệt độ làm
mềm của vùng đẳng hướng tinh thể của nhựa nhiệt dẻo thông thường. Bên dưới nhiệt độ thông thường
trong phạm vi ứng dụng thực tế (ví dụ ở nhiệt đô thông thường và bên dưới) hầu hết nhựa nhiệt dẻo bán
tinh thể đều dai và mềm. Khi nhiệt độ tan chảy tinh thể (Tm) bị vượt quá, độ bền giảm rõ rệt và độ dãn
dài đạt giá trị cao nhất của nó (trong phạm vi nhiệt đàn hồi). Một khi nhiệt độ lên cao nhựa nhiệt dẻo
bán tinh thể bị loại bỏ hoàn toàn liên kết trong cùng vùng tinh thể, độ dãn dài giảm mạnh rõ rệt và đột
ngột.
Sự khác biệt này trong các đặc tính biến dạng của nhựa nhiệt dẻo bán tính thể và bất dẳng hướng có
thể là do cấu trúc phân tử khác nhau của chúng. Như đã đề cập, trong thực tế , lực giữa các phân tử
hoạt động cùng với độ bên lớn hơn nhiều trong tinh thể hơn là trong trạng thái bất đẳng hướng.
1.3 - Hỗn hợp đúc khuôn và phương pháp định hình:
Phương pháp định hình được sử dụng trong gia công và xử lý chất dẻo, có thể được đưa đi với tình
trạng vật lý ( các phương pháp nhiệt độ) của các vật liệu đó. Hình 1-6 cho thấy sự phân bố của các
phương pháp định hình với hỗn hợp nhựa dẻo trong mỗi quan hệ với phạm vi tình trạng của chùng.
Hình 1-6: phương pháp tạo hình.
Là một trong những phương pháp xử lý sơ cấp. Nó được thực hiện trong trạng thái nhiệt dẻo,
Vd: trong phạm vi nhiệt độ tan chảy tinh thể (Tm) và dưới nhiệt độ phân hủy (Td) hỗn hợp đúc khuôn
(hoặc nhiều đặc biệt hơn, hỗn hợp đúc khuôn phun) chỉ rõ vật liệu thô, từ đó mà sản phẩm đúc được sản
xuất. Hỗn hợp đúc được cung cấp bởi nhà sản xuất của vật liệu đúc khuôn phun bằng :
· Hạt
· Bột
· Bụi
1.4 Keo của chất dẻo
1.4.1 Độ nhớt:
Trong quá trình ép khuôn phun, chất cao phân tử tồn tại trong trạng thái nhiệt dẻo. Nó chảy trong
cách nhớt. Độ nhớt của 1 chất dẻo là 1 biện pháp của sự chặn dòng chảy của nó. Cho một chất lỏng
Newton như là nước, độ nhớt được định nghĩa bằng [m] được cho thấy trong hình 1-7
Để minh họa cho những gì có nghĩa là độ nhớt, chúng ta có thể tưởng tượng hai container kích thước
bằng nhau. Ở dưới cùng của mỗi container là một lỗ khép kín, mỗi với đường kính tương tự. Nếu chúng
ta điền vào một thùng chứa nước và khác với một sơn mài nhớt, sau đó mở cả hai lỗ cùng một lúc, một
số lượng nhất định của sơn mài sẽ đòi hỏi nhiều thời gian hơn để thoát ra ngoài các thùng chứa hơn sẽ
cùng một lượng nước. Chúng ta có thể thấy rằng sơn mài có nhiều nhớt hơn nước. Nếu một chất lỏng
đặc biệt là sở hữu một độ nhớt cao, nó được cho là có độ nhớt cao.
1.4.2 Ứng suất cắt và tốc độ cắt
Khi 1 chất lỏng chảy xiên qua 1 cái ống, tốc độ cao nhất của dòng chảy xảy ra ( tại tâm giữa) của mặt
cắt ngang của ống. Khi chúng ta di chuyển ra phía ngoài về phía thành của ống, chúng ta thấy tốc độ
dòng chảy giảm. ở thành của ống, cuỗi cùng đạt đến không. Bởi độ bán kình của chất lỏng với thành.
Kết quả là biến dạng của tốc độ dòng chảy. Do đó chúng ta có thể tưởng tượng 1 chất lỏng chảy như 1
loạt các lớp chất lỏng chảy ở các tốc độ khác nhau( nhìn hình 1-8).
Hình 1-8 biến dạng tốc độ của 1 chất lỏng đang vượt xiên qua 1 ống.
Tốc độ cắt: ứng suất cắt là kết quả các lớp dòng chảy của các đại phân tử trượt qua 1 phân tử khác.
Tốc độ cắt là sự khác nhau trong tốc độ của dòng chảy hoặc tốc độ cắt. Đó là sự thay đổi trong các tốc
độ của các lớp dòng chảy cách ngang qua bán kính của mặt cắt ngang. Độ nhớt giảm cùng với tốc độ cắt
tăng
1.4.3 Độ nhớt và nhiệt độ
Nếu một chất lỏng được gia nhiệt, độ nhớt của nó giảm xuống. Ví dụ, nếu chúng ta gia nhiệt sơn trong
ví dụ trước đó của chúng ta, nó yêu cầu ít thời gian hơn với việc chảy ra ngoài của bình. Độ nhớt của 1
chất keo nhựa nhiệt dẻo do đó không chỉ phụ thuộc trên tốc độ cắt, nhưng cũng phụ thuộc trên nhiệt
độ( hình 1-9).
Hình 1-9 chức năng độ nhớt của một vật liệu nhựa
Độ nhớt giảm bằng nhiệt độ tăng, nên chất keo dẻo bắt đầu chảy trong ít nhớt hơn.Trong trường hợp
của polyethylene là ví dụ. Giới hạn nhớt khoảng 138 pa.S ở tốc độ cắt của 1000^/s và 1 nhiệt độ của
1500C(3000f). Thế nhưng ở cùng 1 tốc độ cắt và 1 nhiệt độ của 2700C(5200F), ở giới hạn nhớt khoảng
52Pa.S cái ví dụ này áp dụng với Polyethylene (PE).
Phần 2: Giới Thiệu Máy Ép Phun.
2.1 Phân loại của máy ép khuôn
Về nguyên tắc, dĩ nhiên, nó có thể được nói rằng mà kích thước của máy phải được chọn sao cho phù
hớp với kích thước của sản phẩm. Khuôn càng lớn, máy càng lớn. nhưng điều này không luôn đúng, đặc
biệt khi các phần khuôn nhỏ có liên quan. Nó thường nhiều kinh tế hơn với việc sản xuất nhiều khuôn
nhỏ một cách đồng thời trên cùng một máy, hơn là việc sản xuất chỉ một sản phẩm ở cùng một thời gian
trên cùng máy nhỏ.
kích thước của phần khuôn đặc biệt trong mối quan hệ của nó với sự lựa chọn máy. Yêu cầu kiểm tra kĩ
hơn. Đầu tiên, được giải thích rằng kích thước được định nghĩa bằng thể tích. Sản phẩm nặng hơn hỗn
hợp đúc nhiều hơn phải được cung cấp bởi bộ phận phun và hoá dẻo cùng với một giai đoạn nhất đinh.
ngoại trừ thể tích khuôn, các kích thước của nó cũng phải được xem xét. Việc lựa chọn một máy để sản
xuất một khuôn nhất định được chủ yếu được xác định bởi diện tích dự đoán của sản phẩm đó, ví dụ:
diện tích dự đoán trọng lượng kẹp, ý nghĩa của khái niệm này được minh hoạ trong hình 2.1
Hình 2-1: diện tích dự đoán
Để đạt được khuôn chất lượng tốt, lực phân khuôn phải thấp hơn lực kẹp của máy.
Phần 1 cung cấp một tổng quan về các vật liệu khác nhau có thể được xử lý bằng phương pháp đúc.
Những vật liệu này có tính chất rất khác nhau và phải được xử lý theo các điều kiện rất khác nhau. Vì lý
do này, cũng tồn tại nhiều loại máy ép phun. Tuy nhiên, tất cả các máy ép phun được bao gồm các phân
hệ chính như nhau. Ví dụ về máy ép phun được đưa ra trong hình minh họa tiếp theo.
Chế biến nhựa nhiệt thường liên quan đến việc sử dụng các máy ép ngang (xem hình 2-2). Vì lực phân
khuôn ở giữa được bố trí theo chiều dọc, các các vật đúc đã hoàn thành có thể được thả vào một thùng
chứa, một khi chúng được phát hành từ khuôn.
Trong máy theo chiều dọc, máy có mặt phân nửa khuôn chạy theo chiều ngang. Kết quả là, máy này đặc
biệt thích hợp cho việc sản xuất khuôn chèn (ví dụ, phích cắm điện) (xem hình 2-3). Hầu hết các khuôn
làm bằng chất đàn hồi được sản xuất trên các máy theo chiều dọc.
cùng với máy bàn xoay một số bộ phận kẹp được giao cho một bộ hoá dẻo duy nhất. kết quả là, máy này
phù hợp cho sản phẩm đúc yêu cầu giai đoạn gia nhiệt và làm lạnh lâu (hình 2.4)Nhu cầu sản xuất các
bài viết phức tạp như chi phí hiệu quả nhất có thể, mà không làm giảm chất lượng hoặc giảm chậm tiến
độ, đáp ứng các nhiệm vụ mới của công nghiệp chế biến chất dẻo các thông số chế tạo phức tạp có thể
không còn đạt được bởi phương pháp ép phun thông thường, xử lí đặc biệt, như là khuôn đúc khuôn
phun nhiều thành phần phải được ứng dụng ( hình 2.3). cùng với khuôn đúc nhiều thành phần, ít nhất 2
bộ phận phun hoá dẻo được giao cho một bộ phận kẹp duy nhất, phương pháp này cho phép 2 vật liệu
dẻo được tô màu khác nhau ( đèn sau oto) được phun trong thời gian khác nhau.
2.2 Các bộ phận cấu trúc của máy ép khuôn
Sản phẩm được đúc trong một loạt các kích cỡ và hình dạng có thể được sản xuất bằng phương pháp đúc
tiêm. Sản xuất của những bài viết này trong điều kiện tối ưu đòi hỏi thiết kế thay thế cho các kích cỡ
khác nhau của máy ép phun, cũng như thiết bị phụ trợ tương ứng của nó.
Các mô đun chính của 1 máy ép khuôn là chung với tất cả thiết kế
o Bộ phận phun và hoá dẻo
o Bộ phận kẹp
o Điều khiển cùng với hệ thống điện và thuỷ lực
Một máy ép khuôn và bộ phận chính của nó được thể hiện ở hình 2.6
Khuôn bình thường không được xem là một bộ phận cấu trúc của máy ép khuôn, thế nhưng để đơn giản
ta xem như một hệ thống của máy ép khuôn.
Các khuôn với việc được sản xuất xác định vị trí tương đối của bộ phận mô đun và cấu trúc này cùng
với nhau, cũng như kich thước của chúng.
Các sản phẩm khác nhau có thể được sản xuất trên cùng một máy ép khuôn duy nhất, nhưng mỗi sản
phẩm yêu cầu khuôn riêng của nó. Các bộ phận cấu trúc riêng biệt của máy ép khuôn và các chức năng
của chúng sẽ được miêu tả một cách chính xác hơn. Bằng cách qua 1 vd, sự miêu tả này cũng được đề
cập với một máy sử dụng cho khuôn đúc đĩa CD.
Phần 3: Giới Thiệu Về Khuôn Ép Tạo Hình Chất Dẻo
3.1 Các nhiệm vụ và các phương thức hoạt động
Bao gồm sự điều tiết và phân bố chất keo, sự hình thành/ tạo hình và làm mát sản phẩm đúc và sự lấy
ra từ khuôn. (cùng với nhựa nhiệt rắn/ chất đàn hồi: cũng được sản xuất của năng lượng kích hoạt và bảo
dưỡng)
Sự hấp thụ các lực truyền chuyển động và dẫn đường các phần đúc có nguồn gốc từ các nhiệm vụ cơ
bản.
Để làm rõ nhiệm vụ và chức năng của khuôn ép phun. tốt nhất là đi theo con đường của vật liệu bên
trong máy ép phunbằng mọi cách với sự phát triển của sản phẩm sau cùng. Vật liệu đã được chuyển tải
vào buồng phunsuốt quá trình của giai đoạn hoá dẻo. trên đường đi nó vừa được nấu chảy và đồng nhất
Vật liệu được chuẩn bị và có khả năng chảy được vận chuyển từ khoan phun của bộ phận phun và hoá
dẻo vào trong khuôn. Nói cách khác nó là khuôn đúc.
Không gian bên trong mà hỗn hợp đúc được phun - được biết như là lồng khuôn – được nằm trong
khuôn. Vật liệu đông lại bởi sự làm nguội cùng với lồng khuôn, do đó hình thành nên khuôn. Cùng với
nhựa nhiệt rắn và chất đàn hồi, sản phẩm được sản xuất bởi phản ứng liên kết hoá học
Mỗi chu kì của quá trình ép khuôn phun thường sản xuất chỉ duy nhất sản phẩm đúc.Trong trường
hợp này, chúng ta nói về khuôn đúc một sản phẩm.
Số lượng của các phần được sản xuất trong mỗi chu kì có thể vượt qua 100 (vd khuôn đúc silicon
nhỏ). Điều này có liên quan cùng với sử dụng của khuôn đúc nhiều sản phẩm (hình 3.1)
Hình 3-1: hệ thống cổng và kênh dẫn
3.2 Hệ thống cổng và kênh dẫn
3.2.1 Nguyên tắc cơ bản
Hỗn hợp đúc chảy từ vòi phun đi vào trong khuôn và được phân phối vào trong lòng khuôn. Đây là
nhiệm vụ của hệ thống kênh dẫn và cuống phun (hình 4.1). nó bao gồmnhiều phần, mà có lẽ khác trong
thiết kế, đối tượng với yêu cầu. khi keo rời khỏi vòi phun, nó vượt qua cuống bơm vào trong kênh dẫn
và kết nối với các cổng của lồng khuôn. Các yêu cầu đặt lên hệ thống cổng và kênh dẫn có thể được mô
tả trong 1 đoạn duy nhất
Hệ thống cổng và kênh dẫn phải được thiết kế, mà vật liệu được đồng nhất điền đầy tất cả lồng
khuôn 1 cách đồng thời và đồng nhất cùng 1 áp suất
Hệ thống kênh dẫn được thiết kế với việc phù hợp với vị trí của lồng khuôn. Vị trí và thiết kế của cửa
miệng khuôn là 1 chức năng cơ bản của thiết kế các sản phẩm đúc và các yêu cầu kĩ thuật của nó
3.2.3 Các thiết kế cổng
Cổng cuốn và cổng thanh (hình 4.2) đại diện cho loại đơn giản nhất của cổng. nó được sử dụng cho
khuôn đúc thành dày và sự cản trở ít với chất keo bởi mặt cắt ngang lớn của nó. Hình dạng nón của nó
cho phép chất keo chảy 1 cách dễ dàng
Hình 3.2 cổng cuống và cổng kim
Khi khuôn được đầy ra, cuống phun được tách ra ở phần cuối của vòi phun. Do đó, thân vẫn còn
trên khuôn và phải được loại bỏ bởi 1 hoạt động bổ sung.cổng cuống được sử dụng trên các sản phẩm kĩ
thuật chất lượng cao và trên các khuôn thành dày.
Ngược lại, cổng kim được kéo ra ở điểm kết nối trên sản phẩm đúc, khi điều này bị loại bỏ. do
đócổng kim để lại duy nhất 1 dấu chấm nhỏ trên phần đúc, yêu cầu ít và không có kết thúc. Tự động
hoàn toàn là có thể.
Được sử dụng cùng với các sản phẩm bao quanh trục đối xứng. ban đầu, chất keo được phân bố 1
cách đồng đều cắt ngang mặt chắn và sau đó chảy đồng nhất vào trong lồng khuôn. Phương pháp này
ngăn ngừa được các đường hàn, các loại cổng này sau đó sẽ phải được cắt đứt.
Hình 3.3 cổng màng và cổng vòng
Được sử dụng cho các sản phẩm dạng vòng và hình ống mà cái lõi của nó- do chiều dài của nó
cần sự hỗ trợ 1 cách song phương. Điều này thậm chí cho phép các sản phẩm lõi dài được đúc ở thành
dày phù hợp. Nó được sử dụng cùng với khuôn phẳng và sự điền đầy lồng khuôn hỗ trợ.
Được sử dụng chính cùng với khuôn đúc nhiều sản phẩm cho các sản phẩm nhỏ, cũng như các
hỗn hợp đúc khuôn linh hoạt. cái ống- có lẽ cổng tạo nên 1 cái cạnh sắc nét giữa hướng khuôn và ống
dẫn, mà phân tách hệ thống cuống từ sản phẩm trên ở sự tráo khuôn, do đó đảm bảo sự mất tự động. Tất
cả các kiểu cuống khác nhau cho đến nay đều có những nhược điểm, các vật liệu đó bị lãng phí trong hệ
thống cổng và kênh dẫn. duy nhất chỉ 1 phần của các vật liệu này có thể được quay trở lại với quá trình
bởi vì lý do về chi phí và bảo vệ môi trường, 1 nỗ lực được làm với việc tránh các chất thải của vật liệu
bởi sự điều khiển nhiệt độ của hệ thống cổng và kênh dẫn để duy trì khả năng cháy của vật liêu trong
khu vực này.
Hình 3.4 Cổng ống và cổng màng
Hệ thống làm nóng được sử dụng trong chế biến nhựa nhiệt dẻo. Tuy nhiên, việc xử lý các chất
đàn hồi liên quan đến việc sử dụng các hệ thống làm lạnh, mà ngăn chặn các hợp chất đàn hồi từ liên kết
ngang Prema-turely trong hệ thống (xem hình 3-5) hệ thống làm mát.
Sản phẩm được đòi hỏi nhiều hơn và phức tạp hơn cho ép phun làm nên .1 số sản phẩm Sẽ ổn hơn với
việc được xử lý đồng thời ( ví dụ trong một lần phun duy nhất) . lý do là , rằng quá trình sẽ phải được
theo dõi 1 cách rất chính xác, để đạt được các tính chất theo yêu cầu. nhiều lồng khuôn hơn là 1 lồng
khuôn,càng khó khăn để đảm bảo rằng mỗi một phần được thực hiện trong điều kiện quá trình giống hệt
nhau. Do đó, hệ thống kênh dẫn này hầu như được sử dụng trong các khuôn của vài lồng khuôn duy
nhất.
Đĩa CD là 1 ví dụ của 1 khuôn phức tạp được miêu tả. nó là đối tượng với những yêu cầu quang
học đang được đòi hỏi. đĩa CD được sản xuất trong 1 lồng khuôn duy nhất bởi sử dụng 1 loại cổng hình
nón, mà được đục lỗ ra ngoài sau khi phần đúc vừa mới đươc loại bỏ từ khuôn. Dấu hiệu ban đầu của sự
di chuyển về phía hệ thống kênh dẫn màng cho các ứng dụng cũng xuất hiện.
Vật liệu chảy vượt xuyên qua cổng và hệ thống kênh dẫn vào trong lồng khuôn hoặc hốc.ở đây
khuôn được hình thành bởi sự đông lại của hỗn hợp khuôn( nhựa nhiệt dẻo) , hoặc bởi phản ứng liên kết
(chất đàn hồi, nhựa nhiệt rắn).
Một cái lồng khuôn là một hình ảnh không chính xác của sản phẩm đang được sản xuất.( hình 4-6) cũng
với quá trình đúc, thế nhưng sự đông đặc của hỗn hợp khuôn mang lại về sự giảm thể tích của phần đúc
đang được làm nói cách khác, khuôn bị co lại.
Bất cứ loại nào của khuôn đúc bao gồm hốc khuôn trong quá trình ép phun đều phải được làm lớn
hơn 1 chút so với sản phẩm hoàn chỉnh.
Hình 3-6: một ví dụ về sự co rút
Kích thước thêm này phải bằng thể tích mà nó đã bị mất trong sự co rút. Bằn cách này các bộ phận
thành phẩm được sản xuất với kích thước chính xác. Ví dụ như bánh răng phù hợp để gắn vào các cơ
chế ổ đĩa của dụng cụ nhà bếp.Sự co rút của nhựa nhiệt dẻo vô định hình lên tới 0,5-0,8%. Trong nhựa
nhiệt dẻo bán tinh thể là 1-2%.