Không nên cộng thêm cái gì vào tư tưởng hồ chí minh
- 14 trang
- file .docx
Không nên cộng thêm cái gì vào tư tưởng Hồ Chí Minh
"Đừng cố tìm ở Hồ Chí Minh cái gì cũng đều có, cũng đều “vĩ đại”, vì như vậy
chính là xuyên tạc, hạ thấp hoặc là bôi nhọ tư tưởng Hồ Chí Minh." - GS. đưa ra
một vài gợi ý để hiểu sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phòng làm việc của Người ở căn cứ Việt Bắc.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh” không đơn thuần chỉ là sự vận dụng một cách sáng tạo
những tư tưởng lý luận của “học thuyết C.Mác” vào hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam. Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu những phần tinh tuý nhất của học thuyết
khoa học và cách mạng đó. Là một nhà cách mạng chuyên nghiệp đã bôn ba khắp
năm châu bốn biển, Hồ Chí Minh đã hấp thu vào mình trí tuệ, văn hoá của cả loài
người, vì thế, Bác Hồ được thế giới nói đến như là một danh nhân văn hoá.
Có được điều đó, trước hết là do Hồ Chí Minh am hiểu sâu sắc về dân tộc mình,
thấm nhuần lịch sử và văn hoá của dân tộc. Nhờ nắm vững phương pháp biện
chứng của học thuyết C.Mác gắn với tư duy thực tiễn của người cách mạng Việt
Nam gắn bó máu thịt với dân tộc mình, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự
kết hợp hài hoà đó.
Nhân kỷ niệm lần thứ 118 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xin mạnh dạn gợi
lên đôi điều suy nghĩ: làm thế nào nghiên cứu để hiểu thật sâu sắc, để thấm nhuần
tư tưởng Hồ Chí Minh. Xin chỉ gợi lên mấy vấn đề về hiểu và về phương pháp
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh:
Con người Hồ Chí Minh
Nói đến tư tưởng, trước hết phải nói đến con người. Con người mà cuộc đời và sự
nghiệp gắn liền với những sự kiện lịch sử Việt Nam, với những biến động lớn của
thế giới trong một thời đoạn lịch sử đặc biệt với những biến động cực lớn.
Nguyễn Ái Quốc đến với học thuyết của C.Mác và Ph. Angghen, đến với tư tưởng
của V.I Lênin, từ thân phận của một người mất nước, một người dân thuộc địa, một
người được hấp thu nền học vấn và triết lý phương Đông, rồi được bổ sung văn
hóa và triết lý phương Tây, trước hết là văn hóa Pháp. Con người ấy, so với
C.Mác, Ph Angghen và V. I Lênin, thì trải nhiều oan nghiệt, cay đắng về thân phận
cá nhân hơn nhiều. Từ thân phận ấy, Hồ Chí Minh dễ có sự thông cảm sâu sắc hơn
và mãnh liệt hơn với người dân thuộc địa nói riêng và những người lao động nghèo
khổ, những dân tộc đang bị nô lệ, bị giày xéo phải gánh chịu áp bức, bất công trên
thế giới nói chung. Sự cảm thông ấy không chỉ dừng lại ở thân phận cá nhân để
nhìn ngắm và suy đoán về thế giới, mà đã vượt khỏi chính mình để có được cái tầm
cao của người chiến sĩ cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
Là con người sống ở gần ba phần tư đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh có điều kiện để
thấy và hiểu được sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa với phong trào giải phóng dân
tộc làm thay đổi cục diện thế giới từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam,
tạo ra một phản ứng dây chuyền, đánh sụp chủ nghĩa thực dân cũ, xuất hiện chủ
nghĩa thực dân mới. Ba phần tư thế kỷ này chất chứa bao nhiêu sự biến, tác động
mạnh đến số phận của nhiều dân tộc trên hành tinh này.
Tuy nhiên, cũng như C.Mác, Ph Angghen và V.I Lênin, Hồ Chí Minh không thấy
được những biến động dữ dội về đời sống chính trị làm thay đổi diện mạo của thế
giới mà sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa cùng với những bước
tiến như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ của một phần tư cuối
thế kỷ XX bước sang thế kỷ XXI, những sự biến nổi bật nhất. Đặc biệt khoa học và
công nghệ, một phần tư thế kỷ này có những bước tiến lớn hơn rất nhiều những thế
kỷ trước gộp lại.
Chứng kiến những biến động ấy khiến cho tầm mắt không ít người đươc mở rộng
hơn nhờ vào “sự xé toang một tấm màng bưng bít, sự hiện ra và sáng lên của sự
thật, sự tan vỡ một số huyền thoại, sự phá sản nhiều giáo điều, sự bộc lộ những sai
lầm trầm kha, sự nhận thức mới, không phải về lý tưởng mà về lý luận cách mạng,
thực tiễn hoạt động và thực tế đời sống, sự khơi dậy những niềm hy vọng mới, sự
bắt đầu một quá trình thanh lọc và tái tạo đầy hứa hẹn” .
Hồ Chí Minh đã từng là người đứng ở vị trí quyền lực cao nhất của Đảng và Nhà
nước của một nước Việt Nam đã giành được độc lập, tự do trong 24 năm, từ tháng
8.1945 đến tháng 9.1969, sau cũng ngần ấy năm đã từng là lãnh tụ của Đảng, của
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trước 1945. So với V.I Lênin chỉ có 7 năm lãnh
đạo Nhà nước Xô Viết (1917-1924), Hồ Chí Minh có hơn gấp ba thời gian ở cương
vị Chủ tịch nước. Với 24 năm là lãnh tụ của một Đảng cầm quyền, là Chủ tịch
Nước, đứng ở đỉnh cao quyền lực, song Hồ Chí Minh trước sau vẫn thủy chung
như nhất là người lãnh tụ của nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, chiếm trọn
trái tim của nhân dân, xứng đáng với lời ghi nhận của nhân dân và của Đảng: “Dân
tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng
dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông
đất nước ta”.
So với C.Mác, Ph. Angghen và V.I Lênin, học vấn của Hồ Chí Minh không bằng,
bù vào đấy là sự thâm nhập vào cuộc sống, lăn lộn nhiều hơn, đi nhiều hơn, thấy
nhiều hơn, đến được nhiều chân trời hơn, sống với nỗi khổ đau của con người
nhiều hơn. Những con người ở nhiều đất nước, nhiều châu lục, nhiều màu da,
nhiều tiếng nói, nhất là tiếng nói của những người cùng khổ.
Quả là hiếm có lãnh tụ cách mạng nào có điều kiện tắm mình trong những quằn
quại suy tư, những khát vọng rộng lớn của con người đến như vậy. Hồ Chí Minh,
vì thế, là người chiến sĩ cách mạng có những rung động của một nhà thơ. Nhà thơ
trong nhà cách mạng Hồ Chí Minh. Để có được một số bài thơ hay mà không phải
nhà cách mạng nào cũng có được: “Trong tâm hồn Hồ Chí Minh luôn luôn phảng
phất có thơ ” (Phạm văn Đồng). Đấy là một nét độc đáo trong nhân cách Hồ Chí
Minh. Điều này khiến cho Hồ Chí Minh biết cảm nhận và rung động mãnh liệt, sâu
lắng với con người trong sự sống đa dạng và phức tạp của nó.
Tầm vóc Hồ Chí Minh
Bác Hồ nói chuyện với đồng bào, cán bộ, bộ đội tại Thuận Châu ngày 7 tháng 5
năm 1959
Tầm vóc của con người, cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh có thể nói gọn lại
trong năm điểm nổi bật sau đây :
Trước hết và sau cùng, Hồ Chí Minh là một con người rất người, một người Việt
Nam rất Việt Nam. Đúng là “dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh
ra Hồ Chí Minh” theo đúng nghĩa sâu sắc, đậm đặc và rất nhất quán một nhân cách
Hồ Chí Minh, một đường nét văn hóa Hồ Chí Minh rất Việt Nam. Những gì là lý
luận, là khoa học, là uyên bác, là thâm thúy đều có trong Hồ Chí Minh song đó
chính là sự hòa quyện, sự kết đọng của sự thông tuệ dân gian.
Đó là sự thông minh, tế nhị và mộc mạc của tinh hoa văn hóa Việt Nam thể hiện
trong ứng xử hàng ngày của người dân quê trên đồng ruộng, giữa núi rừng, nơi
“thôn cùng xóm vắng” [Nguyễn Trãi]. Những uyên bác, những thâm thúy, những
tế nhị và mộc mạc hòa quyện vào trong sự thông tuệ dân gian ấy được Hồ Chí
Minh tiếp thu một cách hồn nhiên, thoải mái và có chọn lọc, để rồi thể hiện ra một
cách dung dị nhưng không kém phần sâu lắng tế nhị, không kém phần minh triết
trong cái khôn ngoan dân dã Việt Nam!
Chính điều này vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của sự gắn bó máu thịt giữa lãnh
tụ và quần chúng, niềm tin yêu của nhân dân dành cho lãnh tụ của mình và là “ham
muốn, ham muốn đến tột bậc” của Hồ Chí Minh về cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc của nhân dân mình.
Với đặc điểm này, cho dù với sự khiêm tốn tuyệt đối cần thiết, cũng phải nói rằng,
so với những lãnh tụ cách mạng khác, Hồ Chí Minh có sự kết đọng đậm đặc hơn,
quán triệt hơn, sâu xa và thấm thía hơn trong sự gắn bó tin yêu với nhân dân của
mình và đồng thời hình ảnh Hồ Chí Minh sống trọn vẹn trong trái tim của họ. Hồ
Chí Minh ở trong họ, gần gũi thân thiết với họ, nâng họ lên để cùng đứng với mình
chứ không bao giờ đứng trên họ. Hồ Chí Minh với nhân dân mình là một.
Nói như nhà báo Úc Burchett “Nói tới một người mà cả cuộc đời mình để lại ân
tình sâu nặng trong nhân dân thì không có ai ngoài Chủ tịch Hồ Chí Minh”, và như
đòi hỏi của Charles Fourniau, nhà sử học Pháp “cần làm nổi bật một cách hiển
nhiên và trên mọi tầm vóc, hình ảnh một con người đã là một trong ba hoặc bốn
nhân vật vĩ đại nhất của phong trào công nhân và cách mạng thế giới, một trong
những vĩ nhân của thế kỷ chúng ta”
Hồ Chí Minh là con người của hành động, hành động rất thiết thực. Con người ấy
không viết nhiều, không nói nhiều, không viết dài nói dài, song là con người làm,
làm rất nhiều. Con người ấy nói ít, làm nhiều, thậm chí không cần nói, chỉ cần làm
để rồi bằng việc làm cụ thể mà thuyết phục người ta làm theo mình. Nhưng như thế
không hề là chủ thuyết của một nhà “triết học vô ngôn”, hoặc một “chính khách vô
ngôn”. Hồ Chí Minh không phải không có những tác phẩm, những công trình,
những bài viết, những diễn văn, những lời kêu gọi... Nhưng, tác phẩm lớn hơn cả,
bài học sâu sắc nhất chính là cả cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.
Giờ đây đọc lại hệ thống luận điểm của Hồ Chí Minh, khởi đầu từ những năm 20
của thế kỷ trước, cho đến tư tưởng chỉ đạo hai cuộc chiến tranh cứu nước, giải
phóng dân tộc là trước sau như một nhất quán với tinh thần “Không có gì quý hơn
độc lập tự do” mới thấy “vào thời ấy, hệ thống luận điểm của Hồ Chí Minh mới mẻ
đến kỳ lạ, khó lòng tưởng tượng. Nó nằm trong dòng sáng tạo cách mạng của
những con ngừơi mà cống hiến lý luận và sự nghiệp đấu tranh vạch đường cho thời
đại” (Phạm Văn Đồng).
Đó là một con người sáng tạo, rất sáng tạo, con người đổi mới, thường xuyên đổi
mới, đổi mới rất táo bạo. Con người ấy “có sự dị ứng bẩm sinh với bệnh giáo điều
rập khuôn, bệnh công thức sáo mòn”. Từ quan điểm, đường lối cho đến cách sống,
cách nói, cách viết, Hồ Chí Minh quyết liệt chống sự sáo mòn, hướng tới cái thiết
thực, đạt tới hiệu quả cao nhất.
Trong con người ấy có sự hòa quyện nhuần nhị lý trí với tình cảm và tâm linh, sự
gắn kết rất tự nhiên giữa tâm hồn nhạy cảm của một nhà thơ, với bản lĩnh tinh nhạy
của một chính khách, và sự khoan hòa nhân ái của một lãnh tụ nhân dân. Đặc điểm
nổi bật ấy tạo ra phong thái rất độc đáo của Hồ Chí Minh không trộn lẫn vào đâu
được. Nhờ vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh đến với mọi tầng lớp nhân dân một cách dễ
dàng vì nó gần gũi với cách cảm, cách nghĩ của họ, vừa rất truyền thống, vừa rất
hiện đại. Biết cách làm cho dễ hiểu để đến được với người có trình độ học vấn
thấp, song lại biết cách nâng cao lên để diễn đạt được chân lý của cuộc sống, thể
hiện được khát vọng thầm kín và sâu xa của con người, nhất là những con người
cùng khổ, con người bị áp bức.
Cách tư duy cũng như cách ứng xử của Hồ Chí Minh, như có người nhận xét, “vừa
rất ta, vừa rất tây”, đây cũng là một nét độc đáo rất Hồ Chí Minh. Đã có người
quan sát và kể lại cách Hồ Chí Minh chọn và ngắt một bông hoa hồng trong vườn
Phủ Chủ tịch để tặng một người phụ nữ Pháp là 100% châu Âu . Nhưng cách Bác
Hồ bưng bát nước chè xanh của một cụ già nông dân mời, vừa thổi, vừa uống thì
100% là Việt Nam. Ở trong ứng xử cũng như trong cách viết, cách trả lời nhà báo
nước ngoài, cách diễn đạt những mệnh đề lý luận của Hồ Chí Minh có sự tinh tế
nhuần nhuyễn của những đường nét triết lý phương Đông và văn hóa phương Tây,
vừa dân tộc vừa quốc tế. Việt Nam, Phương Đông, Phương Tây, thế giới, thời đại
đều có trong cốt cách ứng xử của Hồ Chí Minh. Không quá cường điệu khi Hélène
Tourmaire, một nhà văn và cũng là nhà báo viết: “Hình ảnh Hồ Chí Minh đã hoàn
chỉnh với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của
Mác, thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của một người chủ gia tộc, tất cả
bao bọc trong một dáng dấp rất tự nhiên”.
Có thể nói một trong những nét độc đáo nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh là tính hệ
thống đồng bộ của nó. Hệ thống đồng bộ trong những quan hệ tương tác với nhau,
thâm nhập vào nhau, chuyển hóa thành nhau của chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
tức là các chiều cạnh của cuộc sống xã hội. Đây chính là khái niệm mới về nền văn
minh.
Hồ Chí Minh không bị đẩy lệch về kinh tế, không rơi vào “kinh tế luận”, cũng
không bị đẩy lệch về chính trị để rơi vào cái vũng bùn của quan điểm “chính trị là
thống soái” từng gây nên bao thảm họa. Hồ Chí Minh càng không lệch về quân sự,
để rơi vào sự sùng bái bạo lực, “chính quyền ra đời từ đầu ngọn súng” đấu tranh
giai cấp, “một mất một còn” trong cuộc chiến “ai thắng ai”, cội nguồn của bao tai
họa mà di lụy của nó vẫn chưa gột sạch, có lúc lại trở thành cách đánh lạc hướng
những đòi hỏi về dân chủ, dân quyền và dân sinh rất thiết thực trong đời sống của
người dân.
Không bị rơi vào những sai lầm, lệch lạc đó, vì Hồ Chí Minh có nhận thức sâu sằc
về tính hệ thống đồng bộ xã hội, và trong tổng thể xã hội ấy, một quan niệm về xã
hội mới mà Hồ Chí Minh muốn xây dựng. Trong ấy, Hồ Chí Minh đặt con người ở
vị trí trung tâm. Đó là nét đặc sắc nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh. Mà như thế
có nghĩa là đặc biệt coi trọng về văn hóa, vì nói đến con người chính là nói đến văn
hóa.
Hồ Chí Minh đã làm hết sức mình để nâng cao trình độ phát triển kinh tế của đất
nước. Không coi nhẹ kinh tế, không coi nhẹ chính trị, nhưng đặc biệt coi trọng văn
hóa. Cố nâng đời sống kinh tế lên cho từng người, từng nhóm người, đặc biệt cho
nhóm người đang có mức sống quá thấp, để trên cái nền của đời sống vật chất
được nâng cao dần lên đó, mà có điều kiện đem lại hạnh phúc cho con người. Vì
vậy, văn hóa là nhân tố đặc biệt quan trọng. Văn hóa bao gồm trí tuệ, tình cảm,
phẩm chất, đạo đức, tóm lại là “cuộc sống người của con người”.
Với đặc sắc tư tưởng nổi bật như vậy, Hồ Chí Minh đã mở ra con đường và
phương pháp xây dựng xã hội mới của Việt Nam, cũng có thể có giá trị đối với các
nước đang phát triển. Thấy khoa học, thấy công nghệ, thấy kinh tế, thấy lý trí và trí
tuệ, nhưng những cái đó không phải cái đặc sắc và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Chỗ
đặc sắc và sáng tạo của Hồ Chí Minh là nhận thức sâu sắc về tổng thể con người,
về văn hóa. Tổng thế và văn hóa, tức là con người. Đó chính là tầm nhìn và cách tư
duy để tìm kiếm con đường hiện đại, có thể rút ngắn đoạn đường, đi tắt để phát
triển.
Quán triệt điểm đặc sắc ấy của tư tưởng Hồ Chí Minh, thì về kinh tế sẽ tránh rơi
vào nền kinh tế thị trường hoang dã, chộp giậ̣t, mà làm kinh tế, làm chính trị là để
nhằm tôn vinh dân chủ, tức là tôn vinh người dân và con người. Nếu làm kinh tế
thị trường đơn thuần với chính trị với hàm nghĩa những mưu lược, thì mục tiêu dù
đạt được cũng dễ làm mất văn hóa, dễ “nuốt trôi” mất văn hóa. Ngược lại, xuất
phát từ văn hóa, tức là từ con người thì sẽ nâng cao kinh tế và chính trị lên với
những nội dung văn hóa được đưa vào. Nếu hiểu sâu sắc đặc điểm nổi trội ấy của
tư tưởng Hồ Chí Minh, sẽ giúp hình thành một hệ thống giá trị chân chính của xã
hội mới.
Từ nét đặc điểm nổi trội ấy mà nhận ra tinh thần đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đại đoàn kết để xây dựng xã hội mới. Mãi mãi đại đoàn kết dân tộc.
Đây là điểm độc đáo của tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng của C.Mác, Ph
Angghen, V.I Lênin không tìm thấy điều này, hoặc nếu có đôi điều nói thoáng qua,
chứ không tập trung, nổi bật như của Hồ Chí Minh.
Qua quá trình tiến lên của cách mạng, mục tiêu, động lực và lực lượng không hề có
sự sắp xếp loại bỏ, thay đổi, chỉ có sự nâng cao về chất mà không bớt đi về lượng ,
về số tầng lớp, số người tham gia. Nghĩa là, với Hồ Chí Minh, không có chuyện
một bộ phận nào đó của nhân dân, một tầng lớp xã hội nào đó nửa chừng đứt gánh,
không thể cùng chung con đường mình đang đi. Không có chuyện ai đó, tầng lớp
nào đó chỉ là “bạn đường một đoạn” trong cả chặng đường dài, vì họ không còn đủ
điều kiện theo đến cùng nên phải thải loại ra.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có luận điểm về sắp xếp lực lượng cách mạng
trong từng giai đoạn, bố trí chiến lược, chiến thuật về lực lượng: lực lượng chủ lực,
lực lượng đồng minh gần tức là đồng minh chiến lược, rồi đồng minh xa, tức là
đồng minh chiến thuật, lực lượng trung lập lâu dài hoặc trung lập từng lúc một như
trong những chỉ dẫn của C.Mác, Ph Angghen, V.I Lênin. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh có thể có những thay đổi về mục tiêu cụ thể, thay đổi về nhiệm vụ, chủ
trương và phương pháp nhưng không có sự thay đổi về lực lượng cách mạng.
Trong học thuyết và tư tưởng của C.Mác, Ph Angghen, V.I Lênin có khái niệm
“bạn đường một đoạn”, trong Hồ Chí Minh không hề có điều ấy.
Cũng đã có một số người vì những lý do nào đó không thể đi theo Hồ Chí Minh,
trong đó có người rất đau lòng, nuối tiếc vì hoàn cảnh bắt buộc và rồi sau đó họ
quay trở lại với Hồ Chí Minh. Cũng có thể nói, chỉ có ai đó đã bỏ Hồ Chí Minh,
chứ Hồ Chí Minh thì không bỏ một ai. Ai đó tự loại trừ chính mình, chứ Hồ Chí
Minh không loại trừ ai. Phải lưu ý nhấn mạnh điều này vì, cũng đã có người nhân
danh cách mạng đã làm hoen ố sự chân thành, thủy chung như nhất của Hồ Chí
Minh với khối đại đoàn kết dân tộc. Bằng những thủ đoạn bè phái, hẹp hòi, họ đã
làm tổn thương đến niềm tin của dân đối với tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ đã làm vấy
bẩn hình ảnh Hồ Chí Minh trong sự tin yêu và thân thiết với tấm lòng rộng mở và
chân thành cuỉa Hồ Chí Minh, làm cho những ngừơi trung thực giảm lòng tin vào
Hồ Chí Minh. Những hẹp hòi, thiển cận, thủ đoạn của họ đã gây nên những tổn
thất cho sự nghiệp mà Hồ Chí Minh suốt đời đeo đuổi.
Hồ Chí Minh rất coi trọng cá nhân từng người trong cộng đồng dân tộc. Điều này
do nhiều nhân tố tạo thành chứ không phải chỉ là do tiếp thu được từ học thuyết
của C.Mác. Nếu có tiếp thu thì là tiếp thu cái cốt lõi có giá trị nhất của học thuyết
ấy bằng truyền thống về nhân văn sâu xa từ triết lý cổ đại thời Hy La, rồi hiện đại
dần lên đến thời cổ điển, phục hưng, khai sáng cho đến thời hiện đại của phương
Tây. Có thể nói, truyền thống nhân văn ấy là phần rất nổi bật trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Về mặt coi trọng cá nhân con người, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong
chừng mực nào đó, là rộng hơn C.Mác. Điều này gắn liền với giá trị tinh thần Việt
Nam trong truyền thống văn hóa phương Đông đối với con người. Điểm nổi bật
nhất của giá trị đó chính là biểu hiện xuyên suốt trong cuộc đời, trong sự nghiệp và
trong tư tưởng bản chất người, bản chất dân tộc của Hồ Chí Minh. Có được điều ấy
vì Hồ Chí Minh phải sống và hoạt động trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Những
đốm lửa cách mạng được nhen nhóm từ trong điều kiện rất hiểm nghèo, khắc
nghiệt của chế độ thuộc địa Pháp ở Việt Nam, phải chắt chiu, trân trọng gìn giữ và
phát huy từng cá nhân con người, phải coi trọng từng cá nhân con người mới có thể
thổi bùng lên ngọn lửa của Cách mạng Tháng Tám và ngọn lửa kháng chiến của
các cuộc kháng chiến trường kỳ trong thế kỷ XX.
Hồ Chí Minh nâng niu trân trọng con người, từng cá nhân con người, nhẫn nại thức
tỉnh, giác ngộ, đào tạo từng người, không nề hà công sức, không quản ngại khó
khăn, năng nhặt chặt bị, từng ly từng tí một góp gió thành bão. Khởi đầu từ cái cụ
thể tưởng như nhỏ nhặt không đáng kể để rồi trở thành một công trình vĩ đại mang
ý nghĩa thời đại, ý nghĩa lịch sử.
Đi khắp năm châu bốn biển, ôm ấp một hoài bão lớn lao về giải phóng dân tộc
mình, góp phần giải phóng loài người, nhưng khi trở về lại mảnh đất của quê
hương, đất nước thì lại có thể kiên trì giúp đỡ, dìu dắt, giác ngộ cho một đồng bào
của mình ở miền núi, từ việc nhẫn nại dạy chữ, giảng giải về hoạt động cách mạng
để người đó có thể trực tiếp tham gia rồi dần dần trở thành người cán bộ cách
mạng. Không chỉ là cá biệt một người, mà nhiều trường hợp với nhiều người khác
cũng đã được Hồ Chí Minh trực tiếp dìu dắt, giúp đỡ mà trưởng thành.
Biết đánh giá, sử dụng và phát huy từng người cả đức và tài của họ. Trong rất
nhiều trường hợp, nhất là trong những trường hợp có ý nghĩa lịch sử, thiên tài của
Hồ Chí Minh thể hiện ra ở đây là chọn rất đúng và rất trúng người đáp ứng được
đòi hỏi của nhiệm vụ lịch sử ấy.
Tôn trọng, chăm lo, tạo điều kiện làm nảy nở và tạo dựng nên nhân cách của từng
ngừơi. Hồ Chí Minh hiểu rõ thế nào là nhân cách, rất dễ dàng cảm thông, trân
trọng nhân cách và cá tính của con người. Nếu nhớ lại rằng, do điều kiện đặc biệt
của người chiến sĩ cách mạng luôn luôn phải đối phó với hoàn cảnh khắc nghiệt
bởi tính chất của công việc và mạng lưới bủa vây, truy lùng của kẻ thù, Hồ Chí
Minh không có gia đình, không có được môi trường sống bình thường của một con
người trong tình cảm, nghĩa vu và ứng xử hàng ngày với ông bà, cha mẹ, vợ con,
anh chị em… Hiểu như vậy mới thấy hết được cái lớn của tấm lòng cảm thông và
cung cách ứng xử hàng ngày của Hồ Chí Minh với mọi người, với từng người.
Hồ Chí Minh thực hiện một cách mẫu mực và chân thật sự bình đẳng của các cá
nhân, không hề cường điệu, phân biệt giữa người bình thường với người giữ trọng
trách, người ở cương vị cao chót vót. Hồ Chí Minh thường xuyên hỏi ý kiến các
đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước song cũng đồng thời sẵn sàng và thành
thật hỏi ý kiến những đồng chí cấp dưỡng, lái xe, bảo vệ mình gặp hàng ngày.
Người ta kể lại rằng, có lần Hồ Chí Minh không chấp nhận ý kiến của một Uy viên
Bộ Chính trị, nhưng lại lắng nghe và chấp nhận ý kiến của một người cấp dưỡng.
Bằng cuộc sống đầy bản sắc của riêng mình, Hồ Chí Minh biết và hiểu được theo
chiều sâu bản sắc của từng người, từng hạng người để tôn trọng và giúp trau giồi
bản sắc ấy ở mỗi người. Hồ Chí Minh đều rất tôn trọng cả hai mặt: một mặt là cải
tạo hoàn cảnh bên ngoài trở nên hoàn cảnh có tính người như C.Mác nói, để qua
đó, cải tạo con người và làm nên được bản sắc của con người mới. Một mặt khác,
đi vào chiều sâu bên trong của từng con người như tâm linh dân tộc, tâm linh tôn
giáo, tính chất trí thức, đặc điểm thế hệ, tâm lý cá nhân, những khát vọng, những
nét bản sắc của từng cá nhân ấy.
Phương pháp luận để hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi để hiểu được sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh,
chúng tôi nghiệm ra rằng, cần phải xác lập cho mình một cách thức tìm hiểu, điều
mà người ta hay nói là phương pháp luận. Xin gợi ra đây những suy ngẫm về vấn
đề này.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có sự bình thường sau khi đã trải qua sự cao siêu; có sự
giản dị sau khi đã trải qua sự phong phú, đa dạng, phức tạp; cụ thể sau khi đã trải
qua trừu tượng; mộc mạc sau khi đã rất tinh tế; đạm, rất đạm sau khi đã rất nồng;
khiêm nhường sau khi đã từng trải để rất biết người, biết mình; ung dung, thanh
thản sau khi tự mình đã trải nghiệm qua biết bao sự chịu đựng cay đắng đủ điều, từ
sự chịu đựng vì sự nghiệp của nước, của dân cho đến sự đắng cay của cuộc sống cá
nhân, của thân phận con người.
Vì vậy, đơn giản hóa, tầm thường hóa, dung tục hóa, hoặc ngược lại rắc rối đến cầu
kỳ, phức tạp, đi sâu vào tầm chương trích cú, tìm sự phong phú ở cái rậm rạp, xô
bồ trong cách nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh thì rồi dù vô tình hay cố ý cũng
đều không dẫn đến cách nắm bắt và tiếp nhận cái cốt lõi của tư tưởng Hồ chí Minh.
Cũng giống như những nhà tư tưởng lớn của loài người mà Hồ Chí Minh đã học
hỏi tiếp thu, tư tưởng Hồ Chí Minh có sự đa dạng, nhiều chiều, năng động, luôn
luôn phát triển chứ không phải là “nhất thành bất biến”. Chỉ có một điều cần thấy
rõ, đó là, từ lúc manh nha, đến lúc hình thành, và khi vận dụng vào cuộc sống, rồi
được sửa chữa, bổ sung, đều đã thể hiện sự nhất quán, rất nổi bật “tính chất trước
sau như một” của tư tưởng Hồ Chí Minh. Cả hai biểu hiện ấy, “đa dạng, năng
động, nhiều chiều, không“nhất thành bất biến” thống nhất với sự nhất quán, “trước
sau như một”, xin được gọi là “tính chất một” cực kỳ hàm súc của tư tưởng Hồ Chí
Minh có ý nghĩa rất lớn.
"Đừng cố tìm ở Hồ Chí Minh cái gì cũng đều có, cũng đều “vĩ đại”, vì như vậy
chính là xuyên tạc, hạ thấp hoặc là bôi nhọ tư tưởng Hồ Chí Minh." - GS. đưa ra
một vài gợi ý để hiểu sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phòng làm việc của Người ở căn cứ Việt Bắc.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh” không đơn thuần chỉ là sự vận dụng một cách sáng tạo
những tư tưởng lý luận của “học thuyết C.Mác” vào hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam. Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu những phần tinh tuý nhất của học thuyết
khoa học và cách mạng đó. Là một nhà cách mạng chuyên nghiệp đã bôn ba khắp
năm châu bốn biển, Hồ Chí Minh đã hấp thu vào mình trí tuệ, văn hoá của cả loài
người, vì thế, Bác Hồ được thế giới nói đến như là một danh nhân văn hoá.
Có được điều đó, trước hết là do Hồ Chí Minh am hiểu sâu sắc về dân tộc mình,
thấm nhuần lịch sử và văn hoá của dân tộc. Nhờ nắm vững phương pháp biện
chứng của học thuyết C.Mác gắn với tư duy thực tiễn của người cách mạng Việt
Nam gắn bó máu thịt với dân tộc mình, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự
kết hợp hài hoà đó.
Nhân kỷ niệm lần thứ 118 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xin mạnh dạn gợi
lên đôi điều suy nghĩ: làm thế nào nghiên cứu để hiểu thật sâu sắc, để thấm nhuần
tư tưởng Hồ Chí Minh. Xin chỉ gợi lên mấy vấn đề về hiểu và về phương pháp
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh:
Con người Hồ Chí Minh
Nói đến tư tưởng, trước hết phải nói đến con người. Con người mà cuộc đời và sự
nghiệp gắn liền với những sự kiện lịch sử Việt Nam, với những biến động lớn của
thế giới trong một thời đoạn lịch sử đặc biệt với những biến động cực lớn.
Nguyễn Ái Quốc đến với học thuyết của C.Mác và Ph. Angghen, đến với tư tưởng
của V.I Lênin, từ thân phận của một người mất nước, một người dân thuộc địa, một
người được hấp thu nền học vấn và triết lý phương Đông, rồi được bổ sung văn
hóa và triết lý phương Tây, trước hết là văn hóa Pháp. Con người ấy, so với
C.Mác, Ph Angghen và V. I Lênin, thì trải nhiều oan nghiệt, cay đắng về thân phận
cá nhân hơn nhiều. Từ thân phận ấy, Hồ Chí Minh dễ có sự thông cảm sâu sắc hơn
và mãnh liệt hơn với người dân thuộc địa nói riêng và những người lao động nghèo
khổ, những dân tộc đang bị nô lệ, bị giày xéo phải gánh chịu áp bức, bất công trên
thế giới nói chung. Sự cảm thông ấy không chỉ dừng lại ở thân phận cá nhân để
nhìn ngắm và suy đoán về thế giới, mà đã vượt khỏi chính mình để có được cái tầm
cao của người chiến sĩ cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
Là con người sống ở gần ba phần tư đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh có điều kiện để
thấy và hiểu được sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa với phong trào giải phóng dân
tộc làm thay đổi cục diện thế giới từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam,
tạo ra một phản ứng dây chuyền, đánh sụp chủ nghĩa thực dân cũ, xuất hiện chủ
nghĩa thực dân mới. Ba phần tư thế kỷ này chất chứa bao nhiêu sự biến, tác động
mạnh đến số phận của nhiều dân tộc trên hành tinh này.
Tuy nhiên, cũng như C.Mác, Ph Angghen và V.I Lênin, Hồ Chí Minh không thấy
được những biến động dữ dội về đời sống chính trị làm thay đổi diện mạo của thế
giới mà sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa cùng với những bước
tiến như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ của một phần tư cuối
thế kỷ XX bước sang thế kỷ XXI, những sự biến nổi bật nhất. Đặc biệt khoa học và
công nghệ, một phần tư thế kỷ này có những bước tiến lớn hơn rất nhiều những thế
kỷ trước gộp lại.
Chứng kiến những biến động ấy khiến cho tầm mắt không ít người đươc mở rộng
hơn nhờ vào “sự xé toang một tấm màng bưng bít, sự hiện ra và sáng lên của sự
thật, sự tan vỡ một số huyền thoại, sự phá sản nhiều giáo điều, sự bộc lộ những sai
lầm trầm kha, sự nhận thức mới, không phải về lý tưởng mà về lý luận cách mạng,
thực tiễn hoạt động và thực tế đời sống, sự khơi dậy những niềm hy vọng mới, sự
bắt đầu một quá trình thanh lọc và tái tạo đầy hứa hẹn” .
Hồ Chí Minh đã từng là người đứng ở vị trí quyền lực cao nhất của Đảng và Nhà
nước của một nước Việt Nam đã giành được độc lập, tự do trong 24 năm, từ tháng
8.1945 đến tháng 9.1969, sau cũng ngần ấy năm đã từng là lãnh tụ của Đảng, của
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trước 1945. So với V.I Lênin chỉ có 7 năm lãnh
đạo Nhà nước Xô Viết (1917-1924), Hồ Chí Minh có hơn gấp ba thời gian ở cương
vị Chủ tịch nước. Với 24 năm là lãnh tụ của một Đảng cầm quyền, là Chủ tịch
Nước, đứng ở đỉnh cao quyền lực, song Hồ Chí Minh trước sau vẫn thủy chung
như nhất là người lãnh tụ của nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, chiếm trọn
trái tim của nhân dân, xứng đáng với lời ghi nhận của nhân dân và của Đảng: “Dân
tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng
dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông
đất nước ta”.
So với C.Mác, Ph. Angghen và V.I Lênin, học vấn của Hồ Chí Minh không bằng,
bù vào đấy là sự thâm nhập vào cuộc sống, lăn lộn nhiều hơn, đi nhiều hơn, thấy
nhiều hơn, đến được nhiều chân trời hơn, sống với nỗi khổ đau của con người
nhiều hơn. Những con người ở nhiều đất nước, nhiều châu lục, nhiều màu da,
nhiều tiếng nói, nhất là tiếng nói của những người cùng khổ.
Quả là hiếm có lãnh tụ cách mạng nào có điều kiện tắm mình trong những quằn
quại suy tư, những khát vọng rộng lớn của con người đến như vậy. Hồ Chí Minh,
vì thế, là người chiến sĩ cách mạng có những rung động của một nhà thơ. Nhà thơ
trong nhà cách mạng Hồ Chí Minh. Để có được một số bài thơ hay mà không phải
nhà cách mạng nào cũng có được: “Trong tâm hồn Hồ Chí Minh luôn luôn phảng
phất có thơ ” (Phạm văn Đồng). Đấy là một nét độc đáo trong nhân cách Hồ Chí
Minh. Điều này khiến cho Hồ Chí Minh biết cảm nhận và rung động mãnh liệt, sâu
lắng với con người trong sự sống đa dạng và phức tạp của nó.
Tầm vóc Hồ Chí Minh
Bác Hồ nói chuyện với đồng bào, cán bộ, bộ đội tại Thuận Châu ngày 7 tháng 5
năm 1959
Tầm vóc của con người, cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh có thể nói gọn lại
trong năm điểm nổi bật sau đây :
Trước hết và sau cùng, Hồ Chí Minh là một con người rất người, một người Việt
Nam rất Việt Nam. Đúng là “dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh
ra Hồ Chí Minh” theo đúng nghĩa sâu sắc, đậm đặc và rất nhất quán một nhân cách
Hồ Chí Minh, một đường nét văn hóa Hồ Chí Minh rất Việt Nam. Những gì là lý
luận, là khoa học, là uyên bác, là thâm thúy đều có trong Hồ Chí Minh song đó
chính là sự hòa quyện, sự kết đọng của sự thông tuệ dân gian.
Đó là sự thông minh, tế nhị và mộc mạc của tinh hoa văn hóa Việt Nam thể hiện
trong ứng xử hàng ngày của người dân quê trên đồng ruộng, giữa núi rừng, nơi
“thôn cùng xóm vắng” [Nguyễn Trãi]. Những uyên bác, những thâm thúy, những
tế nhị và mộc mạc hòa quyện vào trong sự thông tuệ dân gian ấy được Hồ Chí
Minh tiếp thu một cách hồn nhiên, thoải mái và có chọn lọc, để rồi thể hiện ra một
cách dung dị nhưng không kém phần sâu lắng tế nhị, không kém phần minh triết
trong cái khôn ngoan dân dã Việt Nam!
Chính điều này vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của sự gắn bó máu thịt giữa lãnh
tụ và quần chúng, niềm tin yêu của nhân dân dành cho lãnh tụ của mình và là “ham
muốn, ham muốn đến tột bậc” của Hồ Chí Minh về cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc của nhân dân mình.
Với đặc điểm này, cho dù với sự khiêm tốn tuyệt đối cần thiết, cũng phải nói rằng,
so với những lãnh tụ cách mạng khác, Hồ Chí Minh có sự kết đọng đậm đặc hơn,
quán triệt hơn, sâu xa và thấm thía hơn trong sự gắn bó tin yêu với nhân dân của
mình và đồng thời hình ảnh Hồ Chí Minh sống trọn vẹn trong trái tim của họ. Hồ
Chí Minh ở trong họ, gần gũi thân thiết với họ, nâng họ lên để cùng đứng với mình
chứ không bao giờ đứng trên họ. Hồ Chí Minh với nhân dân mình là một.
Nói như nhà báo Úc Burchett “Nói tới một người mà cả cuộc đời mình để lại ân
tình sâu nặng trong nhân dân thì không có ai ngoài Chủ tịch Hồ Chí Minh”, và như
đòi hỏi của Charles Fourniau, nhà sử học Pháp “cần làm nổi bật một cách hiển
nhiên và trên mọi tầm vóc, hình ảnh một con người đã là một trong ba hoặc bốn
nhân vật vĩ đại nhất của phong trào công nhân và cách mạng thế giới, một trong
những vĩ nhân của thế kỷ chúng ta”
Hồ Chí Minh là con người của hành động, hành động rất thiết thực. Con người ấy
không viết nhiều, không nói nhiều, không viết dài nói dài, song là con người làm,
làm rất nhiều. Con người ấy nói ít, làm nhiều, thậm chí không cần nói, chỉ cần làm
để rồi bằng việc làm cụ thể mà thuyết phục người ta làm theo mình. Nhưng như thế
không hề là chủ thuyết của một nhà “triết học vô ngôn”, hoặc một “chính khách vô
ngôn”. Hồ Chí Minh không phải không có những tác phẩm, những công trình,
những bài viết, những diễn văn, những lời kêu gọi... Nhưng, tác phẩm lớn hơn cả,
bài học sâu sắc nhất chính là cả cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.
Giờ đây đọc lại hệ thống luận điểm của Hồ Chí Minh, khởi đầu từ những năm 20
của thế kỷ trước, cho đến tư tưởng chỉ đạo hai cuộc chiến tranh cứu nước, giải
phóng dân tộc là trước sau như một nhất quán với tinh thần “Không có gì quý hơn
độc lập tự do” mới thấy “vào thời ấy, hệ thống luận điểm của Hồ Chí Minh mới mẻ
đến kỳ lạ, khó lòng tưởng tượng. Nó nằm trong dòng sáng tạo cách mạng của
những con ngừơi mà cống hiến lý luận và sự nghiệp đấu tranh vạch đường cho thời
đại” (Phạm Văn Đồng).
Đó là một con người sáng tạo, rất sáng tạo, con người đổi mới, thường xuyên đổi
mới, đổi mới rất táo bạo. Con người ấy “có sự dị ứng bẩm sinh với bệnh giáo điều
rập khuôn, bệnh công thức sáo mòn”. Từ quan điểm, đường lối cho đến cách sống,
cách nói, cách viết, Hồ Chí Minh quyết liệt chống sự sáo mòn, hướng tới cái thiết
thực, đạt tới hiệu quả cao nhất.
Trong con người ấy có sự hòa quyện nhuần nhị lý trí với tình cảm và tâm linh, sự
gắn kết rất tự nhiên giữa tâm hồn nhạy cảm của một nhà thơ, với bản lĩnh tinh nhạy
của một chính khách, và sự khoan hòa nhân ái của một lãnh tụ nhân dân. Đặc điểm
nổi bật ấy tạo ra phong thái rất độc đáo của Hồ Chí Minh không trộn lẫn vào đâu
được. Nhờ vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh đến với mọi tầng lớp nhân dân một cách dễ
dàng vì nó gần gũi với cách cảm, cách nghĩ của họ, vừa rất truyền thống, vừa rất
hiện đại. Biết cách làm cho dễ hiểu để đến được với người có trình độ học vấn
thấp, song lại biết cách nâng cao lên để diễn đạt được chân lý của cuộc sống, thể
hiện được khát vọng thầm kín và sâu xa của con người, nhất là những con người
cùng khổ, con người bị áp bức.
Cách tư duy cũng như cách ứng xử của Hồ Chí Minh, như có người nhận xét, “vừa
rất ta, vừa rất tây”, đây cũng là một nét độc đáo rất Hồ Chí Minh. Đã có người
quan sát và kể lại cách Hồ Chí Minh chọn và ngắt một bông hoa hồng trong vườn
Phủ Chủ tịch để tặng một người phụ nữ Pháp là 100% châu Âu . Nhưng cách Bác
Hồ bưng bát nước chè xanh của một cụ già nông dân mời, vừa thổi, vừa uống thì
100% là Việt Nam. Ở trong ứng xử cũng như trong cách viết, cách trả lời nhà báo
nước ngoài, cách diễn đạt những mệnh đề lý luận của Hồ Chí Minh có sự tinh tế
nhuần nhuyễn của những đường nét triết lý phương Đông và văn hóa phương Tây,
vừa dân tộc vừa quốc tế. Việt Nam, Phương Đông, Phương Tây, thế giới, thời đại
đều có trong cốt cách ứng xử của Hồ Chí Minh. Không quá cường điệu khi Hélène
Tourmaire, một nhà văn và cũng là nhà báo viết: “Hình ảnh Hồ Chí Minh đã hoàn
chỉnh với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của
Mác, thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của một người chủ gia tộc, tất cả
bao bọc trong một dáng dấp rất tự nhiên”.
Có thể nói một trong những nét độc đáo nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh là tính hệ
thống đồng bộ của nó. Hệ thống đồng bộ trong những quan hệ tương tác với nhau,
thâm nhập vào nhau, chuyển hóa thành nhau của chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
tức là các chiều cạnh của cuộc sống xã hội. Đây chính là khái niệm mới về nền văn
minh.
Hồ Chí Minh không bị đẩy lệch về kinh tế, không rơi vào “kinh tế luận”, cũng
không bị đẩy lệch về chính trị để rơi vào cái vũng bùn của quan điểm “chính trị là
thống soái” từng gây nên bao thảm họa. Hồ Chí Minh càng không lệch về quân sự,
để rơi vào sự sùng bái bạo lực, “chính quyền ra đời từ đầu ngọn súng” đấu tranh
giai cấp, “một mất một còn” trong cuộc chiến “ai thắng ai”, cội nguồn của bao tai
họa mà di lụy của nó vẫn chưa gột sạch, có lúc lại trở thành cách đánh lạc hướng
những đòi hỏi về dân chủ, dân quyền và dân sinh rất thiết thực trong đời sống của
người dân.
Không bị rơi vào những sai lầm, lệch lạc đó, vì Hồ Chí Minh có nhận thức sâu sằc
về tính hệ thống đồng bộ xã hội, và trong tổng thể xã hội ấy, một quan niệm về xã
hội mới mà Hồ Chí Minh muốn xây dựng. Trong ấy, Hồ Chí Minh đặt con người ở
vị trí trung tâm. Đó là nét đặc sắc nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh. Mà như thế
có nghĩa là đặc biệt coi trọng về văn hóa, vì nói đến con người chính là nói đến văn
hóa.
Hồ Chí Minh đã làm hết sức mình để nâng cao trình độ phát triển kinh tế của đất
nước. Không coi nhẹ kinh tế, không coi nhẹ chính trị, nhưng đặc biệt coi trọng văn
hóa. Cố nâng đời sống kinh tế lên cho từng người, từng nhóm người, đặc biệt cho
nhóm người đang có mức sống quá thấp, để trên cái nền của đời sống vật chất
được nâng cao dần lên đó, mà có điều kiện đem lại hạnh phúc cho con người. Vì
vậy, văn hóa là nhân tố đặc biệt quan trọng. Văn hóa bao gồm trí tuệ, tình cảm,
phẩm chất, đạo đức, tóm lại là “cuộc sống người của con người”.
Với đặc sắc tư tưởng nổi bật như vậy, Hồ Chí Minh đã mở ra con đường và
phương pháp xây dựng xã hội mới của Việt Nam, cũng có thể có giá trị đối với các
nước đang phát triển. Thấy khoa học, thấy công nghệ, thấy kinh tế, thấy lý trí và trí
tuệ, nhưng những cái đó không phải cái đặc sắc và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Chỗ
đặc sắc và sáng tạo của Hồ Chí Minh là nhận thức sâu sắc về tổng thể con người,
về văn hóa. Tổng thế và văn hóa, tức là con người. Đó chính là tầm nhìn và cách tư
duy để tìm kiếm con đường hiện đại, có thể rút ngắn đoạn đường, đi tắt để phát
triển.
Quán triệt điểm đặc sắc ấy của tư tưởng Hồ Chí Minh, thì về kinh tế sẽ tránh rơi
vào nền kinh tế thị trường hoang dã, chộp giậ̣t, mà làm kinh tế, làm chính trị là để
nhằm tôn vinh dân chủ, tức là tôn vinh người dân và con người. Nếu làm kinh tế
thị trường đơn thuần với chính trị với hàm nghĩa những mưu lược, thì mục tiêu dù
đạt được cũng dễ làm mất văn hóa, dễ “nuốt trôi” mất văn hóa. Ngược lại, xuất
phát từ văn hóa, tức là từ con người thì sẽ nâng cao kinh tế và chính trị lên với
những nội dung văn hóa được đưa vào. Nếu hiểu sâu sắc đặc điểm nổi trội ấy của
tư tưởng Hồ Chí Minh, sẽ giúp hình thành một hệ thống giá trị chân chính của xã
hội mới.
Từ nét đặc điểm nổi trội ấy mà nhận ra tinh thần đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đại đoàn kết để xây dựng xã hội mới. Mãi mãi đại đoàn kết dân tộc.
Đây là điểm độc đáo của tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng của C.Mác, Ph
Angghen, V.I Lênin không tìm thấy điều này, hoặc nếu có đôi điều nói thoáng qua,
chứ không tập trung, nổi bật như của Hồ Chí Minh.
Qua quá trình tiến lên của cách mạng, mục tiêu, động lực và lực lượng không hề có
sự sắp xếp loại bỏ, thay đổi, chỉ có sự nâng cao về chất mà không bớt đi về lượng ,
về số tầng lớp, số người tham gia. Nghĩa là, với Hồ Chí Minh, không có chuyện
một bộ phận nào đó của nhân dân, một tầng lớp xã hội nào đó nửa chừng đứt gánh,
không thể cùng chung con đường mình đang đi. Không có chuyện ai đó, tầng lớp
nào đó chỉ là “bạn đường một đoạn” trong cả chặng đường dài, vì họ không còn đủ
điều kiện theo đến cùng nên phải thải loại ra.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có luận điểm về sắp xếp lực lượng cách mạng
trong từng giai đoạn, bố trí chiến lược, chiến thuật về lực lượng: lực lượng chủ lực,
lực lượng đồng minh gần tức là đồng minh chiến lược, rồi đồng minh xa, tức là
đồng minh chiến thuật, lực lượng trung lập lâu dài hoặc trung lập từng lúc một như
trong những chỉ dẫn của C.Mác, Ph Angghen, V.I Lênin. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh có thể có những thay đổi về mục tiêu cụ thể, thay đổi về nhiệm vụ, chủ
trương và phương pháp nhưng không có sự thay đổi về lực lượng cách mạng.
Trong học thuyết và tư tưởng của C.Mác, Ph Angghen, V.I Lênin có khái niệm
“bạn đường một đoạn”, trong Hồ Chí Minh không hề có điều ấy.
Cũng đã có một số người vì những lý do nào đó không thể đi theo Hồ Chí Minh,
trong đó có người rất đau lòng, nuối tiếc vì hoàn cảnh bắt buộc và rồi sau đó họ
quay trở lại với Hồ Chí Minh. Cũng có thể nói, chỉ có ai đó đã bỏ Hồ Chí Minh,
chứ Hồ Chí Minh thì không bỏ một ai. Ai đó tự loại trừ chính mình, chứ Hồ Chí
Minh không loại trừ ai. Phải lưu ý nhấn mạnh điều này vì, cũng đã có người nhân
danh cách mạng đã làm hoen ố sự chân thành, thủy chung như nhất của Hồ Chí
Minh với khối đại đoàn kết dân tộc. Bằng những thủ đoạn bè phái, hẹp hòi, họ đã
làm tổn thương đến niềm tin của dân đối với tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ đã làm vấy
bẩn hình ảnh Hồ Chí Minh trong sự tin yêu và thân thiết với tấm lòng rộng mở và
chân thành cuỉa Hồ Chí Minh, làm cho những ngừơi trung thực giảm lòng tin vào
Hồ Chí Minh. Những hẹp hòi, thiển cận, thủ đoạn của họ đã gây nên những tổn
thất cho sự nghiệp mà Hồ Chí Minh suốt đời đeo đuổi.
Hồ Chí Minh rất coi trọng cá nhân từng người trong cộng đồng dân tộc. Điều này
do nhiều nhân tố tạo thành chứ không phải chỉ là do tiếp thu được từ học thuyết
của C.Mác. Nếu có tiếp thu thì là tiếp thu cái cốt lõi có giá trị nhất của học thuyết
ấy bằng truyền thống về nhân văn sâu xa từ triết lý cổ đại thời Hy La, rồi hiện đại
dần lên đến thời cổ điển, phục hưng, khai sáng cho đến thời hiện đại của phương
Tây. Có thể nói, truyền thống nhân văn ấy là phần rất nổi bật trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Về mặt coi trọng cá nhân con người, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong
chừng mực nào đó, là rộng hơn C.Mác. Điều này gắn liền với giá trị tinh thần Việt
Nam trong truyền thống văn hóa phương Đông đối với con người. Điểm nổi bật
nhất của giá trị đó chính là biểu hiện xuyên suốt trong cuộc đời, trong sự nghiệp và
trong tư tưởng bản chất người, bản chất dân tộc của Hồ Chí Minh. Có được điều ấy
vì Hồ Chí Minh phải sống và hoạt động trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Những
đốm lửa cách mạng được nhen nhóm từ trong điều kiện rất hiểm nghèo, khắc
nghiệt của chế độ thuộc địa Pháp ở Việt Nam, phải chắt chiu, trân trọng gìn giữ và
phát huy từng cá nhân con người, phải coi trọng từng cá nhân con người mới có thể
thổi bùng lên ngọn lửa của Cách mạng Tháng Tám và ngọn lửa kháng chiến của
các cuộc kháng chiến trường kỳ trong thế kỷ XX.
Hồ Chí Minh nâng niu trân trọng con người, từng cá nhân con người, nhẫn nại thức
tỉnh, giác ngộ, đào tạo từng người, không nề hà công sức, không quản ngại khó
khăn, năng nhặt chặt bị, từng ly từng tí một góp gió thành bão. Khởi đầu từ cái cụ
thể tưởng như nhỏ nhặt không đáng kể để rồi trở thành một công trình vĩ đại mang
ý nghĩa thời đại, ý nghĩa lịch sử.
Đi khắp năm châu bốn biển, ôm ấp một hoài bão lớn lao về giải phóng dân tộc
mình, góp phần giải phóng loài người, nhưng khi trở về lại mảnh đất của quê
hương, đất nước thì lại có thể kiên trì giúp đỡ, dìu dắt, giác ngộ cho một đồng bào
của mình ở miền núi, từ việc nhẫn nại dạy chữ, giảng giải về hoạt động cách mạng
để người đó có thể trực tiếp tham gia rồi dần dần trở thành người cán bộ cách
mạng. Không chỉ là cá biệt một người, mà nhiều trường hợp với nhiều người khác
cũng đã được Hồ Chí Minh trực tiếp dìu dắt, giúp đỡ mà trưởng thành.
Biết đánh giá, sử dụng và phát huy từng người cả đức và tài của họ. Trong rất
nhiều trường hợp, nhất là trong những trường hợp có ý nghĩa lịch sử, thiên tài của
Hồ Chí Minh thể hiện ra ở đây là chọn rất đúng và rất trúng người đáp ứng được
đòi hỏi của nhiệm vụ lịch sử ấy.
Tôn trọng, chăm lo, tạo điều kiện làm nảy nở và tạo dựng nên nhân cách của từng
ngừơi. Hồ Chí Minh hiểu rõ thế nào là nhân cách, rất dễ dàng cảm thông, trân
trọng nhân cách và cá tính của con người. Nếu nhớ lại rằng, do điều kiện đặc biệt
của người chiến sĩ cách mạng luôn luôn phải đối phó với hoàn cảnh khắc nghiệt
bởi tính chất của công việc và mạng lưới bủa vây, truy lùng của kẻ thù, Hồ Chí
Minh không có gia đình, không có được môi trường sống bình thường của một con
người trong tình cảm, nghĩa vu và ứng xử hàng ngày với ông bà, cha mẹ, vợ con,
anh chị em… Hiểu như vậy mới thấy hết được cái lớn của tấm lòng cảm thông và
cung cách ứng xử hàng ngày của Hồ Chí Minh với mọi người, với từng người.
Hồ Chí Minh thực hiện một cách mẫu mực và chân thật sự bình đẳng của các cá
nhân, không hề cường điệu, phân biệt giữa người bình thường với người giữ trọng
trách, người ở cương vị cao chót vót. Hồ Chí Minh thường xuyên hỏi ý kiến các
đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước song cũng đồng thời sẵn sàng và thành
thật hỏi ý kiến những đồng chí cấp dưỡng, lái xe, bảo vệ mình gặp hàng ngày.
Người ta kể lại rằng, có lần Hồ Chí Minh không chấp nhận ý kiến của một Uy viên
Bộ Chính trị, nhưng lại lắng nghe và chấp nhận ý kiến của một người cấp dưỡng.
Bằng cuộc sống đầy bản sắc của riêng mình, Hồ Chí Minh biết và hiểu được theo
chiều sâu bản sắc của từng người, từng hạng người để tôn trọng và giúp trau giồi
bản sắc ấy ở mỗi người. Hồ Chí Minh đều rất tôn trọng cả hai mặt: một mặt là cải
tạo hoàn cảnh bên ngoài trở nên hoàn cảnh có tính người như C.Mác nói, để qua
đó, cải tạo con người và làm nên được bản sắc của con người mới. Một mặt khác,
đi vào chiều sâu bên trong của từng con người như tâm linh dân tộc, tâm linh tôn
giáo, tính chất trí thức, đặc điểm thế hệ, tâm lý cá nhân, những khát vọng, những
nét bản sắc của từng cá nhân ấy.
Phương pháp luận để hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi để hiểu được sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh,
chúng tôi nghiệm ra rằng, cần phải xác lập cho mình một cách thức tìm hiểu, điều
mà người ta hay nói là phương pháp luận. Xin gợi ra đây những suy ngẫm về vấn
đề này.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có sự bình thường sau khi đã trải qua sự cao siêu; có sự
giản dị sau khi đã trải qua sự phong phú, đa dạng, phức tạp; cụ thể sau khi đã trải
qua trừu tượng; mộc mạc sau khi đã rất tinh tế; đạm, rất đạm sau khi đã rất nồng;
khiêm nhường sau khi đã từng trải để rất biết người, biết mình; ung dung, thanh
thản sau khi tự mình đã trải nghiệm qua biết bao sự chịu đựng cay đắng đủ điều, từ
sự chịu đựng vì sự nghiệp của nước, của dân cho đến sự đắng cay của cuộc sống cá
nhân, của thân phận con người.
Vì vậy, đơn giản hóa, tầm thường hóa, dung tục hóa, hoặc ngược lại rắc rối đến cầu
kỳ, phức tạp, đi sâu vào tầm chương trích cú, tìm sự phong phú ở cái rậm rạp, xô
bồ trong cách nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh thì rồi dù vô tình hay cố ý cũng
đều không dẫn đến cách nắm bắt và tiếp nhận cái cốt lõi của tư tưởng Hồ chí Minh.
Cũng giống như những nhà tư tưởng lớn của loài người mà Hồ Chí Minh đã học
hỏi tiếp thu, tư tưởng Hồ Chí Minh có sự đa dạng, nhiều chiều, năng động, luôn
luôn phát triển chứ không phải là “nhất thành bất biến”. Chỉ có một điều cần thấy
rõ, đó là, từ lúc manh nha, đến lúc hình thành, và khi vận dụng vào cuộc sống, rồi
được sửa chữa, bổ sung, đều đã thể hiện sự nhất quán, rất nổi bật “tính chất trước
sau như một” của tư tưởng Hồ Chí Minh. Cả hai biểu hiện ấy, “đa dạng, năng
động, nhiều chiều, không“nhất thành bất biến” thống nhất với sự nhất quán, “trước
sau như một”, xin được gọi là “tính chất một” cực kỳ hàm súc của tư tưởng Hồ Chí
Minh có ý nghĩa rất lớn.