Hoạt động du lịch quốc tế ở việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

  • 145 trang
  • file .pdf
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------
ĐỖ THANH HIỀN
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH QUỐC TẾ
Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
Hà Nội - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------
ĐỖ THANH HIỀN
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH QUỐC TẾ
Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Chuyên ngành: KINH TẾ THẾ GIỚI
VÀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
Mã số: 60 31 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ KIM CHI
Hà Nội - 2010
MỤC LỤC
Danh mục các chữ viết tắt i
Danh mục các bảng biểu ii
Mở đầu 1
Chƣơng 1: Du lịch quốc tế - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn 5
1.1. Một số khái niệm cơ bản về du lịch quốc tế 5
1.1.1. Các khái niệm về du lịch quốc tế 6
1.1.2. Bản chất của du lịch quốc tế 8
1.1.3. Các loại hình du lịch quốc tế 10
1.2. Vai trò của hoạt động du lịch quốc tế trong sự phát triển của mỗi quốc gia 13
1.2.1. Về mặt kinh tế 13
1.2.2. Về mặt văn hoá - xã hội 15
1.2.3. Một số tác động khác 17
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch quốc tế trong bối cảnh 19
hội nhập kinh tế quốc tế
1.4. Phát triển du lịch của một số nước và bài học kinh nghiệm 21
1.4.1. Kinh nghiệm của một số nước 21
1.4.1.1. Kinh nghiệm của Thái Lan 22
1.4.1.2. Kinh nghiệm của Malaysia 26
1.4.1.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc 27
1.4.2. Bài học kinh nghiệm 30
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động du lịch quốc tế của Việt Nam 34
2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của du lịch quốc tế ở Việt Nam 34
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989 34
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 1999 36
2.1.3. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay 39
2.2. Thực trạng hoạt động du lịch quốc tế ở Việt Nam những năm gần đây 41
2.2.1. Tiềm năng du lịch và quan điểm của Đảng ta về phát triển du lịch 41
quốc tế
2.2.1.1. Tiềm năng du lịch của Việt Nam 41
2.2.1.2. Môi trường kinh doanh của du lịch quốc tế ở Việt Nam 52
2.2.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển du lịch quốc tế 55
2.2.2. Hoạt động du lịch quốc tế ở Việt Nam 58
2.2.2.1. Những đặc điểm chung của thị trường du lịch quốc tế ở Việt Nam 58
2.2.2.2. Khả năng đáp ứng nhu cầu khách du lịch quốc tế của ngành 76
du lịch Việt Nam
2.2.3. Hoạt động đầu tư phát triển du lịch quốc tế ở Việt Nam 82
2.3. Đánh giá về du lịch quốc tế ở Việt Nam 84
2.3.1. Điểm mạnh 84
2.3.2. Điểm yếu 87
2.3.3. Những thách thức 88
2.3.4. Những cơ hội 90
Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động du lịch quốc tế ở 92
Việt Nam
3.1. Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển du lịch quốc tế 92
3.1.1. Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế 92
3.1.2. Xu hướng phát triển du lịch quốc tế 95
3.1.3. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến hoạt động du lịch quốc 96
tế ở Việt Nam
3.2. Định hướng và chiến lược phát triển du lịch quốc tế ở Việt Nam trong 99
thời gian tới
3.2.1. Định hướng phát triển du lịch quốc tế ở Việt Nam 99
3.2.2. Mục tiêu phát triển du lịch quốc tế ở Việt Nam 100
3.3. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động của du lịch quốc tế ở Việt 102
Nam thời gian tới
3.3.1. Đổi mới, hoàn thiện luật pháp và cơ chế chính sách phù hợp với 102
yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế
3.3.2. Tăng cường hội nhập hợp tác quốc tế 108
3.3.3. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ 108
3.3.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch 109
3.3.5. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho du lịch 113
3.3.6. Cải tạo hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và nâng cao chất lượng 114
sản phẩm dịch vụ
3.3.7. Coi trọng bảo vệ môi trường cảnh quan du lịch 115
3.3.8. Phát triển du lịch phải đi đôi với đảm bảo an ninh quốc gia và giữ 117
gìn bản sắc văn hóa dân tộc
3.3.9. Xác định chương trình đầu tư có trọng điểm 118
3.3.10. Một số giải pháp khác 120
Kiến nghị 123
Kết luận 128
Tài liệu tham khảo 129
Phụ lục 132
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT KÝ HIỆU NGHĨA ĐẦY ĐỦ
TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT
1 APEC Asia-Pacific Economic Tổ chức hợp tác kinh tế châu Á
Cooperation - Thái Bình Dương
2 ASEAN Association of Southeast Asia Hiệp hội các quốc gia Đông
Nations Nam Á
3 ATF Asean Travel Forum Diễn đàn du lịch Asean
4 EU European Union Liên minh châu Âu
5 MICE Meeting – Incentive – Du lịch Hội thảo, khen thưởng,
Convention - Exhibition hội nghị, triển lãm
6 GMS Greater Mekong Subregion Tiểu vùng Mekong mở rộng
7 PATA Pacific-Asia Tourism Hiệp hội du lịch châu Á - Thái
Association Bình Dương
8 SARS Severe Acute Respiratory Hội chứng hô hấp cấp tính nặng
Syndrome
9 UNESCO United Nations Educational, Tổ chức giáo dục, khoa học và
Scientific and Cultural văn hóa Liên hiệp quốc
Organization
10 TAT Tourism Authority of Thailand Cơ quan du lịch Thái Lan
11 UNWTO World Tourism Organization Tổ chức Du lịch thế giới
12 EWEC East West Economic Corridor Hành lang kinh tế Đông - Tây
13 WTTC World Travel and Tourism Hội đồng Lữ hành và du lịch
Council quốc tế
14 WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại thế giới
i
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
SỐ HIỆU TÊN BIỂU ĐỒ TRANG
Bảng 2.1 Số lượng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam giai đoạn 35
1960-1975
Bảng 2.2 Hoạt động du lịch giai đoạn 1986 - 1989 36
Bảng 2.3 Hoạt động của du lịch Việt Nam giai đoạn 1990-1997 39
Bảng 2.4 Dự báo nhu cầu lao động của du lịch trong cả nước đến năm 2020 47
Bảng 2.5 Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam thời kỳ 1986-1989 60
Biểu đồ 2.1 Số lượt khách du lịch vào Việt Nam qua các năm 1995-2009 63
Biểu đồ 2.2 Tốc độ tăng trưởng khách du lịch quốc tế của Việt Nam qua các 64
năm 1995-2008
Biểu đồ 2.3 Lượng khách quốc tế đến Việt Nam qua các năm 1995-2008 65
Biểu đồ 2.4 Khách du lịch đến Việt Nam chia theo phương tiện qua các năm 66
1995-2008
Biểu đồ 2.5 Khách du lịch đến Việt Nam chia theo mục đích 67
ii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, với sự phát triển của nền kinh tế, đời sống của con người ngày càng
được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần. Mọi người đều có nhu cầu được vui chơi,
giải trí và du lịch. Do đó, du lịch đang là ngành kinh tế trọng yếu và có triển vọng cao.
Xu hướng mang tính quy luật của sự phát triển kinh tế chỉ ra rằng: tỷ trọng nông
nghiệp từ chỗ chiếm vị trí quan trọng nhất đã dần nhường chỗ cho công nghiệp và cuối cùng
vai trò của kinh tế dịch vụ sẽ chiếm vị trí hàng đầu, trong đó có sự đóng góp của du lịch.
So với các nước trên thế giới, ngành du lịch Việt Nam ra đời muộn hơn, tuy
nhiên, vai trò của ngành đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đang thể
hiện ngày càng rõ nét. Được coi là một ngành “công nghiệp không khói”, du lịch Việt
Nam đã phát triển khá nhanh trong thời gian qua và trở thành ngành kinh tế quan trọng
góp phần tích cực vào quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Du lịch làm tăng
chỉ số GDP, tăng thu ngoại tệ, cân bằng cán cân thanh toán, tạo hàng vạn việc làm cho
người lao động, cải thiện kết cấu hạ tầng và các lĩnh vực căn bản khác của nền kinh tế,
góp phần truyền bá hình ảnh Việt Nam ra toàn thế giới. Tài nguyên thiên nhiên, nhân
văn phong phú và vị trí địa lý thuận lợi là những nhân tố quan trọng trong sự phát triển
của du lịch đất nước. Tuy nhiên, là ngành mới phát triển, du lịch Việt Nam không
tránh khỏi những hạn chế: kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển; nguồn nhân lực du lịch còn hạn chế về trình độ chuyên môn;
sản phẩm du lịch chưa phong phú đa dạng và chất lượng còn thấp; công tác thị trường,
xúc tiến du lịch chưa được đẩy mạnh; ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý và
kinh doanh du lịch còn yếu; chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh trên thị
trường du lịch thế giới còn thấp. Vì vậy, lượng khách du lịch tại Việt Nam thời gian
qua chưa nhiều, chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của đất nước.
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2001), du lịch được coi
là ngành kinh tế mũi nhọn. Điều đó thể hiện vị trí, vai trò quan trọng của du lịch trong
sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Trong xu thế tất yếu của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đặc
biệt là trong điều kiện Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ
chức Thương mại thế giới, việc nâng cao hiệu quả hoạt động của du lịch quốc tế ở Việt
1
Nam là một đòi hỏi vô cùng cấp thiết. Đảng và Nhà nước nói chung và các doanh
nghiệp lữ hành nói riêng không có những giải pháp phù hợp, đúng đắn, không đủ khả
năng cạnh tranh ở thị trường nội địa sẽ càng khó tiếp cận với thị trường quốc tế. Do
đó, đề tài “Hoạt động du lịch quốc tế ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế” có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam
trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trên thế giới hiện nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về hệ thống lý
luận căn bản của du lịch, cũng như những sách chuyên khảo về tình hình hoạt động
kinh doanh du lịch của học giả nhiều nước trên thế giới như: Tourism - A new
perspective của Burn Peter và Holden Andrew; cuốn An introduction to travel and
tourism của Foster Dennis; The tourism system của Robert Christine...
Cùng với sự phát triển chung của thế giới, các nhà nghiên cứu du lịch của Việt
Nam đã có một số công trình nghiên cứu về môn khoa học này như: Nhập môn khoa học
du lịch - Trần Đức Thanh, quyển sách này đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản về du lịch
chứ không đề cập đến những giải pháp để phát triển du lịch; Nghệ thuật hướng dẫn du
lịch - Nguyễn Cường Hiền; Thị trường du lịch - PTS. Nguyễn Văn Lưu; Du lịch và
khách sạn - Sơn Hồng Đức nghiên cứu về du lịch nói chung và những vấn đề liên quan
đến khách sạn trong du lịch nói riêng; Du lịch và kinh doanh du lịch - Trần Nhạn; Kinh
tế du lịch - TS. Nguyễn Hồng Giáp nghiên cứu du lịch dưới góc độ kinh tế.
Tổ chức Du lịch thế giới, UNDP và Viện nghiên cứu phát triển Du lịch (1991) -
Kế hoạch chỉ đạo phát triển du lịch Việt Nam, Dự án VIE/89-003. Dự án phân tích về
khả năng cạnh tranh của du lịch Việt Nam, từ đó đưa ra kế hoạch chỉ đạo nhằm phát
triển du lịch của Việt Nam, nhưng với sự phát triển du lịch hiện nay, một số giải pháp
không còn mang tính thời sự. Tổng cục lữ hành quốc tế (2001) - Chiến lược phát triển
du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Chiến lược đã nêu lên một cách khá toàn diện
hiện trạng của lữ hành quốc tế Việt Nam, từ đó phân tích các điểm còn tồn tại và đưa
ra các chiến lược để phát triển ngành lữ hành quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn
2001-2010, trong đó có hoạt động lữ hành quốc tế.
Một số bài báo, tạp chí chuyên ngành, đề tài khoa học của các trường Đại học
Kinh tế quốc dân, Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, khoa Du lịch - Đại học
2
Khoa học Xã hội và nhân văn... có nghiên cứu về du lịch, tuy đã bước đầu đề cập tới
một vài khía cạnh của lĩnh vực này nhưng vẫn chưa có được những đánh giá toàn diện
về hoạt động du lịch quốc tế ở Việt Nam trong xu thế hội nhập.
Từ việc lĩnh hội các kiến thức về du lịch đó, tác giả đã phân tích về thực trạng
hoạt động du lịch quốc tế ở Việt Nam, từ đó nêu lên những cơ hội, thách thức, định
hướng, chiến lược và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch quốc tế ở
Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, làm rõ thực trạng hoạt động du lịch quốc tế ở Việt Nam, từ đó nêu lên
kiến nghị và đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động du lịch quốc tế ở Việt Nam
trong điều kiện hội nhập khu vực và thế giới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động du lịch quốc tế trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, phân tích vai trò của du lịch quốc tế với sự phát
triển của quốc gia, và kinh nghiệm phát triển du lịch quốc tế ở một số nước.
- Phân tích quá trình hình thành và phát triển của du lịch quốc tế ở Việt Nam, đánh
giá thực trạng của hoạt động du lịch quốc tế và nêu lên những điểm mạnh, điểm yếu, cơ
hội và thách thức của du lịch quốc tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển du lịch quốc tế ở Việt
Nam, tạo cơ sở cho việc nêu lên một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường phát triển
hoạt động của du lịch quốc tế ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động du lịch quốc tế ở Việt Nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài giới hạn nghiên cứu hoạt động du lịch quốc tế ở Việt Nam với việc đưa
khách du lịch Inbound, không nghiên cứu du lịch nội địa.
3
- Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động du lịch quốc tế ở Việt Nam từ
năm 1990, chủ yếu từ năm 2000 đến nay. Một số giải pháp ngắn hạn và trung hạn
(2010-2015) và một số giải pháp có thể kéo dài thêm vài năm phù hợp với Chiến lược
phát triển Du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010 và định hướng tới năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, luận văn dựa trên phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, vận dụng phương pháp lịch sử,
phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu, phương pháp thống kê, phương pháp so
sánh, phương pháp phân tích dự báo, phương pháp phỏng vấn chuyên gia và một số
phương pháp khác.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về du lịch, du lịch quốc tế, phân tích những ảnh
hưởng của du lịch quốc tế với sự phát triển của mỗi quốc gia.
- Đánh giá cơ bản về thực trạng hoạt động của du lịch quốc tế ở Việt Nam, nêu bật
điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của du lịch quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Trên cơ sở khoa học và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động
du lịch quốc tế ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Tác giả hy vọng nghiên
cứu này sẽ là tài liệu tham khảo cho bạn đọc quan tâm, góp phần giúp các nhà hoạch
định chính sách đưa ra biện pháp hiệu quả nâng cao hoạt động du lịch quốc tế ở Việt
Nam, thúc đẩy ngành Du lịch Việt Nam hội nhập nhanh chóng vào Du lịch thế giới.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kiến nghị và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Du lịch quốc tế - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động du lịch quốc tế của Việt Nam
Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động du lịch quốc tế ở Việt Nam
4
CHƢƠNG 1:
DU LỊCH QUỐC TẾ
- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số khái niệm cơ bản về du lịch quốc tế
Du lịch là một trong những lĩnh vực hấp dẫn. Đặc biệt là trong xu hướng hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực gia tăng, hầu hết mỗi chúng ta đều luôn muốn tìm
hiểu về thế giới bên ngoài tầm nhìn nơi mình đang sống. Chúng ta muốn biết về cảnh
quan, con người, nền văn hoá - xã hội... ở những thành phố, quốc gia khác. Ngày nay,
do ảnh hưởng của giáo dục, với sự phát triển của truyền hình và các phương tiện viễn
thông đã đem lại cho chúng ta những nhận thức, quan điểm rộng lớn về thế giới. Nền
kinh tế phát triển và mức sống của người dân được nâng cao đã khiến cho hàng trăm
triệu người có thể đi du lịch. Mỗi người có nhiều lý do để đi du lịch, nhưng lý do
thông thường là giải trí, công tác, kinh doanh, học tập, chữa bệnh...
Cách đây khoảng gần một triệu năm, tổ tiên loài người sau một thời gian dài sinh
sống, đông thêm và do các nguyên nhân khác nữa bắt đầu di chuyển từ nơi này đến nơi
khác. Một trong số đó là người Homo Erectus vốn xuất phát từ miền Đông và miền
Trung châu Phi, nhưng di tích của những người tiền sử này đã được tìm thấy ở Bắc
Kinh (Trung Quốc) và Java (Indonesia). Sự di chuyển qua một khoảng cách rất xa như
vậy trong buổi ban đầu của lịch sử nhân loại ước diễn ra trong khoảng 15 vạn năm. Có
giả thuyết cho rằng những người tiền sử này du mục để tìm thức ăn và trốn tránh nguy
hiểm. Giả thuyết khác là con người quan sát sự di chuyển của những loài chim, muốn
biết chúng từ đâu đến và bay đi đâu nên họ đã di chuyển theo mặc dù nơi họ đang cư
trú không thiếu nguồn thức ăn.
Thời Cổ và Trung đại, kinh tế - xã hội phát triển, do tác động của quan hệ giao
lưu chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa, truyền giáo... việc khám phá các vùng đất
nước, các tộc người mới và văn hóa ở đó, làm cho du lịch dần dần trở thành một nhu
cầu. Đến cuối thời Trung cổ, du lịch được tiến hành một cách có tổ chức. Ở thời kỳ
diễn ra những hoạt động của các nhà thám hiểm nổi tiếng như Macro Polo và
Christopher Columbus, du lịch ngày càng phát triển. Trong thế kỷ XX, việc phát minh
xe ôtô và đường xá sử dụng được trong mọi thời tiết đã khiến du lịch tăng trưởng vượt
bậc. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, việc phát minh máy bay phản lực, nhất là
5
loại thân rộng và việc thiết lập các chuyến bay quốc tế đã làm cho hàng triệu người có
thể đi du lịch nhanh chóng. Các du thuyền, xe buýt có trang thiết bị tân tiến, tàu hoả
hiện đại, khách sạn và các khu nghỉ dưỡng đã cung cấp cho du khách các phương tiện
vận chuyển, cơ sở lưu trú đầy hấp dẫn và đầy đủ tiện nghi. Do đó, ngành du lịch quốc
gia và du lịch quốc tế đã có bước phát triển vượt bậc.
Trong lịch sử nhân loại, từ khá sớm, du lịch đã được ghi nhận như một sở thích,
một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch đã trở thành một
nhu cầu quan trọng trong đời sống văn hoá - xã hội của các nước. Du lịch đã trở thành
một trong những ngành kinh tế quan trọng - ngành công nghiệp du lịch của nhiều nước
công nghiệp phát triển. Đối với các nước đang phát triển, du lịch được coi là một trong
những nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia.
1.1.1. Các khái niệm về du lịch quốc tế
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến không
chỉ ở các nước phát triển mà còn ở cả các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Du lịch là một hiện tượng phức tạp. Nó liên quan đến hoạt động nghỉ ngơi của
con người cũng như các hoạt động kinh tế phục vụ mục đích đó. Trong quá trình phát
triển, nội dung của khái niệm du lịch không ngừng mở rộng. Thuở ban đầu, du lịch
được hiểu đơn thuần là các chuyến đi xa ra khỏi nơi cư trú để thoả mãn nhu cầu nâng
cao hiểu biết về thế giới xung quanh. Sau này, các nhà truyền giáo, các quan chức Nhà
nước, các nhà thể thao, những người hâm mộ... cũng có được những kết quả ấy sau các
chuyến đi. Vì lẽ đó, khái niệm du lịch ngày càng được hiểu rộng hơn.
Năm 1963, với mục đích quốc tế hoá, tại Hội nghị Liên hợp quốc về du lịch họp
ở Roma, các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa: Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ,
hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của
cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với
mục đích hoà bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ. Định nghĩa
này là cơ sở cho định nghĩa du khách đã được Liên minh quốc tế các tổ chức du lịch,
tiền thân của Tổ chức du lịch thế giới thông qua.
Khác với quan điểm trên, các học giả biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam đã
tách 2 nội dung cơ bản của du lịch thành 2 phần riêng biệt. Theo các chuyên gia này,
nghĩa thứ nhất của từ này là một dạng nghỉ dưỡng sức tham quan tích cực của con
6
người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di
tích lịch sử, công trình văn hoá, nghệ thuật... Theo nghĩa thứ hai, du lịch được coi là
một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về
thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hoá dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm
tình yêu đất nước; đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt
kinh tế du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình
thức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ.
Trong Pháp lệnh Du lịch của Việt Nam, Điều 10, thuật ngữ du lịch được hiểu như
sau: "Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình
nhằm thỏa mãn nhu cầu thăm quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian
nhất định". [30, tr.3]
Ngày 4-3-1993, Hội đồng thống kê Liên hợp quốc đã công nhận các thuật ngữ
sau theo đề nghị của WTO để thống nhất việc soạn thảo thống kê du lịch (ở đây chỉ tập
trung làm rõ các khái niệm liên quan đến du lịch quốc tế):
- Du lịch vào trong nước (Inbound tourism) gồm những người từ nước ngoài đến
thăm một quốc gia.
- Du lịch ra nước ngoài (Outbound tourism) gồm những người đang sống trong
một quốc gia đi thăm viếng nước ngoài.
Tổ chức du lịch thế giới (WTO) cũng đưa ra khái niệm được Liên hợp quốc công
nhận như sau: Du khách quốc tế (International tourist) là người lưu trú ít nhất một
đêm, nhưng không vượt quá một năm, tại một quốc gia khác với quốc gia thường trú.
Du khách có thể đến với nhiều lý do khác nhau, không lĩnh lương nơi đến.
Ở Việt Nam, theo Điều 20, chương IV Pháp lệnh Du lịch, những người được
thống kê là du khách quốc tế phải có các tiêu chí cơ bản sau:
- là người nước ngoài hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam
du lịch
- là công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du
lịch.
Mục đích chuyến đi của họ là thăm quan, thăm thân, tham dự hội nghị, khảo sát
thị trường, công tác, chữa bệnh, thể thao, hành hương, nghỉ ngơi...
7
Khách thăm quan: là một loại khách đến với mục đích nâng cao nhận thức tại chỗ
có kèm theo việc tiêu thụ những giá trị tinh thần, vật chất hay dịch vụ, song không lưu
lại qua đêm tại một cơ sở lưu trú của ngành du lịch.
Du khách: là người từ nơi khác đến với/hoặc kèm theo mục đích thẩm nhận tại
chỗ những giá trị vật chất, tinh thần hữu hình hay vô hình của thiên nhiên và/hay của
cộng đồng xã hội. Về phương diện kinh tế, du khách là người sử dụng dịch vụ của các
doanh nghiệp du lịch như lữ hành, lưu trú, ăn uống...
Do du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội mà còn là một lĩnh vực kinh tế với
đối tượng phục vụ là người đi du lịch nên việc thống nhất khái niệm du khách là một
nhu cầu tất yếu. Ngoài mục đích nắm được doanh thu, giúp cơ quan quản lý xác định
được nghĩa vụ đối với Nhà nước của doanh nghiệp du lịch, việc thống nhất và chuẩn
hoá định nghĩa du khách còn có ý nghĩa làm cho du lịch Việt Nam nhanh chóng hội
nhập vào hoạt động thống kê du lịch khu vực và quốc tế.
Khái niệm du lịch vẫn đang là đối tượng nghiên cứu và thảo luận của nhiều nhà
khoa học, nhiều hội nghị cấp quốc gia và quốc tế nhưng phần lớn các nhà khoa học
công nhận rằng du lịch đã và sẽ thay đổi nội dung theo từng giai đoạn phát triển của xã
hội loài người và nó sẽ phức tạp hơn trong quá trình quốc tế hoá du lịch thông qua sự
hợp tác và phân công lao động quốc tế.
1.1.2. Bản chất của du lịch quốc tế
Chúng ta có thể tìm hiểu bản chất của du lịch quốc tế thông qua việc xem xét
hiện tượng đó từ nhiều góc độ khác nhau.
- Nhu cầu của khách du lịch quốc tế
Tuỳ theo nhu cầu và khả năng của mỗi người mà khách du lịch quốc tế sẽ tự xác
định địa điểm du lịch và các hoạt động được thực hiện tại đó như một chuyến du
ngoạn thưởng thức danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hoá... hay một chuyến
viếng thăm người thân, qua đó gắn với an dưỡng, chữa bệnh... nhưng không phải vì
mục đích sinh lợi.
Cùng với hiện tượng bùng nổ các tour du lịch, ngày nay nhu cầu của khách du
lịch quốc tế ngày càng đa dạng, phong phú. Do đó, quốc gia, điểm đến du lịch cần
phải có những chương trình, loại hình du lịch chất lượng cao với những giá trị vật chất
và tinh thần mang tính văn hoá cao, đặc sắc, mới lạ.
8
Việc sử dụng phương tiện vận chuyển cũng thể hiện rõ nhu cầu của khách du lịch
quốc tế. Trong quá trình du lịch, ngoài các phương tiện vận chuyển, thiết bị hạ tầng hiện
đại, sân bay bến cảng, đường cao tốc... du khách quốc tế còn có nhu cầu được di chuyển
trên các phương tiện vận chuyển truyền thống như thuyền nan, thuyền rồng, xe song
mã, tứ mã, voi, lạc đà... Từ đó, du khách quốc tế cảm nhận được những sắc thái mà quê
hương họ không có. Đây cũng là một lĩnh vực mà kinh doanh vận chuyển du lịch tìm
kiếm và sáng tạo nhằm đáp ứng tối ưu nhu cầu của du khách nước ngoài.
- Quốc sách phát triển du lịch quốc tế
Các nước có nền du lịch phát triển như Pháp, Mỹ, Italia, Nhật Bản... đều dựa trên
những nền tảng: tiềm năng nhân văn (di tích lịch sử, di tích văn hoá, phong tục tập
quán, lễ hội...), tiềm năng thiên nhiên (cảnh quan đất nước, hệ sinh thái động thực vật,
khí hậu, thổ nhưỡng, sông ngòi, hang động...). Từ đó, các nước này hoạch định chiến
lược phát triển du lịch, đầu tư xây dựng thiết bị cơ sở hạ tầng tương ứng như sân bay,
bến cảng, đường sá, khách sạn, phương tiện vận chuyển... nhằm tạo ra những sản
phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn.
- Sản phẩm du lịch quốc tế
Nhà nghiên cứu kinh tế học người Mỹ J. Krippendort trong tác phẩm "Marketing
và du lịch" đã chia sản phẩm du lịch thành 4 nhóm thành phần: thành phần tự nhiên,
những hoạt động của con người, hạ tầng cơ sở, trang thiết bị du lịch.
Tuy nhiên, một trong những cách sắp xếp tài nguyên đầy đủ nhất của Tổ chức Du
lịch thế giới lại xoay quanh 7 mặt quan trọng, đó là: di sản tự nhiên; di sản năng lượng;
di sản con người; những hình thái về thiết chế, chính trị; những hình thái xã hội; những
dịch vụ, phương tiện vận chuyển, trang thiết bị; những hoạt động kinh tế tài chính.
Dù sản phẩm du lịch hay sản phẩm du lịch quốc tế được sắp xếp theo nguyên tắc
nào, để đạt được hiệu quả kinh doanh, để có được một sản phẩm du lịch quốc tế đạt chất
lượng cao đòi hỏi người thực hiện chương trình du lịch có khả năng ngôn ngữ và am
hiểu sâu sắc giá trị văn hoá, giá trị thiên nhiên và phương pháp tổ chức các đoàn du lịch.
- Tìm kiếm thị trường quốc tế
Để đạt được hiệu quả kinh doanh du lịch, những người làm công tác du lịch quốc
tế luôn đặt mục tiêu hàng đầu là tìm hiểu và đáp ứng tốt nhất nhu cầu của du khách
quốc tế. Đó là việc tạo ra những sản phẩm du lịch phản ánh được giá trị văn hoá, giá trị
9
tinh thần tại địa điểm nơi du khách đến. Thoả mãn được nhu cầu của du khách, người
làm công tác du lịch đã thành công trong việc thu hút du khách đến từ các quốc gia
khác nhau, từ đó nâng cao khả năng mở rộng thị trường, tạo tiền đề tìm kiếm thị
trường mới.
- Tỷ lệ khách du lịch quốc tế
Tỷ lệ lớn khách du lịch quốc tế đến một nước nào đó phản ánh nước đó có một
nền kinh tế du lịch phát triển. Điều thu hút nhiều du khách quốc tế đến thăm quan một
nước là do nước đó có tiềm năng nhân văn, thiên nhiên phong phú, có quốc sách phát
triển du lịch đúng đắn, thoả mãn tối ưu nhu cầu của du khách nước ngoài. Chính
những danh lam thắng cảnh nổi tiếng, truyền thống văn hoá lâu đời, di tích lịch sử, tôn
giáo, kiến trúc nghệ thuật đặc sắc đã thu hút họ đi du lịch. Đó cũng chính là bản chất
của du lịch!
1.1.3. Các loại hình du lịch quốc tế
Mục đích các cuộc hành trình của khách du lịch nước ngoài rất phong phú và đa
dạng. Để có thể nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của khách, từ đó xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật chuyên ngành, tổ chức bộ máy sản xuất kinh doanh hợp lý, xây dựng cơ
chế quản lý phù hợp để thoả mãn đầy đủ nhất nhu cầu của khách và đạt được hiệu quả
kinh tế cao đòi hỏi phải phân biệt các loại hình du lịch quốc tế. Căn cứ vào những tiêu
chuẩn nhất định, du lịch quốc tế có thể được phân ra thành một số loại hình sau:
- Phân loại theo môi trường tài nguyên: Du lịch văn hoá; Du lịch thiên nhiên
- Phân loại theo loại hình cư trú: Du lịch khách sạn; Du lịch motel; Du lịch
Bungalow; Du lịch camping; Du lịch nhà trọ thanh niên; Làng du lịch
- Phân loại theo phương tiện giao thông: Du lịch đi bộ; Du lịch xe đạp; Du lịch
ôtô; Du lịch tàu hoả; Du lịch tàu thuỷ; Du lịch máy bay
- Phân loại theo đặc điểm địa lý của điểm du lịch: Du lịch miền biển; Du lịch
núi; Du lịch đô thị; Du lịch thôn quê
- Phân loại theo thời gian kinh doanh của các cơ sở du lịch: Du lịch quanh năm
(du lịch bốn mùa); Du lịch thời vụ
- Phân loại theo thời gian của cuộc hành trình: Du lịch ngắn ngày (1 - 3 ngày); Du
lịch dài ngày (ít nhất 5 ngày); Du lịch cuối tuần (ở các nước du lịch phát triển, khách du
lịch sử dụng ngày nghỉ cuối tuần của mình để sang nước khác du lịch)
10
- Phân loại theo lứa tuổi du khách: Du lịch thiếu niên; Du lịch thanh niên; Du
lịch trung niên; Du lịch người cao tuổi
- Phân loại theo mục đích chuyến đi:
+ Du lịch nghỉ dưỡng: thường cách xa những thành phố lớn (ở vùng biển, vùng
núi, thôn quê, ven sông, hồ…). Đặc điểm của hình thức du lịch này là khách du lịch
cần đến những nơi yên tĩnh, không khí trong lành, khí hậu tương đối tốt để nghỉ dưỡng
nhằm phục hồi sức khoẻ. Đó là nhu cầu cơ bản của cuộc hành trình du lịch, ngoài ra
khách du lịch còn có một số nhu cầu khác như thăm quan, tìm hiểu.
+ Du lịch chữa bệnh: căn cứ vào nhu cầu của khách du lịch về điều trị các loại
bệnh và bằng những phương pháp điều trị khác nhau, người ta có thể phân ra: chữa
bệnh bằng nước khoáng, bùn, nước biển, hoa quả… Trong thực tế khi xây dựng các
khu du lịch phục vụ nhu cầu chữa bệnh thường kết hợp nhiều loại phương pháp chữa
bệnh khác nhau tại các điểm.
+ Du lịch thăm quan: mục đích của cuộc hành trình là thăm quan, tìm hiểu các di
tích lịch sử, công trình kiến trúc, văn hoá, danh lam thắng cảnh… Đặc điểm của hình
thức du lịch này là thời gian lưu lại của khách tại các cơ sở du lịch rất ít và đi thăm
quan nhiều điểm du lịch. Thông thường loại du lịch này thường được kết hợp với du
lịch nghỉ dưỡng, du lịch công vụ.
+ Du lịch công vụ: mục tiêu cơ bản của cuộc hành trình này là thực hiện công vụ
tại nước ngoài (trừ trường hợp đi ra nước ngoài để tìm nơi cư trú). Trong hình thức du
lịch này còn có thể phân ra thành du lịch hội nghị, du lịch ngoại giao…
+ Du lịch thể thao: có 2 hình thức: du lịch thể thao chủ động bao gồm những vận
động viên ra nước ngoài để tham dự thi đấu thể thao quốc tế như Olimpic, thế vận hội
khu vực, bóng đá quốc tế… du lịch thể thao thụ động gồm những người ra nước ngoài
để thưởng thức các cuộc thi đấu thể thao quốc tế.
+ Du lịch tôn giáo: mục đích là thăm quan những cơ sở tôn giáo (nhà thờ, chùa,
miếu, đền…) và các hội tôn giáo…
+ Một số loại hình khác như: Du lịch giải trí, Du lịch khám phá, Du lịch lễ hội,
Du lịch nghiên cứu (học tập), Du lịch thăm thân, Du lịch kinh doanh...
11
- Phân loại theo lãnh thổ hoạt động:
Trong cuốn Những triết lý, nguyên tắc và thực tiễn của du lịch, các học giả người
Mỹ Mc Intosh, Goeldner và Richie đã sử dụng tiêu chí này để chia thành các loại hình
du lịch khá chi tiết:
+ Du lịch quốc tế đến: là chuyến đi của người nước ngoài đến thăm quan du lịch
+ Du lịch ra nước ngoài: là chuyến đi của người trong nước ra thăm quan du lịch
ở nước ngoài.
Dưới con mắt các nhà cung ứng dịch vụ, du lịch quốc tế được phân thành du lịch
đón khách quốc tế và du lịch gửi khách ra nước ngoài.
Đặc trưng về mặt kinh tế của du lịch quốc tế là có sự thanh toán và sử dụng ngoại
tệ. Điều này có nghĩa là du lịch quốc tế làm biến đổi cán cân thu chi của quốc gia có
tham gia hoạt động du lịch quốc tế. Thông thường những nước đang phát triển tập
trung phát triển chủ yếu loại hình du lịch quốc tế đón khách trong khi đó ở các nước
phát triển nhu cầu đi du lịch nước ngoài ngày một phát triển.
Dựa theo cách chia này, các chuyên gia du lịch Việt Nam đã sắp xếp lại cho phù
hợp với điều kiện nước ta như sau: Du lịch quốc tế là loại hình du lịch mà trong quá
trình thực hiện có sự giao tiếp với người nước ngoài, một trong hai phía (du khách hay
nhà cung ứng du lịch) phải sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp, về mặt không gian địa lý:
du khách đi ra ngoài đất nước của họ, về mặt kinh tế: có sự giao dịch thanh toán bằng
ngoại tệ. Như vậy, du lịch quốc tế cần phải chia thành 2 loại nhỏ:
Du lịch đón khách: là loại hình du lịch quốc tế phục vụ, đón tiếp khách nước
ngoài đi du lịch, nghỉ ngơi, tham quan các đối tượng du lịch trong đất nước của cơ
quan cung ứng du lịch.
Du lịch gửi khách: là loại hình du lịch quốc tế phục vụ và tổ chức đưa khách từ
trong nước đi du lịch, nghỉ ngơi, tham quan các đối tượng du lịch ở nước ngoài.
- Phân loại theo tính chất tổ chức:
+ Du lịch theo đoàn có tổ chức: là những người có nguyện vọng đi tham quan du
lịch nước ngoài đến mua vé du lịch tại các tổ chức kinh doanh du lịch. Tổ chức này sẽ
chịu trách nhiệm về toàn bộ chuyến đi và lưu trú của đoàn khách trong thời gian đi du
lịch ở nước ngoài.
12
+ Du lịch cá thể có tổ chức: là trường hợp cá nhân có mục đích riêng, đi du lịch
nước ngoài, họ đến các tổ chức kinh doanh du lịch nhờ giúp đỡ tổ chức chuyến đi từ
khâu đầu đến khâu cuối, hoặc tổ chức từng khâu.
+ Du lịch theo đoàn và du lịch cá thể không có tổ chức: khách du lịch không sử
dụng các dịch vụ của tổ chức kinh doanh du lịch mà tự mình lo tất cả.
Việc phân loại du lịch còn có nhiều tiêu chuẩn khác nhau tuỳ theo giác độ nghiên
cứu. Cũng như trình bày ở phần nội dung của khái niệm du lịch, để phát triển du lịch
quốc tế đòi hỏi phải xem xét điều kiện cụ thể của đất nước, của từng vùng hay địa
phương thích ứng với những loại du lịch nào trên cơ sở đó tổ chức xây dựng cơ sở vật
chất chuyên ngành, tổ chức bộ máy kinh doanh và quản lý kinh doanh một cách hợp lý
nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Có thể nói rằng đây là cơ sở để xây dựng “sản
phẩm” du lịch bán ra thị trường du lịch quốc tế cũng như thị trường du lịch nội địa.
1.2. Vai trò của hoạt động du lịch quốc tế trong sự phát triển của mỗi quốc gia
Ngày nay, du lịch quốc tế đã trở thành hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến. Du
lịch quốc tế còn là phương tiện giao lưu văn hoá, tăng cường hội nhập, nâng cao dân
trí, tác động trực tiếp tới chương trình xoá đói giảm nghèo, góp phần cân bằng cán cân
thanh toán, là cầu nối hữu nghị, phương tiện gìn giữ hoà bình và hợp tác giữa các quốc
gia, dân tộc. Ở Việt Nam, cùng với quá trình đổi mới đất nước, du lịch nói chung và du
lịch quốc tế nói riêng đã đạt được những thành quả bước đầu quan trọng, ngày càng
phát triển cả về quy mô và chất lượng, đã được Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX
xác định: “Phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn”.
1.2.1. Về mặt kinh tế
Hội đồng Lữ hành và du lịch quốc tế - WTTC (World Travel and Tourism
Council) đã công bố du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt trên cả ngành
sản xuất ôtô, thép, điện tử và nông nghiệp. Đối với một số quốc gia, du lịch quốc tế là
nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất của đất nước. Tại nhiều quốc gia khác, du lịch là
một trong ba ngành quan trọng hàng đầu. Nhiều chính phủ đã nhận ra ảnh hưởng và
tiềm năng to lớn của ngành du lịch và đặc biệt là của du lịch quốc tế, đã hợp tác để xây
dựng những chính sách phát triển du lịch và du lịch quốc tế nhằm tăng cường tính
cạnh tranh, khuyến khích sử dụng lao động và tăng thu cho ngân sách quốc gia, đặc
biệt là tăng thu ngoại tệ.
13