Hoạt động đầu tư của bảo hiểm xã hội việt nam
- 91 trang
- file .pdf
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------
NGUYỄN VĂN HUY
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ
CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH
Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------
NGUYỄN VĂN HUY
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ
CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Quản lý kinh tế
Mã số: 60 34 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ANH TUẤN
Hà Nội – 2014
MỤC LỤC Trang
Mục lục i
Danh mục các chữ viết tắt iii
Danh mục bảng, biểu và sơ đồ iv
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của luận văn nghiên cứu 1
2. Tình hình nghiên cứu 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn 4
7. Kết cấu của luận văn 4
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ CỦA 5
BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1.Tổng quan về quỹ Bảo hiểm xã hội 5
1.1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội 5
1.1.2. Sự cần thiết quỹ bảo hiểm xã hội 7
1.1.3. Nguồn thu và chi của BHXH 8
1.2. Qũy đầu tƣ BHXH và hoạt động đầu tƣ 12
1.2.1. Khái niệm và đặc trưng hoạt động đầu tư của quỹ bảo hiểm xã hội 12
1.2.2. Nguyên tắc hoạt động đầu tư của quỹ bảo hiểm xã hội 13
1.2.3. Hình thức và nội dung hoạt động đầu tư của quỹ bảo hiểm xã hội 14
1.3. Những nhân tố ảnh hƣởng tới hoạt động đầu tƣ của quỹ BHXH 18
1.3.1. Nhân tố khách quan 18
1.3.2. Nhân tố chủ quan 19
1.4. Kinh nghiệm của một số quốc gia về đầu tƣ quỹ bảo hiểm xã 21
hội
1.4.1. Philippine 21
1.4.2. Malaysia 23
1.4.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 26
i
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ CỦA BẢO HIỂM XÃ 28
HỘI VIỆT NAM
2.1 Khái quát về quỹ BHXH và quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam 28
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển quỹ BHXH 28
2.1.2. Hoạt động của quỹ BHXH 33
2.1.3. Các quy định của pháp luật về hoạt động đầu tư quỹ BHXH 42
2.2. Thực trạng hoạt động đầu tƣ tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam 43
2.2.1. Quy mô và hình thức đầu tư của BHXH Việt Nam đến nay 43
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng hoạt động đầu tư quỹ BHXH của Bảo 47
hiểm xã hội Việt Nam
2.3. Đánh giá hoạt động đầu tƣ tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam 51
2.3.1. Thành tựu 51
2.3.2. Hạn chế 51
2.3.3. Nguyên nhân 52
Chương 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG 58
ĐẦU TƢ TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM.
3.1. Định hƣớng phát triển và cân đối quỹ BHXH ở Việt Nam 58
3.1.1. Chiến lược phát triển chung của toàn ngành bảo hiểm xã hội 58
3.1.2. Định hướng cân đối quỹ bảo hiểm xã hội trong thời gian tới 59
3.1.3. Những quan điểm và định hướng cơ bản về đầu tư quỹ BHXH 61
3.2 . Giải pháp phát triển hoạt động đầu tƣ tại BHXH Việt Nam 64
3.2.1. Nhóm giải pháp chung 64
3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể 67
3.3. Kiến nghị 80
3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước 80
3.3.2. Kiến nghị đối với các Bộ, Ngành có liên quan 81
KẾT LUẬN 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ii
1 BHXH Bảo hiểm xã hội
2 BHYT Bảo hiểm y tế
3 BHTN Bảo hiểm thất nghiệp
4 KCB Khám chữa bệnh
5 NHTM Ngân hàng thương mại
6 NHNNVN Ngân hàng nhà nước Việt Nam
7 TMNN Thương mại nhà nước
8 PTVN Phát triển Việt Nam
9 NSNN Ngân sách Nhà nước
10 TTCK Thị trường chứng khoán
DANH MỤC BẢNG, BIỂU VÀ SƠ ĐỒ
iii
SỐ TÊN BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ TRANG
HIỆU
2.1 Tình hình số đối tượng tham gia BHXH từ năm 2007-2013 34
2.2 Tình hình thu BHXH từ 2007-2013 35
2.3 Tình hình nợ đọng, trốn đóng BHXH từ 2007-2013 36
2.4 Tình hình chi BHXH từ 2007-2013 38
2.5 Tình hình cân đối các quỹ BHXH giai đoạn 2007-2013 41
2.6 Danh mục đầu tư quỹ BHXH giai đoạn 2007-2013 44
2.7 Hoạt động đầu tư quỹ BHXH giai đoạn 2007-2013 46
2.8 Tỷ trọng vốn đầu tư trên số dư quỹ BHXH giai đoạn 2007-2013 47
So sánh tỷ lệ lạm phát với lãi xuất bình quân của danh mục
2.9 50
đầu tư giai đoạn 2007-2013
2.10 Cơ cấu danh mục đầu tư quỹ BHXH giai đoạn 2007-2013 51
2.11 Sơ đồ tổ chức bộ máy hiện nay của BHXH Việt Nam 55
3.1 Dự tính cân đối quỹ hưu trí và tử tuất giai đoạn 2010-2030 61
3.2 Sơ đồ tổ chức bộ máy mới của BHXH Việt Nam 69
3.3 Cơ cấu lại danh mục đầu tư 76
iv
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn nghiên cứu
Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế được bù đắp một phần thu nhập
cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất,
dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH,
có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống
cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã
hội. Chính vì vậy, chính sách BHXH luôn là một bộ phận quan trọng trong
chính sách phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia nhằm đảm bảo các vấn
đề xã hội liên quan đến một tầng lớp đông đảo người lao động. Quỹ bảo hiểm
xã hội (BHXH) là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách
Nhà nước (NSNN) được quản lý bởi cơ quan phụ trách BHXH. Quỹ có mục
đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả cho
người tham gia BHXH, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc
rủi ro. Chủ thể của quỹ là những người tham gia đóng góp để hình thành nên
quỹ, do đó có thể bao gồm: Người tham gia BHXH, người lao động, người sử
dụng lao động và Nhà nước.
Do tính đặc thù của quá trình thu và quá trình chi BHXH, nên quỹ BHXH
luôn có một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng đến. Lượng tiền tạm
thời nhàn rỗi này có thể biến động tăng và cũng có thể biến động giảm do mất
an toàn, giảm giá trị do yếu tố lạm phát. Vì vậy, bảo tồn giá trị và tăng trưởng
quỹ BHXH đã trở thành yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt
động của BHXH. Mặc dù mới được thành lập từ năm 1995, nhưng BHXH Việt
Nam đã thực hiện tốt nhiệm vụ thực hiện chính sách BHXH, BHYT và quản lý
quỹ BHXH, góp phần không nhỏ trong công tác đảm bảo an sinh xã hội nói
riêng và phát triển đất nước nói chung. Hiện nay quỹ BHXH đã kết dư được
1
hàng trăm nghìn tỷ đồng, số tiền này đang được BHXH Việt Nam đem đi đầu
tư nhằm bảo toàn, tăng trưởng quỹ, hoạt động này đã cung cấp một nguồn tài
chính không nhỏ cho NSNN cũng như các thành phần kinh tế góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên bên cạnh những mặt đã làm được
thì vấn đề đầu tư quỹ BHXH sao cho có hiệu quả cao nhất mà vẫn bảo tồn
được quỹ BHXH là một vấn đề không dễ đối với BHXH Việt Nam. Câu hỏi để
hoạt động đầu tư của Bảo hiểm xã hội Việt Nam ngày càng phát triển mà vẫn
bảo tồn được quỹ BHXH thì cần phải có giải pháp như thế nào? Là câu hỏi có
ý nghĩa thực tiễn lớn trong giai đoạn hiện nay. Chính vì những lý do trên, tác
giả đã chọn đề tài “ Hoạt động đầu tư của Bảo hiểm xã hội Việt Nam” làm
luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có một số công trình khoa học đề cập nghiên cứu đến vấn đề này
như: Đề tài “Quỹ BHXH và những giải pháp đảm bảo sự cân đối quỹ BHXH
giai đoạn 2010-2020” của tác giả Đỗ Văn Sinh (năm 2000). Trong đề tài này
tác giả Đỗ Văn Sinh đã đề cập đến vấn đề cân đối thu – chi và đầu tư quỹ,
nhưng thời kỳ đó chưa sáp nhập BHYT vào BHXH và đối tượng tham gia
BHXH còn rất hạn chế; đề tài: “Hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH-
thực trạng và giải pháp” của tác giả Hoàng Hà (năm 2000) ở đề tài này tác giả
Hoàng Hà cũng đã đi sâu phân tích thực trạng và đưa ra các biện pháp về đầu
tư quỹ BHXH, nhưng khi đó quỹ BHXH kết dư không đáng kể và chủ yếu
cho Quỹ hỗ trợ phát triển vay với lãi suất thấp do Chính phủ quy định; đề tài:
“Phát triển hoạt động đầu tư tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam, giai đoạn 2003-
2008” của tác giả Đoàn Chiến Thắng (năm 2010). Thời kỳ này Luật BHXH
mới có hiệu lực thi hành cho nên tác giả Đoàn Chiến Thắng cũng chỉ phân tích
vấn đề đầu tư quỹ khi Luật BHXH chưa ra đời.
Nội dung của các công trình khoa học nói trên đã đề cập đến hoạt động
đầu tư quỹ của BHXH Việt Nam trong các giai đoạn nhất định. Tuy nhiên từ
2
khi có Luật BHXH ra đời đến nay chưa có đề tài nào đề cập một cách chuyên
sâu, toàn diện về hoạt động đầu tư của BHXH Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Luận văn này làm rõ thực trạng hoạt động đầu tư
của BHXH Việt Nam, giai đoạn 2007-2013. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp
và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động đầu tư của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Để đạt được mục đích của luận văn đặt ra, nhiệm vụ nghiên cứu của luận
văn được xác định như sau:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về hoạt động đầu tư của bảo
hiểm xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư của Bảo hiểm xã
hội Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động đầu tư của
Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động
đầu tư của BHXH Việt Nam từ khi Luật Bảo hiểm xã hội ra đời đến nay
(2007-2013).
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động đầu tư quỹ BHXH của Bảo
hiểm xã hội Việt Nam, giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2013.
Hoạt động đầu tư, số liệu, tài liệu mà tiểu luận nghiên cứu, tham khảo
được giới hạn từ 2007 đến 2013. Tuy vậy, một số vấn đề, hoạt động đầu tư từ
trước 2007 và sau 2013 cũng được tham khảo và đề cập nhằm tăng tính đầy
đủ và tính thời sự cho luận văn
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
3
điểm của Đảng, Nhà nước ta về BHXH nói chung và hoạt động đầu tư quỹ
BHXH nói riêng.
Trên cơ sở đó, luận văn còn sử dụng tổng hợp một số phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Phân tích; so sánh; tổng hợp; tổng kết thực tiễn;
chuyên gia.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn góp phần hoàn thiện lý
luận về hoạt động đầu tư quỹ của BHXH.
Những số liệu và các kết luận rút ra trong luận văn có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu về quỹ BHXH.
Những giải pháp và kiến nghị của luận văn giúp cho BHXH Việt Nam
tham khảo, áp dụng vào thực tiễn hoạt động đầu tư quỹ BHXH.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về hoạt động đầu tư của bảo hiểm xã hội.
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển hoạt động đầu tư tại Bảo
hiểm xã hội Việt Nam.
4
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TƢ CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1 TỔNG QUAN VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1.1 Khái quát về Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội xuất hiện khá sớm và phát triển theo quá trình phát triển
của xã hội. Năm 1883, ở nước Phổ (Cộng hoà Liên bang Đức ngày nay) đã
ban hành luật bảo hiểm ốm đau đầu tiên trên thế giới, đánh dấu sự ra đời của
BHXH. Bảo hiểm xã hội lần lượt xuất hiện ở các nước dưới mức độ khác
nhau, nhưng cùng chung mục đích là đảm bảo đời sống cho người lao động và
gia đình họ. Có thể đưa ra khái niệm về BHXH như sau:
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với
người lao động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm giảm hoặc mất khả
năng lao động hoặc mất việc làm, bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ
tài chính tập trung do sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao
động và sự bảo trợ của Nhà nước, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người
lao động và cho gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
BHXH ra đời, tồn tại và phát triển là một nhu cầu khách quan. Nền kinh tế
hàng hóa càng phát triển, việc thuê mướn lao động trở nên phổ biến thì càng
đòi hỏi sự phát triển và đa dạng của BHXH. Nền kinh tế hàng hóa phát triển là
nền tảng, là cơ sở của BHXH. BHXH được hình thành trên cơ sở quan hệ lao
động, giữa các bên cùng tham gia và được hưởng BHXH. Nhà nước ban hành
các chế độ, chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan chuyên trách, thực hiện
nhiệm vụ quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH. Chủ sử dụng và người lao động
có trách nhiệm đóng góp để hình thành quỹ BHXH. Người lao động (bên được
BHXH) và gia đình của họ được cung cấp tài chính từ quỹ BHXH khi họ có đủ
5
điều kiện theo chế độ BHXH quy định. Đó chính là mối quan hệ của các bên
tham gia BHXH.
Phân phối trong BHXH là phân phối không đều, nghĩa là không phải ai
tham gia BHXH cũng được phân phối với số tiền giống nhau. Phân phối trong
BHXH vừa mang tính bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn. Những biến cố
xảy ra mang tính tất nhiên đối với con người là thai sản (đối với lao động nữ),
tuổi già và chết, trong trường hợp này, BHXH phân phối mang tính bồi hoàn vì
người lao động đóng BHXH chắc chắn được hưởng khoản trợ cấp đó. Còn trợ
cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm,
những rủi ro xảy ra trái ngược với ý muốn của con người như ốm đau, tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, là sự phân phối mang tính không bồi hoàn; có
nghĩa là chỉ khi nào người lao động gặp phải tổn thất do ốm đau, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp... thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó.
BHXH hoạt động theo nguyên tắc “cộng đồng - lấy số đông bù cho số ít”
tức là dùng số tiền đóng góp nhỏ của số đông người tham gia BHXH để bù
đắp, chia sẻ cho một số ít người với số tiền lớn hơn so với số đóng góp của
từng người, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro gây tổn thất.
Hoạt động BHXH là một loại hoạt động dịch vụ công, mang tính xã hội
cao; lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động BHXH là quá
trình tổ chức, triển khai thực hiện các chế độ, chính sách BHXH của tổ chức
quản lý sự nghiệp BHXH đối với người lao động tham gia và hưởng các chế
độ BHXH.
Trong đời sống kinh tế - xã hội, BHXH đóng vai trò to lớn được thể hiện
trên các mặt sau:
- BHXH góp phần ổn định đời sống của người tham gia BHXH, đảm bảo
an toàn xã hội.
- BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. Phân phối trong BHXH là
sự chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là sự phân phối lại giữa những
6
người có thu nhập cao, thấp khác nhau theo xu hướng có lợi cho những người
có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người khỏe mạnh, may
mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu, gặp phải những biến cố rủi
ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống.
- BHXH góp phần phòng tránh và hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn cho
sản xuất và đời sống xã hội của con người.
- BHXH còn làm cho mối quan hệ giữa người lao động, người sử dụng
lao động và nhà nước ngày càng gắn bó.
- BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất
nước. Quỹ BHXH thiết kế theo mô hình tồn tích thì luôn luôn có số dư tạm
thời nhàn rỗi rất lớn. Đây chính là một nguồn vốn lớn để đầu tư phát triển
kinh tế của đất nước.
1.1.2 Sự cần thiết quỹ bảo hiểm xã hội
Hoạt động của BHXH nhằm mục đích bảo đảm cuộc sống an lành, ấm no
và hạnh phúc của con người. BHXH luôn luôn theo suốt cả cuộc đời người lao
động, từ lúc còn trong bụng mẹ được hưởng chế độ trợ cấp thai sản; đến khi
trưởng thành là người lao động được hưởng trợ cấp ốm đau, tai nạn lao động,
thất nghiệp; lúc tuổi già được hưởng trợ cấp hưu trí và đến khi qua đời được
BHXH lo toan chu đáo tiền mai táng phí, tiền tử tuất.
Song muốn thực hiện được các chế độ chính sách BHXH để phục vụ lợi
ích của con người, BHXH cần phải có một quỹ do các bên tham gia BHXH
đóng góp. Đó là người lao động và chủ sử dụng lao động phải đóng góp BHXH
theo quy định, Nhà nước đóng và hỗ trợ một phần để người lao động được
hưởng các chế độ BHXH trong suốt cuộc đời.
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung, được hình thành từ đóng góp
của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu khác, được sử dụng để bù đắp,
hoặc thay thế thu nhập cho người tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những
biến cố rủi ro làm suy giảm sức khoẻ, mất khả năng lao động, mất việc làm,
7
chết; nhằm ổn định đời sống cho họ và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn
xã hội và phát triển kinh tế của đất nước.
1.1.3 Nguồn thu và chi của BHXH
Quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp
- Người lao động đóng góp
- Hỗ trợ của Nhà nước
- Các nguồn khác như: Cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do
đầu tư phần quỹ nhàn rỗi, tiền phạt do đóng BHXH chậm.
Quỹ BHXH được hỗ trợ từ NSNN là trách nhiệm của Nhà nước. Bởi vì,
trước hết các luật lệ về BHXH của Nhà nước sẽ là những chuẩn mực về pháp
lý mà cả giới chủ và giới thợ đều phải tuân theo. BHXH là một công cụ quan
trọng trong tay Nhà nước nhằm thực hiện chính sách phân phối lại thu nhập
trong xã hội góp phần ổn định xã hội, đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
Mặt khác, Nhà nước hỗ trợ cho quỹ khi quỹ BHXH mất cân đối không đáp
ứng được khả năng chi trả và làm chỗ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH
chắc chắn và ổn định.
Người chủ sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH vừa là trách
nhiệm, vừa là quyền lợi. Những khoản chi trả từ quỹ BHXH sẽ làm giảm một
phần gánh nặng tài chính cho họ. Đồng thời góp phần giảm bớt tình trạng
tranh chấp, tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ chủ - thợ.
Người lao động phải có trách nhiệm đóng góp một phần thu nhập vào
quỹ BHXH như một khoản tiết kiệm để giải quyết những khó khăn về tài
chính của mình khi gặp rủi ro.
Mỗi chế độ BHXH có một loại phí riêng hoặc có thể tổng hợp chung tất
cả các loại chế độ. Nếu ở trong hệ thống BHXH do Nhà nước thành lập và sự
tham gia là bắt buộc thì phí BHXH toàn phần phải đóng góp sẽ bao gồm phí
thuần tuý (là phần phí phải đóng góp để người lao động được hưởng các chế
8
độ đã xác định), chi phí quản lý, khoản dự phòng. Còn trong hệ thống BHXH
do tư nhân và các tổ chức xã hội thành lập theo pháp luật và có sự bảo trợ của
Nhà nước, để bảo vệ cho những người không ở trong hệ thống bảo hiểm của
Nhà nước với nguyên tắc tự nguyện thì phí BHXH toàn phần sẽ có cả lãi định
mức cho tổ chức BHXH.
Mức đóng góp hàng tháng của các bên tham gia BHXH cho người lao
động được gọi là phí BHXH. Về mức đóng góp BHXH, do Nhà nước quy định.
Cân bằng thu- chi là nguyên tắc hoạt động của quỹ BHXH. Để đảm bảo
quỹ BHXH hạch toán độc lập và cân đối được thu - chi trong quá trình hoạt
động thì phải xem xét đến yếu tố phí BHXH. Trong thực tế, việc tính phí
BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của cơ quan quản lý BHXH. Khi tính phí
BHXH có thể dựa trên căn cứ khác nhau:
- Dựa vào tiền lương và thang bảng lương để xác định mức trợ cấp
BHXH từ đó là cơ sở xác định mức đóng BHXH.
- Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng sau.
- Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức
hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định được mức phí BHXH.
Khi xác định phí BHXH vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc cân bằng thu chi.
Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và
điều chỉnh sao cho tối ưu nhất.
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho các mục đích sau đây:
+ Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH.
+ Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH.
+ Chi phí cho hoạt động đầu tư.
Trong ba nội dung nêu trên thì chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH là
lớn nhất và quan trọng nhất. Khoản chi này được thực hiện theo luật định và
phụ thuộc vào phạm vi trợ cấp của từng hệ thống BHXH. Về nguyên tắc, thu
9
trước chi sau. Vì vậy quỹ BHXH chỉ chi cho các chế độ trong phạm vi có
nguồn thu, thu của chế độ nào thì chi ở chế độ đó.
Tuy nhiên, quá trình sử dụng quỹ BHXH mà phần sử dụng nhiều nhất để
chi trả cho các chế độ còn phụ thuộc vào việc thành lập quỹ BHXH theo mô
hình nào?
Nếu chỉ thành lập một quỹ BHXH tập trung thống nhất thì việc chi trả
cũng phải đảm bảo thống nhất theo các nội dung chi.
Ngoài những đặc trưng của một quỹ tài chính, quỹ BHXH có những đặc
trưng riêng khác với các loại quỹ tài chính khác, đó là:
Thứ nhất, là tính chủ thể của quỹ BHXH: Nhà nước là chủ thể duy nhất
quyết định việc tạo lập và sử dụng quỹ BHXH, nhằm phục vụ mục đích đảm
bảo an toàn xã hội. Bằng các đạo luật được ban hành, Nhà nước quy định mức
đóng góp của các bên tham gia BHXH để tạo lập quỹ, đồng thời cũng quy
định những điều kiện hưởng, mức hưởng đối với từng loại chế độ trợ cấp.
Mặc dù quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn, nhưng chỉ có
những người tham gia BHXH được hưởng thụ các nguồn tài chính đó. Do đó,
người tham gia BHXH là chủ thể duy nhất có quyền sở hữu quỹ BHXH hay
nói cách khác, quyền sở hữu quỹ BHXH là của những người tham gia BHXH
đồng sở hữu.
Để tổ chức thực hiện các hoạt động nghiệp vụ như thu BHXH, giải quyết
chế độ chính sách, chi BHXH, hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ cần phải có
một hệ thống tổ chức bộ máy - đó chính là hệ thống cơ quan BHXH. Cơ quan
BHXH là người đại diện chủ sở hữu có quyền sử dụng, quản lý quỹ BHXH
theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, là sự kết hợp giữa tính bắt buộc và tự nguyện, giữa tính bồi
hoàn và không bồi hoàn: Nhà nước ban hành các đạo luật buộc mọi đối tượng
phải tham gia BHXH dưới hình thức bắt buộc nhằm bảo đảm an toàn xã hội,
đáp ứng nhu cầu sống cơ bản khi người tham gia BHXH gặp phải rủi ro trong
10
cuộc sống. Chẳng hạn, người lao động và người sử dụng lao động phải tham
gia đóng và để hưởng chế độ hưu trí và tử tuất theo hình thức bắt buộc và bồi
hoàn. Cũng có loại chế độ BHXH với hình thức tham gia là bắt buộc nhưng lại
không mang tính chất bồi hoàn, mà chỉ khi nào người tham gia bảo hiểm gặp
rủi ro mới được trợ cấp. Ngoài hình thức bắt buộc, Nhà nước còn quy định loại
hình bảo hiểm tự nguyện để cho mọi người tham gia bổ sung ngoài loại hình
bắt buộc nhằm đảm bảo thêm nhu cầu bù đắp tổn thất khi họ gặp rủi ro.
Thứ ba, là một quỹ tiền tệ mang tính cộng đồng xã hội cao: Quỹ BHXH
được hình thành từ sự đóng góp của người sử dụng lao động, của người tham
gia bảo hiểm, NSNN hỗ trợ và bảo trợ. Khoản kinh phí do người sử dụng lao
động đóng góp vào quỹ BHXH được hạch toán vào chi phí sản xuất, hình thành
nên giá thành sản phẩm và dịch vụ. Những sản phẩm và dịch vụ đó được mọi
người trong xã hội trong và ngoài nước tiêu dùng và đương nhiên họ phải trả
chi phí tương ứng với số sản phẩm và dịch vụ họ đã tiêu dùng. Như vậy, thông
qua việc chi trả tiền mua sản phẩm, dịch vụ mà mọi người trong cộng đồng xã
hội đã gián tiếp đóng góp vào quỹ BHXH.
Thứ tư, là quỹ BHXH có phạm vi hoạt động rộng, đối tượng phục vụ lớn:
Quỹ BHXH có phạm vi hoạt động trải rộng khắp quốc gia, thậm chí xuyên
quốc gia để đảm bảo an toàn xã hội. Nhà nước bắt buộc phần lớn mọi người
đều phải tham gia bảo hiểm bắt buộc; ngoài ra còn quy định chế độ bảo hiểm tự
nguyện, do đó hầu hết mọi người dân đều tham gia bảo hiểm. Vì vậy, đối tượng
tham gia và hưởng các chế độ BHXH chiếm đại đa số dân số của đất nước.
Thứ năm, là một quỹ tiền tệ tập trung lớn, tồn tại trong thời gian dài,
luôn vận động và có số dư tạm thời nhàn rỗi lớn: Quỹ BHXH được tạo lập từ
sự đóng góp của đông đảo người tham gia và của hầu hết các đơn vị sử dụng
lao động trong quốc gia. Vì vậy, nguồn lực tài chính tập trung vào quỹ là vô
cùng lớn. Mặt khác, quỹ bảo hiểm được thiết kế theo mô hình tồn tích sẽ có
11
số dư tồn tích từ năm này qua năm khác, thế hệ này sang thế hệ khác, do đó số
dư sẽ tăng lên hàng năm.
Thứ sáu, là quỹ BHXH luôn chịu tác động của nhiều nhân tố trong nền
kinh tế - xã hội: Mỗi một sự vận động của nền kinh tế - xã hội đều tác động
đến quỹ BHXH. Có những nhân tố tác động trực tiếp đến quỹ BHXH, những
nhân tố đó thường có liên quan trực tiếp đến đời sống kinh tế và xã hội của
con người, chẳng hạn như việc làm, thu nhập, tình trạng sức khỏe... Những
nhân tố tác động gián tiếp đến quỹ BHXH như: Tăng trưởng kinh tế, tiến bộ
và công bằng xã hội... Nền kinh tế tăng trưởng do kết quả của việc đầu tư phát
triển kinh tế tăng, theo đó là việc tăng quy mô sản xuất, kéo theo là lực lượng
lao động có cơ hội việc làm nhiều hơn và thu nhập cũng được cải thiện hơn.
Tiến bộ và công bằng xã hội được nâng cao làm cho con người được cải thiện
về mọi mặt, đặc biệt là vấn đề xã hội. Vì vậy, làm cho chất lượng cuộc sống
của con người được nâng cao, sức khỏe con người tốt hơn... Những yếu tố đó
tác động làm tăng quy mô quỹ BHXH và ngược lại.
1.2 QUỸ ĐẦU TƢ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ
1.2.1 Khái niệm và đặc trƣng hoạt động đầu tƣ quỹ bảo hiểm xã hội
Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại
để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả
nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết
quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là lao động và
trí tuệ.
Trong hoạt động của quỹ BHXH, do tính đặc thù của quá trình thu và
quá trình chi BHXH, nên quỹ BHXH luôn luôn có một lượng tiền tạm thời
chưa được sử dụng đến. Phần tiền này, cần phải được đầu tư để bảo tồn và
tăng trưởng quỹ BHXH.
Như vậy, có thể khái niệm về hoạt động đầu tư quỹ BHXH như sau: Hoạt
động đầu tư quỹ BHXH là quá trình sử dụng một phần tiền tạm thời nhàn rỗi từ
12
quỹ BHXH để đầu tư, nhằm tăng thêm tiềm lực tài chính cho quỹ BHXH, đáp
ứng đầy đủ nhu cầu chi trả cho các chế độ BHXH và đảm bảo cho các hoạt
động thường xuyên của cơ quan BHXH.
Do quỹ BHXH có những đặc trưng, khác hẳn với những tổ chức tài
chính khác, nên hoạt động đầu tư quỹ BHXH có những đặc trưng khác với
hoạt động đầu tư nói chung, cụ thể:
- Xuất phát từ đặc trưng thứ nhất của quỹ BHXH đã khẳng định Nhà
nước là chủ thể duy nhất quyết định việc tạo lập và sử dụng quỹ, quyền sở
hữu quỹ BHXH là của mọi người lao động tham gia BHXH do đó hoạt động
đầu tư chịu sự tác động của Nhà nước.
- Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ công; có phạm vi hoạt động rộng, đối
tượng phục vụ lớn do đó đã tạo nên quy mô vốn cho hoạt động đầu tư là lớn
và ổn định.
1.2.2 Nguyên tắc hoạt động đầu tƣ quỹ bảo hiểm xã hội
Hoạt động của BHXH mang tính nhân văn, tính xã hội rộng lớn; mục
tiêu chính là hiệu quả xã hội, không phải kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận.
Do đó, hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH phải quán triệt một số
nguyên tắc sau:
Nguyên tắc thứ nhất: Đảm bảo an toàn: Đây là nguyên tắc quan trọng
hàng đầu khi sử dụng quỹ BHXH để đầu tư. Vì quỹ BHXH được hình thành
từ sự đóng góp trực tiếp hoặc gián tiếp của hàng triệu người tham gia BHXH
và của cả cộng đồng xã hội, vì vậy quỹ BHXH luôn luôn gắn liền và đảm bảo
quyền lợi cho những người trực tiếp tham gia BHXH và cho cả cộng đồng xã
hội. Do đó, nếu để xảy ra tình trạng rủi ro, thất thoát trong đầu tư quỹ, làm
cho quỹ mất khả năng thanh toán sẽ gây hậu quả nghiêm trọng, dẫn đến mất
ổn định xã hội, làm giảm lòng tin của dân chúng đối với Nhà nước, dẫn đến
mất ổn định về mặt chính trị.
13
Nguyên tắc thứ hai: Khả năng thanh toán linh hoạt (tính thanh khoản
cao). Quá trình tạo lập và sử dụng quỹ được diễn ra thường xuyên liên tục với
một quy mô lớn. Quỹ BHXH chịu tác động của rất nhiều nhân tố của nền kinh
tế - xã hội, đặc biệt là các nhân tố có liên quan trực tiếp đến đời sống kinh tế
và xã hội của con người. Một yêu cầu đặt ra đối với hoạt động của quỹ BHXH
là trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải luôn luôn đảm bảo đủ
nguồn lực tài chính để chi trả kịp thời, đầy đủ cho người được hưởng các chế
độ BHXH. Do đó, hoạt động đầu tư quỹ BHXH phải đảm bảo được nguyên
tắc dù đầu tư vào lĩnh vực nào, dưới hình thức nào thì cũng phải đảm bảo khả
năng chuyển đổi nhanh các tài sản đầu tư thành tiền tệ để đảm bảo kịp thời
nhu cầu chi tiêu của quỹ.
Nguyên tắc thứ ba: Hiệu quả cao (có tính đến lợi ích xã hội): Nếu chỉ
đơn thuần xét trên giác độ kinh tế thì sinh lời là mục tiêu cuối cùng và cực kỳ
quan trọng đối với hoạt động đầu tư của bất kỳ nguồn vốn nào. Nếu hoạt động
đầu tư mà không sinh lời thì không những chẳng tăng trưởng được quỹ, mà
còn không bảo toàn được quỹ (vì có yếu tố trượt giá), do đó sẽ không đảm
bảo được khả năng chi trả các chế độ BHXH trong tương lai.
1.2.3 Hình thức và nội dung hoạt động đầu tƣ quỹ bảo hiểm xã hội
* Hình thức đầu tƣ: Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, hoạt động
đầu tư có thể phân chia thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.
- Đầu tư gián tiếp: Người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành
quản lý quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Hình thức đầu tư
gián tiếp bao gồm:
+ Cho vay trực tiếp: Đối tượng cho vay là các doanh nghiệp, các tổ chức
thiếu vốn, các cá nhân. Để đảm bảo nguyên tắc an toàn trong hoạt động đầu tư
thì khi cho vay khách hàng phải có tài sản đảm bảo.
+ Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng:
14
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------
NGUYỄN VĂN HUY
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ
CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH
Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------
NGUYỄN VĂN HUY
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ
CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Quản lý kinh tế
Mã số: 60 34 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ANH TUẤN
Hà Nội – 2014
MỤC LỤC Trang
Mục lục i
Danh mục các chữ viết tắt iii
Danh mục bảng, biểu và sơ đồ iv
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của luận văn nghiên cứu 1
2. Tình hình nghiên cứu 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn 4
7. Kết cấu của luận văn 4
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ CỦA 5
BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1.Tổng quan về quỹ Bảo hiểm xã hội 5
1.1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội 5
1.1.2. Sự cần thiết quỹ bảo hiểm xã hội 7
1.1.3. Nguồn thu và chi của BHXH 8
1.2. Qũy đầu tƣ BHXH và hoạt động đầu tƣ 12
1.2.1. Khái niệm và đặc trưng hoạt động đầu tư của quỹ bảo hiểm xã hội 12
1.2.2. Nguyên tắc hoạt động đầu tư của quỹ bảo hiểm xã hội 13
1.2.3. Hình thức và nội dung hoạt động đầu tư của quỹ bảo hiểm xã hội 14
1.3. Những nhân tố ảnh hƣởng tới hoạt động đầu tƣ của quỹ BHXH 18
1.3.1. Nhân tố khách quan 18
1.3.2. Nhân tố chủ quan 19
1.4. Kinh nghiệm của một số quốc gia về đầu tƣ quỹ bảo hiểm xã 21
hội
1.4.1. Philippine 21
1.4.2. Malaysia 23
1.4.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 26
i
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ CỦA BẢO HIỂM XÃ 28
HỘI VIỆT NAM
2.1 Khái quát về quỹ BHXH và quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam 28
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển quỹ BHXH 28
2.1.2. Hoạt động của quỹ BHXH 33
2.1.3. Các quy định của pháp luật về hoạt động đầu tư quỹ BHXH 42
2.2. Thực trạng hoạt động đầu tƣ tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam 43
2.2.1. Quy mô và hình thức đầu tư của BHXH Việt Nam đến nay 43
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng hoạt động đầu tư quỹ BHXH của Bảo 47
hiểm xã hội Việt Nam
2.3. Đánh giá hoạt động đầu tƣ tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam 51
2.3.1. Thành tựu 51
2.3.2. Hạn chế 51
2.3.3. Nguyên nhân 52
Chương 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG 58
ĐẦU TƢ TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM.
3.1. Định hƣớng phát triển và cân đối quỹ BHXH ở Việt Nam 58
3.1.1. Chiến lược phát triển chung của toàn ngành bảo hiểm xã hội 58
3.1.2. Định hướng cân đối quỹ bảo hiểm xã hội trong thời gian tới 59
3.1.3. Những quan điểm và định hướng cơ bản về đầu tư quỹ BHXH 61
3.2 . Giải pháp phát triển hoạt động đầu tƣ tại BHXH Việt Nam 64
3.2.1. Nhóm giải pháp chung 64
3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể 67
3.3. Kiến nghị 80
3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước 80
3.3.2. Kiến nghị đối với các Bộ, Ngành có liên quan 81
KẾT LUẬN 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ii
1 BHXH Bảo hiểm xã hội
2 BHYT Bảo hiểm y tế
3 BHTN Bảo hiểm thất nghiệp
4 KCB Khám chữa bệnh
5 NHTM Ngân hàng thương mại
6 NHNNVN Ngân hàng nhà nước Việt Nam
7 TMNN Thương mại nhà nước
8 PTVN Phát triển Việt Nam
9 NSNN Ngân sách Nhà nước
10 TTCK Thị trường chứng khoán
DANH MỤC BẢNG, BIỂU VÀ SƠ ĐỒ
iii
SỐ TÊN BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ TRANG
HIỆU
2.1 Tình hình số đối tượng tham gia BHXH từ năm 2007-2013 34
2.2 Tình hình thu BHXH từ 2007-2013 35
2.3 Tình hình nợ đọng, trốn đóng BHXH từ 2007-2013 36
2.4 Tình hình chi BHXH từ 2007-2013 38
2.5 Tình hình cân đối các quỹ BHXH giai đoạn 2007-2013 41
2.6 Danh mục đầu tư quỹ BHXH giai đoạn 2007-2013 44
2.7 Hoạt động đầu tư quỹ BHXH giai đoạn 2007-2013 46
2.8 Tỷ trọng vốn đầu tư trên số dư quỹ BHXH giai đoạn 2007-2013 47
So sánh tỷ lệ lạm phát với lãi xuất bình quân của danh mục
2.9 50
đầu tư giai đoạn 2007-2013
2.10 Cơ cấu danh mục đầu tư quỹ BHXH giai đoạn 2007-2013 51
2.11 Sơ đồ tổ chức bộ máy hiện nay của BHXH Việt Nam 55
3.1 Dự tính cân đối quỹ hưu trí và tử tuất giai đoạn 2010-2030 61
3.2 Sơ đồ tổ chức bộ máy mới của BHXH Việt Nam 69
3.3 Cơ cấu lại danh mục đầu tư 76
iv
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn nghiên cứu
Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế được bù đắp một phần thu nhập
cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất,
dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH,
có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống
cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã
hội. Chính vì vậy, chính sách BHXH luôn là một bộ phận quan trọng trong
chính sách phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia nhằm đảm bảo các vấn
đề xã hội liên quan đến một tầng lớp đông đảo người lao động. Quỹ bảo hiểm
xã hội (BHXH) là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách
Nhà nước (NSNN) được quản lý bởi cơ quan phụ trách BHXH. Quỹ có mục
đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả cho
người tham gia BHXH, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc
rủi ro. Chủ thể của quỹ là những người tham gia đóng góp để hình thành nên
quỹ, do đó có thể bao gồm: Người tham gia BHXH, người lao động, người sử
dụng lao động và Nhà nước.
Do tính đặc thù của quá trình thu và quá trình chi BHXH, nên quỹ BHXH
luôn có một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng đến. Lượng tiền tạm
thời nhàn rỗi này có thể biến động tăng và cũng có thể biến động giảm do mất
an toàn, giảm giá trị do yếu tố lạm phát. Vì vậy, bảo tồn giá trị và tăng trưởng
quỹ BHXH đã trở thành yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt
động của BHXH. Mặc dù mới được thành lập từ năm 1995, nhưng BHXH Việt
Nam đã thực hiện tốt nhiệm vụ thực hiện chính sách BHXH, BHYT và quản lý
quỹ BHXH, góp phần không nhỏ trong công tác đảm bảo an sinh xã hội nói
riêng và phát triển đất nước nói chung. Hiện nay quỹ BHXH đã kết dư được
1
hàng trăm nghìn tỷ đồng, số tiền này đang được BHXH Việt Nam đem đi đầu
tư nhằm bảo toàn, tăng trưởng quỹ, hoạt động này đã cung cấp một nguồn tài
chính không nhỏ cho NSNN cũng như các thành phần kinh tế góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên bên cạnh những mặt đã làm được
thì vấn đề đầu tư quỹ BHXH sao cho có hiệu quả cao nhất mà vẫn bảo tồn
được quỹ BHXH là một vấn đề không dễ đối với BHXH Việt Nam. Câu hỏi để
hoạt động đầu tư của Bảo hiểm xã hội Việt Nam ngày càng phát triển mà vẫn
bảo tồn được quỹ BHXH thì cần phải có giải pháp như thế nào? Là câu hỏi có
ý nghĩa thực tiễn lớn trong giai đoạn hiện nay. Chính vì những lý do trên, tác
giả đã chọn đề tài “ Hoạt động đầu tư của Bảo hiểm xã hội Việt Nam” làm
luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có một số công trình khoa học đề cập nghiên cứu đến vấn đề này
như: Đề tài “Quỹ BHXH và những giải pháp đảm bảo sự cân đối quỹ BHXH
giai đoạn 2010-2020” của tác giả Đỗ Văn Sinh (năm 2000). Trong đề tài này
tác giả Đỗ Văn Sinh đã đề cập đến vấn đề cân đối thu – chi và đầu tư quỹ,
nhưng thời kỳ đó chưa sáp nhập BHYT vào BHXH và đối tượng tham gia
BHXH còn rất hạn chế; đề tài: “Hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH-
thực trạng và giải pháp” của tác giả Hoàng Hà (năm 2000) ở đề tài này tác giả
Hoàng Hà cũng đã đi sâu phân tích thực trạng và đưa ra các biện pháp về đầu
tư quỹ BHXH, nhưng khi đó quỹ BHXH kết dư không đáng kể và chủ yếu
cho Quỹ hỗ trợ phát triển vay với lãi suất thấp do Chính phủ quy định; đề tài:
“Phát triển hoạt động đầu tư tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam, giai đoạn 2003-
2008” của tác giả Đoàn Chiến Thắng (năm 2010). Thời kỳ này Luật BHXH
mới có hiệu lực thi hành cho nên tác giả Đoàn Chiến Thắng cũng chỉ phân tích
vấn đề đầu tư quỹ khi Luật BHXH chưa ra đời.
Nội dung của các công trình khoa học nói trên đã đề cập đến hoạt động
đầu tư quỹ của BHXH Việt Nam trong các giai đoạn nhất định. Tuy nhiên từ
2
khi có Luật BHXH ra đời đến nay chưa có đề tài nào đề cập một cách chuyên
sâu, toàn diện về hoạt động đầu tư của BHXH Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Luận văn này làm rõ thực trạng hoạt động đầu tư
của BHXH Việt Nam, giai đoạn 2007-2013. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp
và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động đầu tư của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Để đạt được mục đích của luận văn đặt ra, nhiệm vụ nghiên cứu của luận
văn được xác định như sau:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về hoạt động đầu tư của bảo
hiểm xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư của Bảo hiểm xã
hội Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động đầu tư của
Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động
đầu tư của BHXH Việt Nam từ khi Luật Bảo hiểm xã hội ra đời đến nay
(2007-2013).
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động đầu tư quỹ BHXH của Bảo
hiểm xã hội Việt Nam, giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2013.
Hoạt động đầu tư, số liệu, tài liệu mà tiểu luận nghiên cứu, tham khảo
được giới hạn từ 2007 đến 2013. Tuy vậy, một số vấn đề, hoạt động đầu tư từ
trước 2007 và sau 2013 cũng được tham khảo và đề cập nhằm tăng tính đầy
đủ và tính thời sự cho luận văn
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
3
điểm của Đảng, Nhà nước ta về BHXH nói chung và hoạt động đầu tư quỹ
BHXH nói riêng.
Trên cơ sở đó, luận văn còn sử dụng tổng hợp một số phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Phân tích; so sánh; tổng hợp; tổng kết thực tiễn;
chuyên gia.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn góp phần hoàn thiện lý
luận về hoạt động đầu tư quỹ của BHXH.
Những số liệu và các kết luận rút ra trong luận văn có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu về quỹ BHXH.
Những giải pháp và kiến nghị của luận văn giúp cho BHXH Việt Nam
tham khảo, áp dụng vào thực tiễn hoạt động đầu tư quỹ BHXH.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về hoạt động đầu tư của bảo hiểm xã hội.
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển hoạt động đầu tư tại Bảo
hiểm xã hội Việt Nam.
4
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TƢ CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1 TỔNG QUAN VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1.1 Khái quát về Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội xuất hiện khá sớm và phát triển theo quá trình phát triển
của xã hội. Năm 1883, ở nước Phổ (Cộng hoà Liên bang Đức ngày nay) đã
ban hành luật bảo hiểm ốm đau đầu tiên trên thế giới, đánh dấu sự ra đời của
BHXH. Bảo hiểm xã hội lần lượt xuất hiện ở các nước dưới mức độ khác
nhau, nhưng cùng chung mục đích là đảm bảo đời sống cho người lao động và
gia đình họ. Có thể đưa ra khái niệm về BHXH như sau:
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với
người lao động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm giảm hoặc mất khả
năng lao động hoặc mất việc làm, bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ
tài chính tập trung do sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao
động và sự bảo trợ của Nhà nước, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người
lao động và cho gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
BHXH ra đời, tồn tại và phát triển là một nhu cầu khách quan. Nền kinh tế
hàng hóa càng phát triển, việc thuê mướn lao động trở nên phổ biến thì càng
đòi hỏi sự phát triển và đa dạng của BHXH. Nền kinh tế hàng hóa phát triển là
nền tảng, là cơ sở của BHXH. BHXH được hình thành trên cơ sở quan hệ lao
động, giữa các bên cùng tham gia và được hưởng BHXH. Nhà nước ban hành
các chế độ, chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan chuyên trách, thực hiện
nhiệm vụ quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH. Chủ sử dụng và người lao động
có trách nhiệm đóng góp để hình thành quỹ BHXH. Người lao động (bên được
BHXH) và gia đình của họ được cung cấp tài chính từ quỹ BHXH khi họ có đủ
5
điều kiện theo chế độ BHXH quy định. Đó chính là mối quan hệ của các bên
tham gia BHXH.
Phân phối trong BHXH là phân phối không đều, nghĩa là không phải ai
tham gia BHXH cũng được phân phối với số tiền giống nhau. Phân phối trong
BHXH vừa mang tính bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn. Những biến cố
xảy ra mang tính tất nhiên đối với con người là thai sản (đối với lao động nữ),
tuổi già và chết, trong trường hợp này, BHXH phân phối mang tính bồi hoàn vì
người lao động đóng BHXH chắc chắn được hưởng khoản trợ cấp đó. Còn trợ
cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm,
những rủi ro xảy ra trái ngược với ý muốn của con người như ốm đau, tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, là sự phân phối mang tính không bồi hoàn; có
nghĩa là chỉ khi nào người lao động gặp phải tổn thất do ốm đau, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp... thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó.
BHXH hoạt động theo nguyên tắc “cộng đồng - lấy số đông bù cho số ít”
tức là dùng số tiền đóng góp nhỏ của số đông người tham gia BHXH để bù
đắp, chia sẻ cho một số ít người với số tiền lớn hơn so với số đóng góp của
từng người, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro gây tổn thất.
Hoạt động BHXH là một loại hoạt động dịch vụ công, mang tính xã hội
cao; lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động BHXH là quá
trình tổ chức, triển khai thực hiện các chế độ, chính sách BHXH của tổ chức
quản lý sự nghiệp BHXH đối với người lao động tham gia và hưởng các chế
độ BHXH.
Trong đời sống kinh tế - xã hội, BHXH đóng vai trò to lớn được thể hiện
trên các mặt sau:
- BHXH góp phần ổn định đời sống của người tham gia BHXH, đảm bảo
an toàn xã hội.
- BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. Phân phối trong BHXH là
sự chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là sự phân phối lại giữa những
6
người có thu nhập cao, thấp khác nhau theo xu hướng có lợi cho những người
có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người khỏe mạnh, may
mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu, gặp phải những biến cố rủi
ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống.
- BHXH góp phần phòng tránh và hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn cho
sản xuất và đời sống xã hội của con người.
- BHXH còn làm cho mối quan hệ giữa người lao động, người sử dụng
lao động và nhà nước ngày càng gắn bó.
- BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất
nước. Quỹ BHXH thiết kế theo mô hình tồn tích thì luôn luôn có số dư tạm
thời nhàn rỗi rất lớn. Đây chính là một nguồn vốn lớn để đầu tư phát triển
kinh tế của đất nước.
1.1.2 Sự cần thiết quỹ bảo hiểm xã hội
Hoạt động của BHXH nhằm mục đích bảo đảm cuộc sống an lành, ấm no
và hạnh phúc của con người. BHXH luôn luôn theo suốt cả cuộc đời người lao
động, từ lúc còn trong bụng mẹ được hưởng chế độ trợ cấp thai sản; đến khi
trưởng thành là người lao động được hưởng trợ cấp ốm đau, tai nạn lao động,
thất nghiệp; lúc tuổi già được hưởng trợ cấp hưu trí và đến khi qua đời được
BHXH lo toan chu đáo tiền mai táng phí, tiền tử tuất.
Song muốn thực hiện được các chế độ chính sách BHXH để phục vụ lợi
ích của con người, BHXH cần phải có một quỹ do các bên tham gia BHXH
đóng góp. Đó là người lao động và chủ sử dụng lao động phải đóng góp BHXH
theo quy định, Nhà nước đóng và hỗ trợ một phần để người lao động được
hưởng các chế độ BHXH trong suốt cuộc đời.
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung, được hình thành từ đóng góp
của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu khác, được sử dụng để bù đắp,
hoặc thay thế thu nhập cho người tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những
biến cố rủi ro làm suy giảm sức khoẻ, mất khả năng lao động, mất việc làm,
7
chết; nhằm ổn định đời sống cho họ và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn
xã hội và phát triển kinh tế của đất nước.
1.1.3 Nguồn thu và chi của BHXH
Quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp
- Người lao động đóng góp
- Hỗ trợ của Nhà nước
- Các nguồn khác như: Cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do
đầu tư phần quỹ nhàn rỗi, tiền phạt do đóng BHXH chậm.
Quỹ BHXH được hỗ trợ từ NSNN là trách nhiệm của Nhà nước. Bởi vì,
trước hết các luật lệ về BHXH của Nhà nước sẽ là những chuẩn mực về pháp
lý mà cả giới chủ và giới thợ đều phải tuân theo. BHXH là một công cụ quan
trọng trong tay Nhà nước nhằm thực hiện chính sách phân phối lại thu nhập
trong xã hội góp phần ổn định xã hội, đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
Mặt khác, Nhà nước hỗ trợ cho quỹ khi quỹ BHXH mất cân đối không đáp
ứng được khả năng chi trả và làm chỗ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH
chắc chắn và ổn định.
Người chủ sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH vừa là trách
nhiệm, vừa là quyền lợi. Những khoản chi trả từ quỹ BHXH sẽ làm giảm một
phần gánh nặng tài chính cho họ. Đồng thời góp phần giảm bớt tình trạng
tranh chấp, tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ chủ - thợ.
Người lao động phải có trách nhiệm đóng góp một phần thu nhập vào
quỹ BHXH như một khoản tiết kiệm để giải quyết những khó khăn về tài
chính của mình khi gặp rủi ro.
Mỗi chế độ BHXH có một loại phí riêng hoặc có thể tổng hợp chung tất
cả các loại chế độ. Nếu ở trong hệ thống BHXH do Nhà nước thành lập và sự
tham gia là bắt buộc thì phí BHXH toàn phần phải đóng góp sẽ bao gồm phí
thuần tuý (là phần phí phải đóng góp để người lao động được hưởng các chế
8
độ đã xác định), chi phí quản lý, khoản dự phòng. Còn trong hệ thống BHXH
do tư nhân và các tổ chức xã hội thành lập theo pháp luật và có sự bảo trợ của
Nhà nước, để bảo vệ cho những người không ở trong hệ thống bảo hiểm của
Nhà nước với nguyên tắc tự nguyện thì phí BHXH toàn phần sẽ có cả lãi định
mức cho tổ chức BHXH.
Mức đóng góp hàng tháng của các bên tham gia BHXH cho người lao
động được gọi là phí BHXH. Về mức đóng góp BHXH, do Nhà nước quy định.
Cân bằng thu- chi là nguyên tắc hoạt động của quỹ BHXH. Để đảm bảo
quỹ BHXH hạch toán độc lập và cân đối được thu - chi trong quá trình hoạt
động thì phải xem xét đến yếu tố phí BHXH. Trong thực tế, việc tính phí
BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của cơ quan quản lý BHXH. Khi tính phí
BHXH có thể dựa trên căn cứ khác nhau:
- Dựa vào tiền lương và thang bảng lương để xác định mức trợ cấp
BHXH từ đó là cơ sở xác định mức đóng BHXH.
- Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng sau.
- Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức
hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định được mức phí BHXH.
Khi xác định phí BHXH vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc cân bằng thu chi.
Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và
điều chỉnh sao cho tối ưu nhất.
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho các mục đích sau đây:
+ Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH.
+ Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH.
+ Chi phí cho hoạt động đầu tư.
Trong ba nội dung nêu trên thì chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH là
lớn nhất và quan trọng nhất. Khoản chi này được thực hiện theo luật định và
phụ thuộc vào phạm vi trợ cấp của từng hệ thống BHXH. Về nguyên tắc, thu
9
trước chi sau. Vì vậy quỹ BHXH chỉ chi cho các chế độ trong phạm vi có
nguồn thu, thu của chế độ nào thì chi ở chế độ đó.
Tuy nhiên, quá trình sử dụng quỹ BHXH mà phần sử dụng nhiều nhất để
chi trả cho các chế độ còn phụ thuộc vào việc thành lập quỹ BHXH theo mô
hình nào?
Nếu chỉ thành lập một quỹ BHXH tập trung thống nhất thì việc chi trả
cũng phải đảm bảo thống nhất theo các nội dung chi.
Ngoài những đặc trưng của một quỹ tài chính, quỹ BHXH có những đặc
trưng riêng khác với các loại quỹ tài chính khác, đó là:
Thứ nhất, là tính chủ thể của quỹ BHXH: Nhà nước là chủ thể duy nhất
quyết định việc tạo lập và sử dụng quỹ BHXH, nhằm phục vụ mục đích đảm
bảo an toàn xã hội. Bằng các đạo luật được ban hành, Nhà nước quy định mức
đóng góp của các bên tham gia BHXH để tạo lập quỹ, đồng thời cũng quy
định những điều kiện hưởng, mức hưởng đối với từng loại chế độ trợ cấp.
Mặc dù quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn, nhưng chỉ có
những người tham gia BHXH được hưởng thụ các nguồn tài chính đó. Do đó,
người tham gia BHXH là chủ thể duy nhất có quyền sở hữu quỹ BHXH hay
nói cách khác, quyền sở hữu quỹ BHXH là của những người tham gia BHXH
đồng sở hữu.
Để tổ chức thực hiện các hoạt động nghiệp vụ như thu BHXH, giải quyết
chế độ chính sách, chi BHXH, hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ cần phải có
một hệ thống tổ chức bộ máy - đó chính là hệ thống cơ quan BHXH. Cơ quan
BHXH là người đại diện chủ sở hữu có quyền sử dụng, quản lý quỹ BHXH
theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, là sự kết hợp giữa tính bắt buộc và tự nguyện, giữa tính bồi
hoàn và không bồi hoàn: Nhà nước ban hành các đạo luật buộc mọi đối tượng
phải tham gia BHXH dưới hình thức bắt buộc nhằm bảo đảm an toàn xã hội,
đáp ứng nhu cầu sống cơ bản khi người tham gia BHXH gặp phải rủi ro trong
10
cuộc sống. Chẳng hạn, người lao động và người sử dụng lao động phải tham
gia đóng và để hưởng chế độ hưu trí và tử tuất theo hình thức bắt buộc và bồi
hoàn. Cũng có loại chế độ BHXH với hình thức tham gia là bắt buộc nhưng lại
không mang tính chất bồi hoàn, mà chỉ khi nào người tham gia bảo hiểm gặp
rủi ro mới được trợ cấp. Ngoài hình thức bắt buộc, Nhà nước còn quy định loại
hình bảo hiểm tự nguyện để cho mọi người tham gia bổ sung ngoài loại hình
bắt buộc nhằm đảm bảo thêm nhu cầu bù đắp tổn thất khi họ gặp rủi ro.
Thứ ba, là một quỹ tiền tệ mang tính cộng đồng xã hội cao: Quỹ BHXH
được hình thành từ sự đóng góp của người sử dụng lao động, của người tham
gia bảo hiểm, NSNN hỗ trợ và bảo trợ. Khoản kinh phí do người sử dụng lao
động đóng góp vào quỹ BHXH được hạch toán vào chi phí sản xuất, hình thành
nên giá thành sản phẩm và dịch vụ. Những sản phẩm và dịch vụ đó được mọi
người trong xã hội trong và ngoài nước tiêu dùng và đương nhiên họ phải trả
chi phí tương ứng với số sản phẩm và dịch vụ họ đã tiêu dùng. Như vậy, thông
qua việc chi trả tiền mua sản phẩm, dịch vụ mà mọi người trong cộng đồng xã
hội đã gián tiếp đóng góp vào quỹ BHXH.
Thứ tư, là quỹ BHXH có phạm vi hoạt động rộng, đối tượng phục vụ lớn:
Quỹ BHXH có phạm vi hoạt động trải rộng khắp quốc gia, thậm chí xuyên
quốc gia để đảm bảo an toàn xã hội. Nhà nước bắt buộc phần lớn mọi người
đều phải tham gia bảo hiểm bắt buộc; ngoài ra còn quy định chế độ bảo hiểm tự
nguyện, do đó hầu hết mọi người dân đều tham gia bảo hiểm. Vì vậy, đối tượng
tham gia và hưởng các chế độ BHXH chiếm đại đa số dân số của đất nước.
Thứ năm, là một quỹ tiền tệ tập trung lớn, tồn tại trong thời gian dài,
luôn vận động và có số dư tạm thời nhàn rỗi lớn: Quỹ BHXH được tạo lập từ
sự đóng góp của đông đảo người tham gia và của hầu hết các đơn vị sử dụng
lao động trong quốc gia. Vì vậy, nguồn lực tài chính tập trung vào quỹ là vô
cùng lớn. Mặt khác, quỹ bảo hiểm được thiết kế theo mô hình tồn tích sẽ có
11
số dư tồn tích từ năm này qua năm khác, thế hệ này sang thế hệ khác, do đó số
dư sẽ tăng lên hàng năm.
Thứ sáu, là quỹ BHXH luôn chịu tác động của nhiều nhân tố trong nền
kinh tế - xã hội: Mỗi một sự vận động của nền kinh tế - xã hội đều tác động
đến quỹ BHXH. Có những nhân tố tác động trực tiếp đến quỹ BHXH, những
nhân tố đó thường có liên quan trực tiếp đến đời sống kinh tế và xã hội của
con người, chẳng hạn như việc làm, thu nhập, tình trạng sức khỏe... Những
nhân tố tác động gián tiếp đến quỹ BHXH như: Tăng trưởng kinh tế, tiến bộ
và công bằng xã hội... Nền kinh tế tăng trưởng do kết quả của việc đầu tư phát
triển kinh tế tăng, theo đó là việc tăng quy mô sản xuất, kéo theo là lực lượng
lao động có cơ hội việc làm nhiều hơn và thu nhập cũng được cải thiện hơn.
Tiến bộ và công bằng xã hội được nâng cao làm cho con người được cải thiện
về mọi mặt, đặc biệt là vấn đề xã hội. Vì vậy, làm cho chất lượng cuộc sống
của con người được nâng cao, sức khỏe con người tốt hơn... Những yếu tố đó
tác động làm tăng quy mô quỹ BHXH và ngược lại.
1.2 QUỸ ĐẦU TƢ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ
1.2.1 Khái niệm và đặc trƣng hoạt động đầu tƣ quỹ bảo hiểm xã hội
Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại
để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả
nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết
quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là lao động và
trí tuệ.
Trong hoạt động của quỹ BHXH, do tính đặc thù của quá trình thu và
quá trình chi BHXH, nên quỹ BHXH luôn luôn có một lượng tiền tạm thời
chưa được sử dụng đến. Phần tiền này, cần phải được đầu tư để bảo tồn và
tăng trưởng quỹ BHXH.
Như vậy, có thể khái niệm về hoạt động đầu tư quỹ BHXH như sau: Hoạt
động đầu tư quỹ BHXH là quá trình sử dụng một phần tiền tạm thời nhàn rỗi từ
12
quỹ BHXH để đầu tư, nhằm tăng thêm tiềm lực tài chính cho quỹ BHXH, đáp
ứng đầy đủ nhu cầu chi trả cho các chế độ BHXH và đảm bảo cho các hoạt
động thường xuyên của cơ quan BHXH.
Do quỹ BHXH có những đặc trưng, khác hẳn với những tổ chức tài
chính khác, nên hoạt động đầu tư quỹ BHXH có những đặc trưng khác với
hoạt động đầu tư nói chung, cụ thể:
- Xuất phát từ đặc trưng thứ nhất của quỹ BHXH đã khẳng định Nhà
nước là chủ thể duy nhất quyết định việc tạo lập và sử dụng quỹ, quyền sở
hữu quỹ BHXH là của mọi người lao động tham gia BHXH do đó hoạt động
đầu tư chịu sự tác động của Nhà nước.
- Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ công; có phạm vi hoạt động rộng, đối
tượng phục vụ lớn do đó đã tạo nên quy mô vốn cho hoạt động đầu tư là lớn
và ổn định.
1.2.2 Nguyên tắc hoạt động đầu tƣ quỹ bảo hiểm xã hội
Hoạt động của BHXH mang tính nhân văn, tính xã hội rộng lớn; mục
tiêu chính là hiệu quả xã hội, không phải kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận.
Do đó, hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH phải quán triệt một số
nguyên tắc sau:
Nguyên tắc thứ nhất: Đảm bảo an toàn: Đây là nguyên tắc quan trọng
hàng đầu khi sử dụng quỹ BHXH để đầu tư. Vì quỹ BHXH được hình thành
từ sự đóng góp trực tiếp hoặc gián tiếp của hàng triệu người tham gia BHXH
và của cả cộng đồng xã hội, vì vậy quỹ BHXH luôn luôn gắn liền và đảm bảo
quyền lợi cho những người trực tiếp tham gia BHXH và cho cả cộng đồng xã
hội. Do đó, nếu để xảy ra tình trạng rủi ro, thất thoát trong đầu tư quỹ, làm
cho quỹ mất khả năng thanh toán sẽ gây hậu quả nghiêm trọng, dẫn đến mất
ổn định xã hội, làm giảm lòng tin của dân chúng đối với Nhà nước, dẫn đến
mất ổn định về mặt chính trị.
13
Nguyên tắc thứ hai: Khả năng thanh toán linh hoạt (tính thanh khoản
cao). Quá trình tạo lập và sử dụng quỹ được diễn ra thường xuyên liên tục với
một quy mô lớn. Quỹ BHXH chịu tác động của rất nhiều nhân tố của nền kinh
tế - xã hội, đặc biệt là các nhân tố có liên quan trực tiếp đến đời sống kinh tế
và xã hội của con người. Một yêu cầu đặt ra đối với hoạt động của quỹ BHXH
là trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải luôn luôn đảm bảo đủ
nguồn lực tài chính để chi trả kịp thời, đầy đủ cho người được hưởng các chế
độ BHXH. Do đó, hoạt động đầu tư quỹ BHXH phải đảm bảo được nguyên
tắc dù đầu tư vào lĩnh vực nào, dưới hình thức nào thì cũng phải đảm bảo khả
năng chuyển đổi nhanh các tài sản đầu tư thành tiền tệ để đảm bảo kịp thời
nhu cầu chi tiêu của quỹ.
Nguyên tắc thứ ba: Hiệu quả cao (có tính đến lợi ích xã hội): Nếu chỉ
đơn thuần xét trên giác độ kinh tế thì sinh lời là mục tiêu cuối cùng và cực kỳ
quan trọng đối với hoạt động đầu tư của bất kỳ nguồn vốn nào. Nếu hoạt động
đầu tư mà không sinh lời thì không những chẳng tăng trưởng được quỹ, mà
còn không bảo toàn được quỹ (vì có yếu tố trượt giá), do đó sẽ không đảm
bảo được khả năng chi trả các chế độ BHXH trong tương lai.
1.2.3 Hình thức và nội dung hoạt động đầu tƣ quỹ bảo hiểm xã hội
* Hình thức đầu tƣ: Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, hoạt động
đầu tư có thể phân chia thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.
- Đầu tư gián tiếp: Người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành
quản lý quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Hình thức đầu tư
gián tiếp bao gồm:
+ Cho vay trực tiếp: Đối tượng cho vay là các doanh nghiệp, các tổ chức
thiếu vốn, các cá nhân. Để đảm bảo nguyên tắc an toàn trong hoạt động đầu tư
thì khi cho vay khách hàng phải có tài sản đảm bảo.
+ Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng:
14