Kết quả và ý nghĩa của quá trình thay đổi tư duy của đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đại hội vi –
- 22 trang
- file .docx
LỜI MỞ ĐẦU
Nhìn lại quá trình lịch sử cách mạng Việt Nam, ta thấy vai trò quan trọng của
Đảng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là
một sự tất yếu khách quan đánh dấu một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng
dân tộc Việt Nam, đó là kết quả của quá trình lựa chọn con đường cứu nước, chuẩn bị
tích cực về tư tưởng chính trị, tổ chức đưa ra những quan điểm, đường lối đúng đắn để
đưa nước ta hoàn toàn giải phóng, thống nhất, ổn định và phát triển đất nước trên tất cả
mọi mặt: đời sống, kinh tế, xã hội.
Sự đổi mới trong quá trình tư duy của Đảng về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề rất cần thiết để đưa nước ta thực
hiện đúng đắn mục tiêu, hướng đi phù hơp với thực tiễn. Trong bối cảnh nước ta hiện
nay, khi xã hội đang đi lên, nguồn lực tri thức ngày càng dồi dào đòi hỏi Đảng có những
chính sách, đường lối đổi mới và hoàn thiện để vừa tạo nền tảng vừa đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nội dung cũng như phương hướng,
những bài học kinh nghiệm được rút ra đã được thể hiện thông qua sự đánh giá, nhìn
nhận vấn đề của Đảng thông qua các lần đại hội. Qua đó, Đảng khẳng định và đưa ra các
quan điểm , đường lối đúng đắn cho từng giai đoạn phát triển của nước ta.
1
I. Quá trình đổi mới tư duy về Công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đại hội VI – X
(từ năm 1986 đến năm 2006).
1. Phê phán sai lầm trong nhận thức và rút ra bài học kinh nghiệm về quá trình
công nghiệp hóa thời kì 1960-1985:
1.1. Phê phán sai lầm trong nhận thức:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) – Đại hội đổi mới, với
tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật” đã nghiêm khắc chỉ ra những
sai lầm, khuyết điểm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kì 1960 –
1985, đặc biệt trong 10 năm (1975 – 1985). Trong đó, Đảng ta khẳng định: “chúng ta đã
phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về cơ sở vật chất- kĩ thuật, cải tạo
xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Do tư tưởng chủ quan, nóng vội nên chúng ta đã chủ
trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết; chưa thực
sự coi công nghiệp là mặt trận hàng đầu..”. Đó là:
o Chúng ta đã sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế,…Do tư tưởng chỉ đạo chủ
quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa trong khi chưa có đủ các điều kiện cần thiết, mặc
khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
o Chủ yếu thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn,
không tập trung giải quyết những vấn đề căn bản như lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp. Qua đó, cho thấy
việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư đã không kết hợp chặt
chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý.
o Không thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của đại hội lần thứ V, như vẫn chưa coi
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không khôi phục kịp thời nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ.1
1.2. Bài học kinh nghiệm:
Từ thực tiễn, Đại hội nêu lên những bài học quan trọng:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện
bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
1
. Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam – NXB CTQG (trang 122-123).
2
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều
kiện mới.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm
quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm
khuyết điểm, đổi mới tư duy lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại
hội đề ra đường lối đổi mới.
o Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công – nông nghiệp; cơ cấu nội bộ
ngành nông nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp nặng và
kết cấu hạ tầng; cơ cấu kinh tế huyện).
o Thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm chương trình lương thực, thực phẩm;
chương trình hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu.
o Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng
đắn các thành phần kinh tế.
2. Quá trình đổi mới tư duy về Công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đại hội VI – X
(từ năm 1986 đến năm 2006).
2.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI:
Thời kì Việt Nam chưa thể đẩy mạnh Công nghiệp hóa.
2.1.1. Nhiệm vụ:
Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên
tắc:
o Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp.
o Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi
nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ.
o Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên
cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân
phối xã hội chủ nghĩa. 2
Từ 3 nguyên tắc trên, Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ:
o Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo các
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; kinh tế tư
bản tư nhân; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc.
o Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính sách xã hội, kế hoạch hoá dân số và giải
quyết việc làm cho người lao động.
2
. http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/News.
3
o Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ
của nhân dân.
o Trên lĩnh vực đối ngoại nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta là ra sức kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp
phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ hữu
nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa,
tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
o Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cơ chế Đảng lãnh đạo,
nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý đã được Đại hội lần thứ VI xác định là “cơ chế
chung trong quản lý toàn bộ xã hội”.
o Phương thức vận động quần chúng phải được đổi mới theo khẩu hiệu: “Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đó là nề nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ
nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình.
Báo cáo Chính trị chỉ rõ 6 nhiệm vụ chủ yếu của bộ máy Nhà nước và nhiệm vụ
công tác xây dựng Đảng:
o Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể.
o Xây dựng chiến lược kinh tế- xã hội và cụ thể hoá chiến lược đó thành những kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
o Quản lý hành chính – xã hội và hành chính kinh tế, điều hành các hoạt động kinh
tế, xã hội trong toàn xã hội theo kế hoạch, giữ vững pháp luật, kỷ cương nhà nước và trật
tự xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh. Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước,
phát hiện những mất cân đối và đề ra những biện pháp để khắc phục.
o Thực hiện quy chế làm việc khoa học có hiệu suất cao.
o Xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao, với đội ngũ cán bộ có phẩm chất
chính trị, có năng lực quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
o Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh:
Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ
chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Nâng cao chất
lượng đảng viên và sức mạnh chiến đấu của tổ chức cơ sở, tăng cường đoàn kết nhất trí
trong Đảng là nhiệm vụ quan trọng, vừa cơ bản, vừa cấp bách của công tác xây dựng
Đảng. 3
2.1.2. Mục tiêu:
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm và để muốn thực hiện những "nhiệm vụ
bao trùm, mục tiêu tổng quát “của chặng đường đầu tiên (phải trong nhiều kế hoạch 5
năm nữa) thì trong 5 năm trước mắt (1986-1990) cần tập trung sức người, sức của thực
hiện bằng được nhiệm vụ, mục tiêu của ba chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
3
. http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.
4
Những mục tiêu cụ thể là:
o Bảo đảm nhu cầu lương thực của xã hội và có dự trữ; đáp ứng một cách ổn định
nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm đủ tái sản xuất sức
lao động.
o Đáp ứng nhu cầu của nhân dân về những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.
o Tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu để
đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ tùng và những hàng hóa
cần thiết.
Muốn thực hiện những mục tiêu của Ba chương trình kinh tế, thì nông nghiệp, kể
cả lâm nghiệp, ngư nghiệp phải được đặt đúng vị trí là mặt trận hàng đầu và được ưu tiên
đáp ứng nhu cẩu về vốn đấu tư, về năng lực, vật tư, lao động, kĩ thuật…
Nội dung ba chương trình kinh tế là sự cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên.4
4
. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn 2003, Chương X – Đất nước trên con đường đổi
mới (1986-2000), Đại Cương Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Giáo Dục, Tr.1129-1134.
5
2.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII:
Thời kì Việt Nam gắn liền với Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong giai đoạn này Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực khắc phục khó
khăn, kiên trì tìm tòi, khai phá con đường đổi mới tuy chưa có một khuôn mẫu cho trước,
từng bước đưa đường lối của Đại hội VI đi vào cuộc sống. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII của Đảng (họp từ ngày 24 đến 27-6-1991) đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện
đường lối đổi mới của Đại hội VI, đề ra mục tiêu, phương hướng nhằm kế thừa, phát huy
những thành tựu ưu điểm đã đạt được; khắc phục những khó khăn hạn chế mắc phải trong
bước đầu đổi mới ngăn ngừa những lệch lạc phát sinh trong quá trình đó, điều chỉnh, bổ
sung, phát triển đường lối đối mới (được đề ra từ Đại hội VI) để tiếp tục đưa sự nghiệp
đổi mới của đất nước tiến lên.
2.2.1. Mục tiêu:
Xuất phát từ tình hình thế giới và trong nước lúc bấy giờ mục tiêu của chặng
đường đầu thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (đề ra từ Đại hội VI), Đại hội VII của
Đảng đã đề ra mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm (1991-1995) là vượt qua khó khăn
thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu
cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay.
Những mục tiêu cụ thể là:
o Tiếp tục kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và phát triển sản xuất, bắt đầu tích
lũy từ nội bộ nền kinh tế.
o Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm mạnh nhịp độ tăng dân số. Ổn
định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo đảm
để tiền lương tối thiểu đáp ứng được nhu cấu thiết yếu của người lao động, ngăn
chặn thu nhập phi pháp và bất công.
o Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, đổi mới tổ chức và cán bộ.
o Bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ thành quả cách
mạng.
Qua đó, ta thấy Đại hội VII của Đảng cũng đề ra mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5
năm (1991-1995) là: đầy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định, phát triển và nâng cao
hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt
đầu có tích lũy từ nội bộ nến kinh tế". Để thực hiện mục tiêu trên, phải phát huy sức
mạnh của các thành phần kinh tế, đẩy mạnh Ba chương trình kinh tế với những nội dung
cao hơn trước và từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hóá
đẩy mạnh nhịp độ ứng dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật; hình thành về cơ bản và vận hành
tương đối thông suốt cơ chế quản lí mới. 5
5
. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn 2003, Chương X – Đất nước trên con đường đổi
mới (1986-2000), Đại Cương Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Giáo Dục, Tr.1136-1148.
6
2.2.2. Phương hướng:
Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; Báo cáo
xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng.
Cương lĩnh xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu
dài, trải qua nhiều chặng đường; trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, cần nắm vững 7 phương hướng cơ bản sau:
Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đủ quyền dân chủ của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện
đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm
từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng
cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước.
Bốn là, trong lĩnh vực tư tưởng và văn hoá lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền
thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá
nhân loại.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận
dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh.
Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ.6
Ngoài ra, tại Hội nghị trung ương 7 khóa VII (7-1994) đã có bước đột phá mới
trong nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ khi nghị quyết về “phát triển công
nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới” và đưa ra khái niệm công nghiệp hóa,
hiện đại hóa : “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
6
. http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30145&cn_id=181380.
7
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp
và tiến bộ Khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”1.
2.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII:
Việt Nam chuyển sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đại hội VIII của Đảng ( tháng 6-1996) nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã có những
nhận định quan trọng:
o Khẳng định tiếp tục thực hiện quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nêu ra
ở Hội nghị Trung ương bảy khóa VII.
o Đại hội nêu ra 6 quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và định hướng những
nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện địa hóa trong những năm còn lại của thập kỷ
90 - thế kỷ XX.
o Nhận định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, những tiền đề cho
công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sàn thời kỳ mới đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội cũng đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000, nêu nhiệm vụ tống quát,
những tư tưởng chỉ đạo, các chương trình và lĩnh vực phát triển.
2.3.1. Nhiệm vụ và mục tiêu:
Căn cứ vào nhận định trên và cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội khẳng định cẩn tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược :
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mục tiêu cụ thể của công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kì này là: “Xây
dựng đất nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sớ vật chất kĩ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc,
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.”
Trên con đường thực hiện mục tiêu nêu trên, Đại hội xác định : "Giai đoạn
từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kì phát triển mới đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung
mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới
2
một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao
và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm
an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ
nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ
sau. Đại hội cũng đã nêu lên các định hướng phát triển, các lĩnh vực chủ yếu trong
thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.7
2.3.2. Nội dung cơ bản:
Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm còn lại của
thập niên 90 là:
o Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát
triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản ;
phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
o Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế,
trước hết ở những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển.
o Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp
thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả
cao.
o Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ.
o Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại.
o Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như: chế biến nông, lâm, thủy sản, khai
thác và chế biến dầu khí, một số ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử và
công nghệ thông tin, du lịch.
o Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ.
Qua đó cho ta thấy Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đánh
dấu bước ngoặt lãnh đạo chuyển đất nước ta sang thời kì mới - thời kì đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ,
giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh
phúc của nhân dân, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân tộc và tương lai của đất
nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỉ XXI.
2.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX:
2.4.1. Mục tiêu:
7
. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn 2003, Chương X – Đất nước trên con đường đổi
mới (1986-2000), Đại Cương Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Giáo Dục, Tr.1148 -1153.
7
Trong đại hội làn thứ IX, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 là
bước rất quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược 10 năm 2001 - 2010 nhằm:
o Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
o Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
o Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối
ngoại.
o Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy
nhân tố con người.
o Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
o Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bước quan
trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
o Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
2.4.2. Tiêu chí:
Trong giai đoạn này thì phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm
vụ trung tâm, vì thế Đảng đã đề ra các tiêu chí:
o Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất
nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ
thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn
và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển
kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam;
coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
o Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực
kinh tế đủ mạnh: có mức tích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế
hợp lý, có sức cạnh tranh; kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có một số ngành công
nghiệp nặng then chốt; có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ; giữ vững ổn định
kinh tế - tài chính vĩ mô; bảo đảm an ninh lương thực, an toàn năng lượng, tài chính, môi
trường... Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế; kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước.
o Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mọi hoạt động kinh tế được
đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp về kinh tế, tài chính, xã hội, môi trường, quốc phòng và
an ninh. Trước mắt, tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn. Chuyển
4
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so
sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và ngoài
nước, nhu cầu đời sống nhân dân và quốc phòng, an ninh. Tạo thêm sức mua của thị
trường trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu.
o Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và
công nghệ, nhất là công nghệ sinh học; đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá;
quy hoạch sử dụng đất hợp lý; đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được
trên đơn vị diện tích; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá. Đầu tư nhiều hơn
cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch
vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông
nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu
vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn.
7
o Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào
một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Phát triển mạnh công
nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc, da - giầy, một số sản phẩm cơ khí, điện tử,
công nghiệp phần mềm... Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan
trọng sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng.
Khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên dầu khí, khoáng sản, vật liệu xây dựng. Chú
trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ; xây dựng một số tập đoàn doanh nghiệp
lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hoá.
o Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, kể cả
thương mại điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính - viễn thông, du lịch, tài chính, ngân
hàng, kiểm toán, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường...
Sớm phổ cập sử dụng tin học và Mạng thông tin quốc tế (Internet) trong nền kinh tế và
đời sống xã hội.
o Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng: giao
thông, điện lực, thông tin, thủy lợi, cấp nước, thoát nước...
o Phát triển mạng lưới đô thị phân bố hợp lý trên các vùng. Hiện đại hoá dần các
thành phố lớn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn. Không tập trung quá nhiều cơ sở
công nghiệp và dân cư vào các đô thị lớn. Khắc phục tình trạng ùn tắc giao thông và ô
nhiễm môi trường. Tăng cường công tác quy hoạch và quản lý đô thị, nâng cao thẩm mỹ
kiến trúc.
Qua đó ta thấy Đảng bổ sung và nhấn mạnh một số đổi mới về con đường công
nghiệp hóa rút ngắn ở nước ta.8
2.5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X:
Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đại hội của trí tuệ, đổi
mới, đoàn kết và phát triển bền vững. Đại hội diễn ra trong thời điểm lịch sử có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Sự nghiệp đổi mới trên đất nước ta đã trải qua 20 năm.
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vừa kết thúc 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội IX của Đảng, cũng là 5 năm đầu tiên của thế kỷ XXI.
Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự phát triển của kinh tế tri thức đang làm
thay đổi mạnh mẽ nội dung và bước đi của quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các
nước đang phát triển. Nó đòi hỏi Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở những nước đi sau phải
đồng thời thực hiện hai quá trình:
o Một là, xây dựng nền công nghiệp theo hướng hiện đại;
o Hai là, phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
8
.http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTinTongHop/
noidungvankiendaihoidang.
12
Đây là hai nội dung của một quá trình diễn ra song hành và phải được thực hiện
đồng thời.
Đảng ta xác định:
o Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta phải dựa vào tri thức, theo con đường đi
tắt, rút ngắn.
o Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chuyển từ
nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ một nền kinh tế công nghiệp sang
kinh tế tri thức. Từ một trình độ thấp về kinh tế và kỹ thuật, muốn đi nhanh và phát triển
theo hướng hiện đại cần kết hợp phát triển tuần tự với phát triển nhảy vọt. Theo đó, nền
kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình “lồng ghép”: một mặt, phải phát triển nông
nghiệp và các ngành công nghiệp cơ bản; mặt khác, phải phát triển những ngành kinh tế
dựa vào tri thức và công nghệ cao. Vì thế, mạnh dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri
thức thì chúng ta mới có khả năng thay đổi phương thức và đẩy nhanh tốc độ Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đúng
thời hạn. Do vậy, gắn liền Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức là
con đường để giải quyết những vấn đề đó. Bởi, kinh tế tri thức vừa có thể đảm bảo cho sự
phát triển bền vững do nó không dựa chủ yếu vào việc khai thác các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, vừa có thể đảm bảo cho sự phát triển nhanh vì nó tạo ra sự bùng nổ về thông
tin và sức sáng tạo của nguồn nhân lực.9
9
. http://tapchiqptd.vn/trang-chu/tien-toi-dai-hoi-xi-cua-dang.
11
Qua đó cho ta thấy quá trình đổi mới tư duy của Đảng ta vào thời điểm này đã có
sự tiến bộ là sự kết hợp giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nền kinh tế tri thức.
2.6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI:
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội đã tập trung phân tích, làm rõ các
khuyết điểm, yếu kém chủ yếu là:
o Một số chỉ tiêu, nhiệm vụ Đại hội XI đề ra chưa đạt;
o Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế thấp;
o Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa chậm; các
cân đối vĩ mô chưa vững chắc;
o Chế độ phân phối bất hợp lý, phân hóa xã hội tăng lên.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung bảo vệ môi trường được nâng lên một tầm
cao mới, gắn chặt với quá trình Công nghiệp hóa và hiện đại hóa: ''Đưa nội dung bảo vệ
môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các
chương trình dự án đầu tư''. Một điểm mới so với Đại hội X là đưa thêm nội dung ''chú
trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển năng lượng
sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
Qua đó, cho ta thấy Đảng đã nhận thấy nguy cơ cấp bách về vấn để môi trường để
từ đó đưa ra phương hướng đổi mới tư duy cơ bản trong giai đoạn này là đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên,
môi trường.
II. Kết quả và ý nghĩa của quá trình thay đổi tư duy của Đảng.
1. Kết quả thực hiện đường lối đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
1.1. Thành tựu:
Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn, trong đó
có những thành tựu nổi bật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Một là: cơ sở vật chất - kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả năng
độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng cao. Từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp
lạc hậu, cơ sở vật chất yếu kém đi lên, đến nay cả nước đã có hơn 100 khu công nghiệp,
khu chế xuất tập trung, nhiều khu hoạt động có hiệu quả, tỉ lệ ngành công nghiệp chế tác,
cơ khí chế tạo và nội địa hóa sản phẩm ngày càng tăng.
Ngành công nghiệp sản xuất tư liệu như luyện kim, cơ khí, vật liệu xây dựng, hóa
chất cơ bản, khai thác và hóa dầu đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Một số
sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài nước. Ngành
14
xây dựng tăng trưởng nhanh, bình quân thời kỳ 2001 - 2005 đạt 16,7% /năm, năng lực
xây dựng tăng nhanh và có bước tiến đáng kể theo hướng hiện đại.
Việc xây dựng đô thị, nhà ở đạt nhiều hiệu quả. Hàng năm đưa thêm vào sử dụng,
hàng triệu m2 nhà ở (bình quân thời kỳ 2001-2005, tăng mỗi năm 20 triệu m2).
Công nghiệp nông thôn và miền núi có bước tăng trưởng cao hơn tốc độ trung bình
của cả nước. Nhiều công trình quan trọng thuộc kết cấu hạ tầng được xây dựng, sân bay,
cảng biển, đường bộ, cầu, nhà máy điện, bưu chính - viễn thông…. theo hướng hiện đại.
Hai là: cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã
đạt được những kết quả quan trọng:
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng, tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản
giảm (giai đoạn 2001-2005, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 36,7% năm 2000
lên 41% năm 2005; còn tỷ trọng của nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 24,5% năm
2000 xuống 20,9% năm 2005). Trong từng ngành kinh tế đều có sự chuyển dịch tích cực
về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn với sản xuất, với
thị trường.
Cơ cấu kinh tế vùng đã có điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng
vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển khá nhanh đóng góp quan trọng vào sự tăng
trưởng và là đầu tàu của nền kinh tế.
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục dịch chuyển theo hướng phát huy tiềm năng
của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Từ năm 2000 - 2010, tỷ trọng lao động trong công nghiệp và xây dựng
tăng từ 13,1% lên 22,4%; dịch vụ tăng từ 19,7% lên 29,4%, nông lâm nghiệp và thủy sản
giảm từ 65,1% xuống còn 48,2%; lao động qua đào tạo tăng từ 20% lên 40%.
Ba là, những thành tựu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần quan
trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân từ năm 2000 đến 2010
đạt trên 7,26%/năm. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao: trong thời gian dài tốc độ
tăng trưởng 7-8%, là một trong những nước có tốc độtăng trưởng kinh tế nhanh nhất của
thế giới. Điều đó đã góp phần quan trọng vào công tác xóa đói giảm nghèo. Thu nhập đầu
người bình quân hàng năm tăng lên đáng kể. Năm 2005, đạt 640 USD/người, năm 2010
đạt 1.168 USD/người, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện.
1.2. Hạn chế :
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước
trong khu vực thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Quy mô nền kinh tế nhỏ, thu nhập bình quân
đầu người còn chưa cao. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, vào các ngành
công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài nguyên, vốn và lao động. Năng
suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực.
- Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao, tài nguyên, đất đai
và các nguồn vốn của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng. Nhiều nguồn
lực trong dân chưa được phát huy.
15
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Trong công nghiệp các sản phẩm có hàm
lượng tri thức cao còn ít. Trong công nghiệp, các sản phẩm hàm lượng tri thức còn thấp.
Trong nông nghiệp sản xuất chưa gắn kết chặt chẽ với thị trường. Nội dung công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn thiếu cụ thể. Chất lượng nguồn nhân lực
của đất nước còn thấp. Tỷ trọng lao động qua đào tạo còn thấp, lao động thiếu việc làm
và không việc làm còn nhiều.
Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh vào cơ cấu
kinh tế hiện đại. Kinh tế vùng chưa có sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả thấp và chưa được
quan tâm đúng mức.
Cơ cấu thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa tạo
được đầy đủ môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và khả năng phát triển của các
thành phần kinh tế.
Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Công tác quy hoạch chất lượng thấp, quản lý kém,
chưa phù hợp với cơ chế thị trường.
Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Nhìn chung, mặc
dù đã cố gắng đầu tư, nhưng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ
chưa đáp ứng được yêu cầu, làm hạn chế sự phát triển kinh tế xã hội.
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ
quan như:
o Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử dụng được tốt
nhất các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.
o Cải cách hành chính còn chậm và kém hiệu quả, công tác tổ chức, cán bộ chậm
đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu.
o Chỉ đạo và tổ chức thực hiện yếu kém.
Ngoài các nguyên nhân chung nói trên, còn có các nguyên nhân cụ thể, trực tiếp
như: Công tác quy hoạch chất lượng kém, nhiều bất hợp lý dẫn đến quy hoạch “treo” khá
phổ biến gây lãng phí nghiêm trọng; cơ cấu đầu tư bất hợp lý làm cho đầu tư kém hiệu
quả, công tác quản lý yếu kém gây lãng phí, thất thoát, tệ tham nhũng nghiêm trọng.
2. Ý nghĩa và định hướng:
2.1. Ý nghĩa:
Những thành tựu trên có ý nghĩa rất quan trọng là cơ sở để phấn đấu đạt mục tiêu:
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020 mà Đại hội X của Đảng nêu ra trở thành hiện thực.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là lời giải cho bài toán phát triển ở nước ta, trực
tiếp đưa đất nước ra khỏi nguy cơ tụt hậu so với thế giới. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
tạo ra những khuynh hướng chuyển biến về kinh tế xã hội của đất nước trên cơ sở khai
thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong nước, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế
quốc tế, xây dựng cơ cấu kinh tế đa ngành với trình độ khoa học và công nghệ ngày càng
hiện đại.
16
Mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế, chúng ta vẫn có những yếu tố thuận lợi,
thời cơ, và có đủ khả năng để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Ngày nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đầy ấn tượng cùng sự ổn định trong chính
trị xã hội trong quá trình đổi mới, chứng tỏ tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đạt
được những thành tựu nhất định.
2.2. Định hướng:
2.2.1. Định hướng về phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa:
Văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(12-19/01/2011) về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã chỉ ra định hướng phát triển
kinh tế giai đoạn 2010 - 2020 như sau: Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng
sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng
nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm
là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh
nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường, tăng nhanh giá nội địa, giá trị gia tăng và sức
cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế tri thức, gắn phát triển kinh
tế với bảo vệ mội trường, phát triển kinh tế tri thức. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ mội
trường, phát triển kinh tế xanh.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và các cơ quan các cấp, các ngành cần phối hợp,
đồng lòng cùng nhau thực hiện chiến lược này, đưa đất nước ngày một phát triển, đẩy
mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
2.2.1.1. Định hướng về công nghiệp hóa hiện đạt hóa kết hợp với nền kinh tế tri thức:
Một là, xây dựng 2 trung tâm quốc gia về công nghệ cao ở Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh, lấy đây là đầu tàu, là mô hình tiêu biểu cho phát triển công nghệ của cả nước và là
nơi thu hút, nuôi dưỡng công nghệ và tri thức mới của nhân loại.
Hai là, đẩy nhanh quá trình xây dựng thị trường khoa học-công nghệ theo hướng
mọi tri thức, công nghệ đều được trao đổi, mua bán, chuyển giao thuận lợi trên thị
trường, được nuôi dưỡng bằng tinh thần cạnh tranh bình đẳng.
Ba là, sử dụng công cụ tín dụng và thuế nhằm khuyến khích các doanh nghiệp bỏ
qua các thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao.
Bốn là, tạo môi trường thuận lợi để các tập đoàn xuyên quốc gia không chỉ đầu tư
xây dựng cơ sở sản xuất mà còn xây dựng cả cơ sở đào tạo tại chỗ nguồn nhân lực chất
lượng cao, thành thạo kỹ năng nghề nghiệp.
17
Nhìn lại quá trình lịch sử cách mạng Việt Nam, ta thấy vai trò quan trọng của
Đảng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là
một sự tất yếu khách quan đánh dấu một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng
dân tộc Việt Nam, đó là kết quả của quá trình lựa chọn con đường cứu nước, chuẩn bị
tích cực về tư tưởng chính trị, tổ chức đưa ra những quan điểm, đường lối đúng đắn để
đưa nước ta hoàn toàn giải phóng, thống nhất, ổn định và phát triển đất nước trên tất cả
mọi mặt: đời sống, kinh tế, xã hội.
Sự đổi mới trong quá trình tư duy của Đảng về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề rất cần thiết để đưa nước ta thực
hiện đúng đắn mục tiêu, hướng đi phù hơp với thực tiễn. Trong bối cảnh nước ta hiện
nay, khi xã hội đang đi lên, nguồn lực tri thức ngày càng dồi dào đòi hỏi Đảng có những
chính sách, đường lối đổi mới và hoàn thiện để vừa tạo nền tảng vừa đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nội dung cũng như phương hướng,
những bài học kinh nghiệm được rút ra đã được thể hiện thông qua sự đánh giá, nhìn
nhận vấn đề của Đảng thông qua các lần đại hội. Qua đó, Đảng khẳng định và đưa ra các
quan điểm , đường lối đúng đắn cho từng giai đoạn phát triển của nước ta.
1
I. Quá trình đổi mới tư duy về Công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đại hội VI – X
(từ năm 1986 đến năm 2006).
1. Phê phán sai lầm trong nhận thức và rút ra bài học kinh nghiệm về quá trình
công nghiệp hóa thời kì 1960-1985:
1.1. Phê phán sai lầm trong nhận thức:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) – Đại hội đổi mới, với
tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật” đã nghiêm khắc chỉ ra những
sai lầm, khuyết điểm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kì 1960 –
1985, đặc biệt trong 10 năm (1975 – 1985). Trong đó, Đảng ta khẳng định: “chúng ta đã
phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về cơ sở vật chất- kĩ thuật, cải tạo
xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Do tư tưởng chủ quan, nóng vội nên chúng ta đã chủ
trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết; chưa thực
sự coi công nghiệp là mặt trận hàng đầu..”. Đó là:
o Chúng ta đã sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế,…Do tư tưởng chỉ đạo chủ
quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa trong khi chưa có đủ các điều kiện cần thiết, mặc
khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
o Chủ yếu thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn,
không tập trung giải quyết những vấn đề căn bản như lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp. Qua đó, cho thấy
việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư đã không kết hợp chặt
chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý.
o Không thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của đại hội lần thứ V, như vẫn chưa coi
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không khôi phục kịp thời nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ.1
1.2. Bài học kinh nghiệm:
Từ thực tiễn, Đại hội nêu lên những bài học quan trọng:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện
bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
1
. Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam – NXB CTQG (trang 122-123).
2
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều
kiện mới.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm
quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm
khuyết điểm, đổi mới tư duy lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại
hội đề ra đường lối đổi mới.
o Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công – nông nghiệp; cơ cấu nội bộ
ngành nông nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp nặng và
kết cấu hạ tầng; cơ cấu kinh tế huyện).
o Thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm chương trình lương thực, thực phẩm;
chương trình hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu.
o Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng
đắn các thành phần kinh tế.
2. Quá trình đổi mới tư duy về Công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đại hội VI – X
(từ năm 1986 đến năm 2006).
2.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI:
Thời kì Việt Nam chưa thể đẩy mạnh Công nghiệp hóa.
2.1.1. Nhiệm vụ:
Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên
tắc:
o Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp.
o Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi
nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ.
o Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên
cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân
phối xã hội chủ nghĩa. 2
Từ 3 nguyên tắc trên, Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ:
o Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo các
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; kinh tế tư
bản tư nhân; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc.
o Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính sách xã hội, kế hoạch hoá dân số và giải
quyết việc làm cho người lao động.
2
. http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/News.
3
o Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ
của nhân dân.
o Trên lĩnh vực đối ngoại nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta là ra sức kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp
phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ hữu
nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa,
tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
o Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cơ chế Đảng lãnh đạo,
nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý đã được Đại hội lần thứ VI xác định là “cơ chế
chung trong quản lý toàn bộ xã hội”.
o Phương thức vận động quần chúng phải được đổi mới theo khẩu hiệu: “Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đó là nề nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ
nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình.
Báo cáo Chính trị chỉ rõ 6 nhiệm vụ chủ yếu của bộ máy Nhà nước và nhiệm vụ
công tác xây dựng Đảng:
o Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể.
o Xây dựng chiến lược kinh tế- xã hội và cụ thể hoá chiến lược đó thành những kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
o Quản lý hành chính – xã hội và hành chính kinh tế, điều hành các hoạt động kinh
tế, xã hội trong toàn xã hội theo kế hoạch, giữ vững pháp luật, kỷ cương nhà nước và trật
tự xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh. Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước,
phát hiện những mất cân đối và đề ra những biện pháp để khắc phục.
o Thực hiện quy chế làm việc khoa học có hiệu suất cao.
o Xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao, với đội ngũ cán bộ có phẩm chất
chính trị, có năng lực quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
o Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh:
Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ
chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Nâng cao chất
lượng đảng viên và sức mạnh chiến đấu của tổ chức cơ sở, tăng cường đoàn kết nhất trí
trong Đảng là nhiệm vụ quan trọng, vừa cơ bản, vừa cấp bách của công tác xây dựng
Đảng. 3
2.1.2. Mục tiêu:
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm và để muốn thực hiện những "nhiệm vụ
bao trùm, mục tiêu tổng quát “của chặng đường đầu tiên (phải trong nhiều kế hoạch 5
năm nữa) thì trong 5 năm trước mắt (1986-1990) cần tập trung sức người, sức của thực
hiện bằng được nhiệm vụ, mục tiêu của ba chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
3
. http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.
4
Những mục tiêu cụ thể là:
o Bảo đảm nhu cầu lương thực của xã hội và có dự trữ; đáp ứng một cách ổn định
nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm đủ tái sản xuất sức
lao động.
o Đáp ứng nhu cầu của nhân dân về những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.
o Tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu để
đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ tùng và những hàng hóa
cần thiết.
Muốn thực hiện những mục tiêu của Ba chương trình kinh tế, thì nông nghiệp, kể
cả lâm nghiệp, ngư nghiệp phải được đặt đúng vị trí là mặt trận hàng đầu và được ưu tiên
đáp ứng nhu cẩu về vốn đấu tư, về năng lực, vật tư, lao động, kĩ thuật…
Nội dung ba chương trình kinh tế là sự cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên.4
4
. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn 2003, Chương X – Đất nước trên con đường đổi
mới (1986-2000), Đại Cương Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Giáo Dục, Tr.1129-1134.
5
2.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII:
Thời kì Việt Nam gắn liền với Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong giai đoạn này Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực khắc phục khó
khăn, kiên trì tìm tòi, khai phá con đường đổi mới tuy chưa có một khuôn mẫu cho trước,
từng bước đưa đường lối của Đại hội VI đi vào cuộc sống. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII của Đảng (họp từ ngày 24 đến 27-6-1991) đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện
đường lối đổi mới của Đại hội VI, đề ra mục tiêu, phương hướng nhằm kế thừa, phát huy
những thành tựu ưu điểm đã đạt được; khắc phục những khó khăn hạn chế mắc phải trong
bước đầu đổi mới ngăn ngừa những lệch lạc phát sinh trong quá trình đó, điều chỉnh, bổ
sung, phát triển đường lối đối mới (được đề ra từ Đại hội VI) để tiếp tục đưa sự nghiệp
đổi mới của đất nước tiến lên.
2.2.1. Mục tiêu:
Xuất phát từ tình hình thế giới và trong nước lúc bấy giờ mục tiêu của chặng
đường đầu thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (đề ra từ Đại hội VI), Đại hội VII của
Đảng đã đề ra mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm (1991-1995) là vượt qua khó khăn
thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu
cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay.
Những mục tiêu cụ thể là:
o Tiếp tục kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và phát triển sản xuất, bắt đầu tích
lũy từ nội bộ nền kinh tế.
o Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm mạnh nhịp độ tăng dân số. Ổn
định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo đảm
để tiền lương tối thiểu đáp ứng được nhu cấu thiết yếu của người lao động, ngăn
chặn thu nhập phi pháp và bất công.
o Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, đổi mới tổ chức và cán bộ.
o Bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ thành quả cách
mạng.
Qua đó, ta thấy Đại hội VII của Đảng cũng đề ra mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5
năm (1991-1995) là: đầy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định, phát triển và nâng cao
hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt
đầu có tích lũy từ nội bộ nến kinh tế". Để thực hiện mục tiêu trên, phải phát huy sức
mạnh của các thành phần kinh tế, đẩy mạnh Ba chương trình kinh tế với những nội dung
cao hơn trước và từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hóá
đẩy mạnh nhịp độ ứng dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật; hình thành về cơ bản và vận hành
tương đối thông suốt cơ chế quản lí mới. 5
5
. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn 2003, Chương X – Đất nước trên con đường đổi
mới (1986-2000), Đại Cương Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Giáo Dục, Tr.1136-1148.
6
2.2.2. Phương hướng:
Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; Báo cáo
xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng.
Cương lĩnh xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu
dài, trải qua nhiều chặng đường; trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, cần nắm vững 7 phương hướng cơ bản sau:
Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đủ quyền dân chủ của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện
đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm
từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng
cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước.
Bốn là, trong lĩnh vực tư tưởng và văn hoá lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền
thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá
nhân loại.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận
dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh.
Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ.6
Ngoài ra, tại Hội nghị trung ương 7 khóa VII (7-1994) đã có bước đột phá mới
trong nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ khi nghị quyết về “phát triển công
nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới” và đưa ra khái niệm công nghiệp hóa,
hiện đại hóa : “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
6
. http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30145&cn_id=181380.
7
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp
và tiến bộ Khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”1.
2.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII:
Việt Nam chuyển sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đại hội VIII của Đảng ( tháng 6-1996) nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã có những
nhận định quan trọng:
o Khẳng định tiếp tục thực hiện quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nêu ra
ở Hội nghị Trung ương bảy khóa VII.
o Đại hội nêu ra 6 quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và định hướng những
nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện địa hóa trong những năm còn lại của thập kỷ
90 - thế kỷ XX.
o Nhận định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, những tiền đề cho
công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sàn thời kỳ mới đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội cũng đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000, nêu nhiệm vụ tống quát,
những tư tưởng chỉ đạo, các chương trình và lĩnh vực phát triển.
2.3.1. Nhiệm vụ và mục tiêu:
Căn cứ vào nhận định trên và cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội khẳng định cẩn tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược :
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mục tiêu cụ thể của công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kì này là: “Xây
dựng đất nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sớ vật chất kĩ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc,
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.”
Trên con đường thực hiện mục tiêu nêu trên, Đại hội xác định : "Giai đoạn
từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kì phát triển mới đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung
mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới
2
một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao
và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm
an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ
nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ
sau. Đại hội cũng đã nêu lên các định hướng phát triển, các lĩnh vực chủ yếu trong
thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.7
2.3.2. Nội dung cơ bản:
Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm còn lại của
thập niên 90 là:
o Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát
triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản ;
phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
o Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế,
trước hết ở những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển.
o Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp
thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả
cao.
o Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ.
o Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại.
o Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như: chế biến nông, lâm, thủy sản, khai
thác và chế biến dầu khí, một số ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử và
công nghệ thông tin, du lịch.
o Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ.
Qua đó cho ta thấy Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đánh
dấu bước ngoặt lãnh đạo chuyển đất nước ta sang thời kì mới - thời kì đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ,
giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh
phúc của nhân dân, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân tộc và tương lai của đất
nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỉ XXI.
2.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX:
2.4.1. Mục tiêu:
7
. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn 2003, Chương X – Đất nước trên con đường đổi
mới (1986-2000), Đại Cương Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Giáo Dục, Tr.1148 -1153.
7
Trong đại hội làn thứ IX, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 là
bước rất quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược 10 năm 2001 - 2010 nhằm:
o Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
o Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
o Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối
ngoại.
o Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy
nhân tố con người.
o Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
o Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bước quan
trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
o Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
2.4.2. Tiêu chí:
Trong giai đoạn này thì phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm
vụ trung tâm, vì thế Đảng đã đề ra các tiêu chí:
o Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất
nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ
thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn
và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển
kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam;
coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
o Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực
kinh tế đủ mạnh: có mức tích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế
hợp lý, có sức cạnh tranh; kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có một số ngành công
nghiệp nặng then chốt; có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ; giữ vững ổn định
kinh tế - tài chính vĩ mô; bảo đảm an ninh lương thực, an toàn năng lượng, tài chính, môi
trường... Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế; kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước.
o Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mọi hoạt động kinh tế được
đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp về kinh tế, tài chính, xã hội, môi trường, quốc phòng và
an ninh. Trước mắt, tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn. Chuyển
4
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so
sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và ngoài
nước, nhu cầu đời sống nhân dân và quốc phòng, an ninh. Tạo thêm sức mua của thị
trường trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu.
o Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và
công nghệ, nhất là công nghệ sinh học; đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá;
quy hoạch sử dụng đất hợp lý; đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được
trên đơn vị diện tích; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá. Đầu tư nhiều hơn
cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch
vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông
nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu
vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn.
7
o Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào
một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Phát triển mạnh công
nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc, da - giầy, một số sản phẩm cơ khí, điện tử,
công nghiệp phần mềm... Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan
trọng sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng.
Khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên dầu khí, khoáng sản, vật liệu xây dựng. Chú
trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ; xây dựng một số tập đoàn doanh nghiệp
lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hoá.
o Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, kể cả
thương mại điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính - viễn thông, du lịch, tài chính, ngân
hàng, kiểm toán, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường...
Sớm phổ cập sử dụng tin học và Mạng thông tin quốc tế (Internet) trong nền kinh tế và
đời sống xã hội.
o Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng: giao
thông, điện lực, thông tin, thủy lợi, cấp nước, thoát nước...
o Phát triển mạng lưới đô thị phân bố hợp lý trên các vùng. Hiện đại hoá dần các
thành phố lớn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn. Không tập trung quá nhiều cơ sở
công nghiệp và dân cư vào các đô thị lớn. Khắc phục tình trạng ùn tắc giao thông và ô
nhiễm môi trường. Tăng cường công tác quy hoạch và quản lý đô thị, nâng cao thẩm mỹ
kiến trúc.
Qua đó ta thấy Đảng bổ sung và nhấn mạnh một số đổi mới về con đường công
nghiệp hóa rút ngắn ở nước ta.8
2.5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X:
Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đại hội của trí tuệ, đổi
mới, đoàn kết và phát triển bền vững. Đại hội diễn ra trong thời điểm lịch sử có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Sự nghiệp đổi mới trên đất nước ta đã trải qua 20 năm.
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vừa kết thúc 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội IX của Đảng, cũng là 5 năm đầu tiên của thế kỷ XXI.
Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự phát triển của kinh tế tri thức đang làm
thay đổi mạnh mẽ nội dung và bước đi của quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các
nước đang phát triển. Nó đòi hỏi Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở những nước đi sau phải
đồng thời thực hiện hai quá trình:
o Một là, xây dựng nền công nghiệp theo hướng hiện đại;
o Hai là, phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
8
.http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTinTongHop/
noidungvankiendaihoidang.
12
Đây là hai nội dung của một quá trình diễn ra song hành và phải được thực hiện
đồng thời.
Đảng ta xác định:
o Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta phải dựa vào tri thức, theo con đường đi
tắt, rút ngắn.
o Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chuyển từ
nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ một nền kinh tế công nghiệp sang
kinh tế tri thức. Từ một trình độ thấp về kinh tế và kỹ thuật, muốn đi nhanh và phát triển
theo hướng hiện đại cần kết hợp phát triển tuần tự với phát triển nhảy vọt. Theo đó, nền
kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình “lồng ghép”: một mặt, phải phát triển nông
nghiệp và các ngành công nghiệp cơ bản; mặt khác, phải phát triển những ngành kinh tế
dựa vào tri thức và công nghệ cao. Vì thế, mạnh dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri
thức thì chúng ta mới có khả năng thay đổi phương thức và đẩy nhanh tốc độ Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đúng
thời hạn. Do vậy, gắn liền Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức là
con đường để giải quyết những vấn đề đó. Bởi, kinh tế tri thức vừa có thể đảm bảo cho sự
phát triển bền vững do nó không dựa chủ yếu vào việc khai thác các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, vừa có thể đảm bảo cho sự phát triển nhanh vì nó tạo ra sự bùng nổ về thông
tin và sức sáng tạo của nguồn nhân lực.9
9
. http://tapchiqptd.vn/trang-chu/tien-toi-dai-hoi-xi-cua-dang.
11
Qua đó cho ta thấy quá trình đổi mới tư duy của Đảng ta vào thời điểm này đã có
sự tiến bộ là sự kết hợp giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nền kinh tế tri thức.
2.6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI:
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội đã tập trung phân tích, làm rõ các
khuyết điểm, yếu kém chủ yếu là:
o Một số chỉ tiêu, nhiệm vụ Đại hội XI đề ra chưa đạt;
o Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế thấp;
o Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa chậm; các
cân đối vĩ mô chưa vững chắc;
o Chế độ phân phối bất hợp lý, phân hóa xã hội tăng lên.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung bảo vệ môi trường được nâng lên một tầm
cao mới, gắn chặt với quá trình Công nghiệp hóa và hiện đại hóa: ''Đưa nội dung bảo vệ
môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các
chương trình dự án đầu tư''. Một điểm mới so với Đại hội X là đưa thêm nội dung ''chú
trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển năng lượng
sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
Qua đó, cho ta thấy Đảng đã nhận thấy nguy cơ cấp bách về vấn để môi trường để
từ đó đưa ra phương hướng đổi mới tư duy cơ bản trong giai đoạn này là đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên,
môi trường.
II. Kết quả và ý nghĩa của quá trình thay đổi tư duy của Đảng.
1. Kết quả thực hiện đường lối đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
1.1. Thành tựu:
Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn, trong đó
có những thành tựu nổi bật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Một là: cơ sở vật chất - kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả năng
độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng cao. Từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp
lạc hậu, cơ sở vật chất yếu kém đi lên, đến nay cả nước đã có hơn 100 khu công nghiệp,
khu chế xuất tập trung, nhiều khu hoạt động có hiệu quả, tỉ lệ ngành công nghiệp chế tác,
cơ khí chế tạo và nội địa hóa sản phẩm ngày càng tăng.
Ngành công nghiệp sản xuất tư liệu như luyện kim, cơ khí, vật liệu xây dựng, hóa
chất cơ bản, khai thác và hóa dầu đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Một số
sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài nước. Ngành
14
xây dựng tăng trưởng nhanh, bình quân thời kỳ 2001 - 2005 đạt 16,7% /năm, năng lực
xây dựng tăng nhanh và có bước tiến đáng kể theo hướng hiện đại.
Việc xây dựng đô thị, nhà ở đạt nhiều hiệu quả. Hàng năm đưa thêm vào sử dụng,
hàng triệu m2 nhà ở (bình quân thời kỳ 2001-2005, tăng mỗi năm 20 triệu m2).
Công nghiệp nông thôn và miền núi có bước tăng trưởng cao hơn tốc độ trung bình
của cả nước. Nhiều công trình quan trọng thuộc kết cấu hạ tầng được xây dựng, sân bay,
cảng biển, đường bộ, cầu, nhà máy điện, bưu chính - viễn thông…. theo hướng hiện đại.
Hai là: cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã
đạt được những kết quả quan trọng:
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng, tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản
giảm (giai đoạn 2001-2005, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 36,7% năm 2000
lên 41% năm 2005; còn tỷ trọng của nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 24,5% năm
2000 xuống 20,9% năm 2005). Trong từng ngành kinh tế đều có sự chuyển dịch tích cực
về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn với sản xuất, với
thị trường.
Cơ cấu kinh tế vùng đã có điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng
vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển khá nhanh đóng góp quan trọng vào sự tăng
trưởng và là đầu tàu của nền kinh tế.
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục dịch chuyển theo hướng phát huy tiềm năng
của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Từ năm 2000 - 2010, tỷ trọng lao động trong công nghiệp và xây dựng
tăng từ 13,1% lên 22,4%; dịch vụ tăng từ 19,7% lên 29,4%, nông lâm nghiệp và thủy sản
giảm từ 65,1% xuống còn 48,2%; lao động qua đào tạo tăng từ 20% lên 40%.
Ba là, những thành tựu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần quan
trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân từ năm 2000 đến 2010
đạt trên 7,26%/năm. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao: trong thời gian dài tốc độ
tăng trưởng 7-8%, là một trong những nước có tốc độtăng trưởng kinh tế nhanh nhất của
thế giới. Điều đó đã góp phần quan trọng vào công tác xóa đói giảm nghèo. Thu nhập đầu
người bình quân hàng năm tăng lên đáng kể. Năm 2005, đạt 640 USD/người, năm 2010
đạt 1.168 USD/người, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện.
1.2. Hạn chế :
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước
trong khu vực thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Quy mô nền kinh tế nhỏ, thu nhập bình quân
đầu người còn chưa cao. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, vào các ngành
công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài nguyên, vốn và lao động. Năng
suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực.
- Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao, tài nguyên, đất đai
và các nguồn vốn của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng. Nhiều nguồn
lực trong dân chưa được phát huy.
15
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Trong công nghiệp các sản phẩm có hàm
lượng tri thức cao còn ít. Trong công nghiệp, các sản phẩm hàm lượng tri thức còn thấp.
Trong nông nghiệp sản xuất chưa gắn kết chặt chẽ với thị trường. Nội dung công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn thiếu cụ thể. Chất lượng nguồn nhân lực
của đất nước còn thấp. Tỷ trọng lao động qua đào tạo còn thấp, lao động thiếu việc làm
và không việc làm còn nhiều.
Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh vào cơ cấu
kinh tế hiện đại. Kinh tế vùng chưa có sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả thấp và chưa được
quan tâm đúng mức.
Cơ cấu thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa tạo
được đầy đủ môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và khả năng phát triển của các
thành phần kinh tế.
Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Công tác quy hoạch chất lượng thấp, quản lý kém,
chưa phù hợp với cơ chế thị trường.
Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Nhìn chung, mặc
dù đã cố gắng đầu tư, nhưng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ
chưa đáp ứng được yêu cầu, làm hạn chế sự phát triển kinh tế xã hội.
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ
quan như:
o Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử dụng được tốt
nhất các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.
o Cải cách hành chính còn chậm và kém hiệu quả, công tác tổ chức, cán bộ chậm
đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu.
o Chỉ đạo và tổ chức thực hiện yếu kém.
Ngoài các nguyên nhân chung nói trên, còn có các nguyên nhân cụ thể, trực tiếp
như: Công tác quy hoạch chất lượng kém, nhiều bất hợp lý dẫn đến quy hoạch “treo” khá
phổ biến gây lãng phí nghiêm trọng; cơ cấu đầu tư bất hợp lý làm cho đầu tư kém hiệu
quả, công tác quản lý yếu kém gây lãng phí, thất thoát, tệ tham nhũng nghiêm trọng.
2. Ý nghĩa và định hướng:
2.1. Ý nghĩa:
Những thành tựu trên có ý nghĩa rất quan trọng là cơ sở để phấn đấu đạt mục tiêu:
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020 mà Đại hội X của Đảng nêu ra trở thành hiện thực.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là lời giải cho bài toán phát triển ở nước ta, trực
tiếp đưa đất nước ra khỏi nguy cơ tụt hậu so với thế giới. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
tạo ra những khuynh hướng chuyển biến về kinh tế xã hội của đất nước trên cơ sở khai
thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong nước, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế
quốc tế, xây dựng cơ cấu kinh tế đa ngành với trình độ khoa học và công nghệ ngày càng
hiện đại.
16
Mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế, chúng ta vẫn có những yếu tố thuận lợi,
thời cơ, và có đủ khả năng để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Ngày nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đầy ấn tượng cùng sự ổn định trong chính
trị xã hội trong quá trình đổi mới, chứng tỏ tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đạt
được những thành tựu nhất định.
2.2. Định hướng:
2.2.1. Định hướng về phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa:
Văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(12-19/01/2011) về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã chỉ ra định hướng phát triển
kinh tế giai đoạn 2010 - 2020 như sau: Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng
sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng
nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm
là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh
nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường, tăng nhanh giá nội địa, giá trị gia tăng và sức
cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế tri thức, gắn phát triển kinh
tế với bảo vệ mội trường, phát triển kinh tế tri thức. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ mội
trường, phát triển kinh tế xanh.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và các cơ quan các cấp, các ngành cần phối hợp,
đồng lòng cùng nhau thực hiện chiến lược này, đưa đất nước ngày một phát triển, đẩy
mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
2.2.1.1. Định hướng về công nghiệp hóa hiện đạt hóa kết hợp với nền kinh tế tri thức:
Một là, xây dựng 2 trung tâm quốc gia về công nghệ cao ở Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh, lấy đây là đầu tàu, là mô hình tiêu biểu cho phát triển công nghệ của cả nước và là
nơi thu hút, nuôi dưỡng công nghệ và tri thức mới của nhân loại.
Hai là, đẩy nhanh quá trình xây dựng thị trường khoa học-công nghệ theo hướng
mọi tri thức, công nghệ đều được trao đổi, mua bán, chuyển giao thuận lợi trên thị
trường, được nuôi dưỡng bằng tinh thần cạnh tranh bình đẳng.
Ba là, sử dụng công cụ tín dụng và thuế nhằm khuyến khích các doanh nghiệp bỏ
qua các thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao.
Bốn là, tạo môi trường thuận lợi để các tập đoàn xuyên quốc gia không chỉ đầu tư
xây dựng cơ sở sản xuất mà còn xây dựng cả cơ sở đào tạo tại chỗ nguồn nhân lực chất
lượng cao, thành thạo kỹ năng nghề nghiệp.
17