Khi các nhà quản trị thường xuyên sử dụng máy tính và các phần mềm chuyên ngành hỗ trợ, thì họ có khuynh hướng ra các quyết định duy lý nhiều hơn
- 16 trang
- file .docx
Mục Lục
Mục lục................................................................................................1
LÝ THUYẾT VỀ QUYẾT ĐỊNH CỦA NHÀ QUẢN TRỊ........................3
1. Khái Niệm...................................................................................................3
2. Phân Loại....................................................................................................3
3. Chức năng quyết định quản trị....................................................................5
4. Yêu cầu của quyết định quản trị.................................................................6
5. Quá trình ra quyết định...............................................................................7
6. Các mô hình ra quyết định..........................................................................9
7. Các công cụ hỗ trợ ra quyết định..............................................................10
Câu 2: Khi các nhà quản trị thường xuyên sử dụng máy tính và
các phần mềm chuyên ngành hỗ trợ, thì họ có khuynh hướng ra
các quyết định duy lý nhiều hơn. Bạn đồng ý hay không đồng ý
quan điểm này và giải thích lý do lựa chọn của bạn...................30
A. Lý thuyết về hệ hỗ trợ ra quyết định....................................30
1. Khái niệm hệ hỗ trợ ra quyết định.......................................................30
2. Đặc điểm của hệ hỗ trợ ra quyết định.................................................31
3. Các thành phần của hệ hỗ trợ ra quyết định.......................................32
B. Trả lời câu hỏi bài tập............................................................33
1. Quyết định có tính duy lý.....................................................................33
2. Ý kiến cá nhân.....................................................................................34
Nguồn tài liệu...................................................................................47
1
LÝ THUYẾT VỀ QUYẾT ĐỊNH CỦA NHÀ QUẢN TRỊ
1. Khái niệm
Có thể nói, phần lớn thời gian của nhà quản trị dành cho việc ra
quyết định. Hay nói cách khác, công việc quan trọng và đặc trưng của nhà
quản trị, để phân biệt nhà quản trị và các nhân viên khác trong công ty, tổ
chức chính là việc ra quyết định. Vậy, quyết định là gì? Quyết định trong
quản trị có khác gì so với quyết định thông thường?
Trong từ điển tiếng Việt, quyết định có nghĩa là có ý kiến dứt khoát
về việc làm cụ thể nào đó, chọn một trong các khả năng sau khi có sự cân
nhắc cẩn thận. Tức là, khi có nhiều phương án lựa chọn để giải quyết vấn
đề, sau quá trình suy nghĩ, so sánh ta chọn ra một phương án tối ưu và đó
là ý kiến cuối cùng.
Dựa vào định nghĩa trên, ta có thể hiểu quyết định quản trị là việc
làm của nhà quản trị, sau quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích vấn đề
và các phương án lựa chọn, nhà quản trị đưa ra một phương án mà trong
đó vấn đề phát sinh trong tổ chức được giải quyết tốt nhất. Hay nói cụ thể
hơn, quyết định quản trị là hành vi sáng tạo của nhà quản trị nhằm định ra
những đường lối và tính chất hoạt động cỉa một đối tượng (tổ chức) nhằm
giải quyết những vấn đề nảy sinh và đã chín muồi, trên cơ sở phân tích các
2
quy luật khách quan đang vận động, chi phối đối tượng và trên khả năng
thực hiện của đối tượng đó. (Giáo trình Quản trị học – ĐH Kinh tế TpHCM).
2. Phân loại
Tùy thuộc vào nhiều yếu tố như cấp ra quyết định, mô hình thực
hiện, thời gian thực hiện, tính chất của vấn đề, … mà ta có thể phân quyết
định quản trị thành nhiều loại khác nhau.
Giả sử như dựa vào tính chất của vấn đề cần giải quyết, ta có phân
ra bao gồm quyết định chiến lược, quyết định chiến thuật hay quyết định
tác nghiệp. Trong đó, quyết định chiếu lược là những quyết định có tầm
quan trọng cao, xác định phương hướng và đường lối hoạt động của một
tổ chức như quyết định có mở rộng thị trường sang Việt Nam hay không
của nhãn hiệu cà phê nổi tiếng thế giới của Brazil – Starbucks, thức ăn
nhanh của Mỹ - Macdonald,… Quyết định chiến lược sẽ có khả năng chi
phối được khả năng tồn tại và phát triển của một tổ chức, doanh nghiệp.
Chính vì vậy, nó trở nên quan trọng nhất và do những nhà quản trị cấp cao
thực hiện. Quyết định chiến thuật là quyết định được thực hiện nhằm giải
quyết những vấn đề lớn lao bao quát của một lĩnh vực hoạt động như
chiến dịch quảng cáo của một nhãn hàng, kế hoạch cho một mặt hàng
mới,… Tuy không mang vai trò quan trọng như quyết định chiến lược,
nhưng quyết định chiến thuật cũng có ý nghĩa, ảnh hưởng đến doanh
nghiệp trong các vấn đề liên quan đến lợi nhuận,… nên thường được thực
hiện bởi các nhà quản trị cấp giữa. Quyết định tác nghiệp là quyết định giải
quyết những vấn đề mang tính chuyên môn, nghiệp vụ của các bộ phận
như quyết định ngừng thi công do xảy ra sự cố, quyết định ngừng cung
cấp hàng cho một cửa hàng do kết quả kinh doanh,… Đây là quyết định do
nhà quản trị cấp thấp thực hiện.
Về phương thức soạn thảo, ta có 2 loại quyết định đó là quyết định
được lập trình trước và quyết định không lập trình trước. Quyết định được
lập trình trước là những quyết định trong những tình huống thường gặp,
những quyết định liên quan đến thể lệ và thủ tục được triển khai, áp dụng.
Đó là những quyết định như việc khen thưởng nhân viên, bổ nhiệm hoặc
chỉ định các vị trí trong công ty, quyết định mở chi nhánh bán hàng, …
3
Quyết định không lập trình trước là quyết định dùng trog các tình huống bất
thường, mới mẻ, khác hẳn những điều thường gặp. Đây là những quyết
định thể hiện sự sáng tạo, trình độ cũng như khả năng xử lý tình huống bởi
nhà quản trị phải phán đoán, dùng trực giác và kinh nghiệm để giải quyết
vấn đề. Quyết định không lập trình trước thường có ý nghĩa rất lớn đối với
các tổ chức, vì nó giúp phân tầng tổ chức cũng như chính người ra quyết
định – nhà quản trị.
Dựa vào thời gian thực hiện, ta có quyết định dài hạn, trung hạn và
ngắn hạn. Nếu phân loại theo phạm vi thực hiện, ta có quyết định toàn
cục và quyết định bộ phận. Quyết định kế hoạch, quyết định về tổ chức,
quyết định điều hành hay quyết định về kiểm tra là những quyết định được
phân biệt dựa vào chức năng quản trị.
Phân loại quyết định quản trị nhằm cho thấy được vai trò, khả năng
ảnh hưởng của từng loại quyết định, qua đó cũng chỉ ra được chủ thể thực
hiện nó. Các nhà quản trị phải cùng nhau chia sẻ trong việc làm các quyết
định trong một tổ chức, tuy nhiên, mức độ còn phụ thuộc vào ngành kinh
doanh, bản chất vấn đề và đặc biệt là văn hóa của từng doanh nghiệp. Tuy
nhiên, trong thời kỳ môi trường ngày càng biến động, kỹ thuật thay đổi
ngày càng nhanh, để tồn tại được, thì các tổ chức phải tạo cho mình
những nét riêng, khác biệt, điều đó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, khả
năng và chuyên môn của các nhà quản trị.
3. Chức năng quyết định quản trị
Mỗi quyết định quản trị tùy thuộc vào vấn đề phát sinh, cấp thực hiện,
… mà có những chức năng khác nhau. Tuy nhiên, nó cũng phải đáp ứng
được những chức năng chung bao gồm chức năng định hướng, chức
năng bảo đảm, chức năng phối hợp, chức năng cưỡng bức.
Chức năng định hướng là khả năng xác định phương hướng và
tính chất hoạt động cho đối tượng. Ví dụ như quyết định mở rộng sản xuất
sẽ xác định việc nâng cao quy mô của phân xưởng, định hướng sự phát
triển của công ty trong thời gian dài,… Nếu như một quyết định quản trị mà
4
không đảm bảo được chức năng định hướng thì khả năng thực thi quyết
định sẽ không được đảm bảo.
Chức năng bảo đảm yêu cầu khi ra quyết định phải chỉ ra và bảo
đảm những điều kiện cần thiết để vậu hành theo những phương hướng đã
vạch ra, bảo đảm tính khả thi của quyết định. Hay nói cách khác, khi ra
quyết định, nhà quản trị phải xem xét các điều kiện cụ thể trên thực tế và
đưa ra phương án khả thi nhất nhằm giải quyết vấn đề tốt nhất. Nếu như
đưa ra phương án giải quyết được 100% vấn đề nhưng lại không thể thực
hiện trên thực tế, thì không được quyết định phương án đó. Chính vì thế
mà ta sẽ chọn phương án chỉ cần giải quyết được 80% vấn đề nhưng đảm
bảo khả năng thực thi. Đó là nội dung của chức năng bảo đảm.
Chức năng phối hợp chỉ ra việc xác định mối quan hệ, vai trò và vị
trí của các bộ phận tham gia vào giải quyết vấn đề. Một quyết định không
thể được chấp nhận nếu không biết được ai sẽ là người đủ khả năng,
thẩm quyền để thực hiện quyết định đó. Chính vì vậy, chức năng phối hợp
cũng phải được cân nhắc trước khi nhà quản trị ra quyết định.
Chức năng cưỡng bức thể hiện tính mệnh lệnh, bắt buộc đối với
các đối tượng phải thi hành. Đồng thời, nó cũng phải đảm bảo tính động
viên và khuyến khích đối tượng tham gia với một tinh thần tự giác cao
nhất.
Khi ra một quyết định, nhà quản trị cần phải cân nhắc những chức
năng trên cũng như mục tiêu mà mình cần giải quyết để đưa ra được
những quyết định có tính chính xác và khả năng thực thi cao nhất. Nếu
không đảm bảo được đầy đủ các chức năng cơ bản trên thì không thể gọi
là một quyết định quản trị.
4. Yêu cầu của quyết định quản trị
Việc đề ra các quyết định có ý nghĩa rất lớn, nó đảm bảo sự vận
hành của một tổ chức. Nó là nội dung cơ bản của công việc quản trị, vì
ngay những công việc điều hành hàng ngày hay những vấn đề lớn của
công ty như chiến lược, phương hướng hoạt động đều được tiến hành
5
dựa trên các quyết định hợp lý. Một quyết định sai sẽ ảnh hưởng rất lớn
đến công ty như thương hiệu, sản phẩm, tài chính, … gây khó khăn trong
quá trình hoạt động sau đó. Hay những quyết định thiếu suy nghĩ là hoạt
động của quá trình thiếu trách nhiệm, bệnh quan liêu,… tạo nên những
lãng phí về thời gian cũng như tài chính của tổ chức. Chính vì vai trò quan
trọng của mình, mà quyết định quản trị phải đảm bảo những yêu cầu sau:
Thứ nhất, đó là tính khoa học, quyết định quản trị phải tuân thủ các
quy luật khách quan đang vận động và chi phối đối tượng.
Thứ hai, quyết định quản trị phải đảm bảo tính thống nhất giữa các
bộ phận, các mục tiêu chung và riêng của đối tượng. Tránh những mâu
thuẫn và triệt tiêu lẫn nhau trong quá trình thực hiện.
Thứ ba, các quyết định quản trị khi ban hành phải đúng thẳm quyền
của các nhà quản trị.
Thứ tư, phải có địa chỉ rõ ràng, quy định và ràng buộc phạm vi thực
hiện cho các đối tượng cụ thể.
Thứ năm, nói về tính thời gian: quyết định phải kịp thời, đúng lúc, có
thời gian và hạn mức thực hiện, bảo đảm khai thác kịp thời những cơ hội
nảy sinh trong quản trị
Cuối cùng, quyết định quản trị phải có hình thức rõ ràng, dễ hiểu,
chính xác và đơn nghĩa. Tránh tình trạng hiểu nhầm, thực hiện sai, dẫn
đến những hậu quả nghiêm trọng đối với quá trình hoạt động của tổ chức.
5. Quá trình ra quyết định
Để có thể đưa ra được một quyết định mang tính chính xác và khả thi
cao, nhà quản trị không chỉ dựa vào kinh nghiệm, tính sáng tạo và khả
năng phán đoán của mình là có thể thực hiện được, mà còn phải thông
qua các bước cơ bản sau:
Bước 1: Nhận ra và xác định tình huống
6
Đây là bước khởi đầu cho việc làm quyết định của nhà quản trị, nó
yêu cầu nhà quản trị phải có đủ kinh nghiệm để nhận thấy rằng đang có
vấn đề bất thường xảy ra so với những điều mình mong muốn, từ đó quyết
định có làm quyết định hay không. Trong bước này, nhà quản trị phải đủ
bình tĩnh để trả lời những câu hỏi liên quan đến những việc bất trắc đang
xảy ra như nguồn gốc, nguyên nhân và tình trạng của vấn đề. Nhà quản trị
phải trả lời 3 câu hỏi: Vấn đề có dễ đối phó không? Có tự kết thúc không?
Có cần phải tác động đến nó hay không? Trả lời được các câu hỏi trên,
nhà quản trị đã nắm được tình hình và bắt đầu cho quá trình làm quyết
định.
Bước 2: Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá
Sau khi xác định rõ vấn đề cần giải quyết, nhà quản trị phải tự xây
dựng cho mình một hệ thống tiêu chuẩn đánh giá quyết định của mình sau
khi hoàn thành. Điều này giúp xem xét được tính hiệu quả của quyết định
trên thức tế. Lưu ý là tiêu chuẩn đánh giá phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ đánh
giá, thực tế và có tính định lượng cao.
Bước 3: Tìm kiếm các phương án
Công việc tiếp theo, nhà quản trị phải dựa vào nguyên nhân và tình
trạng của vấn đề, cùng với những nguồn lực sẵn có, đưa ra tất cả những
phương án để có thể khắc phục vấn đề. Tuy nhiên, trong bước này, nhà
quản trị cần phải quan tâm đến thời gian để ra quyết định, không thể ngồi
suy nghĩ ra thật nhiều phương án khi thời gian để quyết định được cụ thể
hóa là cực kỳ gấp rút. Bước này sẽ đánh giá được kinh nghiệm và trình độ
của nhà quản trị.
Bước 4: Đánh giá các phương án
Sau khi đã đưa ra các phương án giải quyết vấn đề, bước tiếp theo
cần phải thực hiện đó là đưa ra được bảng so sánh các phương án đã có.
Những tiêu chí mà nhà quản trị cần quan tâm đó là tính khả thi, tính bảo
đảm và tính phối hợp của các phương án, những điều kiện khác như hệ
7
quả, tài chính,... Nếu như không các phương án không phù hợp, ta có thể
quay lại thực hiện bước ba.
Bước 5: Chọn phương án tối ưu
Những phương án vượt qua bước 4 sẽ được chọn lọc và đưa
phương án tốt nhất cho vấn đề cần phải giải quyết.
Bước 6: Quyết định
Ra quyết định và tiến hành quyết định trên thực tế.
Sự thành công của một quyết định dựa vào khả năng biến quyết định
thành hành động. Chính vì vậy, trong quá trình thực hiện quyết định, ta
phải có quá trình kiểm tra, giám sát và đôn đốc để có được kết quả và hiệu
quả tốt nhất.
6. Các mô hình ra quyết định
Ở mỗi tổ chức, mỗi tình huống khác nhau, nhà quản trị sẽ tiến hành
ra quyết định theo những cách khác nhau. Đó có thể là tự thực hiện hay có
thể tham vấn những người khác nhau để có quyết định tốt nhất. Nhìn
chung, sẽ có 3 mô hình ra quyết định chính, đó là quyết định cá nhân,
quyết định có tham vấn và quyết định tập thể.
- Quyết định cá nhân là nhà quản trị tự tiếp nhận và tìm kiếm
thông tin, sau đó chủ động trong việc thực hiện quyết định.
Điều này đồng nghĩa, chủ thể ra quyết định phải có đầy đủ
thẩm quyền, uy tín để tự chịu trách nhiệm đối với những quyết
định của mình. Mô hình quyết định này đòi hỏi nhà quản trị
thực sự là một người có kinh nghiệm, trình độ và tinh thần
trách nhiệm.
- Quyết định có tham vấn vẫn là quyết định do nhà quản trị chủ
động thực hiện. Tuy nhiên, ở mô hình này, nhà quản trị chia sẻ
với một người hoặc một nhóm người trong việc tìm kiếm thông
tin để có được các phương án khác nhau. Nhà quản trị chỉ thực
hiện bước cuối cùng là ra quyết định. Mô hình này sẽ giúp nhà
8
quản trị trong các quyết định có liên quan đến kiến thức chuyên
môn mà chính họ không nắm rõ, nó giúp cho những quyết định
trở nên khả thi và mức độ thực thi cao hơn. Tuy nhiên, mô hình
này đòi hỏi nhà quản trị phải thực sự tỉnh táo để không trở nên
bị động trong việc ra quyết định.
- Quyết định tập thể là mô hình làm việc tập thể, trong đó, nhà
quản trị tranh thủ được thông tin từ tập thể, vận động mọi
người tham gia vào việc ra quyết định. Đây là mô hình chỉ phát
huy tác dụng trong khâu mục tiêu và giải pháp, vì nhiều người
sẽ có nhiều góc nhìn khác nhau, từ đó phương án sẽ trở nên
phong phú. Tuy nhiên, đây là mô hình khá nguy hiểm nếu như
nhà quản trị không thể làm chủ được ý kiến của tập thể, đôi khi
những quyết định có được từ tập thể chưa hẳn là quyết định tốt
nhất vì các cá nhân trong tập thể có khả năng chi phối nhau.
Mỗi mô hình sẽ có những ưu và khuyết điểm riêng, nhà quản trị phải
biết được mô hình nào sẽ thực sự thích hợp với vấn đề mà mình đang cần
giải quyết để lựa chọn phù hợp. Việc sử dụng mô hình sai cũng có thể dẫn
đến những hậu quả không hay mà nhà quản trị chắc chắn không hướng
tới.
7. Các công cụ hỗ trợ quá trình ra quyết định
Thời đại công nghệ thông tin phát triển, cùng với nhu cầu đưa ra
được những quyết định hợp lý, mang tính chính xác cao, đã đẩy mạnh sự
ra đời của các công cụ hỗ trợ quá trình ra quyết định của các nhà quản trị.
Những phần mềm tin học, công cụ tính toán đã được sử dụng và khai thác
tối đa, hỗ trợ các nhà quản trị thực hiện chức năng, công việc của mình.
Có thể kể đến các công cụ mang tính định lượng như ma trận kết quả kinh
doanh, cây quyết định,… Những công cụ này dựa trên những phép tính
xác suất thống kê để đưa ra những con số mang ý nghĩa về kết quả, hiệu
quả của các phương án dự tính ban đầu. Những công cụ bán định lượng
bao gồm kỹ thuật Delphi, kỹ thuật tập thể quyết định,… Đây là những kỹ
thuật giúp nhà quản trị trong mô hình quyết định tập thể.
9
Câu 2: Khi các nhà quản trị thường xuyên sử dụng máy tính và các
phần mềm chuyên ngành hỗ trợ, thì họ có khuynh hướng ra các
quyết định duy lý nhiều hơn. Bạn đồng ý hay không đồng ý quan
điểm này và giải thích lý do lựa chọn của bạn.
A. LÝ THUYẾT VỀ HỆ HỖ TRỢ QUYẾT ĐỊNH
1. Khái niệm Hệ hỗ trợ quyết định
Trước đây, người ta nghĩ về Hệ hỗ trợ quyết định là nghĩ đến khả
năng hỗ trợ nhà quản trị trong việc ra quyết định trong các quyết định lập
trình, các quyết định trong các tình huống bán cấu trúc. Tuy nhiên, có
nhiều định nghĩa khác nhau về hệ hỗ trợ quyết định, mỗi định nghĩa mang
đến 1 góc nhìn cho chúng ta về chức năng và nhiệm vụ của hệ hỗ trợ.
- Litte (1970) định nghĩa như sau: “Hệ hỗ trợ quyết định là tập
hợp các thủ tục dựa vào các mô hình để xử lý dữ liệu và phán
xét nhằm trợ giúp các nhà ra quyết định”. Little đã định nghĩa
nó thông qua cách vận hành và kết quả đạt được.
- Bonezek et al (1980) lại định nghĩa dựa vào cấu trúc của hệ hỗ
trợ quyết định. Ông cho rằng “ Hệ hỗ trợ quyết định là một hệ
máy tính gồm 3 thành phần tương tác với nhau: hệ thống ngôn
ngữ, hệ kiến thức và hệ xử lý vấn đề”. Trong đó, hệ thống ngôn
ngữ là cơ chế để giao tiếp giữa người dùng và các thành phần
khác; hệ kiến thức là kho lưu chứa các kiến thức của lĩnh vực
đang xét dưới dạng dữ liệu hat thủ tục; hệ xử lý vấn đề là liên
kết giữa 2 thành phần kia, chứa một hay nhiều năng lực xử lý
vấn đề tổng quát cần để ra quyết định.
- Dưới góc nhìn của quá trình phát triển của nó, Keen (1980) lại
có định nghĩa khác về hệ hỗ trợ quyết định. Đó là “ sản phẩm
của quá trình phát triển ở đó người dùng hệ thống, người xây
dựng hệ thống và bản thân hệ thống có khả năng ảnh hưởng
lên nhau gây ra một tiến hóa và khuôn mẫu sử dụng”.
Mỗi người có một cách định nghĩa khác nhau, tuy nhiên, hệ hỗ trợ
quyết định vẫn được hiểu theo một định nghĩa chung đó là một hệ thống
10
máy tính và các phần mềm chuyên ngành hỗ trợ, giúp đỡ các nhà quản trị
trong quá trình ra quyết định, giúp cho các quyết định trở nên khả thi và
hợp lý hơn.
2. Đặc điểm của hệ hỗ trợ quyết định
Trước tiên, ta phải xác định một điều đó là hệ hỗ trợ quyết định chỉ
mang tính bổ trợ mà không thể thay thế khả năng phân xử của các nhà
quản trị. Những giải thuật của hệ hỗ trợ quyết định chỉ cho ra những con số
mà không thể đem đến một câu trả lời, quyết định cụ thể để xử lý các tình
huống đang xảy ra. Với chức năng của mình, hệ hỗ trợ quyết định có
những đặc điểm cơ bản sau:
- Một là, nó chỉ hỗ trợ ra quyết định trong các tình huống nửa
cấu trúc hoặc cấu trúc. Tức là các phần mềm không thể đưa ra
một quyết định độc lập, mà chỉ tạo cơ sở để nhà quản trị ra
quyết định mà thôi. Phải kết hợp phần xử lý thông tin của máy
tính và phán xử của con người mới có thể đưa ra một quyết
định hợp lý và hoàn hảo.
- Hai là, hệ hỗ trợ quyết định phù hợp với các cấp quyết định từ
thấp đến cao. ở mỗi cấp quyết định, phần mềm sẽ hỗ trợ ở
những mức độ khác nhau. Ở những cấp thấp, để ra được
những quyết định tác chiến hay quyết định chiến thuật thì phần
mềm sẽ hỗ trợ phần lớn công việc ra quyết định. Trong khi đó,
ở những cấp quyết định cao với những quyết định chiến lược,
phần mềm chỉ cho ra những kết quả, qua đó, sẽ tạo cơ sở giúp
các quyết định của nhà quản trị thêm thuyết phục.
- Ba là, phù hợp cho các mô hình ra quyết định khác nhau.
Những quyết định ít mang tính cấu trúc thì thường được liên
đới nhiều người, nhiều bộ phận tham gia và ngược lại. Chính vì
vậy, nếu hệ hỗ trợ quyết định không hỗ trợ được tính cấu trúc
sẽ giúp trong việc liên lạc và hệ thống.
- Bốn là, khi sử dụng hệ hỗ trợ quyết định, các quyết định của
nhà quản trị sẽ được thực hiện theo trình tự, đảm bảo được
quá trình và tính hiệu quả của quyết định.
11
- Năm là, nó hỗ trợ tối đa trong việc tìm kiếm thông tin, xử lý dữ
liệu, thiết kế, lựa chọn và hiện thực hóa các phương án để giải
quyết vấn đề. Hỗ trợ các phong cách quyết định khác nhau.
- Sáu là, có thể tiến hóa theo thời gian. Trong mỗi giai đoạn khác
nhau, những đòi hỏi của thực tế sẽ khác nhau, chính vì vậy các
phần mềm có thể được sửa chữa, bổ sung nhằm hoàn thiện và
phù hợp hơn, sẵn sàng hỗ trợ nhà quản trị trong mọi thời điểm.
- Bảy là, dễ dùng và thân thiện với người dùng.
- Tám là, nhờ hệ hỗ trợ quyết định mà các quyết định được nâng
cao tính hiệu dụng thay vì là hiệu quả. Tính hiệu dụng chính là
tính chính xác, chất lượng của quyết định thay vì giá phí cho
việc ra quyết định.
- Chín là, việc ra quyết định vẫn do nhà quản trị thực hiện. Dưới
sự hỗ trợ của các phần mềm chuyên môn. Nhà quản trị làm
công việc kiểm tra, giám sát quá trình và dưới những kết quả
để đưa ra quyết định sau cùng.
- Cuối cùng, hệ hỗ trợ quyết định có thể xài độc lập, kết hợp với
các phần mềm khác hay mạng lưới máy tính bất kỳ với công
nghệ WEB.
Những đặc điểm trên cho phép chúng ta nhận định rằng, nhờ hệ
thống hỗ trợ quyết định mà quá trình ra quyết định của các nhà quản trị trở
nên nhẹ nhàng hơn, nhanh chóng hơn và có tính khả thi, hiệu dụng cao
hơn.
3. Các thành phần của hệ hỗ trợ quyết định
Mang tính tương tác giữa người sử dụng và các phần mềm máy tính,
hay nói cách khác là có sự giao tiếp giữa nhà quản trị và hệ hỗ trợ, chính
vì vậy, nó phải có cấu trúc vững vàng, đảm bảo cho quá trình ra quyết
định. Cấu trúc đó bao gồm: hệ quản lý dữ liệu, hệ quản lý mô hình, hệ
quản lý dựa vào kiến thức, hệ giao diện người dùng.
- Hệ quản lý dữ liệu bao gồm 1 cơ sở dữ liệu (database) chứa
những dữ liệu cần thiết của tình huống và được quản lý bởi
một hệ quản trị cơ sở dữ liệu. Đây là một thành phần quan
12
Mục lục................................................................................................1
LÝ THUYẾT VỀ QUYẾT ĐỊNH CỦA NHÀ QUẢN TRỊ........................3
1. Khái Niệm...................................................................................................3
2. Phân Loại....................................................................................................3
3. Chức năng quyết định quản trị....................................................................5
4. Yêu cầu của quyết định quản trị.................................................................6
5. Quá trình ra quyết định...............................................................................7
6. Các mô hình ra quyết định..........................................................................9
7. Các công cụ hỗ trợ ra quyết định..............................................................10
Câu 2: Khi các nhà quản trị thường xuyên sử dụng máy tính và
các phần mềm chuyên ngành hỗ trợ, thì họ có khuynh hướng ra
các quyết định duy lý nhiều hơn. Bạn đồng ý hay không đồng ý
quan điểm này và giải thích lý do lựa chọn của bạn...................30
A. Lý thuyết về hệ hỗ trợ ra quyết định....................................30
1. Khái niệm hệ hỗ trợ ra quyết định.......................................................30
2. Đặc điểm của hệ hỗ trợ ra quyết định.................................................31
3. Các thành phần của hệ hỗ trợ ra quyết định.......................................32
B. Trả lời câu hỏi bài tập............................................................33
1. Quyết định có tính duy lý.....................................................................33
2. Ý kiến cá nhân.....................................................................................34
Nguồn tài liệu...................................................................................47
1
LÝ THUYẾT VỀ QUYẾT ĐỊNH CỦA NHÀ QUẢN TRỊ
1. Khái niệm
Có thể nói, phần lớn thời gian của nhà quản trị dành cho việc ra
quyết định. Hay nói cách khác, công việc quan trọng và đặc trưng của nhà
quản trị, để phân biệt nhà quản trị và các nhân viên khác trong công ty, tổ
chức chính là việc ra quyết định. Vậy, quyết định là gì? Quyết định trong
quản trị có khác gì so với quyết định thông thường?
Trong từ điển tiếng Việt, quyết định có nghĩa là có ý kiến dứt khoát
về việc làm cụ thể nào đó, chọn một trong các khả năng sau khi có sự cân
nhắc cẩn thận. Tức là, khi có nhiều phương án lựa chọn để giải quyết vấn
đề, sau quá trình suy nghĩ, so sánh ta chọn ra một phương án tối ưu và đó
là ý kiến cuối cùng.
Dựa vào định nghĩa trên, ta có thể hiểu quyết định quản trị là việc
làm của nhà quản trị, sau quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích vấn đề
và các phương án lựa chọn, nhà quản trị đưa ra một phương án mà trong
đó vấn đề phát sinh trong tổ chức được giải quyết tốt nhất. Hay nói cụ thể
hơn, quyết định quản trị là hành vi sáng tạo của nhà quản trị nhằm định ra
những đường lối và tính chất hoạt động cỉa một đối tượng (tổ chức) nhằm
giải quyết những vấn đề nảy sinh và đã chín muồi, trên cơ sở phân tích các
2
quy luật khách quan đang vận động, chi phối đối tượng và trên khả năng
thực hiện của đối tượng đó. (Giáo trình Quản trị học – ĐH Kinh tế TpHCM).
2. Phân loại
Tùy thuộc vào nhiều yếu tố như cấp ra quyết định, mô hình thực
hiện, thời gian thực hiện, tính chất của vấn đề, … mà ta có thể phân quyết
định quản trị thành nhiều loại khác nhau.
Giả sử như dựa vào tính chất của vấn đề cần giải quyết, ta có phân
ra bao gồm quyết định chiến lược, quyết định chiến thuật hay quyết định
tác nghiệp. Trong đó, quyết định chiếu lược là những quyết định có tầm
quan trọng cao, xác định phương hướng và đường lối hoạt động của một
tổ chức như quyết định có mở rộng thị trường sang Việt Nam hay không
của nhãn hiệu cà phê nổi tiếng thế giới của Brazil – Starbucks, thức ăn
nhanh của Mỹ - Macdonald,… Quyết định chiến lược sẽ có khả năng chi
phối được khả năng tồn tại và phát triển của một tổ chức, doanh nghiệp.
Chính vì vậy, nó trở nên quan trọng nhất và do những nhà quản trị cấp cao
thực hiện. Quyết định chiến thuật là quyết định được thực hiện nhằm giải
quyết những vấn đề lớn lao bao quát của một lĩnh vực hoạt động như
chiến dịch quảng cáo của một nhãn hàng, kế hoạch cho một mặt hàng
mới,… Tuy không mang vai trò quan trọng như quyết định chiến lược,
nhưng quyết định chiến thuật cũng có ý nghĩa, ảnh hưởng đến doanh
nghiệp trong các vấn đề liên quan đến lợi nhuận,… nên thường được thực
hiện bởi các nhà quản trị cấp giữa. Quyết định tác nghiệp là quyết định giải
quyết những vấn đề mang tính chuyên môn, nghiệp vụ của các bộ phận
như quyết định ngừng thi công do xảy ra sự cố, quyết định ngừng cung
cấp hàng cho một cửa hàng do kết quả kinh doanh,… Đây là quyết định do
nhà quản trị cấp thấp thực hiện.
Về phương thức soạn thảo, ta có 2 loại quyết định đó là quyết định
được lập trình trước và quyết định không lập trình trước. Quyết định được
lập trình trước là những quyết định trong những tình huống thường gặp,
những quyết định liên quan đến thể lệ và thủ tục được triển khai, áp dụng.
Đó là những quyết định như việc khen thưởng nhân viên, bổ nhiệm hoặc
chỉ định các vị trí trong công ty, quyết định mở chi nhánh bán hàng, …
3
Quyết định không lập trình trước là quyết định dùng trog các tình huống bất
thường, mới mẻ, khác hẳn những điều thường gặp. Đây là những quyết
định thể hiện sự sáng tạo, trình độ cũng như khả năng xử lý tình huống bởi
nhà quản trị phải phán đoán, dùng trực giác và kinh nghiệm để giải quyết
vấn đề. Quyết định không lập trình trước thường có ý nghĩa rất lớn đối với
các tổ chức, vì nó giúp phân tầng tổ chức cũng như chính người ra quyết
định – nhà quản trị.
Dựa vào thời gian thực hiện, ta có quyết định dài hạn, trung hạn và
ngắn hạn. Nếu phân loại theo phạm vi thực hiện, ta có quyết định toàn
cục và quyết định bộ phận. Quyết định kế hoạch, quyết định về tổ chức,
quyết định điều hành hay quyết định về kiểm tra là những quyết định được
phân biệt dựa vào chức năng quản trị.
Phân loại quyết định quản trị nhằm cho thấy được vai trò, khả năng
ảnh hưởng của từng loại quyết định, qua đó cũng chỉ ra được chủ thể thực
hiện nó. Các nhà quản trị phải cùng nhau chia sẻ trong việc làm các quyết
định trong một tổ chức, tuy nhiên, mức độ còn phụ thuộc vào ngành kinh
doanh, bản chất vấn đề và đặc biệt là văn hóa của từng doanh nghiệp. Tuy
nhiên, trong thời kỳ môi trường ngày càng biến động, kỹ thuật thay đổi
ngày càng nhanh, để tồn tại được, thì các tổ chức phải tạo cho mình
những nét riêng, khác biệt, điều đó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, khả
năng và chuyên môn của các nhà quản trị.
3. Chức năng quyết định quản trị
Mỗi quyết định quản trị tùy thuộc vào vấn đề phát sinh, cấp thực hiện,
… mà có những chức năng khác nhau. Tuy nhiên, nó cũng phải đáp ứng
được những chức năng chung bao gồm chức năng định hướng, chức
năng bảo đảm, chức năng phối hợp, chức năng cưỡng bức.
Chức năng định hướng là khả năng xác định phương hướng và
tính chất hoạt động cho đối tượng. Ví dụ như quyết định mở rộng sản xuất
sẽ xác định việc nâng cao quy mô của phân xưởng, định hướng sự phát
triển của công ty trong thời gian dài,… Nếu như một quyết định quản trị mà
4
không đảm bảo được chức năng định hướng thì khả năng thực thi quyết
định sẽ không được đảm bảo.
Chức năng bảo đảm yêu cầu khi ra quyết định phải chỉ ra và bảo
đảm những điều kiện cần thiết để vậu hành theo những phương hướng đã
vạch ra, bảo đảm tính khả thi của quyết định. Hay nói cách khác, khi ra
quyết định, nhà quản trị phải xem xét các điều kiện cụ thể trên thực tế và
đưa ra phương án khả thi nhất nhằm giải quyết vấn đề tốt nhất. Nếu như
đưa ra phương án giải quyết được 100% vấn đề nhưng lại không thể thực
hiện trên thực tế, thì không được quyết định phương án đó. Chính vì thế
mà ta sẽ chọn phương án chỉ cần giải quyết được 80% vấn đề nhưng đảm
bảo khả năng thực thi. Đó là nội dung của chức năng bảo đảm.
Chức năng phối hợp chỉ ra việc xác định mối quan hệ, vai trò và vị
trí của các bộ phận tham gia vào giải quyết vấn đề. Một quyết định không
thể được chấp nhận nếu không biết được ai sẽ là người đủ khả năng,
thẩm quyền để thực hiện quyết định đó. Chính vì vậy, chức năng phối hợp
cũng phải được cân nhắc trước khi nhà quản trị ra quyết định.
Chức năng cưỡng bức thể hiện tính mệnh lệnh, bắt buộc đối với
các đối tượng phải thi hành. Đồng thời, nó cũng phải đảm bảo tính động
viên và khuyến khích đối tượng tham gia với một tinh thần tự giác cao
nhất.
Khi ra một quyết định, nhà quản trị cần phải cân nhắc những chức
năng trên cũng như mục tiêu mà mình cần giải quyết để đưa ra được
những quyết định có tính chính xác và khả năng thực thi cao nhất. Nếu
không đảm bảo được đầy đủ các chức năng cơ bản trên thì không thể gọi
là một quyết định quản trị.
4. Yêu cầu của quyết định quản trị
Việc đề ra các quyết định có ý nghĩa rất lớn, nó đảm bảo sự vận
hành của một tổ chức. Nó là nội dung cơ bản của công việc quản trị, vì
ngay những công việc điều hành hàng ngày hay những vấn đề lớn của
công ty như chiến lược, phương hướng hoạt động đều được tiến hành
5
dựa trên các quyết định hợp lý. Một quyết định sai sẽ ảnh hưởng rất lớn
đến công ty như thương hiệu, sản phẩm, tài chính, … gây khó khăn trong
quá trình hoạt động sau đó. Hay những quyết định thiếu suy nghĩ là hoạt
động của quá trình thiếu trách nhiệm, bệnh quan liêu,… tạo nên những
lãng phí về thời gian cũng như tài chính của tổ chức. Chính vì vai trò quan
trọng của mình, mà quyết định quản trị phải đảm bảo những yêu cầu sau:
Thứ nhất, đó là tính khoa học, quyết định quản trị phải tuân thủ các
quy luật khách quan đang vận động và chi phối đối tượng.
Thứ hai, quyết định quản trị phải đảm bảo tính thống nhất giữa các
bộ phận, các mục tiêu chung và riêng của đối tượng. Tránh những mâu
thuẫn và triệt tiêu lẫn nhau trong quá trình thực hiện.
Thứ ba, các quyết định quản trị khi ban hành phải đúng thẳm quyền
của các nhà quản trị.
Thứ tư, phải có địa chỉ rõ ràng, quy định và ràng buộc phạm vi thực
hiện cho các đối tượng cụ thể.
Thứ năm, nói về tính thời gian: quyết định phải kịp thời, đúng lúc, có
thời gian và hạn mức thực hiện, bảo đảm khai thác kịp thời những cơ hội
nảy sinh trong quản trị
Cuối cùng, quyết định quản trị phải có hình thức rõ ràng, dễ hiểu,
chính xác và đơn nghĩa. Tránh tình trạng hiểu nhầm, thực hiện sai, dẫn
đến những hậu quả nghiêm trọng đối với quá trình hoạt động của tổ chức.
5. Quá trình ra quyết định
Để có thể đưa ra được một quyết định mang tính chính xác và khả thi
cao, nhà quản trị không chỉ dựa vào kinh nghiệm, tính sáng tạo và khả
năng phán đoán của mình là có thể thực hiện được, mà còn phải thông
qua các bước cơ bản sau:
Bước 1: Nhận ra và xác định tình huống
6
Đây là bước khởi đầu cho việc làm quyết định của nhà quản trị, nó
yêu cầu nhà quản trị phải có đủ kinh nghiệm để nhận thấy rằng đang có
vấn đề bất thường xảy ra so với những điều mình mong muốn, từ đó quyết
định có làm quyết định hay không. Trong bước này, nhà quản trị phải đủ
bình tĩnh để trả lời những câu hỏi liên quan đến những việc bất trắc đang
xảy ra như nguồn gốc, nguyên nhân và tình trạng của vấn đề. Nhà quản trị
phải trả lời 3 câu hỏi: Vấn đề có dễ đối phó không? Có tự kết thúc không?
Có cần phải tác động đến nó hay không? Trả lời được các câu hỏi trên,
nhà quản trị đã nắm được tình hình và bắt đầu cho quá trình làm quyết
định.
Bước 2: Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá
Sau khi xác định rõ vấn đề cần giải quyết, nhà quản trị phải tự xây
dựng cho mình một hệ thống tiêu chuẩn đánh giá quyết định của mình sau
khi hoàn thành. Điều này giúp xem xét được tính hiệu quả của quyết định
trên thức tế. Lưu ý là tiêu chuẩn đánh giá phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ đánh
giá, thực tế và có tính định lượng cao.
Bước 3: Tìm kiếm các phương án
Công việc tiếp theo, nhà quản trị phải dựa vào nguyên nhân và tình
trạng của vấn đề, cùng với những nguồn lực sẵn có, đưa ra tất cả những
phương án để có thể khắc phục vấn đề. Tuy nhiên, trong bước này, nhà
quản trị cần phải quan tâm đến thời gian để ra quyết định, không thể ngồi
suy nghĩ ra thật nhiều phương án khi thời gian để quyết định được cụ thể
hóa là cực kỳ gấp rút. Bước này sẽ đánh giá được kinh nghiệm và trình độ
của nhà quản trị.
Bước 4: Đánh giá các phương án
Sau khi đã đưa ra các phương án giải quyết vấn đề, bước tiếp theo
cần phải thực hiện đó là đưa ra được bảng so sánh các phương án đã có.
Những tiêu chí mà nhà quản trị cần quan tâm đó là tính khả thi, tính bảo
đảm và tính phối hợp của các phương án, những điều kiện khác như hệ
7
quả, tài chính,... Nếu như không các phương án không phù hợp, ta có thể
quay lại thực hiện bước ba.
Bước 5: Chọn phương án tối ưu
Những phương án vượt qua bước 4 sẽ được chọn lọc và đưa
phương án tốt nhất cho vấn đề cần phải giải quyết.
Bước 6: Quyết định
Ra quyết định và tiến hành quyết định trên thực tế.
Sự thành công của một quyết định dựa vào khả năng biến quyết định
thành hành động. Chính vì vậy, trong quá trình thực hiện quyết định, ta
phải có quá trình kiểm tra, giám sát và đôn đốc để có được kết quả và hiệu
quả tốt nhất.
6. Các mô hình ra quyết định
Ở mỗi tổ chức, mỗi tình huống khác nhau, nhà quản trị sẽ tiến hành
ra quyết định theo những cách khác nhau. Đó có thể là tự thực hiện hay có
thể tham vấn những người khác nhau để có quyết định tốt nhất. Nhìn
chung, sẽ có 3 mô hình ra quyết định chính, đó là quyết định cá nhân,
quyết định có tham vấn và quyết định tập thể.
- Quyết định cá nhân là nhà quản trị tự tiếp nhận và tìm kiếm
thông tin, sau đó chủ động trong việc thực hiện quyết định.
Điều này đồng nghĩa, chủ thể ra quyết định phải có đầy đủ
thẩm quyền, uy tín để tự chịu trách nhiệm đối với những quyết
định của mình. Mô hình quyết định này đòi hỏi nhà quản trị
thực sự là một người có kinh nghiệm, trình độ và tinh thần
trách nhiệm.
- Quyết định có tham vấn vẫn là quyết định do nhà quản trị chủ
động thực hiện. Tuy nhiên, ở mô hình này, nhà quản trị chia sẻ
với một người hoặc một nhóm người trong việc tìm kiếm thông
tin để có được các phương án khác nhau. Nhà quản trị chỉ thực
hiện bước cuối cùng là ra quyết định. Mô hình này sẽ giúp nhà
8
quản trị trong các quyết định có liên quan đến kiến thức chuyên
môn mà chính họ không nắm rõ, nó giúp cho những quyết định
trở nên khả thi và mức độ thực thi cao hơn. Tuy nhiên, mô hình
này đòi hỏi nhà quản trị phải thực sự tỉnh táo để không trở nên
bị động trong việc ra quyết định.
- Quyết định tập thể là mô hình làm việc tập thể, trong đó, nhà
quản trị tranh thủ được thông tin từ tập thể, vận động mọi
người tham gia vào việc ra quyết định. Đây là mô hình chỉ phát
huy tác dụng trong khâu mục tiêu và giải pháp, vì nhiều người
sẽ có nhiều góc nhìn khác nhau, từ đó phương án sẽ trở nên
phong phú. Tuy nhiên, đây là mô hình khá nguy hiểm nếu như
nhà quản trị không thể làm chủ được ý kiến của tập thể, đôi khi
những quyết định có được từ tập thể chưa hẳn là quyết định tốt
nhất vì các cá nhân trong tập thể có khả năng chi phối nhau.
Mỗi mô hình sẽ có những ưu và khuyết điểm riêng, nhà quản trị phải
biết được mô hình nào sẽ thực sự thích hợp với vấn đề mà mình đang cần
giải quyết để lựa chọn phù hợp. Việc sử dụng mô hình sai cũng có thể dẫn
đến những hậu quả không hay mà nhà quản trị chắc chắn không hướng
tới.
7. Các công cụ hỗ trợ quá trình ra quyết định
Thời đại công nghệ thông tin phát triển, cùng với nhu cầu đưa ra
được những quyết định hợp lý, mang tính chính xác cao, đã đẩy mạnh sự
ra đời của các công cụ hỗ trợ quá trình ra quyết định của các nhà quản trị.
Những phần mềm tin học, công cụ tính toán đã được sử dụng và khai thác
tối đa, hỗ trợ các nhà quản trị thực hiện chức năng, công việc của mình.
Có thể kể đến các công cụ mang tính định lượng như ma trận kết quả kinh
doanh, cây quyết định,… Những công cụ này dựa trên những phép tính
xác suất thống kê để đưa ra những con số mang ý nghĩa về kết quả, hiệu
quả của các phương án dự tính ban đầu. Những công cụ bán định lượng
bao gồm kỹ thuật Delphi, kỹ thuật tập thể quyết định,… Đây là những kỹ
thuật giúp nhà quản trị trong mô hình quyết định tập thể.
9
Câu 2: Khi các nhà quản trị thường xuyên sử dụng máy tính và các
phần mềm chuyên ngành hỗ trợ, thì họ có khuynh hướng ra các
quyết định duy lý nhiều hơn. Bạn đồng ý hay không đồng ý quan
điểm này và giải thích lý do lựa chọn của bạn.
A. LÝ THUYẾT VỀ HỆ HỖ TRỢ QUYẾT ĐỊNH
1. Khái niệm Hệ hỗ trợ quyết định
Trước đây, người ta nghĩ về Hệ hỗ trợ quyết định là nghĩ đến khả
năng hỗ trợ nhà quản trị trong việc ra quyết định trong các quyết định lập
trình, các quyết định trong các tình huống bán cấu trúc. Tuy nhiên, có
nhiều định nghĩa khác nhau về hệ hỗ trợ quyết định, mỗi định nghĩa mang
đến 1 góc nhìn cho chúng ta về chức năng và nhiệm vụ của hệ hỗ trợ.
- Litte (1970) định nghĩa như sau: “Hệ hỗ trợ quyết định là tập
hợp các thủ tục dựa vào các mô hình để xử lý dữ liệu và phán
xét nhằm trợ giúp các nhà ra quyết định”. Little đã định nghĩa
nó thông qua cách vận hành và kết quả đạt được.
- Bonezek et al (1980) lại định nghĩa dựa vào cấu trúc của hệ hỗ
trợ quyết định. Ông cho rằng “ Hệ hỗ trợ quyết định là một hệ
máy tính gồm 3 thành phần tương tác với nhau: hệ thống ngôn
ngữ, hệ kiến thức và hệ xử lý vấn đề”. Trong đó, hệ thống ngôn
ngữ là cơ chế để giao tiếp giữa người dùng và các thành phần
khác; hệ kiến thức là kho lưu chứa các kiến thức của lĩnh vực
đang xét dưới dạng dữ liệu hat thủ tục; hệ xử lý vấn đề là liên
kết giữa 2 thành phần kia, chứa một hay nhiều năng lực xử lý
vấn đề tổng quát cần để ra quyết định.
- Dưới góc nhìn của quá trình phát triển của nó, Keen (1980) lại
có định nghĩa khác về hệ hỗ trợ quyết định. Đó là “ sản phẩm
của quá trình phát triển ở đó người dùng hệ thống, người xây
dựng hệ thống và bản thân hệ thống có khả năng ảnh hưởng
lên nhau gây ra một tiến hóa và khuôn mẫu sử dụng”.
Mỗi người có một cách định nghĩa khác nhau, tuy nhiên, hệ hỗ trợ
quyết định vẫn được hiểu theo một định nghĩa chung đó là một hệ thống
10
máy tính và các phần mềm chuyên ngành hỗ trợ, giúp đỡ các nhà quản trị
trong quá trình ra quyết định, giúp cho các quyết định trở nên khả thi và
hợp lý hơn.
2. Đặc điểm của hệ hỗ trợ quyết định
Trước tiên, ta phải xác định một điều đó là hệ hỗ trợ quyết định chỉ
mang tính bổ trợ mà không thể thay thế khả năng phân xử của các nhà
quản trị. Những giải thuật của hệ hỗ trợ quyết định chỉ cho ra những con số
mà không thể đem đến một câu trả lời, quyết định cụ thể để xử lý các tình
huống đang xảy ra. Với chức năng của mình, hệ hỗ trợ quyết định có
những đặc điểm cơ bản sau:
- Một là, nó chỉ hỗ trợ ra quyết định trong các tình huống nửa
cấu trúc hoặc cấu trúc. Tức là các phần mềm không thể đưa ra
một quyết định độc lập, mà chỉ tạo cơ sở để nhà quản trị ra
quyết định mà thôi. Phải kết hợp phần xử lý thông tin của máy
tính và phán xử của con người mới có thể đưa ra một quyết
định hợp lý và hoàn hảo.
- Hai là, hệ hỗ trợ quyết định phù hợp với các cấp quyết định từ
thấp đến cao. ở mỗi cấp quyết định, phần mềm sẽ hỗ trợ ở
những mức độ khác nhau. Ở những cấp thấp, để ra được
những quyết định tác chiến hay quyết định chiến thuật thì phần
mềm sẽ hỗ trợ phần lớn công việc ra quyết định. Trong khi đó,
ở những cấp quyết định cao với những quyết định chiến lược,
phần mềm chỉ cho ra những kết quả, qua đó, sẽ tạo cơ sở giúp
các quyết định của nhà quản trị thêm thuyết phục.
- Ba là, phù hợp cho các mô hình ra quyết định khác nhau.
Những quyết định ít mang tính cấu trúc thì thường được liên
đới nhiều người, nhiều bộ phận tham gia và ngược lại. Chính vì
vậy, nếu hệ hỗ trợ quyết định không hỗ trợ được tính cấu trúc
sẽ giúp trong việc liên lạc và hệ thống.
- Bốn là, khi sử dụng hệ hỗ trợ quyết định, các quyết định của
nhà quản trị sẽ được thực hiện theo trình tự, đảm bảo được
quá trình và tính hiệu quả của quyết định.
11
- Năm là, nó hỗ trợ tối đa trong việc tìm kiếm thông tin, xử lý dữ
liệu, thiết kế, lựa chọn và hiện thực hóa các phương án để giải
quyết vấn đề. Hỗ trợ các phong cách quyết định khác nhau.
- Sáu là, có thể tiến hóa theo thời gian. Trong mỗi giai đoạn khác
nhau, những đòi hỏi của thực tế sẽ khác nhau, chính vì vậy các
phần mềm có thể được sửa chữa, bổ sung nhằm hoàn thiện và
phù hợp hơn, sẵn sàng hỗ trợ nhà quản trị trong mọi thời điểm.
- Bảy là, dễ dùng và thân thiện với người dùng.
- Tám là, nhờ hệ hỗ trợ quyết định mà các quyết định được nâng
cao tính hiệu dụng thay vì là hiệu quả. Tính hiệu dụng chính là
tính chính xác, chất lượng của quyết định thay vì giá phí cho
việc ra quyết định.
- Chín là, việc ra quyết định vẫn do nhà quản trị thực hiện. Dưới
sự hỗ trợ của các phần mềm chuyên môn. Nhà quản trị làm
công việc kiểm tra, giám sát quá trình và dưới những kết quả
để đưa ra quyết định sau cùng.
- Cuối cùng, hệ hỗ trợ quyết định có thể xài độc lập, kết hợp với
các phần mềm khác hay mạng lưới máy tính bất kỳ với công
nghệ WEB.
Những đặc điểm trên cho phép chúng ta nhận định rằng, nhờ hệ
thống hỗ trợ quyết định mà quá trình ra quyết định của các nhà quản trị trở
nên nhẹ nhàng hơn, nhanh chóng hơn và có tính khả thi, hiệu dụng cao
hơn.
3. Các thành phần của hệ hỗ trợ quyết định
Mang tính tương tác giữa người sử dụng và các phần mềm máy tính,
hay nói cách khác là có sự giao tiếp giữa nhà quản trị và hệ hỗ trợ, chính
vì vậy, nó phải có cấu trúc vững vàng, đảm bảo cho quá trình ra quyết
định. Cấu trúc đó bao gồm: hệ quản lý dữ liệu, hệ quản lý mô hình, hệ
quản lý dựa vào kiến thức, hệ giao diện người dùng.
- Hệ quản lý dữ liệu bao gồm 1 cơ sở dữ liệu (database) chứa
những dữ liệu cần thiết của tình huống và được quản lý bởi
một hệ quản trị cơ sở dữ liệu. Đây là một thành phần quan
12