Hoạt động lập pháp và giám sát của quốc hội

  • 73 trang
  • file .docx
Hoạt động lập pháp và giám sát của Quốc hội
CHƯƠNG 1. HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP CỦA QH.
1.1.1. Khái niệm về hoạt động lập pháp của QH
Điều 83 Hiến pháp 1992 quy định: "QH là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. QH là
cơ quan duy nhất có quyền... lập pháp".
Như vậy quyền lập pháp của QH xuất phát từ vị trí và tính chất của QH là cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Chỉ có QH mới có
quyền làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương trình xây dựng luật. Quyền lập pháp
của QH được thể hiện thông qua một loại hoạt động quan trọng của QH là hoạt động lập
pháp.
Hoạt động lập pháp là hoạt động làm luật và sửa đổi luật của QH, hay nói cách khác là
hoạt động ban hành ra các văn bản có hiệu lực pháp lý cao, điều chỉnh các quan hệ xã hội
cơ bản, quan trọng thuộc các lĩnh vực về đối nội, đối ngoại, nghĩa vụ kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Luật là những văn
bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao chỉ sau Hiến pháp. Luật được ban hành trên cơ sở
của Hiến pháp, phù hợp với nội dung và tinh thần của Hiến pháp và để thi hành Hiến
pháp. Các văn bản dưới luật của các cơ quan Nhà nước và các văn bản của các tổ chức
khác phải được ban hành trên cơ sở Hiến pháp và luật, phù hợp với nội dung và tinh thần
của Hiến pháp và luật, để thi hành Hiến pháp vàluật.
Hoạt động lập pháp là một hoạt động sáng tạo bao gồm những giai đoạn khác nhau, từ
giai đoạn lập chương trình xây dựng luật cho đến giai đoạn xem xét, thông qua dự án
luật. Các giai đoạn đó được quy định mọi cách cụ thể trong Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật.
1.1.2. Trình tự hoạt động lập pháp của QH
1.1.2.1. Chương trình xây dựng luật
a. Lập chương trình, thông qua chương trình xây dựng luật
Chương trình xây dựng luật được xây dựng trên cơ sở đường lối chủ trương, chính sách
của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và yêu cầu quản lý
nhà nước trong từng thời kỳ, bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của công dân.
Theo quy định tại Điều 87 Hiến pháp 1992, Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ QH, Hội
đồng dân tộc và các Ủy ban của QH, Chính phủ Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam có quyền trình dự án luật ra trước QH; đại biểu QH có quyền trình kiến
nghị về luật và dự án luật ra trước QH.
Cơ quan, tổ chức, đại biểu QH có quyền trình dự án luật theo quy định tại Điều 87 Hiến
pháp 1992 gửi đề nghị xây dựng luật đến Ủy ban thường vụ QH và đồng thời gửi đến
Chính phủ. Đề nghị xây dựng luật phải nêu rõ sự cần thiết ban hành luật; đối tượng, phạm
vi điều chỉnh của luật; những quan điểm, nội dung chính của luật; dự kiến nguồn lực bảo
đảm thi hành và điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo luật. Kiến nghị về luật của đại biểu
QH cũng được gửi đến Ủy ban thường vụ QH và Chính phủ.
Chính phủ lập dự kiến chương trình xây dựng luật về những vấn đề thuộc phạm vi chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trình Ủy ban thường vụ QH và phát biểu ý kiến về
đề nghị xây dựng luật của cơ quan khác, tổ chức đại biểu QH, kiến nghị về luật của đại
biểu QH.
Ủy ban thường vụ QH chủ trì và phối hợp với Hội đồng dân tộc và các Ủy ban khác của
QH thẩm tra dự kiến của Chính phủ về chương trình xây dựng luật của cơ quan khác, tổ
chức, đại biểu QH, kiến nghị về luật của đại biểu QH. Căn cứ vào dự kiến của Chính phủ,
đề nghị xây dựng luật của cơ quan khác, tổ chức, đại biểu QH, kiến nghị về luật của đại
biểu QH, ý kiến thẩm tra của Ủy ban pháp luật, Ủy ban thường vụ QH lập dự án chương
trình xây dựng luật trình QH quyết định.
Chương trình xây dựng luật bao gồm chương trình xây dựng luật theo nhiệm kỳ QH và
chương trình xây dựng luật hàng năm.
QH quyết định chương trình xây dựng luật cả nhiệm kỳ trong năm đầu tiên của mỗi khóa
QH; quyết định chương trình xây dựng luật hàng năm tại kỳ họp cuối năm của năm trước.
b. Điều chỉnh chương trình xây dựng luật
Khi xét thấy cần thiết, QH quyết định điều chỉnh chương trình xây dựng luật.
Cơ quan, tổ chức, đại biểu QH khi kiến nghị về việc điều chỉnh chương trình xây dựng
luật phải có tờ trình nêu rõ lý do việc điều chỉnh chương trình xây dựng luật.
Thủ tục, trình tự điều chỉnh chương trình xây dựng luật được thực hiện theo quy định của
việc lập chương trình, thông qua chương trình xây dựng luật đã được trình bày ở mục a.
c. Bảo đảm thực hiện chương trình xây dựng luật
Ủy ban thường vụ QH chỉ đạo việc thực hiện chương trình xây dựng luật.
Cơ quan, tổ chức, đại biểu QH trình dự án luật đã được quyết định trong chương trình
xây dựng luật có trách nhiệm tổ chức việc soạn thảo, bảo đảm chất lượng và thời hạn
trình dự án luật.
1.1.2.2. Soạn thảo luật
a. Thành lập Ban soạn thảo
Cơ quan, tổ chức trình dự án luật thành lập Ban soạn thảo.
Ủy ban thường vụ QH thành lập Ban soạn thảo trong các trường hợp sau đây:
- Dự án luật có nội dung liên quan đến nhiều nghành, nhiều lĩnh vực;
- Dự án luật do Ủy ban thường vụ QH trình;
- Dự án luật do Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của QH trình;
- Dự án luật do đại biểu QH trình.
Ban soạn thảo gồm Trưởng ban là người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo và
các thành viên là đại diện các cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia, các nhà khoa
học.
Cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo chịu trách nhiệm bảo đảm các điều kiện hoạt động của
Ban soạn thảo; chịu trách nhiệm trước cơ quan trình dự án luật về nội dung, chất lượng
của dự án và tiến độ soạn thảo.
Cơ quan, tổ chức có thành viên trong Ban soạn thảo có trách nhiệm góp ý bằng văn bản
về dự án luật.
b. Nhiệm vụ của Ban soạn thảo dự án luật
Trong việc soạn thảo dự án luật Ban soạn thảo có những nhiệm vụ sau đây:
- Tổng kết tình hình thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành có liên quan đến dự án luật; khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan
đến nội dung chính của dự án luật;
- Tổ chức nghiên cứu thông tin, tư liệu có liên quan đến dự án luật;
- Chuẩn bị đề cương, biên soạn và chỉnh lý dự án luật;
- Tổ chức lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan và các đối tượng chịu sự tác
động trực tiếp của luật trong phạm vi và với hình thức thích hợp tùy theo tính chất và nội
dung của từng dự án luật;
- Chuẩn bị tờ trình và tài liệu liên quan đến dự án luật. Trong tờ trình nêu rõ sự cần thiết
phải ban hành, mục đích, yêu cầu, phạm vi, đối tượng và nội dung chính của dự án luật,
những vấn đề cần xin ý kiến chỉ đạo và những vấn đề còn có ý kiến khác nhau;
- Phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan chuẩn bị dự thảo các văn bản quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành;
- Trong việc soạn thảo dự án luật phải tính đến điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt nam ký kết hoặc gia nhập.
c. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, đại biểu QH trình dự án luật.
* Cơ quan, tổ chức, đại biểu QH trình dự án luật có nhiệm vụ quyền hạn sau đây:
- Chỉ đạo Ban soạn thảo trong quá trình xây dựng dự án luật;
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu, thông tin liên quan đến
dự án luật;
- Xem xét, quyết định việc trình dự án luật ra QH. Trong trường hợp chưa trình được dự
án luật theo chương trình thì phải kịp thời báo cáo Ủy ban thường vụ QH và nêu rõ lý do.
* Đối với dự án luật không do Chính phủ trình, thì chậm nhất là 45 ngày, trước ngày khai
mạc kỳ họp QH, cơ quan, tổ chức, đại biểu QH trình dự án luật có trách nhiệm gửi dự án
đến Chính phủ để Chính phủ tham gia ý kiến.
Chính phủ có trách nhiệm xem xét, thảo luận tập thể những dự án luật do Chính phủ
trình, biểu quyết theo đa số để quyết định việc trình dự án luật ra QH. Đối với những dự
án luật do cơ quan khác, tổ chức, đại biểu QH trình thì Chính phủ có trách nhiệm tham
gia ý kiến bằng văn bản.
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm tham gia ý kiến bằng
văn bản về dự án luật mà nội dung của dự án liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ
quản lý ngành, lĩnh vực của mình.
d. Thẩm định dự án luật.
Bộ tư pháp có trách nhiệm thẩm định các dự án luật để Chính phủ xem xét trước khi
quyết định trình QH. Hội đồng thẩm định do Bộ trưởng Bộ tư pháp thành lập để thẩm
định các dự án luật do Bộ tư pháp chủ trì soạn thảo.
Cơ quan thẩm định tiến hành thẩm định về những vấn đề sau đây:
- Sự cần thiết ban hành luật, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự án luật;
- Sự phù hợp của nội dung dự án luật với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng;
- Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản với hệ thống pháp luật;
- Tính khả thi của văn bản;
- Việc tuân thủ thủ tục và trình tự soạn thảo;
- Ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản.
Trong trường hợp cần thiết, cơ quan thẩm định yêu cầu cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo
những vấn đề thuộc nội dung dự án luật; tự mình hoặc cùng cơ quan chủ trì soạn thảo tổ
chức khảo sát thực tế về những vấn đề thuộc nội dung của dự án. Cơ quan chủ trì soạn
thảo có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho việc thẩm định dự án luật.
Cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu ý kiến thẩm định, chỉnh lý dự án
luật để trình Chính phủ. Trong trường hợp có ý kiến khác với ý kiến của cơ quan thẩm
định thì cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo Chính phủ xem xét quyết định.
đ. Việc tham gia ý kiến của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên vào dự
án luật.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có quyền tham gia ý kiến vào dự
án luật.
Đối với dự án luật có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, về tổ chức bộ máy nhà nước, thì cơ quan soạn thảo có trách nhiệm gửi dự án
luật đến Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban chấp hành trung ương
của các tổ chức thành viên có liên quan để lấy ý kiến.
1.1.2.3. Thẩm tra dự án luật
a. Việc thẩm tra của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của QH
Dự án luật trước khi trình QH, Ủy ban thường vụ QH phải được Hội đồng dân tộc, các
Ủy ban hữu quan của QH thẩm tra (gọi chung là cơ quan thẩm tra). Theo quy định từ
Điều 26 đến Điều 33 Luật tổ chức QH, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của QH được
phân công thẩm tra các dự án luật theo từng lĩnh vực cụ thể như sau:
- Hội đồng dân tộc thẩm tra dự án luật liên quan đến vấn đề dân tộc.
- Ủy ban kinh tế - ngân sách thẩm tra dự án luật thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế, các hoạt
động kinh doanh, ngân sách, tài chính, tiền tệ và các dự án luật khác do QH, Ủy ban
thường vụ QH giao.
- Ủy ban quốc phòng và an ninh thẩm tra dự án luật thuộc lĩnh vực quốc phòng và an
ninh và các dự án luật khác do QH, Ủy ban thường vụ QH giao.
- Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng thẩm tra dự án luật thuộc
lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thông tin, thể thaovà thanh niên, thiếu niên, nhi đồng và các
dự án luật khác do QH, Ủy ban thường vụ QH giao.
- Ủy ban về các vấn đề xã hội thẩm tra dự án luật thuộc lĩnh vực lao động, y tế, xã hội,
tôn giáo và các dự án luật khác do QH, Ủy ban thường vụ QH giao.
- Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường thẩm tra dự án luật thuộc lĩnh vực khoa học,
công nghệ và bảo vệ môi trường sinh thái và các dự án luật khác do QH, Ủy ban thường
vụ QH giao.
- Ủy ban đối ngoại thẩm tra dự án luật thuộc lĩnh vực hoạt động đối ngoại của nhà nước
ta và các dự án luật khác do QH, Ủy ban thường vụ QH giao.
- Ủy ban pháp luật thẩm tra dự án luật thuộc lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước, về hình
sự, dân sự, hành chính và các dự án luật khác do QH, Ủy ban thường vụ QH giao, dự
kiến của Chính phủ về chương trình xây dựng luật, đề nghị của cơ quan khác, của tổ
chức, đại biểu QH về xây dựng luật, kiến nghị của đại biểu QH về luật. Bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật trước khi
trình QH, Ủy ban thường vụ QH thông qua.
Trong trường hợp Ủy ban thường vụ QH trình dự án luật thì QH quyết định cơ quan thẩm
tra hoặc thành lập Ủy ban lâm thời để thẩm tra dự án luật đó; đối với dự án luật do Hội
đồng dân tộc, các Ủy ban của QH trình, thì Ủy ban thường vụ QH quyết định cơ quan
thẩm tra.
Cơ quan thẩm tra có quyền yêu cầu cơ quan soạn thảo báo cáo về những vấn đề thuộc nội
dung của dự án; tự mình hoặc cùng cơ quan soạn thảo tổ chức khảo sát thực tế về những
vấn đề thuộc nội dung của dự án luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân được cơ quan thẩm tra
yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ có việc thẩm tra dự án luật.
b. Thời hạn gửi dự án luật để thẩm tra và phạm vi thẩm tra
* Thời hạn gửi dự án luật để thẩm tra.
Chậm nhất là 30 ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp QH hoặc chậm nhất là 20 ngày trước
ngày bắt đầu phiên họp của Ủy ban thường vụ QH, cơ quan, tổ chức, đại biểu QH trình
dự án luật phải gửi tờ trình, dự án luật tới cơ quan thẩm tra để tiến hành thẩm tra.
* Phạm vi thẩm tra.
Cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra về tất cả các mặt của dự án luật nhưng tập trung vào
những vấn đề chủ yếu sau đây:
- Sự cần thiết ban hành luật; đối tượng, phạm vi điều chỉnh;
- Sự phù hợp của nội dung dự án luật với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng;
- Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản với hệ thống pháp luật;
- Tính khả thi của dự án luật;
- Việc tuân thủ thủ tục và trình tự soạn thảo.
* Trách nhiệm của Ủy ban pháp luật của QH về việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và
tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật trước khi trình QH, Ủy ban
thường vụ QH xem xét, thông qua.
Ủy ban pháp luật của QH có trách nhiệm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống
nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật trước khi trình QH, Ủy ban thường vụ
QH xem xét, thông qua bằng các hoạt động sau đây:
- Tham gia thẩm tra các dự án luật do Hội đồng dân tộc và các Ủy ban khác của QH chủ
trì thẩm tra. Trong trường hợp có ý kiến khác với cơ quan chủ trì thẩm tra về tính hợp
hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với dự án luật, thì Ủy ban
pháp luật báo cáo với QH, Ủy ban thường vụ QH về ý kiến của mình;
- Tham gia chỉnh lý dự án luật.
c. Phương thức thẩm tra
Dự án luật có thể được thẩm tra một lần hoặc nhiều lần.
Đối với dự án luật trình Ủy ban thường vụ QH để xin ý kiến, thì phải được cơ quan thẩm
tra tiến hành thẩm tra sơ bộ.
Đối với dự án luật trình QH xem xét, quyết định thông qua, thì phải được cơ quan thẩm
tra tiến hành thẩm tra chính thức.
Khi thẩm tra chính thức, cơ quan thẩm tra phải tiến hành phiên họp toàn thể.
Trong trường hợp dự án luật được giao cho nhiều cơ quan phối hợp thẩm tra, thì cơ quan
được giao chủ trì thẩm tra có trách nhiệm tổ chức phiên họp liên tịch để tiến hành thẩm
tra.
Báo cáo thẩm tra phải phản ánh đầy đủ ý kiến của các thành viên cơ quan thẩm tra.
1.1.2.4. Việc xem xét cho ý kiến về dự án luật của Ủy ban thường vụ QH
a. Thời hạn gửi dự án luật để Ủy ban thường vụ QH xem xét, cho ý kiến
Chậm nhất là 20 ngày, trước ngày bắt đầu phiên họp Ủy ban thường vụ QH, cơ quan, tổ
chức, đại biểu QH trình dự án luật phải gửi tờ trình, dự án luật và các tài liệu có liên quan
đến cơ quan thẩm tra để tiến hành thẩm tra sơ bộ.
Chậm nhất là 7 ngày, trước ngày bắt đầu phiên họp Ủy ban thường vụ QH, cơ quan, tổ
chức, đại biểu QH trình dự án luật phải gửi tờ trình, dự án luật và tài liệu có liên quan đến
Ủy ban thường vụ QH. Cũng trong thời hạn nói trên cơ quan thẩm tra phải gửi báo cáo
thẩm tra về dự án luật đó đến Ủy ban thường vụ QH.
b. Trình tự xem xét cho ý kiến về dự án luật và việc tiếp thụ, chỉnh lý dự án luật theo ý
kiến của Ủy ban thường vụ QH
* Trình tự xem xét cho ý kiến về dự án luật.
Tùy theo tính chất và nội dung của dự án luật, Ủy ban thường vụ QH có thể xem xét, cho
ý kiến về dự án luật một hoặc nhiều lần.
Ủy ban thường vụ QH xem xét, cho ý kiến về dự án luật theo trình ự sau đây:
- Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu QH trình dự án luật thuyết trình về dự án luật và
những vấn đề thuộc nội dung dự án cần xin ý kiến;
- Đại diện cơ quan thẩm tra trình báo cáo thẩm tra;
- Đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;
- Các thành viên Ủy ban thường vụ QH thảo luận;
- Chủ tọa phiên họp kết luận.
* Việc tiếp thụ, chỉnh lý dự án luật theo ý kiến của Ủy ban thường vụ QH.
Trên cơ sở ý kiến của Ủy ban thường vụ QH, cơ quan, tổ chức, đại biểu QH trình dự án
luật có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thụ ý kiến và tổ chức việc chỉnh lý dự án.
Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu QH trình dự án luật có ý kiến khác với ý
kiến của Ủy ban thường vụ QH, thì báo cáo QH xem xét, quyết định.
1.1.2.5. Lấy ý kiến nhân dân và lấy ý kiến đại biểu QH, Đoàn đại biểu QH về dự án luật
a. Lấy ý kiến nhân dân về dự án luật
* Quyết định việc lấy ý kiến nhân dân về dự án luật.
Căn cứ vào tính chất và nội dung của dự án luật, QH, Ủy ban thường vụ QH quyết định
việc lấy ý kiến nhân dân về dự án luật.
Nội dung, phạm vi, thể thức và thời gian lấy ý kiến nhân dân về dự án luật do Ủy ban
thường vụ QH quyết định. Ủy ban thường vụ QH chỉ đạo việc tổ chức lấy ý kiến nhân
dân về dự án luật và việc tiếp thụ ý kiến nhân dân để chỉnh lý dự án.
* Việc tham gia của nhân dân vào dự án luật.
Công dân góp ý kiến về dự án luật thông qua cơ quan, tổ chức của mình, trực tiếp hoặc
gửi thư góp ý tới Văn phòng QH, cơ quan, tổ chức soạn thảo dự án hoặc thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân có trách nhiệm tổ chức, tạo điều kiện
để công dân thuộc tổ chức, cơ quan, đơn vị mình tham gia ý kiến vào dự án luật.
* Tập hợp, tiếp thụ ý kiến nhân dân để chỉnh lý dự án luật.
Y kiến của nhân dân về dự án luật phải được tập hợp, nghiên cứu, tiếp thụ để chỉnh lý dự
án.
Văn phòng QH có trách nhiệm tập hợp đầy đủ ý kiến của nhân dân.
Cơ quan, tổ chức, đại biểu QH trình dự án luật phối hợp với cơ quan thẩm tra nghiên cứu,
tiếp thụ ý kiến nhân dân, chỉnh lý dự án và báo cáo Ủy ban thường vụ QH.
b. Lấy ý kiến đại biểu QH, Đoàn đại biểu QH về dự án luật
* Việc tham gia ý kiến về dự án luật của đại biểu QH, Đoàn đại biểu QH.
Trong quá trình soạn thảo, nếu được Ủy ban thường vụ QH đồng ý thì dự án luật được
gửi lấy ý kiến đại biểu QH.
Chậm nhất là 20 ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp QH, dự án luật phải được gửi đến đại
biểu QH.
Đoàn đại biểu QH có trách nhiệm tổ chức thảo luận dự án luật tại địa phương và gửi biên
bản thảo luận về Văn phòng QH chậm nhất là 7 ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp.
* Việc tiếp thụ và chỉnh lý dự án luật theo ý kiến của đại biểu QH, Đoàn đại biểu QH.
Văn phòng QH có trách nhiệm tập hợp ý kiến của đại biểu QH, Đoàn đại biểu QH về dự
án luật. Cơ quan, tổ chức, đại biểu QH trình dự án luật phối hợp với cơ quan thẩm tra
nghiên cứu tiếp thụ ý kiến của đại biểu QH, Đoàn đại biểu QH để chỉnh lý dự án.
1.1.2.6. Thông qua dự án luật
Tùy theo tính chất, nội dung của dự án luật, QH có thể xem xét thông qua dự án luật tại
một hoặc hai kỳ họp của QH.
a. Trình tự xem xét, thông qua dự án luật tại một kỳ họp của QH
QH xem xét, thông qua dự án luật tại một kỳ họp theo trình tự sau đây:
- Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu QH trình dự án luật thuyết trình về dự án;
- Đại diện cơ quan thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra;
- QH thảo luận tại phiên họp toàn thể về những nội dung cơ bản và những vấn đề lớn còn
có ý kiến khác nhau của dự án luật. Trước khi thảo luận tại phiên họp toàn thể, dự án luật
có thể được thảo luận ở Tổ hoặc Đoàn đại biểu QH. Trong quá trình thảo luận cơ quan, tổ
chức, đại biểu QH trình dự án luật được trình bày bổ sung về những vấn đề liên quan đến
dự án.
- Ủy ban thường vụ QH chỉ đạo Đoàn thư ký kỳ họp tổng hợp ý kiến của đại biểu QH.
Trong trường hợp cần thiết, QH biểu quyết một số nội dung của dự án luật để làm cơ sở
cho việc chỉnh lý dự án;
- Ủy ban thường vụ QH chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan trình dự án, Ủy ban
pháp luật của QH, Bộ tư pháp và các cơ quan hữu quan căn cứ vào ý kiến của đại biểu
QH để chỉnh lý dự thảo luật. Ủy ban thường vụ QH báo cáo QH về việc tiếp thu, chỉnh lý
dự thảo luật;
- QH nghe đọc dự thảo đã được chỉnh lý, sau đó thảo luận, biểu quyết thông qua một số
nội dung còn có ý kiến khác nhau và biểu quyết thông qua dự thảo luật;
- Dự thảo luật được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu QH biểu quyết tán thành.
Chủ tịch QH ký chứng thực luật.
Trong trường hợp dự thảo luật chưa được thông qua hoặc mới được thông qua một phần
thì việc chỉnh lý và thông qua dự thảo luật được thực hiện theo trình tự nêu trên.
b. Trình tự xem xét, thông qua dự án luật tại hai kỳ họp của QH.
QH xem xét, thông qua dự án luật tại hai kỳ họp theo trình tự sau đây:
* Tại kỳ họp thứ nhất:
- Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu QH trình dự án luật thuyết trình về dự án;
- Đại diện cơ quan thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra;
- QH thảo luận tại phiên họp toàn thể về những nội dung cơ bản và những vấn đề lớn còn
có ý kiến khác nhau của dự án luật. Trước khi thảo luận tại phiên họp toàn thể, dự án luật
có thể được thảo luận ở Tổ hoặc Đoàn đại biểu QH. Trong quá trình thảo luận cơ quan, tổ
chức, đại biểu QH trình dự án luật được trình bày bổ sung về những vấn đề liên quan đến
dự án.
- Ủy ban thường vụ QH chỉ đạo Đoàn thư ký kỳ họp tổng hợp ý kiến của đại biểu QH và
chuẩn bị những nội dung cơ bản của dự án luật để trình QH biểu quyết làm cơ sở cho việc
chỉnh lý;
* Giữa hai kỳ họp.
Trong thời gian giữa hai kỳ họp của QH, Ủy ban thường vụ QH chỉ đạo cơ quan chủ trì
thẩm tra, cơ quan trình dự án, Ủy ban pháp luật của QH, Bộ tư pháp và các cơ quan căn
cứ vào ý kiến của đại biểu QH để chỉnh lý dự thảo luật.
* Tại kỳ họp thứ hai:
- Ủy ban thường vụ QH báo cáo QH về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật;
- QH nghe đọc dự thảo đã được chỉnh lý, sau đó thảo luận, biểu quyết thông qua một số
nội dung còn có ý kiến khác nhau và biểu quyết thông qua dự thảo luật;
- Dự thảo luật được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu QH biểu quyết tán thành.
Chủ tịch QH ký chứng thực luật.
Trong trường hợp dự thảo luật chưa được thông qua hoặc mới được thông qua một phần
thì việc xem xét, thông qua tại kỳ họp tiếp theo do QH quyết định theo đề nghị của Ủy
ban thường vụ QH.
1.1.3. Quan điểm của Đảng cộng sản việt nam về hoạt động lập pháp của QH.
Đảng cộng sản Việt nam luôn quan tâm đến hoạt động lập pháp của QH. Thông qua
những đường lối, chủ trương, chính sách của mình, Đảng định hướng cho hoạt động lập
pháp của QH. Trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng hoặc của Hội
nghị Ban chấp hành trung ương Đảng đã có những đánh giá về hoạt động lập pháp của
QH trong giai đoạn hiện nay, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động lập pháp của QH.
Một trong số những Hội nghị quan trọng của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản
Việt nam đề cập sâu đến hoạt động lập pháp của QH là Hội nghị Ban chấp hành trung
ương Đảng lần thứ 3 khóa VIII. Tại Hội nghị này Đảng ta đã đưa ra những giải pháp
đồng bộ nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động lập pháp của QH. Cụ thể các giải
pháp đó là:
- Căn cứ vào định hướng phát triển của đất nước, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và điều
kiện của đất nước, khả năng thực hiện mà xác định rõ thứ tự ưu tiên trong chương trình
xây dựng pháp luật dài hạn và hàng năm.
- Chỉ đạo chặt chẽ quá trình chuẩn bị và thông qua các dự án luật, bảo đảm quán triệt
đường lối, quan điểm của Đảng, trên cơ sở tổng kết thực tiễn Việt Nam, tham khảo có
chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài, tránh sao chép, rập khuôn. Cần tập hợp trí tuệ của các
nhà khoa học, các chuyên gia, lấy ý kiến nhân dân, nhất là các đối tượng có liên quan đến
việc thi hành luật. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định của Hội đồng dân tộc và các
Ủy ban của QH để các kỳ họp của QH có thể xem xét và thông qua các dự án luật được
nhanh chóng và có chất lượng cao.
- Các luật ban hành cần có tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể để giảm bớt tình trạng
luật phải chờ đợi các văn bản hướng dẫn mới thi hành được. Tăng cường công tác tuyên
truyền, giải thích, giáo dục pháp luật để nhân dân hiểu và tự giác chấp hành.
- Giảm dần Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ QH và Nghị định của Chính phủ quy định
những vấn đề chưa có luật. Những Pháp lệnh, Nghị định này sau một thời gian thực hiện,
được kiểm nghiệm là đúng thì hoàn chỉnh để chuyển thành luật. Phấn đấu trong một thời
gian nhất định Nhà nước có thể quản lý đất nước chủ yếu bằng luật.
- Cần quy định rõ ràng, cụ thể tiêu chuẩn của các đại biểu QH, đặc biệt về trình độ pháp
lý, khả năng hoạt động đại biểu... để bảo đảm các đại biểu QH hoạt động một cách có
hiệu quả nhất là trong hoạt động lập pháp.
- Cần tăng số lượng các đại biểu QH hoạt động chuyên trách. Các đại biểu QH hoạt động
không chuyên trách cần giành nhiều thời gian, tập trung trí tuệ làm nhiệm vụ đại biểu
tránh một tình trạng phổ biến hiện nay là chỉ trong các kỳ họp các đại biểu QH mới thực
sự làm nhiệm vụ đại biểu của mình. Hoàn thiện quy chế về vai trò, trách nhiệm của đại
biểu QH chuyên trách.
- Cần tạo điều kiện tối đa để các đại biểu QH có khả năng trình dự án luật ra trước QH.
Cần có quy định cụ thể quy trình xử lý những kiến nghị về luật của các đại biểu QH hoặc
khi các đại biểu QH trình dự án luật. Tạo điều kiện hơn nữa cho các đại biểu QH có khả
năng tham gia hoạt động lập pháp một cách thực chất, tránh việc biểu quyết luật một cách
hình thức.
- Cải tiến và nâng cao chất lượng hoạt động của đại biểu QH và sinh hoạt của QH, của
Đoàn đại biểu QH; giữ mối liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực sự
chịu trách nhiệm trước cử tri, biến ý chí của nhân dân thành pháp luật...
- Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan của QH. Có hình thức thu hút các
chuyên gia giỏi làm tư vấn cho Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của QH trong các hoạt
động thẩm định các dự án luật.
- Nghiên cứu thành lập thêm một số Ủy ban của QH, đặc biệt là Ủy ban soạn thảo các dự
án luật của QH.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cũng đã đưa ra những giải pháp quan
trọng để nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của QH. Nghị quyết của Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ rằng cần phải "Kiện toàn tổ chức, đổi mới
phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của QH, trọng tâm là tăng cường công tác
lập pháp, xây dựng chương trình dài hạn về lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi
mới quy trình ban hành và hướng dẫn thi hành luật."
Tại Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành trung ương Đảng (Khóa IX), Đảng ta cũng chỉ rõ
rằng: "Tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp của QH để nâng cao chất lượng của các luật".
1. 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP CỦA QH
1.2.1. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC TRONG HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP CỦA
QH
1.2.1.1. Những thành tựu chung
Từ QH khóa I được bầu vào năm 1946 đến nay, QH nước ta đã thực hiện tốt hoạt động
lập pháp, đã thông qua khoảng 200 luật, quy định hầu hết các vấn đề cơ bản, quan trọng
thuộc các lĩnh vực về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Trong hoàn cảnh, đất nước liên tục có chiến tranh nhưng QH đã thông qua được khoảng
200 luật, chứng tỏ sự cố gắng vượt bậc của QH trong hoạt động lập pháp của mình. Đáng
chú ý, trong giai đoạn từ năm 1991 đến nay, QH khóa IX, khóa X và khóa XI đã thông
qua khoảng gần 100 luật, chiếm gần 60% tổng số luật mà QH thông qua trong suốt 60
năm qua. Chỉ tính riêng tại kỳ họp thứ 4 và kỳ họp thứ 5 QH khóa XI đã thông qua 16
luật và cho ý kiến về 15 dự án luật (Kỳ họp thứ 4 thông qua 9 luật, cho ý kiến về 7 dự án
luật; kỳ họp thứ 5 thông qua 7 luật, cho ý kiến về 8 dự án luật). Tại kỳ họp thứ 7 QH
khóa XI đã thông qua 15 dự án luật và cho ý kiến về 9 dự án luật khác. Những số liệu
trên cho thấy sự cố gắng vượt bậc của QH trong hoạt động lập pháp nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật, tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên
cũng có quan điểm cho rằng với khối lượng công việc lớn như vậy, số lượng luật thông
qua tại một kỳ họp nhiều như vậy cách chắn sẽ ảnh hưởng tiêu cực của chất lượng của
các luật được thông qua. Nhưng dầu sao đây cũng là một thành tựu lớn, đáng được ghi
nhận trong hoạt động lập pháp của QH trong thời gian vừa qua.
Hoạt động lập pháp của QH đã góp phần quan trọng trong việc thể chế hóa đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản Việt nam qua từng giai đoạn lịch sử, thể hiện ý
chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam kiên quyết đấu tranh giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ thành công Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cùng với số lượng các luật được QH thông qua ngày càng nhiều, thì chất lượng hoạt
động lập pháp của QH cũng được nâng cao. Điều đó được thể hiện ở chất lượng của các
luật đã được thông qua và ở sự mở rộng phạm vi các quan hệ xã hội được luật điều chỉnh.
Các luật được ban hành đã thực sự điều chỉnh những các quan hệ xã hội cơ bản, quan
trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng, đối
ngoại, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, văn hóa, giáo dục, khoa học và công
nghệ...
Một thành công rất quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của QH
là QH đã ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật đã được thông qua năm 1996 tại kỳ họp thứ 10 QH khóa IX và đã
được sửa đổi vào năm 2002 tại kỳ họp thứ 2 QH khóa XI. Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật quy định cụ thể quy trình hoạt động lập pháp của QH từ giai đoạn lập
chương trình xây dựng luật cho đến xem xét, thông qua luật tại kỳ họp của QH. Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng để QH thực hiện hoạt động
lập pháp một cách khoa học và có chất lượng.
Hoạt động lập pháp của QH từ chỗ không có chương trình, nhưng nay đã có chương trình
xây dựng luật hàng năm và cả nhiệm kỳ của QH. Trên cơ sở quy định của Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, QH đã lập chương trình xây dựng luật một cách khoa học,
nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản Việt nam, chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, văn hóa, giáo dục, khoa học và công
nghệ... trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể của đất nước ta. Việc lập chương trình xây
dựng luật của QH đã góp phần bảo đảm thứ tự ưu tiên trong hoạt động lập pháp, đồng
thời giúp cho việc soạn thảo, thẩm tra, thông qua các dự án luật được chủ động, kỹ càng,
có chất lượng.
Cùng với việc ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, quy trình hoạt động
lập pháp của QH hiện nay có nhiều điểm đổi mới. Ví dụ như, trước đây các đại biểu QH
chủ yếu thảo luận dự án luật ở Tổ hoặc Đoàn đại biểu QH, sau đó đại diện các Tổ hoặc
Đoàn đại biểu QH đọc tham luận tại phiên họp toàn thể, thì hiện nay các dự án luật không
nhất thiết phải được thảo luận ở Tổ hoặc Đoàn đại biểu QH như trước đây nữa mà được
các đại biểu QH thảo luận sôi nổi trực tiếp tại phiên họp toàn thể. Chính quy định này đã
góp phần đổi mới hình thức sinh hoạt của QH ngày càng dân chủ hơn, phát huy vai trò
của các đại biểu QH trong hoạt động lập pháp, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động
lập pháp của QH.
1.2.1.2. Những thành tựu trong một số lĩnh vực cụ thể
a. Trong lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước, tổ chức hệ thống chính trị
Lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước là một lĩnh vực rất quan trọng, do đó luôn được giành
được sự quan tâm đặc biệt trong hoạt động lập pháp của QH. Trong giai đoạn từ 1946
đến 1959, do điều kiện chiến tranh QH không ban hành các luật về tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, nhưng chính những quy định trong Hiến pháp 1946 là cơ sở quan
trọng để tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta trong giai đoạn này. Nhưng từ khi
có Hiến pháp 1959 đến nay QH đã ban hành khá đầy đủ các luật liên quan đến tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước. Trên cơ sở của các bản Hiến pháp 1959, Hiến pháp
1980 và Hiến pháp 1992, QH đã ban hành một loạt các luật có liên quan đến tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước như: Luật tổ chức QH, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ
chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân, Luật bầu cử đại biểu QH, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân. Ngay như từ khi Hiến pháp 1992 được sửa đổi vào tháng 12 năm 2001 đến nay, QH
đã kịp thời sửa đổi các luật nói trên. Cụ thể là: Luật tổ chức QH (năm 2001), Luật tổ chức
Chính phủ (năm 2001), Luật bầu cử đại biểu QH (năm 2001), Luật tổ chức Tòa án nhân
dân (năm 2002), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (năm 2002), Luật tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân (năm 2003), Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (năm
2003). Những luật vừa được sửa đổi này là cơ sở pháp lý quan trọng để nâng cao hiệu
quả hoạt động của bộ máy nhà nước, phù hợp với định hướng đổi mới tổ chức bộ máy
nhà nước nói chung và cải cách bộ máy hành chính nhà nước nói riêng đã được đề ra tại
Đại hội IX của Đảng, cũng như cải cách tư pháp nói riêng đã được Nghị quyết 08 của Bộ
chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đề ra.
Để có cơ sở pháp lý quan trọng nhằm xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy
quyền làm chủ của mọi tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia thực hiện
quyền lực chính trị của mình, QH đã ban hành một số luật có liên quan đến tổ chức hệ
thống chính trị, trong đó có Luật công đoàn năm 1996, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
năm 1999. Trong thời gian tới QH đã có kế hoặch ban hành Luật thanh niên. Đây là một
thành tựu quan trọng trong hoạt động lập pháp của QH góp phần xây dựng Nhà nước
Việt nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
b. Trong lĩnh vực dân sự, chính sách xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ
Năm 1996 QH đã ban hành Bộ luật dân sự. Đây là một thành tựu lớn trong lĩnh vực lập
pháp của QH. Bộ luật dân sự đã thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
trong giai đoạn mới, đồng thời cụ thể hoá Hiến pháp 1992. Bộ luật dân sự có nhiệm vụ
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, nhà nước và toàn xã hội, bảo đảm
sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần đáp ứng các nhu cầu vật
chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Sự ra đời của Bộ
luật dân sự góp phần bảo đảm cuộc sống cộng đồng ổn định, lành mạnh, giữ gìn phát huy
truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, thuần phong mỹ tục và bản sắc văn hóa dân
tộc, góp phần xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên qua quá trình thực hiện, Bộ luật dân sự 1996 đã
bộc lộ những nhược điểm nhất định, chính vì vậy QH khoá 11 đã xem xét sửa đổi bổ
sung Bộ luật dân sự được hoàn thiện hơn.
Một thành tựu quan trọng trong hoạt động của QH trong lĩnh vực bảo đảm chính sách xã
hội là đã thông qua, sửa đổi bổ sung Bộ luật lao động. Bộ luật lao động đã tạo cơ sở pháp
lý quan trọng để điều chỉnh những quan hệ lao động giữa người lao động với người sử
dụng lao động và các quan hệ xã hội khác liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động . Bộ
luật lao động đã góp phần bảo đảm những lợi ích thiết thực của người lao động, tạo điều
kiện để mọi người chủ động trong việc tạo việc làm và tìm việc làm.
Nhà nước ta rất chú trọng đến quy chế công dân, đã ban hành những văn bản pháp luật
xác lập mối quan hệ giữa nhà nước với công dân. QH đã ban hành, sửa đổi, bổ sung Luật
quốc tịch Việt Nam. Luật quốc tịch Việt Nam đã tăng cường quản lý nhà nước về quốc
tịch, tăng cường mối quan hệ giữa nhà nước và công dân Việt Nam trong việc hưởng
quyền và làm nghĩa vụ công dân, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
QH đã chú trọng đến hoạt động lập pháp trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học và
công nghệ và đã ban hành nhiều luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong những lĩnh vực
này, như: Luật phổ cập giáo dục tiểu học, Luật giáo dục, Luật khoa học công nghệ, Luật
di sản văn hóa... Những luật này là cơ sở pháp lý quan trọng để phát triển nền văn hóa
tiên tiến, nhân văn, mang đậm bản sắc dân tộc; xây dựng nền giáo dục tiên tiến trên cơ sở
của sự nhận thức giáo dục là quốc sách hàng đầu; xây dựng nền khoa học và công nghệ
tiến tiến, coi phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, gắn sự phát triển
của khoa học và công nghệ với hoạt động sản xuất, kinh doanh, phục vụ đời sống xã hội.
c. Trong lĩnh vực kinh tế
Sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn
diện, trong đó đẩy mạnh đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhằm thể chế đường lối đổi mới của Đảng, đồng thời cụ thể hoá những quy định
của Hiến pháp 1992, QH đã ban hành và sửa đổi bổ sung một loạt các luật quan trọng
điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh tế như: Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp,
Luật dầu khí, Luật đất đai, Luật phá sản doanh nghiệp, Luật khoáng sản, Luật Thương
mại, Luật ngân sách nhà nước các luật thuế, Luật chứng khoán, Luật cạnh tranh..
Những luật trong lĩnh vực kinh tế nêu trên đã tạo thành khung pháp lý quan trọng, tạo
môi trường thuận lợi để các chủ thể kinh tế yên tâm đầu tư, sản xuất kinh doanh, tạo
nhiều sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của đất nước, làm cho dân
giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân.
d. Trong lĩnh vực bảo vệ pháp luật, trật tự an toàn xã hội, quốc phòng và an ninh quốc gia
Từ năm 1985 đến nay QH đã ban hành một loạt các văn bản luật quan trọng điều chỉnh
các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo vệ pháp luật, trật tự an toàn xã hội. Đó là: Bộ luật
hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự... Những văn bản luật này đã góp
phần rất quan trọng hình thành cơ sở pháp lý để các cơ quan, tổ chức và công dân đấu
tranh phòng ngừa và chống các vi phạm pháp luật và tội phạm một cách có hiệu quả, bảo
đảm trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc gia, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, nhà
nước, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản và các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
QH cũng đã chú trọng ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản luật trong lĩnh vực quốc
phòng và an ninh quốc gia như: Luật nghĩa vụ quân sự, Luật sĩ quan quân đội nhân dân
Việt Nam, Luật an ninh quốc gia...Những văn bản luật này là cơ sở pháp lý quan trọng để
xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, dựa vào dân nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, cũng như an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả cách mạng
cùng toàn dân xây dựng đất nước.