Hoạt động đầu tư tài chính của tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam
- 98 trang
- file .pdf
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................... i
DANH MỤC HÌNH VẼ................................................................................ i
DANH MỤC BẢNG BIỂU...........................................................................ii
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TÀI CHÍNH CỦA DOANH
NGHIỆP BẢO HIỂM .................................................................................. 5
1.1. Tổng quan về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp ................................ 5
1.1.1. Khái niệm đầu tư ............................................................................ 5
1.1.2. Phân loại hoạt động đầu tư ............................................................. 5
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động đầu tư tài chính ........................................ 6
1.1.4. Vai trò của hoạt động đầu tư tài chính ............................................ 7
1.2. Hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm ....................... 7
1.2.1. Tổng quan về doanh nghiệp bảo hiểm ............................................ 7
1.2.2. Hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm ................ 11
1.2.3. Các phương thức đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm .................... 16
1.2.4. Các tiêu chí đánh giá hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp
bảo hiểm ....................................................................................... 22
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư tài chính của doanh
nghiệp bảo hiểm ........................................................................... 22
1.3. Kinh nghiệm tổ chức quản lý hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo
hiểm ở một số nước ............................................................................ 31
1.3.1. Mô hình tổ chức quản lý hoạt động đầu tư .................................... 31
1.3.2. Nội dung quản lý .......................................................................... 32
1.3.3. Quản lý nhà nước với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm ..... 32
iii
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TÀI CHÍNH CỦA
TỔNG CÔNG TY BẢO HIỂM NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT
TRIỂN VIỆT NAM (BIC) ......................................................................... 35
2.1. Khái quát về Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam ............................................................................................ 35
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty bảo hiểm ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam .............................................. 35
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của BIC ................................................................ 38
2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của BIC ....................................... 41
2.2. Thực trạng hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Bảo hiểm Đầu tư và
Phát triển Việt Nam ............................................................................ 50
2.2.1. Tổ chức hoạt động đầu tư tài chính của BIC ...................................... 50
2.2.2. Thực trạng hoạt động đầu tư tài chính tại Công ty Bảo hiểm Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ............................................. 53
2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư tài chính tại BIC ...................... 69
2.3.1. Kết quả đạt được .......................................................................... 69
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ............................................................... 71
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TÀI
CHÍNH CỦA TỔNG CÔNG TY BẢO HIỂM NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ
VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM (BIC) ....................................................... 74
3.1. Định hướng phát triển hoạt động đầu tư tài chính của BIC ................. 74
3.2. Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư tài chính BIC ........................... 75
3.2.1. Giải pháp tăng cường quy mô và tính ổn định đầu tư tài chính của
BIC............................................................................................... 75
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tài chính của
BIC............................................................................................... 77
3.3. Kiến nghị ............................................................................................ 88
KẾT LUẬN ................................................................................................. 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 93
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
1 BIC Công ty Bảo hiểm Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
2 BIDV Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
3 ĐTTC Đầu tư tài chính
DANH MỤC HÌNH VẼ
TT SỐ HIỆU NỘI DUNG TRANG
1 Hình 2.1 Cơ cấu tổ chức BIC 2012 40
Biểu đồ phân chia phí bảo hiểm theo loại hình kinh
2 Hình 2.2 42
doanh năm 2011
3 Hình 2.3 Mô hình tổ chức của ban đầu tư 51
4 Hình 2.4 Quy trình đầu tư tài chính tại ban Đầu tư 52
vi
DANH MỤC BẢNG
TT SỐ HIỆU NỘI DUNG TRANG
Các công ty con hạch toán phụ thuộc của BIC
1 Bảng 2.1 41
năm 2011
2 Bảng 2.2 Các nghiệp vụ bảo hiểm tại BIC năm 2011 41
Phân chia phí bảo hiểm theo loại hình giai đoạn
3 Bảng 2.3 43
2008 - 2011
4 Bảng 2.4 Chỉ tiêu tài chính của BIC giai đoạn 2008 - 2011 47
Bảng phân chia phí tái bảo hiểm của BIC giai
5 Bảng 2.5 48
đoạn 2008 - 2011
6 Bảng 2.6 Nguồn hình thành vốn đầu tư của BIC 54
Quỹ dự phòng nghiệp vụ của BIC giai đoạn
7 Bảng 2.7 55
2008 - 2011
8 Bảng 2.8 Giá trị đầu tư thực tế trở lại nền kinh tế của BIC 57
9 Bảng 2.9 Bảng cơ cấu danh mục đầu tư của BIC 61
10 Bảng 2.10 Kết quả đầu tư của BIC năm 2008-2011 65
Bảng tỷ suất lợi nhuận đầu tư của BIC trong
11 Bảng 2.11 tương quan so sánh với số liệu trung bình ngành 66
và tỷ lệ lam phát từ 2008-2011
ii
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động bảo hiểm giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế không
chỉ góp phần phòng chống, hạn chế, khắc phục các thiệt hại, tổn thất cho nền
kinh tế mà còn đóng vai trò là một trong những tổ chức đầu tư lớn trên thị
trường tài chính. Là một trung gian tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm thu hút,
cung ứng vốn, góp phần đáp ứng các nhu cầu về vốn, thúc đẩy sự luân
chuyển, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Đối với doanh
nghiệp bảo hiểm, đầu tư có hiệu quả sẽ tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp
này tăng khả năng tài chính, từ đó tăng năng lực ký kết hợp đồng bảo hiểm và
có điều kiện để giảm phí bảo hiểm, tăng cường khả năng cạnh tranh. Thực tế
kinh doanh bảo hiểm trên thế giới đã chứng tỏ rằng kết quả kinh doanh của
phần lớn các công ty bảo hiểm là nhờ vào hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư
nói chung và đầu tư tài chính nói riêng có vai trò quan trọng, quyết định sự
tồn tại và phát triển của bất kỳ doanh nghiệp bảo hiểm nào.
Hoạt động kinh doanh của Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam trong những năm qua đã có những bước phát triển vượt
bậc. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư tài chính của Tổng công ty bảo hiểm ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chưa đạt hiệu quả cao do tỷ trọng đầu tư
chưa cao, phạm vi quá bó hẹp, quá thuần tuý, tính chuyên nghiệp trong quản
lý chưa đồng bộ, mức độ tập trung hóa, đa dạng hóa còn thấp. Khi nền kinh tế
đang phát triển ngày một sôi động đòi hỏi Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng
đầu tư và phát triển Việt Nam cần phải nâng cao hoàn thiện hóa đồng bộ các
hoạt động đầu tư để đem lại khả năng cạnh tranh và đứng vững trên thị
trường. Để thực hiện được công việc này thì đòi hỏi phải có những phân tích,
1
đánh giá quá trình hoạt động đầu tư tài chính tại công ty. Do vậy, tác giả chọn
đề tài “Hoạt động đầu tƣ tài chính của Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng
đầu tƣ và phát triển Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở
làm nền tảng cho việc phát triển, nâng cao, hoàn thiện chuẩn mực hoạt động
đầu tư của Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
trong tương lai.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây vấn đề hoạt động đầu tư tài chính trong
doanh nghiệp bảo hiểm đã được nghiên cứu và đề cập ở nhiều góc độ và khía
cạnh khác nhau. Một số chủ đề được nêu ra trong các công trình nghiên cứu
vào những năm gần đây như:
“Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Tổng công ty Bảo Việt” của
Thạc sĩ Bùi Đức Thịnh (2001).
“Giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư tại các doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ ở Việt Nam” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh Tú (2008).
“Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại
Tổng công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam” của Thạc sĩ Ngô Thị Kim Liên
(2001).
Các công trình nghiên cứu trên đã nêu lên được thực trạng hoạt động
đầu tư tại các công ty bảo hiểm trong giai đoạn nghiên cứu và có nhiều đóng
góp quan trọng trong việc hoàn thiện hoạt động đầu tư tài chính tại các doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn khác nhau và mỗi công ty với những
đặc điểm riêng lại có những chiến lược kinh doanh riêng để phù hợp với tình
hình thực tế. Do đó tác giả chọn nghiên cứu tình hình đầu tư tài chính tại
Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hoạt động đầu tư
tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động đầu tư tài chính của Công ty bảo hiểm
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam trên các phương diện huy động, tạo
lập và sử dùng vốn đầu tư.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động đầu tư tài chính
của Công ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động đầu tư tài chính của
doanh nghiệp bảo hiểm. Về mặt lý luận là các vấn đề cơ bản về hoạt động đầu
tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm. Về mặt thực tiễn, phân tích và đánh
giá thực trạng hoạt động và đề xuất định hướng giải pháp phát triển hoạt động
đầu tư tài chính tại của Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn hoạt động đầu tư tài chính của Tổng
công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam từ năm 2008 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp và
sử dụng các bảng số liệu để minh họa. Phương pháp nghiên cứu tình huống và
nghiên cứu điển hình lấy Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu trực tiếp trên cơ sở so sánh với toàn
hệ thống các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn
3
cũng vận dụng kết quả các công trình khoa học liên quan để làm phong phú
và sâu sắc hơn các cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn hệ thống hóa các quan niệm về đầu tư, từ đó làm rõ bản chất
hoạt động đầu tư tài chính tại các doanh nghiệp bảo hiểm. Luận văn đưa ra ba
nguyên tắc đầu tư cơ bản đối với doanh nghiệp bảo hiểm là: nguyên tắc an
toàn, nguyên tắc sinh lời và nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán thường
xuyên trên cơ sở phân tích nguồn vốn đầu tư.
Luận văn trình bày có hệ thống các hình thức đầu tư của doanh nghiệp
bảo hiểm: đầu tư tiền gửi, đầu tư chứng khoán, góp vốn, đầu tư bất động sản,
cho vay thế chấp… Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư và một số chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm.
Bằng số liệu cụ thể, luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực trạng
hoạt động đầu tư của BIC trong những năm gần đây trên các mặt: tổ chức hoạt
động đầu tư; nguồn vốn đầu tư; quy mô, cơ cấu danh mục đầu tư và hiệu quả
hoạt động đầu tư. Thông qua phân tích, luận văn rút ra một số thành quả đạt
được và những hạn chế cần khắc phục đối với hoạt động đầu tư của BIC.
Trên cơ sở đánh giá thị trường và các mục tiêu cơ bản đối với hoạt
động đầu tư của BIC, chương 3 của luận văn đã đưa ra một số giải pháp, kiến
nghị để thúc đẩy phát triển hoạt động đầu tư tại BIC trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư tài chính của Tổng công ty
bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIC)
4
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư tài chính của Tổng
công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIC)
5
CHƢƠNG 1
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TÀI CHÍNH
CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM
1.1. Tổng quan về hoạt động đầu tƣ của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm đầu tư
Đầu tư theo nghĩa chung nhất là việc bỏ vốn hay chi dùng vốn cùng với
các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm
thu về các kết quả có lợi trong tương lai.
Vốn và các nguồn lực khác cho đầu tư là tiền, là tài nguyên thiên nhiên,
sức lao động, trí tuệ, quyền sở hữu... Các nguồn lực này sẽ được chủ đầu tư sử
dụng để tạo ra tài sản mới hoặc nâng cao chất lượng của các tài sản hiện có.
Mục đích cuối cùng của các hoạt động đầu tư là thu được những kết
quả nhất định lớn hơn so với nguồn lực đã bỏ ra. Kết quả này cũng biểu hiện
dưới nhiều hình thức: với chủ đầu tư đó là lợi nhuận, với nền kinh tế đó là sự
thỏa mãn nhu cầu cho sinh hoạt và sản xuất, đóng góp cho ngân sách nhà
nước, giải quyết việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống cho các
thành viên trong xã hội.
1.1.2. Phân loại hoạt động đầu tư
Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có
thể phân loại hoạt động đầu tư thành: đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và
đầu tư phát triển.
Đầu tư tài chính: Là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho
vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất cố định trước hoặc lãi
suất tùy thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư
5
tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài
sản tài chính của tổ chức hoặc cá nhân đầu tư.
Đầu tư thương mại: Là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để
mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh
lệch giá khi mua và bán. Loại hình đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới
cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá
trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người bán với
người đầu tư và người đầu tư với khách hàng.
Đầu tư phát triển: Là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn
lực vật chất, nguồn lực lao động, trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa, cấu
trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng, bồi dưỡng đào tạo
nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động
của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại
và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động đầu tư tài chính
Hoạt động đầu tư tài chính không tạo ra sản phẩm mới cho nền kinh tế
mà chỉ làm tăng giá trị tài sản chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Đầu tư tài
chính có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các trung gian tài chính.
Đầu tư tài chính trực tiếp là việc các chủ thể dư thừa vốn chuyển vốn
trực tiếp cho các chủ thể thiếu vốn là người chi tiêu cuối cùng bằng cách mua
các tài sản tài chính trực tiếp từ người phát hành, tức là người cần vốn. Trong
trường hợp này, luồng tiền vận động thẳng từ người thừa vốn sang người
thiếu vốn.
Đầu tư tài chính gián tiếp thể hiện ở chỗ các chủ thể thừa vốn không
trực tiếp cung ứng vốn cho người thiếu vốn là người sử dụng cuối cùng mà
gián tiếp thông qua các trung gian tài chính như ngân hàng, các tổ chức nhận
6
tiền gửi tiết kiệm và cho vay, các công ty bảo hiểm hay các tổ chức tài chính
tín dụng khác.
1.1.4. Vai trò của hoạt động đầu tư tài chính
Vai trò nổi bật nhất của hoạt động đầu tư tài chính là hoạt động đầu tư
cung cấp một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, tức là chuyển vốn từ
tiết kiệm sang đầu tư. Hoạt động đầu tư tài chính giúp chuyển vốn từ những
người có vốn nhàn rỗi đến những người cần vốn để đầu tư vào tài sản hữu hình,
tạo ra hình thức chuyển vốn theo một phương thức sao cho những rủi ro không
tránh khỏi, liên quan đến dòng tiền mà tài sản hữu hình tạo ra, được phân bổ lại
giữa những người đang gọi vốn và những người cung cấp vốn.
Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được
lưu chuyển một cách dễ dàng, khi cần có thể rút ra nhanh chóng thông qua
việc chuyển nhượng, mua bán các công cụ tài chính trên thị trường tài chính,
điều này đã khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư.
1.2. Hoạt động đầu tƣ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
1.2.1. Tổng quan về doanh nghiệp bảo hiểm
Theo điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam ban hành năm 2000
kinh doanh bảo hiểm được hiểu là “Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
nhằm mục đích sinh lời theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của
người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để
doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi
thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Cũng theo
điều 3 khoản 5, doanh nghiệp bảo hiểm là “doanh nghiệp được thành lập, tổ
chức và hoạt động theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy
7
định khác của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm và tái bảo
hiểm”. Công ty bảo hiểm có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, công ty bảo hiểm là doanh nghiệp chuyên ngành. Công ty
bảo hiểm là doanh nghiệp kinh doanh bình đẳng như các doanh nghiệp khác
hoạt động trong nền kinh tế quốc dân, do đó cũng mang đặc trưng của một
doanh nghiệp, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình và trong
khuôn khổ pháp lý nhất định. Tuy vậy, ngành bảo hiểm là một ngành đặc thù
trong nền kinh tế, ngoài những quy định của Luật doanh nghiệp và hành lang
pháp lý chung, công ty bảo hiểm còn hoạt động dưới sự điều chỉnh của Luật
kinh doanh bảo hiểm và những văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật
này. Bên cạnh đó, công ty bảo hiểm còn chịu sự quản lý chặt chẽ của cơ quan
quản lý Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm thường là Bộ Tài chính hoặc
những cơ quan có thẩm quyền tương đương do Nhà nước quy định. Sản phẩm
bảo hiểm là loại hình sản phẩm đặc thù, đây là sản phẩm không thể định hình
hay định dạng, người mua không mong đợi được hưởng do sản phẩm này gắn
liền với rủi ro. Chỉ khi xảy ra rủi ro thì người mua bảo hiểm mới nhận thức
được nó thông qua việc bồi thường trên cơ sở số tiền bảo hiểm.
Thứ hai, công ty bảo hiểm là trung gian tài chính. Hoạt động kinh
doanh bảo hiểm thể hiện vai trò trung gian tài chính của công ty bảo hiểm.
Thông qua việc cung cấp những dịch vụ bảo hiểm cho khách hàng với mức
phí bảo hiểm phù hợp thì tổng nguồn phí bảo hiểm sẽ hình thành nên doanh
thu phí bảo hiểm gốc và những quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Do đặc
điểm của hợp đồng bảo hiểm là phí bảo hiểm được thanh toán trước những
cam kết thanh toán sẽ được thực hiện sau một khoảng thời gian. Chính vì thế,
phí bảo hiểm thu được chính là khoản nợ của công ty bảo hiểm đối với khách
hàng nhằm đảm bảo những cam kết đối với những người tham gia bảo hiểm.
Hoạt động mang tính chất then chốt, mang ý nghĩa sống còn với công ty bảo
8
hiểm chính là hoạt động đầu tư. Nguồn vốn tích tụ dưới dạng phí bảo hiểm sẽ
được mang đi đầu tư nhằm thu lãi. Ngoài ra công ty bảo hiểm còn thực hiện
những hoạt động đặc trưng của trung gian tài chính như: trung gian về quy mô
nguồn vốn tập trung những nguồn vốn với quy mô nhỏ, đối tượng sử dụng
rộng, những khoản tiết kiệm trong từng hộ gia đình thành nguồn vốn quy mô
lớn, tập trung; trung gian về thời hạn từ nguồn phí bảo hiểm thu định kỳ trong
những thời hạn khác nhau thì công ty bảo hiểm có thể chuyển thành nguồn
vốn lớn được đầu tư theo thời hạn cụ thể; trung gian về tài sản tài sản bằng
tiền từ những quỹ dự phòng nghiệp vụ sẽ được chuyển thành những tài sản tài
chính (nếu đầu tư tài chính) hoặc tài sản thực (nếu đầu tư bất động sản, góp
vốn liên doanh sản xuất...)
Thứ ba, công ty bảo hiểm thường không vay vốn phục vụ kinh doanh
bảo hiểm. Khi mới thành lập công ty bảo hiểm phải có mức vốn điều lệ nhất
định và thông thường sẽ phải ký quỹ một phần vốn điều lệ để đảm bảo khả
năng thanh toán. Phần còn lại sẽ được sử dụng tích lũy tại công ty dùng cho
những hoạt động đầu tư ban đầu và làm cơ sở đảm bảo cho các hợp đồng bảo
hiểm mới. Sau khi những hợp đồng bảo hiểm được cung cấp, số phí bảo hiểm
thu được sẽ trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ theo quy định, một phần chuyển
tái bảo hiểm. Các quỹ này cùng với vốn chủ sở hữu sẽ được phép đầu tư theo
quy định nhằm thu lợi nhuận. Nguồn lợi nhuận này chiếm tỷ trọng lớn trong
toàn bộ lợi nhuận của công ty bảo hiểm. Theo thời gian hoạt động, quỹ này sẽ
ngày càng lớn và công ty bảo hiểm trở thành những nhà đầu tư hùng mạnh.
Thứ tư, hoạt động của công ty bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong
nền kinh tế. Tầm quan trọng của công ty bảo hiểm được xét trên hai khía cạnh
là khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã hội. Trên khía cạnh kinh tế, công ty bảo
hiểm có vai trò đảm bảo an toàn cho các khoản đầu tư. Có thể nói chính các
công ty bảo hiểm là người xây dựng nên những thành phố, nhà máy rộng
9
lớn... bởi vì không có nhà đầu tư nào dám bỏ những khoản tiền khổng lồ để
xây dựng những công trình như vậy nếu không được sự đảm bảo an toàn cho
khoản tiền của mình bằng việc tham gia bảo hiểm. Trên khía cạnh xã hội, mục
đích của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là lấy những khoản tiền do toàn bộ
những người được bảo hiểm đóng góp bồi thường cho một số người trong số
họ gặp rủi ro hay nói cách khác là sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia
bảo hiểm.
Thứ năm, hoạt động của công ty bảo hiểm được Nhà nước kiểm soát
chặt chẽ. Hoạt động của công ty bảo hiểm có ảnh hưởng lớn tới quyền lợi của
người tham gia bảo hiểm, tới thị trường tài chính và tới toàn bộ nền kinh tế
nên được kiểm soát rất chặt chẽ. Pháp luật thường quy định cụ thể và chi tiết
về hoạt động của công ty bảo hiểm để đảm bảo quyền lợi của người tham gia
bảo hiểm, định hướng lưu chuyển các quỹ đầu tư và giảm nguy cơ tập trung
quyền lực trong lĩnh vực tài chính. Với sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước về
hoạt động, đảm bảo cho công ty bảo hiểm bảo toàn được nguồn vốn đầu tư,
tránh tình trạng thất thoát vốn, đảm bảo được quyền lợi của người tham gia
bảo hiểm. Ngoài ra nguồn vốn tích lũy hàng năm của công ty bảo hiểm được
tổng hợp thành các quỹ đầu tư khổng lồ. Sự luân chuyển vốn của những quỹ
này thường theo nguyên tắc chung là vận hành từ những lĩnh vực có tỷ suất
lợi nhuận thấp sang những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao hơn. Việc
luân chuyển dòng vốn đầu tư khổng lồ như vậy đôi khi ảnh hưởng tới cơ cấu
đầu tư của toàn nền kinh tế và không chú trọng đến những lĩnh vực phi lợi
nhuận và hoạt động cộng đồng. Do đó, cần sự can thiệp của Nhà nước bằng
các chính sách thích hợp để điều chỉnh hoạt động của những quỹ đầu tư này
nhằm đảm bảo cân đối đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế, cân bằng vốn đầu tư
đối với lĩnh vực công cộng, đảm bảo toàn bộ nguồn vốn này được đầu tư vào
nền kinh tế trong nước, tránh đầu tư ra nước ngoài và có thể bổ sung vào cán
10
cân ngân sách của Chính phủ khi cần thiết. Các quỹ đầu tư của công ty bảo
hiểm chỉ đứng sau các ngân hàng thương mại trên thị trường tài chính, vì vậy
Nhà nước phải kiểm soát sự đa dạng hóa danh mục đầu tư của công ty bảo
hiểm nhằm ngăn chặn sự kiểm soát và khống chế của công ty bảo hiểm với
những tổ chức tài chính khác hoặc một ngành, một hoạt động kinh doanh cụ
thể, chống lại sự độc quyền trong việc thâu tóm những hoạt động kinh doanh
lớn thông qua hoạt động đầu tư.
1.2.2. Hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
1.2.2.1. Đặc điểm hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
Bảo hiểm là một hoạt động tương trợ, tương hỗ, được hợp bởi sự tiết
kiệm của nhiều cá nhân nhằm bù đắp những hậu quả thiệt hại do những sự
kiện ngẫu nhiên tác động đến con người hoặc tài sản. Đặc thù riêng của hoạt
động kinh doanh bảo hiểm là “sự đảo ngược của chu kỳ kinh doanh”. Việc
tiêu thụ sản phẩm dựa trên quy trình: phí bảo hiểm (tiền bán sản phẩm bảo
hiểm) được thu trước, còn cam kết bồi thường, trả tiền bảo hiểm (giá trị sử
dụng của sản phẩm) chỉ được thực hiện sau khi mua một khoảng thời gian
nhất định nào đó. Do đó, doanh nghiệp bảo hiểm có trong tay một quỹ tài
chính rất lớn, chưa sử dụng ngay cho hoạt động bồi thường nên các doanh
nghiệp bảo hiểm có thể sử dụng tiền nhàn rỗi này để đầu tư trở lại nền kinh tế.
Ngoài ra, để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng tham gia bảo hiểm, các doanh
nghiệp bảo hiểm thường có vốn chủ sở hữu khá lớn để đáp ứng yêu cầu về
vốn pháp định cũng như về quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện. Như vậy, bên
cạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm thì hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp bảo hiểm còn bao gồm cả hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư của
doanh nghiệp bảo hiểm được hiểu là hành động chi dùng vốn nhàn rỗi từ vốn
chủ sở hữu và phí bảo hiểm thu được nhằm mục đích thu lợi nhuận trong
11
tương lai cho doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư được phân loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau. Tuy nhiên nhìn chung, hoạt động đầu tư được phân thành hai
loại chính là đầu tư trực tiếp và đầu tư tài chính. Trong khuôn khổ của luận
văn, tác giả chỉ đề cập nghiên cứu đến hoạt động đầu tư tài chính của doanh
nghiệp bảo hiểm.
Hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm mang những
đặc điểm chung của quá trình đầu tư là nguồn vốn, hình thức và phân chia lợi
nhuận sau quá trình đầu tư. Tuy nhiên do đặc thù của hoạt động kinh doanh
bảo hiểm, hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm có những
đặc điểm riêng:
Thứ nhất, nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ bao gồm
những nguồn vốn hình thành từ vốn chủ sở hữu và nguồn vốn nhàn rỗi từ quỹ
dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Vốn chủ sở hữu chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, phần
lớn nguồn vốn có thể đầu tư là nguồn vốn nhàn rỗi từ quỹ dự phòng nghiệp
vụ, được tích tụ từ phí bảo hiểm thu được. Trong khi các hoạt động khác được
sử dụng toàn bộ những nguồn vốn có thể để phục vụ quá trình đầu tư thì công
ty bảo hiểm chỉ được phép sử dụng một phần của quỹ dự phòng nghiệp vụ
bảo hiểm để đầu tư. Phần còn lại, theo quy định Luật kinh doanh bảo hiểm,
phải được giữ lại nhằm đảm bảo những nhu cầu thanh toán bồi thường và chi
trả thường xuyên trong kỳ.
Thứ hai, doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu sự giám sát chặt chẽ của
Nhà nước bằng hệ thống những văn bản quy định hình thức và tài sản được
phép đầu tư. Pháp luật sẽ quy định rõ doanh nghiệp bảo hiểm được đầu tư
nguồn vốn nhàn rỗi vào những hình thức đầu tư cụ thể nào và với giới hạn tối
đa nguồn vốn được phép đầu tư là bao nhiêu. Với danh mục đầu tư được quy
định cụ thể, doanh nghiệp bảo hiểm còn phải tuân thủ mức giới hạn cho mỗi
hình thức đầu tư. Doanh nghiệp bảo hiểm cũng không thể sử dụng toàn bộ
12
nguồn vốn cho một hình thức đầu tư. Tùy theo tính chất hoạt động của công
ty bảo hiểm là nhân thọ hay phi nhân thọ mà giới hạn cho mỗi khoản mục đầu
tư này được quy định khác nhau.
Thứ ba, nguyên tắc đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm ngoài việc
đảm bảo những nguyên tắc chung còn phải tuân thủ những nguyên tắc riêng.
Ngoài những nguyên tắc đầu tư chung như bảo toàn và phát triển vốn đầu tư,
đem lại lợi nhuận đầu tư mong muốn và góp phần vào sự phát triển kinh tế xã
hội thì hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm còn phải đảm bảo những
nguyên tắc riêng sẽ được làm rõ ở mục 1.2.2.2 dưới đây.
1.2.2.2. Nguyên tắc đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
Đầu tiên là nguyên tắc an toàn: hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm
phải đảm bảo độ an toàn cho nguồn vốn một cách cao nhất. Nguyên tắc này
được đặt ra nhằm hạn chế tối đa rủi ro trong đầu tư, bảo toàn nguồn vốn sử
dụng. Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm luôn đứng trước những
rủi ro đầu tư sau:
- Rủi ro về lãi suất: Rủi ro này xuất phát từ chỗ giá trị của các khoản
đầu tư có lãi suất cố định chịu sự biến động khi lãi suất trên thị trường thay
đổi và tỷ suất thu hồi thực (tức là lãi suất đã điều chỉnh theo lạm phát).
- Rủi ro tín dụng: Rủi ro này xảy ra khi bên vay vốn của doanh nghiệp
bảo hiểm bị phá sản hay tái cơ cấu tổ chức, khiến họ không thể trả lại tiền đầu
tư cho doanh nghiệp bảo hiểm như đã cam kết.
- Rủi ro thị trường: Rủi ro này xuất phát từ sự thay đổi của thị trường
thuộc lĩnh vực mà doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư.
- Rủi ro tiền tệ: Tỷ giá của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ luôn thay
đổi làm cho giá trị các khoản đầu tư không định giá bằng đồng ngoại tệ sẽ
thay đổi theo.
13
Việc đảm bảo nguyên tắc đầu tư vốn an toàn là rất quan trọng, đảm bảo
cho doanh nghiệp thực hiện các cam kết với khách hàng trong các hợp đồng
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Nguyên tắc an toàn của các khoản mục đầu tư
được pháp luật thể chế bằng việc quy định danh mục đầu tư với những lĩnh
vực có mức độ rủi ro đầu tư thấp. Ngoài ra, nguyên tắc này yêu cầu doanh
nghiệp bảo hiểm phải đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình.
Nguyên tắc thứ hai cần đảm bảo là nguyên tắc sinh lời. Hoạt động đầu
tư là nguồn chính tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp bảo hiểm - nguồn vô
cùng quan trọng giúp doanh nghiệp bảo hiểm tăng cường sức mạnh tài chính,
thực hiện các chiến lược kinh doanh. Vì vậy, hoạt động đầu tư cần thiết phải
có một tỷ suất sinh lời tốt. Tuy vậy, nguyên lý đầu tư là rủi ro đầu tư càng cao
thì tỷ suất lợi nhuận đầu tư càng cao và ngược lại. Do đó, nhà quản lý quỹ đầu
tư của doanh nghiệp bảo hiểm cần lựa chọn một cơ cấu danh mục cân đối để
đảm bảo cả nguyên tắc an toàn và nguyên tắc sinh lời.
Nguyên tắc thứ ba cần đảm bảo là nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh
toán thường xuyên. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể phải chi trả bồi thường cho
khách hàng bất kỳ lúc nào khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra bởi vậy danh mục đầu
tư phải cân đối về thời hạn (ngắn hạn, trung hạn và dài hạn) để có thể đáp ứng
nhu cầu thanh toán thường xuyên. Tính thanh khoản của các khoản mục đầu tư
của doanh nghiệp bảo hiểm cũng được pháp luật thể chế hóa bằng việc quy định
danh mục đầu tư với tỷ lệ nhất định. Trong thực tế, việc đồng thời thực hiện các
nguyên tắc trên đối với doanh nghiệp bảo hiểm là một vấn đề rất phức tạp vì khi
thực hiện nguyên tắc an toàn, và khả năng thanh toán thường xuyên thì khả năng
sinh lời sẽ giảm xuống và ngược lại. Việc phân bổ nguồn vốn vào các loại hình
đầu tư, xác định cơ cấu danh mục đầu tư hợp lý là vô cùng quan trọng và đòi hỏi
trình độ và kinh nghiệm của người quản lý quỹ đầu tư.
14
1.2.2.3. Vai trò của hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
Có thể nói hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm có vai trò rất lớn
không những với bản thân doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế.
Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, đầu tư có tầm quan trọng sống còn đối
với hoạt động kinh doanh. Hoạt động đầu tư ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm. Tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao sẽ giúp
doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện giảm phí bảo hiểm, từ đó dành được
khách hàng từ các đối thủ cạnh tranh. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong điều
kiện thị trường bảo hiểm đang cạnh tranh gay gắt thông qua hạ phí bảo hiểm,
trong khi đó tỷ lệ bồi thường/phí bảo hiểm luôn ở mức cao nên hầu như toàn
bộ chi phí hoạt động và lợi nhuận của doanh nghiệp bảo hiểm đều lấy từ lãi
đầu tư. Hơn nữa, hoạt động đầu tư còn đóng góp quan trọng vào sự tăng
trưởng thu nhập và lợi nhuận của doanh nghiệp bảo hiểm, giúp mở rộng quy
mô doanh nghiệp, tăng cổ tức cho cổ đông, tăng quỹ phúc lợi và thu nhập cho
người lao động. Ngoài ra, hoạt động đầu tư có thể góp phần thúc đẩy hoạt
động bảo hiểm thông qua việc khuyếch trương quảng cáo công ty thông qua
các dự án góp vốn hoặc yêu cầu sự hợp tác về bảo hiểm với các đơn vị mà
doanh nghiệp bảo hiểm góp vốn, đầu tư trái phiếu, tiền gửi (bán chéo sản
phẩm qua ngân hàng).
Đối với xã hội, vai trò của hoạt động đầu tư được thể hiện rõ nét nhất
thông qua vị trí của doanh nghiệp bảo hiểm trong cấu trúc của hệ thống thị
trường tài chính. Bên cạnh các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ đầu
tư thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng là một trung gian tài chính, thực hiện thu hút
vốn nhàn rỗi từ các tổ chức cá nhân dưới hình thức phí bảo hiểm và cung ứng
vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động đầu tư. Qua đó góp phần đáp ứng nhu
cầu về vốn, thúc đẩy sự luân chuyển, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền
kinh tế. Ngoài ra, hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm còn có tác
15
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................... i
DANH MỤC HÌNH VẼ................................................................................ i
DANH MỤC BẢNG BIỂU...........................................................................ii
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TÀI CHÍNH CỦA DOANH
NGHIỆP BẢO HIỂM .................................................................................. 5
1.1. Tổng quan về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp ................................ 5
1.1.1. Khái niệm đầu tư ............................................................................ 5
1.1.2. Phân loại hoạt động đầu tư ............................................................. 5
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động đầu tư tài chính ........................................ 6
1.1.4. Vai trò của hoạt động đầu tư tài chính ............................................ 7
1.2. Hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm ....................... 7
1.2.1. Tổng quan về doanh nghiệp bảo hiểm ............................................ 7
1.2.2. Hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm ................ 11
1.2.3. Các phương thức đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm .................... 16
1.2.4. Các tiêu chí đánh giá hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp
bảo hiểm ....................................................................................... 22
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư tài chính của doanh
nghiệp bảo hiểm ........................................................................... 22
1.3. Kinh nghiệm tổ chức quản lý hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo
hiểm ở một số nước ............................................................................ 31
1.3.1. Mô hình tổ chức quản lý hoạt động đầu tư .................................... 31
1.3.2. Nội dung quản lý .......................................................................... 32
1.3.3. Quản lý nhà nước với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm ..... 32
iii
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TÀI CHÍNH CỦA
TỔNG CÔNG TY BẢO HIỂM NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT
TRIỂN VIỆT NAM (BIC) ......................................................................... 35
2.1. Khái quát về Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam ............................................................................................ 35
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty bảo hiểm ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam .............................................. 35
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của BIC ................................................................ 38
2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của BIC ....................................... 41
2.2. Thực trạng hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Bảo hiểm Đầu tư và
Phát triển Việt Nam ............................................................................ 50
2.2.1. Tổ chức hoạt động đầu tư tài chính của BIC ...................................... 50
2.2.2. Thực trạng hoạt động đầu tư tài chính tại Công ty Bảo hiểm Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ............................................. 53
2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư tài chính tại BIC ...................... 69
2.3.1. Kết quả đạt được .......................................................................... 69
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ............................................................... 71
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TÀI
CHÍNH CỦA TỔNG CÔNG TY BẢO HIỂM NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ
VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM (BIC) ....................................................... 74
3.1. Định hướng phát triển hoạt động đầu tư tài chính của BIC ................. 74
3.2. Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư tài chính BIC ........................... 75
3.2.1. Giải pháp tăng cường quy mô và tính ổn định đầu tư tài chính của
BIC............................................................................................... 75
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tài chính của
BIC............................................................................................... 77
3.3. Kiến nghị ............................................................................................ 88
KẾT LUẬN ................................................................................................. 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 93
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
1 BIC Công ty Bảo hiểm Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
2 BIDV Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
3 ĐTTC Đầu tư tài chính
DANH MỤC HÌNH VẼ
TT SỐ HIỆU NỘI DUNG TRANG
1 Hình 2.1 Cơ cấu tổ chức BIC 2012 40
Biểu đồ phân chia phí bảo hiểm theo loại hình kinh
2 Hình 2.2 42
doanh năm 2011
3 Hình 2.3 Mô hình tổ chức của ban đầu tư 51
4 Hình 2.4 Quy trình đầu tư tài chính tại ban Đầu tư 52
vi
DANH MỤC BẢNG
TT SỐ HIỆU NỘI DUNG TRANG
Các công ty con hạch toán phụ thuộc của BIC
1 Bảng 2.1 41
năm 2011
2 Bảng 2.2 Các nghiệp vụ bảo hiểm tại BIC năm 2011 41
Phân chia phí bảo hiểm theo loại hình giai đoạn
3 Bảng 2.3 43
2008 - 2011
4 Bảng 2.4 Chỉ tiêu tài chính của BIC giai đoạn 2008 - 2011 47
Bảng phân chia phí tái bảo hiểm của BIC giai
5 Bảng 2.5 48
đoạn 2008 - 2011
6 Bảng 2.6 Nguồn hình thành vốn đầu tư của BIC 54
Quỹ dự phòng nghiệp vụ của BIC giai đoạn
7 Bảng 2.7 55
2008 - 2011
8 Bảng 2.8 Giá trị đầu tư thực tế trở lại nền kinh tế của BIC 57
9 Bảng 2.9 Bảng cơ cấu danh mục đầu tư của BIC 61
10 Bảng 2.10 Kết quả đầu tư của BIC năm 2008-2011 65
Bảng tỷ suất lợi nhuận đầu tư của BIC trong
11 Bảng 2.11 tương quan so sánh với số liệu trung bình ngành 66
và tỷ lệ lam phát từ 2008-2011
ii
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động bảo hiểm giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế không
chỉ góp phần phòng chống, hạn chế, khắc phục các thiệt hại, tổn thất cho nền
kinh tế mà còn đóng vai trò là một trong những tổ chức đầu tư lớn trên thị
trường tài chính. Là một trung gian tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm thu hút,
cung ứng vốn, góp phần đáp ứng các nhu cầu về vốn, thúc đẩy sự luân
chuyển, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Đối với doanh
nghiệp bảo hiểm, đầu tư có hiệu quả sẽ tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp
này tăng khả năng tài chính, từ đó tăng năng lực ký kết hợp đồng bảo hiểm và
có điều kiện để giảm phí bảo hiểm, tăng cường khả năng cạnh tranh. Thực tế
kinh doanh bảo hiểm trên thế giới đã chứng tỏ rằng kết quả kinh doanh của
phần lớn các công ty bảo hiểm là nhờ vào hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư
nói chung và đầu tư tài chính nói riêng có vai trò quan trọng, quyết định sự
tồn tại và phát triển của bất kỳ doanh nghiệp bảo hiểm nào.
Hoạt động kinh doanh của Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam trong những năm qua đã có những bước phát triển vượt
bậc. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư tài chính của Tổng công ty bảo hiểm ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chưa đạt hiệu quả cao do tỷ trọng đầu tư
chưa cao, phạm vi quá bó hẹp, quá thuần tuý, tính chuyên nghiệp trong quản
lý chưa đồng bộ, mức độ tập trung hóa, đa dạng hóa còn thấp. Khi nền kinh tế
đang phát triển ngày một sôi động đòi hỏi Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng
đầu tư và phát triển Việt Nam cần phải nâng cao hoàn thiện hóa đồng bộ các
hoạt động đầu tư để đem lại khả năng cạnh tranh và đứng vững trên thị
trường. Để thực hiện được công việc này thì đòi hỏi phải có những phân tích,
1
đánh giá quá trình hoạt động đầu tư tài chính tại công ty. Do vậy, tác giả chọn
đề tài “Hoạt động đầu tƣ tài chính của Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng
đầu tƣ và phát triển Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở
làm nền tảng cho việc phát triển, nâng cao, hoàn thiện chuẩn mực hoạt động
đầu tư của Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
trong tương lai.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây vấn đề hoạt động đầu tư tài chính trong
doanh nghiệp bảo hiểm đã được nghiên cứu và đề cập ở nhiều góc độ và khía
cạnh khác nhau. Một số chủ đề được nêu ra trong các công trình nghiên cứu
vào những năm gần đây như:
“Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Tổng công ty Bảo Việt” của
Thạc sĩ Bùi Đức Thịnh (2001).
“Giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư tại các doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ ở Việt Nam” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh Tú (2008).
“Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại
Tổng công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam” của Thạc sĩ Ngô Thị Kim Liên
(2001).
Các công trình nghiên cứu trên đã nêu lên được thực trạng hoạt động
đầu tư tại các công ty bảo hiểm trong giai đoạn nghiên cứu và có nhiều đóng
góp quan trọng trong việc hoàn thiện hoạt động đầu tư tài chính tại các doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn khác nhau và mỗi công ty với những
đặc điểm riêng lại có những chiến lược kinh doanh riêng để phù hợp với tình
hình thực tế. Do đó tác giả chọn nghiên cứu tình hình đầu tư tài chính tại
Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hoạt động đầu tư
tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động đầu tư tài chính của Công ty bảo hiểm
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam trên các phương diện huy động, tạo
lập và sử dùng vốn đầu tư.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động đầu tư tài chính
của Công ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động đầu tư tài chính của
doanh nghiệp bảo hiểm. Về mặt lý luận là các vấn đề cơ bản về hoạt động đầu
tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm. Về mặt thực tiễn, phân tích và đánh
giá thực trạng hoạt động và đề xuất định hướng giải pháp phát triển hoạt động
đầu tư tài chính tại của Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn hoạt động đầu tư tài chính của Tổng
công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam từ năm 2008 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp và
sử dụng các bảng số liệu để minh họa. Phương pháp nghiên cứu tình huống và
nghiên cứu điển hình lấy Tổng công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu trực tiếp trên cơ sở so sánh với toàn
hệ thống các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn
3
cũng vận dụng kết quả các công trình khoa học liên quan để làm phong phú
và sâu sắc hơn các cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn hệ thống hóa các quan niệm về đầu tư, từ đó làm rõ bản chất
hoạt động đầu tư tài chính tại các doanh nghiệp bảo hiểm. Luận văn đưa ra ba
nguyên tắc đầu tư cơ bản đối với doanh nghiệp bảo hiểm là: nguyên tắc an
toàn, nguyên tắc sinh lời và nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán thường
xuyên trên cơ sở phân tích nguồn vốn đầu tư.
Luận văn trình bày có hệ thống các hình thức đầu tư của doanh nghiệp
bảo hiểm: đầu tư tiền gửi, đầu tư chứng khoán, góp vốn, đầu tư bất động sản,
cho vay thế chấp… Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư và một số chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm.
Bằng số liệu cụ thể, luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực trạng
hoạt động đầu tư của BIC trong những năm gần đây trên các mặt: tổ chức hoạt
động đầu tư; nguồn vốn đầu tư; quy mô, cơ cấu danh mục đầu tư và hiệu quả
hoạt động đầu tư. Thông qua phân tích, luận văn rút ra một số thành quả đạt
được và những hạn chế cần khắc phục đối với hoạt động đầu tư của BIC.
Trên cơ sở đánh giá thị trường và các mục tiêu cơ bản đối với hoạt
động đầu tư của BIC, chương 3 của luận văn đã đưa ra một số giải pháp, kiến
nghị để thúc đẩy phát triển hoạt động đầu tư tại BIC trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư tài chính của Tổng công ty
bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIC)
4
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư tài chính của Tổng
công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIC)
5
CHƢƠNG 1
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TÀI CHÍNH
CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM
1.1. Tổng quan về hoạt động đầu tƣ của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm đầu tư
Đầu tư theo nghĩa chung nhất là việc bỏ vốn hay chi dùng vốn cùng với
các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm
thu về các kết quả có lợi trong tương lai.
Vốn và các nguồn lực khác cho đầu tư là tiền, là tài nguyên thiên nhiên,
sức lao động, trí tuệ, quyền sở hữu... Các nguồn lực này sẽ được chủ đầu tư sử
dụng để tạo ra tài sản mới hoặc nâng cao chất lượng của các tài sản hiện có.
Mục đích cuối cùng của các hoạt động đầu tư là thu được những kết
quả nhất định lớn hơn so với nguồn lực đã bỏ ra. Kết quả này cũng biểu hiện
dưới nhiều hình thức: với chủ đầu tư đó là lợi nhuận, với nền kinh tế đó là sự
thỏa mãn nhu cầu cho sinh hoạt và sản xuất, đóng góp cho ngân sách nhà
nước, giải quyết việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống cho các
thành viên trong xã hội.
1.1.2. Phân loại hoạt động đầu tư
Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có
thể phân loại hoạt động đầu tư thành: đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và
đầu tư phát triển.
Đầu tư tài chính: Là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho
vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất cố định trước hoặc lãi
suất tùy thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư
5
tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài
sản tài chính của tổ chức hoặc cá nhân đầu tư.
Đầu tư thương mại: Là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để
mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh
lệch giá khi mua và bán. Loại hình đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới
cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá
trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người bán với
người đầu tư và người đầu tư với khách hàng.
Đầu tư phát triển: Là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn
lực vật chất, nguồn lực lao động, trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa, cấu
trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng, bồi dưỡng đào tạo
nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động
của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại
và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động đầu tư tài chính
Hoạt động đầu tư tài chính không tạo ra sản phẩm mới cho nền kinh tế
mà chỉ làm tăng giá trị tài sản chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Đầu tư tài
chính có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các trung gian tài chính.
Đầu tư tài chính trực tiếp là việc các chủ thể dư thừa vốn chuyển vốn
trực tiếp cho các chủ thể thiếu vốn là người chi tiêu cuối cùng bằng cách mua
các tài sản tài chính trực tiếp từ người phát hành, tức là người cần vốn. Trong
trường hợp này, luồng tiền vận động thẳng từ người thừa vốn sang người
thiếu vốn.
Đầu tư tài chính gián tiếp thể hiện ở chỗ các chủ thể thừa vốn không
trực tiếp cung ứng vốn cho người thiếu vốn là người sử dụng cuối cùng mà
gián tiếp thông qua các trung gian tài chính như ngân hàng, các tổ chức nhận
6
tiền gửi tiết kiệm và cho vay, các công ty bảo hiểm hay các tổ chức tài chính
tín dụng khác.
1.1.4. Vai trò của hoạt động đầu tư tài chính
Vai trò nổi bật nhất của hoạt động đầu tư tài chính là hoạt động đầu tư
cung cấp một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, tức là chuyển vốn từ
tiết kiệm sang đầu tư. Hoạt động đầu tư tài chính giúp chuyển vốn từ những
người có vốn nhàn rỗi đến những người cần vốn để đầu tư vào tài sản hữu hình,
tạo ra hình thức chuyển vốn theo một phương thức sao cho những rủi ro không
tránh khỏi, liên quan đến dòng tiền mà tài sản hữu hình tạo ra, được phân bổ lại
giữa những người đang gọi vốn và những người cung cấp vốn.
Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được
lưu chuyển một cách dễ dàng, khi cần có thể rút ra nhanh chóng thông qua
việc chuyển nhượng, mua bán các công cụ tài chính trên thị trường tài chính,
điều này đã khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư.
1.2. Hoạt động đầu tƣ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
1.2.1. Tổng quan về doanh nghiệp bảo hiểm
Theo điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam ban hành năm 2000
kinh doanh bảo hiểm được hiểu là “Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
nhằm mục đích sinh lời theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của
người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để
doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi
thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Cũng theo
điều 3 khoản 5, doanh nghiệp bảo hiểm là “doanh nghiệp được thành lập, tổ
chức và hoạt động theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy
7
định khác của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm và tái bảo
hiểm”. Công ty bảo hiểm có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, công ty bảo hiểm là doanh nghiệp chuyên ngành. Công ty
bảo hiểm là doanh nghiệp kinh doanh bình đẳng như các doanh nghiệp khác
hoạt động trong nền kinh tế quốc dân, do đó cũng mang đặc trưng của một
doanh nghiệp, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình và trong
khuôn khổ pháp lý nhất định. Tuy vậy, ngành bảo hiểm là một ngành đặc thù
trong nền kinh tế, ngoài những quy định của Luật doanh nghiệp và hành lang
pháp lý chung, công ty bảo hiểm còn hoạt động dưới sự điều chỉnh của Luật
kinh doanh bảo hiểm và những văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật
này. Bên cạnh đó, công ty bảo hiểm còn chịu sự quản lý chặt chẽ của cơ quan
quản lý Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm thường là Bộ Tài chính hoặc
những cơ quan có thẩm quyền tương đương do Nhà nước quy định. Sản phẩm
bảo hiểm là loại hình sản phẩm đặc thù, đây là sản phẩm không thể định hình
hay định dạng, người mua không mong đợi được hưởng do sản phẩm này gắn
liền với rủi ro. Chỉ khi xảy ra rủi ro thì người mua bảo hiểm mới nhận thức
được nó thông qua việc bồi thường trên cơ sở số tiền bảo hiểm.
Thứ hai, công ty bảo hiểm là trung gian tài chính. Hoạt động kinh
doanh bảo hiểm thể hiện vai trò trung gian tài chính của công ty bảo hiểm.
Thông qua việc cung cấp những dịch vụ bảo hiểm cho khách hàng với mức
phí bảo hiểm phù hợp thì tổng nguồn phí bảo hiểm sẽ hình thành nên doanh
thu phí bảo hiểm gốc và những quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Do đặc
điểm của hợp đồng bảo hiểm là phí bảo hiểm được thanh toán trước những
cam kết thanh toán sẽ được thực hiện sau một khoảng thời gian. Chính vì thế,
phí bảo hiểm thu được chính là khoản nợ của công ty bảo hiểm đối với khách
hàng nhằm đảm bảo những cam kết đối với những người tham gia bảo hiểm.
Hoạt động mang tính chất then chốt, mang ý nghĩa sống còn với công ty bảo
8
hiểm chính là hoạt động đầu tư. Nguồn vốn tích tụ dưới dạng phí bảo hiểm sẽ
được mang đi đầu tư nhằm thu lãi. Ngoài ra công ty bảo hiểm còn thực hiện
những hoạt động đặc trưng của trung gian tài chính như: trung gian về quy mô
nguồn vốn tập trung những nguồn vốn với quy mô nhỏ, đối tượng sử dụng
rộng, những khoản tiết kiệm trong từng hộ gia đình thành nguồn vốn quy mô
lớn, tập trung; trung gian về thời hạn từ nguồn phí bảo hiểm thu định kỳ trong
những thời hạn khác nhau thì công ty bảo hiểm có thể chuyển thành nguồn
vốn lớn được đầu tư theo thời hạn cụ thể; trung gian về tài sản tài sản bằng
tiền từ những quỹ dự phòng nghiệp vụ sẽ được chuyển thành những tài sản tài
chính (nếu đầu tư tài chính) hoặc tài sản thực (nếu đầu tư bất động sản, góp
vốn liên doanh sản xuất...)
Thứ ba, công ty bảo hiểm thường không vay vốn phục vụ kinh doanh
bảo hiểm. Khi mới thành lập công ty bảo hiểm phải có mức vốn điều lệ nhất
định và thông thường sẽ phải ký quỹ một phần vốn điều lệ để đảm bảo khả
năng thanh toán. Phần còn lại sẽ được sử dụng tích lũy tại công ty dùng cho
những hoạt động đầu tư ban đầu và làm cơ sở đảm bảo cho các hợp đồng bảo
hiểm mới. Sau khi những hợp đồng bảo hiểm được cung cấp, số phí bảo hiểm
thu được sẽ trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ theo quy định, một phần chuyển
tái bảo hiểm. Các quỹ này cùng với vốn chủ sở hữu sẽ được phép đầu tư theo
quy định nhằm thu lợi nhuận. Nguồn lợi nhuận này chiếm tỷ trọng lớn trong
toàn bộ lợi nhuận của công ty bảo hiểm. Theo thời gian hoạt động, quỹ này sẽ
ngày càng lớn và công ty bảo hiểm trở thành những nhà đầu tư hùng mạnh.
Thứ tư, hoạt động của công ty bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong
nền kinh tế. Tầm quan trọng của công ty bảo hiểm được xét trên hai khía cạnh
là khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã hội. Trên khía cạnh kinh tế, công ty bảo
hiểm có vai trò đảm bảo an toàn cho các khoản đầu tư. Có thể nói chính các
công ty bảo hiểm là người xây dựng nên những thành phố, nhà máy rộng
9
lớn... bởi vì không có nhà đầu tư nào dám bỏ những khoản tiền khổng lồ để
xây dựng những công trình như vậy nếu không được sự đảm bảo an toàn cho
khoản tiền của mình bằng việc tham gia bảo hiểm. Trên khía cạnh xã hội, mục
đích của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là lấy những khoản tiền do toàn bộ
những người được bảo hiểm đóng góp bồi thường cho một số người trong số
họ gặp rủi ro hay nói cách khác là sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia
bảo hiểm.
Thứ năm, hoạt động của công ty bảo hiểm được Nhà nước kiểm soát
chặt chẽ. Hoạt động của công ty bảo hiểm có ảnh hưởng lớn tới quyền lợi của
người tham gia bảo hiểm, tới thị trường tài chính và tới toàn bộ nền kinh tế
nên được kiểm soát rất chặt chẽ. Pháp luật thường quy định cụ thể và chi tiết
về hoạt động của công ty bảo hiểm để đảm bảo quyền lợi của người tham gia
bảo hiểm, định hướng lưu chuyển các quỹ đầu tư và giảm nguy cơ tập trung
quyền lực trong lĩnh vực tài chính. Với sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước về
hoạt động, đảm bảo cho công ty bảo hiểm bảo toàn được nguồn vốn đầu tư,
tránh tình trạng thất thoát vốn, đảm bảo được quyền lợi của người tham gia
bảo hiểm. Ngoài ra nguồn vốn tích lũy hàng năm của công ty bảo hiểm được
tổng hợp thành các quỹ đầu tư khổng lồ. Sự luân chuyển vốn của những quỹ
này thường theo nguyên tắc chung là vận hành từ những lĩnh vực có tỷ suất
lợi nhuận thấp sang những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao hơn. Việc
luân chuyển dòng vốn đầu tư khổng lồ như vậy đôi khi ảnh hưởng tới cơ cấu
đầu tư của toàn nền kinh tế và không chú trọng đến những lĩnh vực phi lợi
nhuận và hoạt động cộng đồng. Do đó, cần sự can thiệp của Nhà nước bằng
các chính sách thích hợp để điều chỉnh hoạt động của những quỹ đầu tư này
nhằm đảm bảo cân đối đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế, cân bằng vốn đầu tư
đối với lĩnh vực công cộng, đảm bảo toàn bộ nguồn vốn này được đầu tư vào
nền kinh tế trong nước, tránh đầu tư ra nước ngoài và có thể bổ sung vào cán
10
cân ngân sách của Chính phủ khi cần thiết. Các quỹ đầu tư của công ty bảo
hiểm chỉ đứng sau các ngân hàng thương mại trên thị trường tài chính, vì vậy
Nhà nước phải kiểm soát sự đa dạng hóa danh mục đầu tư của công ty bảo
hiểm nhằm ngăn chặn sự kiểm soát và khống chế của công ty bảo hiểm với
những tổ chức tài chính khác hoặc một ngành, một hoạt động kinh doanh cụ
thể, chống lại sự độc quyền trong việc thâu tóm những hoạt động kinh doanh
lớn thông qua hoạt động đầu tư.
1.2.2. Hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
1.2.2.1. Đặc điểm hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
Bảo hiểm là một hoạt động tương trợ, tương hỗ, được hợp bởi sự tiết
kiệm của nhiều cá nhân nhằm bù đắp những hậu quả thiệt hại do những sự
kiện ngẫu nhiên tác động đến con người hoặc tài sản. Đặc thù riêng của hoạt
động kinh doanh bảo hiểm là “sự đảo ngược của chu kỳ kinh doanh”. Việc
tiêu thụ sản phẩm dựa trên quy trình: phí bảo hiểm (tiền bán sản phẩm bảo
hiểm) được thu trước, còn cam kết bồi thường, trả tiền bảo hiểm (giá trị sử
dụng của sản phẩm) chỉ được thực hiện sau khi mua một khoảng thời gian
nhất định nào đó. Do đó, doanh nghiệp bảo hiểm có trong tay một quỹ tài
chính rất lớn, chưa sử dụng ngay cho hoạt động bồi thường nên các doanh
nghiệp bảo hiểm có thể sử dụng tiền nhàn rỗi này để đầu tư trở lại nền kinh tế.
Ngoài ra, để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng tham gia bảo hiểm, các doanh
nghiệp bảo hiểm thường có vốn chủ sở hữu khá lớn để đáp ứng yêu cầu về
vốn pháp định cũng như về quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện. Như vậy, bên
cạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm thì hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp bảo hiểm còn bao gồm cả hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư của
doanh nghiệp bảo hiểm được hiểu là hành động chi dùng vốn nhàn rỗi từ vốn
chủ sở hữu và phí bảo hiểm thu được nhằm mục đích thu lợi nhuận trong
11
tương lai cho doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư được phân loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau. Tuy nhiên nhìn chung, hoạt động đầu tư được phân thành hai
loại chính là đầu tư trực tiếp và đầu tư tài chính. Trong khuôn khổ của luận
văn, tác giả chỉ đề cập nghiên cứu đến hoạt động đầu tư tài chính của doanh
nghiệp bảo hiểm.
Hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm mang những
đặc điểm chung của quá trình đầu tư là nguồn vốn, hình thức và phân chia lợi
nhuận sau quá trình đầu tư. Tuy nhiên do đặc thù của hoạt động kinh doanh
bảo hiểm, hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm có những
đặc điểm riêng:
Thứ nhất, nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ bao gồm
những nguồn vốn hình thành từ vốn chủ sở hữu và nguồn vốn nhàn rỗi từ quỹ
dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Vốn chủ sở hữu chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, phần
lớn nguồn vốn có thể đầu tư là nguồn vốn nhàn rỗi từ quỹ dự phòng nghiệp
vụ, được tích tụ từ phí bảo hiểm thu được. Trong khi các hoạt động khác được
sử dụng toàn bộ những nguồn vốn có thể để phục vụ quá trình đầu tư thì công
ty bảo hiểm chỉ được phép sử dụng một phần của quỹ dự phòng nghiệp vụ
bảo hiểm để đầu tư. Phần còn lại, theo quy định Luật kinh doanh bảo hiểm,
phải được giữ lại nhằm đảm bảo những nhu cầu thanh toán bồi thường và chi
trả thường xuyên trong kỳ.
Thứ hai, doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu sự giám sát chặt chẽ của
Nhà nước bằng hệ thống những văn bản quy định hình thức và tài sản được
phép đầu tư. Pháp luật sẽ quy định rõ doanh nghiệp bảo hiểm được đầu tư
nguồn vốn nhàn rỗi vào những hình thức đầu tư cụ thể nào và với giới hạn tối
đa nguồn vốn được phép đầu tư là bao nhiêu. Với danh mục đầu tư được quy
định cụ thể, doanh nghiệp bảo hiểm còn phải tuân thủ mức giới hạn cho mỗi
hình thức đầu tư. Doanh nghiệp bảo hiểm cũng không thể sử dụng toàn bộ
12
nguồn vốn cho một hình thức đầu tư. Tùy theo tính chất hoạt động của công
ty bảo hiểm là nhân thọ hay phi nhân thọ mà giới hạn cho mỗi khoản mục đầu
tư này được quy định khác nhau.
Thứ ba, nguyên tắc đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm ngoài việc
đảm bảo những nguyên tắc chung còn phải tuân thủ những nguyên tắc riêng.
Ngoài những nguyên tắc đầu tư chung như bảo toàn và phát triển vốn đầu tư,
đem lại lợi nhuận đầu tư mong muốn và góp phần vào sự phát triển kinh tế xã
hội thì hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm còn phải đảm bảo những
nguyên tắc riêng sẽ được làm rõ ở mục 1.2.2.2 dưới đây.
1.2.2.2. Nguyên tắc đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
Đầu tiên là nguyên tắc an toàn: hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm
phải đảm bảo độ an toàn cho nguồn vốn một cách cao nhất. Nguyên tắc này
được đặt ra nhằm hạn chế tối đa rủi ro trong đầu tư, bảo toàn nguồn vốn sử
dụng. Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm luôn đứng trước những
rủi ro đầu tư sau:
- Rủi ro về lãi suất: Rủi ro này xuất phát từ chỗ giá trị của các khoản
đầu tư có lãi suất cố định chịu sự biến động khi lãi suất trên thị trường thay
đổi và tỷ suất thu hồi thực (tức là lãi suất đã điều chỉnh theo lạm phát).
- Rủi ro tín dụng: Rủi ro này xảy ra khi bên vay vốn của doanh nghiệp
bảo hiểm bị phá sản hay tái cơ cấu tổ chức, khiến họ không thể trả lại tiền đầu
tư cho doanh nghiệp bảo hiểm như đã cam kết.
- Rủi ro thị trường: Rủi ro này xuất phát từ sự thay đổi của thị trường
thuộc lĩnh vực mà doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư.
- Rủi ro tiền tệ: Tỷ giá của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ luôn thay
đổi làm cho giá trị các khoản đầu tư không định giá bằng đồng ngoại tệ sẽ
thay đổi theo.
13
Việc đảm bảo nguyên tắc đầu tư vốn an toàn là rất quan trọng, đảm bảo
cho doanh nghiệp thực hiện các cam kết với khách hàng trong các hợp đồng
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Nguyên tắc an toàn của các khoản mục đầu tư
được pháp luật thể chế bằng việc quy định danh mục đầu tư với những lĩnh
vực có mức độ rủi ro đầu tư thấp. Ngoài ra, nguyên tắc này yêu cầu doanh
nghiệp bảo hiểm phải đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình.
Nguyên tắc thứ hai cần đảm bảo là nguyên tắc sinh lời. Hoạt động đầu
tư là nguồn chính tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp bảo hiểm - nguồn vô
cùng quan trọng giúp doanh nghiệp bảo hiểm tăng cường sức mạnh tài chính,
thực hiện các chiến lược kinh doanh. Vì vậy, hoạt động đầu tư cần thiết phải
có một tỷ suất sinh lời tốt. Tuy vậy, nguyên lý đầu tư là rủi ro đầu tư càng cao
thì tỷ suất lợi nhuận đầu tư càng cao và ngược lại. Do đó, nhà quản lý quỹ đầu
tư của doanh nghiệp bảo hiểm cần lựa chọn một cơ cấu danh mục cân đối để
đảm bảo cả nguyên tắc an toàn và nguyên tắc sinh lời.
Nguyên tắc thứ ba cần đảm bảo là nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh
toán thường xuyên. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể phải chi trả bồi thường cho
khách hàng bất kỳ lúc nào khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra bởi vậy danh mục đầu
tư phải cân đối về thời hạn (ngắn hạn, trung hạn và dài hạn) để có thể đáp ứng
nhu cầu thanh toán thường xuyên. Tính thanh khoản của các khoản mục đầu tư
của doanh nghiệp bảo hiểm cũng được pháp luật thể chế hóa bằng việc quy định
danh mục đầu tư với tỷ lệ nhất định. Trong thực tế, việc đồng thời thực hiện các
nguyên tắc trên đối với doanh nghiệp bảo hiểm là một vấn đề rất phức tạp vì khi
thực hiện nguyên tắc an toàn, và khả năng thanh toán thường xuyên thì khả năng
sinh lời sẽ giảm xuống và ngược lại. Việc phân bổ nguồn vốn vào các loại hình
đầu tư, xác định cơ cấu danh mục đầu tư hợp lý là vô cùng quan trọng và đòi hỏi
trình độ và kinh nghiệm của người quản lý quỹ đầu tư.
14
1.2.2.3. Vai trò của hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
Có thể nói hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm có vai trò rất lớn
không những với bản thân doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế.
Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, đầu tư có tầm quan trọng sống còn đối
với hoạt động kinh doanh. Hoạt động đầu tư ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm. Tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao sẽ giúp
doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện giảm phí bảo hiểm, từ đó dành được
khách hàng từ các đối thủ cạnh tranh. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong điều
kiện thị trường bảo hiểm đang cạnh tranh gay gắt thông qua hạ phí bảo hiểm,
trong khi đó tỷ lệ bồi thường/phí bảo hiểm luôn ở mức cao nên hầu như toàn
bộ chi phí hoạt động và lợi nhuận của doanh nghiệp bảo hiểm đều lấy từ lãi
đầu tư. Hơn nữa, hoạt động đầu tư còn đóng góp quan trọng vào sự tăng
trưởng thu nhập và lợi nhuận của doanh nghiệp bảo hiểm, giúp mở rộng quy
mô doanh nghiệp, tăng cổ tức cho cổ đông, tăng quỹ phúc lợi và thu nhập cho
người lao động. Ngoài ra, hoạt động đầu tư có thể góp phần thúc đẩy hoạt
động bảo hiểm thông qua việc khuyếch trương quảng cáo công ty thông qua
các dự án góp vốn hoặc yêu cầu sự hợp tác về bảo hiểm với các đơn vị mà
doanh nghiệp bảo hiểm góp vốn, đầu tư trái phiếu, tiền gửi (bán chéo sản
phẩm qua ngân hàng).
Đối với xã hội, vai trò của hoạt động đầu tư được thể hiện rõ nét nhất
thông qua vị trí của doanh nghiệp bảo hiểm trong cấu trúc của hệ thống thị
trường tài chính. Bên cạnh các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ đầu
tư thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng là một trung gian tài chính, thực hiện thu hút
vốn nhàn rỗi từ các tổ chức cá nhân dưới hình thức phí bảo hiểm và cung ứng
vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động đầu tư. Qua đó góp phần đáp ứng nhu
cầu về vốn, thúc đẩy sự luân chuyển, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền
kinh tế. Ngoài ra, hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm còn có tác
15