Khái niệm và quá trình hình thành, phát triển tư tưởng hồ chí minh

  • 7 trang
  • file .docx
KHÁI NIỆM VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
“Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh được xem như là chìa khóa để mở cửa đi vào
kho tàng tư tưởng Hồ Chí Minh” . Vì vậy, để nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh
thì một trong những điều kiện tiên quyết là phải tìm hiểu khái niệm tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Quá trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và khái niệm tư tưởng
Hồ Chí Minh nói riêng gắn liền với quá trình phát triển nhận thức về tư tưởng Hồ
Chí Minh của Đảng ta. Trong các văn kiện của Đảng, Đảng ta đã trân trọng ghi
nhận vai trò quan trọng và ý nghĩa to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời
cũng đã đề cập đến khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể nói thời điểm đánh
dấu rõ nét về nhận thức của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh là Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991) với sự ra đời của Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội mà trong đó khẳng định:
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động” . Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2001) tiếp tục khẳng định lại
điều này và nêu rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn
kết dân tộc…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng
lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta” .
Trong chỉ thị số 23-CT/TW ngày 27/3/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai
đoạn mới, Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm lý luận chính trị toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ
Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản
tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”. Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07/11/2006
của Bộ Chính trị về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” cũng nói: “Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hóa của nhân loại, là tài
sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta, là tấm gương sáng để mọi người Việt
Nam học tập và noi theo”.
Những nhận định, đánh giá của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh trong các văn
kiện nêu trên có ý nghĩa to lớn trong việc nghiên cứu bộ môn khoa học này. Đó là
những định hướng cơ bản cho các nhà nghiên cứu lấy đó làm cơ sở, làm tiền đề để
đi đến thống nhất về khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua quá trình nghiên cứu
nghiêm túc và công phu trong thời gian dài, khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh đã
được định nghĩa một cách khoa học như sau: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là
kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều
kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người” .
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là tập hợp đơn giản những suy nghĩ,
những ý tưởng cụ thể, riêng lẻ của Hồ Chí Minh trong từng hoàn cảnh cụ thể mà
đó là một “hệ thống” bao gồm nhiều quan điểm có mối liên hệ chặt chẽ với nhau,
liên tục và nhất quán. Đó là hệ thống quan điểm toàn diện, bao quát và sâu sắc trên
nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, ngoại giao…
Tuy nhiên, không phải tất cả đều có trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí
Minh chỉ đề cập đến “những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”. Cách mạng
Việt Nam bao gồm hai cuộc cách mạng không tách rời nhau là cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam cũng chính là những vấn đề cơ bản của hai cuộc cách mạng này.
Đó là vấn đề về mục tiêu cách mạng, mục đích cách mạng, tổ chức cách mạng, lực
lượng cách mạng, phương pháp cách mạng…
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh nêu trên cũng đã chỉ ra được nguồn gốc của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải tự nhiên sinh ra, không
phải “từ trên trời sa xuống”, cũng không phải hình thành từ ý muốn chủ quan của
những người nghiên cứu mà tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc khách quan của
nó. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ thực tiễn điều kiện lịch sử - xã hội
lúc bấy giờ mà trước hết là tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam. Đó chính
là chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường bất khuất được hun đúc qua hàng nghìn
năm lịch sử; là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái;
tinh thần lạc quan yêu đời; là truyền thống cần cù, hiếu học, thông minh, sáng tạo
của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng có nguồn gốc từ tư tưởng và
văn hóa nhân loại, trong đó bao gồm tư tưởng và văn hóa phương Đông qua những
giá trị tích cực của Nho giáo, Phật giáo… và nền văn hóa dân chủ và cách mạng
của phương Tây. Nguồn gốc thứ ba hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh chính là
chủ nghĩa Mác – Lênin – “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng
nhất” . Đây là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nguồn gốc thứ tư, nguồn gốc không thể thiếu, để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí
Minh là những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh. Đó
là trí tuệ thông minh, luôn tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, óc phê phán tinh tường,
sáng suốt. Đó là sự khổ công học tập, là nghị lực phi thường nhằm chiếm lĩnh vốn
tri thức của nhân loại, vốn kinh nghiệm đấu tranh phong phú của phong trào giải
phóng dân tộc và phong trào công nhân thế giới để có thể đến với chủ nghĩa Mác -
Lênin và vận dụng, phát triển sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đó là
tâm hồn của một nhà yêu nước, một chiến sĩ nhiệt thành cách mạng mà suốt cuộc
đời “hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân” và
hết lòng thương yêu những người cùng khổ, nhân loại bị áp bức.
2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh là một quá trình lịch sử
gắn liền với cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ thuở thiếu thời đến lúc
Người “đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác” . Đó là
một quá trình gồm năm giai đoạn:
2.1. Giai đoạn từ 1890 – 1911: hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách
mạng
Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước trên mảnh đất giàu truyền thống anh
hùng chống giặc ngoại xâm, Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành đã sớm tiếp
nhận truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của gia đình, quê hương và dân tộc. Được
cha là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc dạy dỗ từ nhỏ, lại được các thầy là các nhà
nho Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý và Trần Thân dạy học chữ Hán , rồi lại
được học tập tại trường Quốc học Huế, Hồ Chí Minh đã sớm tiếp thu vốn văn hóa
Quốc học, Hán học. Bên cạnh đó, Người cũng đã bước đầu tiếp xúc với văn hóa
phương Tây, Người học tiếng Pháp, biết đến nền dân chủ phương Tây với “tự do”,
“bình đẳng” và “bác ái”. Người cũng đã sớm chứng kiến sự thống khổ, điêu đứng
của đồng bào ta trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến và tinh thần đấu tranh bất
khuất của nhân dân ta. Đau lòng trước cảnh nước nhà bị nô lệ, nhân dân bị đọa
đày, Nguyễn Tất Thành đã sớm có chí đuổi Thực dân Pháp, giải phóng đồng bào.
Hoài bão cứu nước, cứu dân của Hồ Chí Minh hình thành từ đó. Nhưng chí hướng
cách mạng của Nguyễn Tất Thành không giống như các bậc tiền bối. Người không
cứu nước theo ngọn cờ phong kiến của phong trào Cần Vương, hay khởi nghĩa
“nặng cốt cách phong kiến” như cụ Hoàng Hoa Thám, Người cũng không theo
chính sách cải lương “chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương” của cụ Phan
Châu Trinh, cũng không cứu nước theo phong trào Đông Du chẳng khác nào “đưa
hổ cửa trước, rước beo cửa sau” của cụ Phan Bội Châu. Chí hướng cách mạng của
Nguyễn Tất Thành là hướng đến nền văn minh phương Tây, Người muốn làm quen
với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ “tự do”,
“bình đẳng”, “bác ái”. Người cũng muốn đi xem nước Pháp và các nước khác làm
thế nào để trở nên văn minh, phú cường rồi trở về giúp đồng bào mình. Với chí
hướng cách mạng đó, vào ngày 05/6/1911, Người đã rời bến Nhà Rồng (Sài Gòn)
để bắt đầu cuộc hành trình vạn dặm, hành trình “đi tìm hình của nước” .
2.2. Giai đoạn 1911 – 1920: tìm tòi, khảo nghiệm và đến với chủ nghĩa Mác -
Lênin
Đây là thời kỳ Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc bôn ba khắp các châu lục để
tìm hiểu thực tiễn phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng thế giới. Cuộc hành
trình lịch sử có một không hai của một nhà yêu nước đã đưa Người đến tận sào
huyệt của Chủ nghĩa đế quốc, Chủ nghĩa thực dân và các thuộc địa của chúng ở
khắp các châu lục. Từ thực tiễn đó, Người đã nhận ra rằng “dù màu da có khác
nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị
bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”. Và
cũng từ cuộc khảo sát thực tiễn này, Người đã bắt gặp ánh sáng chân lý của thời
đại, tìm thấy được con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân
tộc. Đó là con đường cách mạng tháng Mười Nga, con đường cách mạng vô sản.
Năm 1920 là thời điểm đánh dấu sự kiện lịch sử này, sự kiện có tính chất bước
ngoặt trong nhận thức và con đường tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 7/1920, Người đã đọc được sơ thảo lần thứ nhất “Luận cương về vấn đề dân
tộc và thuộc địa” của Lênin trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp. Tháng
12/1920, tại Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp ở Tua, Người
đã biểu quyết tán thành đứng về Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng Cộng sản
Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước phát triển về chất trong tư tưởng Nguyễn Ái
Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác
ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản.
2.3. Giai đoạn 1921 – 1930: giai đoạn hình thành cơ bản tư tưởng về con đường
cách mạng Việt Nam
Đây là thời kỳ hoạt động thực tiễn và lý luận sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc để chuẩn
bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ
năm 1921 đến 1923, Người phụ trách tiểu ban Đông Dương trong Ban nghiên cứu
thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa và tờ
báo “Người Cùng khổ” (tháng 7/1921) nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin
vào các nước thuộc địa. Từ giữa năm 1923 đến 1924, Người đến Liên Xô, tham dự
Hội nghị Quốc tế nông dân lần thứ nhất (tháng 10/1923), Đại hội Quốc tế cộng sản
thanh niên lần thứ IV (tháng 6/1924), Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ V (tháng
6/1924), Đại hội Quốc tế cứu tế Đỏ lần thứ I (tháng 7/1924) và Đại hội quốc tế
Công hội đỏ lần thứ III (tháng 7/1924). Trong thời gian này, Người cũng đã học
tập tại trường Đại học Phương Đông và tham gia hoạt động, công tác ở Ban
Phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Cuối năm 1924, Người về Quảng Châu
(Trung Quốc), lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở
các lớp huấn luyện chính trị và đạo tào cán bộ, đưa họ về nước hoạt động. Năm
1925, tác phẩm “Bản án chế độ Thực dân Pháp” của Người được xuất bản ở Pari,
vạch trần tội ác của chế độ thực dân Pháp và vạch ra con đường cách mạng chân
chính của các dân tộc bị áp bức là con đường cách mạng vô sản. Năm 1927, những
bài giảng của Người ở các lớp huấn luyện ở Quảng Châu được tập hợp và xuất bản
trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”. Tác phẩm này có giá trị như một văn kiện lý
luận đầu tiên của Đảng, đồng thời là cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt
Nam. Từ ngày 03 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc),
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản trong
nước, thành lập một Đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Người
cũng đã trực tiếp thảo ra các văn kiện Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình và Điều lệ vắn tắt của Đảng (Cương lĩnh chính trị đầu tiên của