Hoàn thiện và phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt tại các ngân hàng thương mại việt nam

  • 117 trang
  • file .pdf
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------
NGUYỄN THỊ THU
Hoàn thiện và phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Chuyên ngành : Quản trị kinh doanh
Mã số : 60 34 05
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: Ts.Nguyễn Thị Thư
Hà Nội – Năm 2008
MỤC LỤC
MỤC LỤC ...........................................................................................................................................7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT................................................................................................. 10
DANH MỤC BẢNG BIỂU .................................................................................................. 4
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ ........................................................................................ 5
MỞ ĐẦU ..............................................................................................................................................1
1. Sự cấp thiết của đề tài..................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu...................................................................................... 2
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài....................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 3
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 3
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn ................................................... 3
7. Kết cấu của luận văn....................................................................................... 4
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT.........5
1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN TIỀN TỆ.................................... 5
1.1.1. Tiền và chức năng của tiền ....................................................................... 5
1.1.2. Sự phát triển của các hình thái tiền tệ trong hoạt động thanh toán ……8
1.2. THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT.................................................. 10
1.2.1. Khái niệm, vai trò và đặc điểm............................................................... 10
1.2.2. Mối quan hệ giữa thanh toán tiền mặt và thanh toán KDTM................. 16
1.3.1. Dịch vụ thanh toán bằng Séc (Cheque - check)...................................... 19
1.3.2. Dịch vụ thanh toán bằng uỷ nhiệm chi (UNC) - hoặc lệnh chi.............. 21
1.3.3. Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu (UNT) – hoặc nhờ thu .......................... 21
1.3.4. Dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) .......................................... 22
1.3.5. Dịch vụ thanh toán bằng thẻ ngân hàng ................................................. 23
1.3.6. Hối phiếu ................................................................................................ 25
1.4. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN DỊCH VỤ THANH TOÁN KDTM
CỦA NHTM .............................................................................................. 26
1.4.1. Các nhân tố khách quan.......................................................................... 26
1.4.2. Những nhân tố chủ quan......................................................................... 28
1.5. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THANH TOÁN KDTM VÀ
NHỮNG BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM ..................................................... 31
1.5.1. Kinh nghiệm về phát triển dịch vụ thanh toán KDTM tại một số nước ....... 31
1.5.2. Kinh nghiệm về phát triển dịch vụ thanh toán tại các NHTM lớn trên
thế giới .................................................................................................... 35
1.5.3. Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam ...................................... 37
Chương 2: THỰC TRẠNG DỊCH VỤ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM .......................................40
2.1. TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM VIỆT NAM............... 40
2.1.1. Mô hình và cơ cấu tổ chức của các NHTM VN..................................... 40
2.1.2. Các kênh thanh toán của NHTM VN ..................................................... 42
2.2. THỰC TRẠNG DỊCH VỤ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI
CÁC NHTM VIỆT NAM .............................................................................. 54
2.2.1. Tình hình mở và sử dụng tài khoản thanh toán ...................................... 54
2.2.2. Cơ sở phát triển dịch vụ thanh toán KDTM tại các NHTM VN............ 56
2.2.3. Thực trạng phát triển dịch vụ thanh toán KDTM................................... 63
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG DỊCH VỤ THANH TOÁN CỦA NHTM VN ........ 70
2.3.1. Mặt tích cực, tiềm năng và xu thế phát triển .......................................... 70
2.3.2. Mặt hạn chế............................................................................................. 73
2.4.3. Nguyên nhân........................................................................................... 76
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN DỊCH VỤ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG
TIỀN MẶT CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM ...................83
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THANH TOÁN KDTM TẠI VIỆT
NAM ĐẾN NĂM 2020 ............................................................................... 83
3.1.1. Định hướng chung .................................................................................. 83
3.1.2. Mục tiêu mở rộng thanh toán KDTM..................................................... 85
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THANH TOÁN
KDTM TẠI CÁC NHTM VN....................................................................... 87
3.2.1. Đối với các dịch vụ thanh toán truyền thống ......................................... 88
3.2.2. Đối với dịch vụ thanh toán hiện đại ....................................................... 90
3.2.3. Hoàn thiện và phát triển môi trường tổ chức cung cấp dịch vụ thanh
toán của NHTM ...................................................................................... 97
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THANH TOÁN KDTM
TẠI CÁC NHTM VN NÓI RIÊNG VÀ TOÀN BỘ NỀN KINH TẾ NÓI CHUNG ....... 103
3.3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ ................................................................ 103
3.3.2. Kiến nghị đối với NHNN ..................................................................... 105
KẾT LUẬN......................................................................................................................................109
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ATM Máy giao dịch tự động
CNTT Công nghệ thông tin
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHNN VN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTM VN Ngân hàng thương mại Việt Nam
POS Thiết bị thanh toán tại điểm bán (point of sale)
TCTD Tổ chức tín dụng
TTĐTLNH Thanh toán điện tử liên ngân hàng
UNC Ủy nhiệm chi
UNT Ủy nhiệm thu
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. So sánh giữa số lượng giá để trao đổi trực tiếp với số lượng
giá trao đổi bằng tiền ..............................................................................................7
Bảng 1.2. Thu nhập ngoài lãi của 15 NHTM Thái Lan..............................................34
Bảng 1.3. Cơ cấu khách hàng theo nhóm của HSBC năm 2004 ............................37
Bảng 2.1. Số lượng của các NHTM VN qua 3 mốc thời gian .................................42
Bảng 2.2. Tỷ trọng kênh thanh toán của hệ thống thanh toán .................................44
Bảng 2.3. Số liệu về các giao dịch thực hiện thanh toán qua Hệ thống
chuyển tiền điện tử ................................................................................................48
Bảng 2.4. Số liệu thống kê về lượng giao dịch thanh toán qua Hệ thống
TTĐTLNH ...............................................................................................................52
Bảng 2.5. Số đơn vị thành viên tham gia Hệ thống TTĐTLNH.............................52
Bảng 2.6. Tình hình mở và sử dụng tài khoản thanh toán.........................................54
Bảng 2.7. Tỷ trọng thanh toán bằng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán .......54
Bảng 2.8. Tỷ trọng số món thanh toán qua các phương tiện thanh toán .............63
Bảng 2.9. Số liệu về ATM, POS và thẻ phát hành tại VN ........................................66
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Hình 1.1. Cơ cấu doanh thu của một số NHTM lớn trên thế giới ..........................35
Hình 1.2. Hoạt động của NH - HSBC ...............................................................................37
Hình 2.1. Cấu trúc và tổ chức bộ máy của NHTM ......................................................41
Hình 2.2. Tỷ trong giao dịch thanh toán qua các kênh năm 2007..........................43
Hình 2.3. Tỷ trọng số món giao dịch thanh toán qua các kênh thanh toán ........44
Hình 2.4. Sơ đồ minh họa tình hình mở và sử dụng tài khoản ................................55
Hình 2.5. Sơ đồ minh họa tỷ trọng số món thanh toán qua các phương tiện
thanh toán..................................................................................................................64
MỞ ĐẦU
1. Sự cấp thiết của đề tài
Chức năng thanh toán của tiền tệ đang phát triển với nhiều hình thức đa
dạng, hiện đại và ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất, lưu thông
hàng hoá và dịch vụ. Thanh toán không dùng tiền mặt (KDTM) với những ưu
điểm về sự nhanh chóng, tiện ích, an toàn và hiệu quả đã giúp đẩy nhanh việc
tập trung và phân phối các dòng vốn trong nền kinh tế - xã hội, góp phần hạn
chế các giao dịch không hợp pháp, tăng cường sự quản lý nhà nước,… đang
được toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Phát triển dịch vụ thanh toán KDTM cần
sự nỗ lực của toàn xã hội nhưng trước hết phải là sự nỗ lực của ngành ngân
hàng.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, dịch vụ
thanh toán KDTM tại các ngân hàng thương mại Việt Nam (NHTM VN) đã có
những chuyển biến đáng kể: các dịch vụ mới hiện đại phát triển nhanh, chất
lượng dịch vụ đã được nâng lên về tốc độ xử lý, tính chính xác,... Tuy nhiên,
so với các nước trong khu vực và trên thế giới, dịch vụ thanh toán tại các
NHTM VN vẫn còn nhiều yếu tố bất cập, thiếu về lượng, yếu về chất và thiếu
sự liên kết mang tính hệ thống,… từ đó làm giảm tiện ích cung cấp cho khách
hàng và ảnh hưởng đến chính sách phát triển thanh toán KDTM.
Với mong muốn nghiên cứu tìm ra giải pháp phát triển các sản phẩm dịch
vụ thanh toán KDTM góp phần giúp các NHTM VN thực hiện tốt chức năng
trung gian thanh toán và cũng là để góp phần cải thiện hoạt động thanh toán
của nền kinh tế nói chung, tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu của luận văn là
“Hoàn thiện và phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt tại các
ngân hàng thương mại Việt Nam”.
- 1-
2. Tình hình nghiên cứu
Thanh toán KDTM là là một lĩnh vực khá rộng và phức tạp, đã có khá
nhiều nghiên cứu, hội thảo liên quan đến vấn đề này, sau đây là một số nghiên
cứu tiêu biểu:
Liên quan đến việc thúc đẩy hoạt động thanh toán KDTM trong nền kinh
tế, ngày 29/12/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 291/2006/QĐ-
TTg phê duyệt “Đề án thanh toán KDTM giai đoạn 2006-2010 và định hướng
đến năm 2020”. Trong đề án này, Chính phủ đã giao cho các Bộ, Ban ngành có
liên quan triển khai thực hiện các biện pháp cụ thể nhằm đạt mục tiêu giảm tỷ
lệ tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán của Việt Nam đến năm 2020 đạt
mức 10%.
Liên quan đến việc phát triển dịch vụ thanh toán KDTM tại các NHTM
có: “Bàn về phát triển dịch vụ thanh toán KDTM của các NHTM VN hiện
nay” đăng trên Tạp chí ngân hàng số 4 tháng 4/2006 của tác giả Đào Mạnh
Hùng; “Hạn chế tiền mặt bằng cách phát triển các công cụ thanh toán KDTM”
đăng trên Website NHNN: http://www.sbv.gov.vn ngày 25/4/2007; “Bàn về hệ
thống thanh toán ngân hàng Việt Nam” đăng trên Tạp chí ngân hàng số 3+4
tháng 2/2007 và của tác giả Tạ Quang Tiến; “Cần có nhận thức đúng về tác
dụng của thẻ ATM để hạn chế thanh toán tiền mặt ở nước ta của tác giả Kim
Anh đăng trên Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 20 ngày 15/10/2007,… và
một số hội thảo liên quan đến việc kết nối thẻ thanh toán của các NHTM.
Nhìn chung, các nghiên cứu trước đây hoặc là đề cập đến hoạt động thanh
toán KDTM nói chung của nền kinh tế hoặc là chỉ đề cập việc phát triển dịch
vụ thanh toán KDTM thông qua việc phát triển một số phương tiện thanh toán
hiện đại cụ thể tại một số NHTM cụ thể nên các giải pháp đưa ra còn thiếu tính
đồng nhất, khó áp dụng chung cho tất cả các NHTM VN. Mặt khác, sự phát
triển nhanh chóng của khoa học công nghệ tác động trực tiếp từng ngày đến
dịch vụ thanh toán KDTM nên đề tài trên cơ sở tiếp thu những nghiên cứu
trước đây để tìm ra những ý tưởng mới phù hợp với tình hình thực tế hiện nay.
- 2-
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Thứ nhất, làm rõ khái niệm, vị trí và vai trò của dịch vụ thanh toán
KDTM trong quá trình phát triển hoạt động thanh toán.
Thứ hai, đánh giá thực trạng và khả năng phát triển dịch vụ thanh toán
KDTM tại các NHTM VN hiện nay.
Thứ ba, đề xuất định hướng và giải pháp phát triển dịch vụ thanh toán
KDTM tại các NHTM VN trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: đề tài nghiên cứu các loại hình dịch vụ thanh
toán KDTM chủ yếu của các NHTM VN hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: đề tài chỉ tập trung nghiên cứu đối với dịch vụ
thanh toán trong nước tại các các NHTM VN giai đoạn từ năm 2002 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Bên cạnh việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như:
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tổng hợp và so sánh, đối chiếu, khái quát
hoá, hệ thống hoá, đề tài còn chú trọng đến phương pháp điều tra, phân tích
thống kê,... Ngoài ra, quá trình nghiên cứu có kết hợp lý luận và thực tiễn, kết
hợp những kiến thức lý luận của bản thân với kinh nghiệm, thành tựu nghiên
cứu của các đề tài đã có trước.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về hoạt động thanh toán KDTM, vai
trò của dịch vụ thanh toán KDTM trong đối với nền kinh tế nói chung và đối
với NHTM nói riêng.
- Khái quát được tình hình phát triển dịch vụ ngân hàng của các NHTM
VN và tập trung đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ thanh
toán KDTM.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm thúc đẩy dịch vụ thanh toán
KDTM tại các NHTM VN.
- 3-
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn được bố cục làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về dịch vụ thanh toán KDTM
Chương 2: Thực trạng phát triển dịch vụ thanh toán KDTM của các
NHTM VN
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và phát triển dịch vụ thanh toán
KDTM của các NHTM VN
- 4-
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ THANH TOÁN
KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
1.1 TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN TIỀN TỆ
1.1.1 Tiền và chức năng của tiền
a) Khái niệm tiền
Xã hội đã từng trải qua thời kỳ mà các hoạt động kinh tế diễn ra không có
sự có mặt của tiền, lúc đó các sản phẩm được trao đổi trực tiếp với nhau và các
nhà kinh tế gọi đó là thời kỳ của nền kinh tế đối chác. Khi tiền xuất hiện, tiền
đóng vai trò là trung gian trao đổi và nền kinh tế đổi chác chuyển sang nền
kinh tế tiền tệ. Các nhà kinh tế học coi tiền là bất cứ cái gì được chấp nhận
chung trong việc thanh toán hàng hoá, dịch vụ hoặc trong việc thanh toán các
khoản nợ. Khi có tiền, người ta có thể trao đổi trực tiếp được với mọi hàng
hóa, trong bất kỳ điều kiện nào. Như vậy, tiền là một phương tiện trao đổi.
Trong lịch sử phát triển hàng hoá, đã có rất nhiều loại hàng hoá khác nhau
được đóng vai trò tiền tệ và thông thường, những loại hàng hoá này phải đạt
một số tiêu chuẩn sau: có giá trị cao, được chấp nhận một cách rộng rãi, dễ chi
nhỏ và đồng chất, dễ chuyên chở và bảo quản,...
Ngày nay, tiền được dùng một cách rất tự nhiên, thường xuyên trong cuộc
sống hàng ngày và được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Có khi tiền chỉ được
hiểu đơn thuần theo khái niệm là tiền mặt, là đồng tiền (currency), có khi lại
được hiểu theo nghĩa rộng hơn, coi tiền là tài sản, là của cải, là thu nhập,…
Tuy nhiên, dưới góc độ kinh tế học, tiền không chỉ là tiền mặt, vì tiền còn bao
gồm cả các khoản tiền gửi thanh toán, tiền tiết kiệm, thẻ tín dụng, Séc,…; tiền
cũng không phải là của cải vì của cải bao gồm không chỉ có tiền mà còn cả
những vật để sở hữu (tài sản) như: trái khoán, cổ phiếu, đồ đạc, nhà cửa, thiết
bị,…; tiền cũng không phải là thu nhập vì thu nhập là khoản tiền kiếm được
- 5-
trong một khoảng thời gian nhất định trong khi tiền lại là một khoản tiền xác
định tại một thời điểm nhất định.
Như vậy, tiền là bất cứ phương tiện nào được thừa nhận để thanh toán
chung cho việc mua bán, trao đổi hàng hoá - dịch vụ hoặc thanh toán nợ nần
và tiền khác với của cải, khác với thu nhập.
b) Chức năng của tiền
Bản chất của tiền được hiểu một cách đầy đủ thông qua các chức năng của
nó. Tiền tệ, cho dù thể hiện dưới hình thức nào (hàng hóa, vàng, tiền giấy, ...)
cũng đều thực hiện 3 chức năng cơ bản sau: phương tiện trao đổi; đơn vị đánh
giá và phương tiện dự trữ giá trị.
- Phương tiện trao đổi
Đây là chức năng cơ bản để phân biệt tiền với những tài sản khác như cổ
phiếu, trái khoán hoặc nhà cửa. Thực hiện chức năng phương tiện trao đổi, tiền
là phương tiện mà thông qua đó, các hàng hóa và dịch vụ được trao đổi cho
nhau. Tiền (dưới dạng tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, thẻ tín dụng, Séc,...) được
dùng để thanh toán, đổi lấy hàng hoá hoặc dịch vụ.
Khi chưa có tiền làm phương tiện, việc trao đổi chỉ có thể diễn ra khi có
sự trung khớp giữa các ý muốn khác nhau và điều này đòi hỏi chi phí về thông
tin và giao dịch tương đối lớn. Việc dùng tiền làm phương tiện trao đổi giúp
khắc phục được những hạn chế của quá trình trao đổi trực tiếp (đổi hàng lấy
hàng), nhờ đó mà tiết kiệm được chi phí giao dịch liên quan đến việc tìm kiếm,
chờ đợi tác nhân có nhu cầu trao đổi . Điều này góp phần làm tăng tính hiệu
quả của quá trình sản xuất xã hội khi thúc đẩy chuyên môn hoá và phân công
lao động xã hội.
- Phương tiện định giá
Với chức năng này, tiền được sử dụng làm đơn vị đánh giá, nghĩa là nó
được dùng để đo giá trị các hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế, để biểu thị
giá cả hàng hóa và dịch vụ.
- 6-
Khi chưa có tiền, việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ diễn ra rất phức tạp vì
không có đơn vị chung để đánh giá giá trị của chúng. Chẳng hạn, để thực hiện
các hành vi trao đổi 3 mặt hàng thông thường: gạo, bia và cam thì trước hết
người ta phải ấn định giá của mỗi mặt hàng theo các mặt hàng khác như sau:
Giá của gạo được tính bằng cam hoặc bia
Giá của bia được tính bằng cam hoặc gạo
Giá của cam được tính bằng bia hoặc gạo
Và như vậy, thì phải có rất nhiều loại giá khác nhau. Một cách khái quát,
khi cần trao đổi N mặt hàng khác nhau thì số giá cần thiết để phục vụ quá trình
trao đổi sẽ là N*(N-1)/2, trong khi nếu dùng tiền để trao đổi, chỉ cần N giá
(xem Bảng 1.1).
Bảng 1.1. So sánh giữa số lượng giá để trao đổi trực tiếp với số lượng
giá trao đổi bằng tiền
Số lượng giá Số lượng giá
Số mặt hàng
trao đổi trực tiếp trao đổi bằng tiền
3 3 3
10 45 10
100 4.950 100
1.000 499.500 1.000
10.000 49.995.000 10.000
Như vậy, việc dùng tiền làm một đơn vị đánh giá đã giảm được số giá cần
xem xét, do đó giảm được chi phí, thời gian để giao dịch và lợi ích này lại
càng tăng lên khi nền kinh tế trở nên phức tạp (có nhiều hàng hóa cần trao
đổi). Vì vậy, chức năng tính toán giá trị cũng góp phần vào việc tăng cường
tính hiệu quả của xã hội.
- Phương tiện dự trữ giá trị
Tiền là phương tiện dự trữ vì nó có thể dùng để mua sắm trong tương lai.
Chức năng này của tiền tệ rất hữu ích vì mọi người thường không được sử
dụng hết thu nhập của mình ngay lập tức mà sẽ giữ lại cho đến khi có nhu cầu
chi tiêu. Trong thực tế, tiền không phải là phương tiện duy nhất thực hiện chức
năng phương tiện tích luỹ vì một tài sản như: tiền mặt, cổ phiếu, nhà đất, trái
- 7-
phiếu, … đều có thể được sử dụng làm phương tiện tích luỹ giá trị và việc sử
dụng một số tài sản trong số các tài sản này để tích luỹ có lợi hơn sử dụng tiền,
mức sinh lời cao hơn, có giá trị sử dụng thực tế. Tuy nhiên, hầu hết, mọi người
đều tích lũy tiền với một tỷ lệ nhất định bởi sự an toàn và "tính lỏng" của tiền.
Tiền là tài sản có tính lỏng nhất bởi vì nó là phương tiện trao đổi, không giống
như các tài sản khác, tiền không cần chuyển thành thứ khác với mục đích mua
hàng; những tài sản khác phải mất chi phí giao dịch khi cần chuyển sang tiền.
Tuy nhiên, do tiền là đơn vị tính toán giá trị của những tài sản, hàng hóa khác
nên giá trị của tiền phụ thuộc vào mức giá của các hàng hóa đó. Nếu mức giá
tăng gấp 2 lần thì giá trị của tiền bị giảm đi 1/2 và ngược lại, khi mức giá giảm
còn 1/2 thì giá trị của tiền tăng lên 2 lần. Như vậy, có thế thấy, việc sử dụng
tiền như là phương tiện tích lũy giá trị phụ thuộc vào sự ổn định của đồng tiền
được đo bằng sức mua của nó.
1.1.2. Sự phát triển của các hình thái tiền tệ trong hoạt động thanh toán
Vào cuối thời kỳ La Mã cổ đại, các hàng hóa thông thường có tần số trao
đổi nhiều nhất được lựa chọn một các tự phát làm môi giới trung gian trong
trao đổi. Tại mỗi địa phương khác nhau, các hàng hóa được được lựa chọn làm
phương tiện trao đổi cũng khác nhau: gia súc, thuốc lá, dầu ôliu,… Tuy nhiên,
việc sử dụng hàng hóa làm vật trao đổi dần bộc lộ những hạn chế: khó khắc
trong việc chia nhỏ để trả lại tiền tẻ; chịu tác động bởi yếu tố tự nhiên; không
thuận tiện trong việc di chuyển giữa các vùng khác nhau,…
Sang thế kỷ XIX, vàng được chấp nhận trong lưu thông bởi những thuộc
tính tự nhiên phù hợp với vai trò phương tiện trao đổi: dễ chia nhỏ, hợp nhất;
Bền, ít chịu ảnh hưởng bởi yếu tố tự nhiên; có giá trị lớn trong một khối lượng
nhỏ, dễ di chuyển hơn hàng hóa. Tuy nhiên, sự bất lợi của lưu thông vàng cũng
dần bộc lộ: vì vàng nặng nên việc di chuyển vàng bất tiện và quan trọng hơn là
khi nhu cầu trao đổi hàng hóa tăng, vàng trở nên khan hiếm và nhu cầu dự trữ
vàng tăng.
Tiếp sau đó, tiền giấy và tiền xu (gọi chung là tiền mặt) được sử dụng
trong lưu thông. Thực chất của loại tiền này là một chứng chỉ cam kết có thể
- 8-
được chuyển đổi ngang giá thành tiền kim loại hoặc một lượng kim loại quý.
Tuy nhiên, loại tiền này nhanh chóng được chuyển thành tiền giấy không có
bảo đảm - tiền pháp định, nghĩa là mọi người buộc phải chấp nhận nó theo quy
định của Nhà nước, không có khả năng chuyển đổi thành kim loại quý. Tiền
giấy có ưu thế là nó nhẹ hơn tiền thực rất nhiều, chi phí bảo quản và vận
chuyển thấp, chi phí in ấn và đảm bảo an toàn rẻ, thuận tiện khi sử dụng. Tuy
nhiên, nhưng nó chỉ có thể được chấp nhận làm trung gian trao đổi chỉ nếu
lòng tin vào người có thẩm quyền phát hành nó đủ lớn và việc làm giả đồng
tiền đó rất khó khăn. Đồng thời, việc điều tiết lượng tiền giấy lưu thông cho
phù hợp với nhu cầu trao đổi và dữ trữ là rất phức tạp. Tiền giấy và tiền xu có
nhược điểm là dễ dàng bị đánh cắp và đặc biệt khá tốn kém khi vận chuyển số
lượng lớn. Để giải quyết vấn đề này, những tiến bộ khác của hệ thống thanh
toán đã diễn ra với sự phát triển của hoạt động ngân hàng hiện đại: sự ra đời
của Séc. Séc là một loại hối phiếu nhận nợ chi trả ngay khi xuất trình, cho
phép thực hiện giao dịch mà không cần mang theo một khoản tiền mặt lớn. Sự
ra đời của Séc là một tiến bộ mới đã cải thiện hiệu quả của hệ thống thanh
toán. Người ta nhận thấy các khoản thanh toán đến và đi có thể bù trừ cho
nhau; nếu không có Séc, các luồng luân chuyển tiền này sẽ rất lớn. Ngược lại,
với Séc, các khoản thanh toán có thể bù trừ lẫn cho nhau và cũng không cần
luân chuyển tiền mặt. Việc sử dụng Séc vì vậy đã làm giảm chi phí giao dịch
và cải thiện hiệu quả kinh tế. Một ưu điểm khác của Séc là nó có thể được viết
ra với bất kỳ số tiền nào cho tới hết số dư trên tài khoản, để thực hiện giao dịch
dễ dàng hơn nhiều với số tiền lớn. Séc còn có ưu thế so với tiền mặt trong việc
chống lại khả năng mất trộm, và rất thuận tiện trong việc thực hiện vận
chuyển, chi trả.
Tuy nhiên, hệ thống thanh toán Séc cũng gặp những vấn đề nhất định: thứ
nhất, phải mất một thời gian để mang Séc từ nơi này đến nơi khác, đặc biệt khi
người nhận thanh toán Séc ở khác địa bàn người chi trả Séc mà người đó cần
được chi trả nhanh chóng. Với những yêu cầu cần tiền mặt ngay thì đặc điểm
- 9-
này của Séc không thể đáp ứng được. Thứ hai, việc xử lý chứng từ Séc tiêu tốn
một khoản chi phí không nhỏ.
Với sự phát triển của công nghệ tin học cũng như máy tính và những ứng
dụng của nó trong các hệ thống thanh toán, tất cả các công việc giấy tờ có thể
được loại bỏ bằng cách chuyển đổi hoàn toàn sang các dữ liệu điện tử, trong
đó toàn bộ các khoản thanh toán được thực hiện thông qua các thiết bị điện tử.
Các phương tiện thanh toán điện tử đã được thừa nhận rộng rãi trên thế
giới trong nhiều năm gần đây. Hệ thống thanh toán của nhiều ngân hàng trung
ương hiện nay cho phép các ngân hàng, định chế tài chính mở tài khoản tại
ngân hàng trung ương và chuyển tiền cho nhau.
Các khoản thanh toán nhỏ có thể thực hiện thông qua các trung tâm thanh
toán bù trừ tự động (ACH). Hệ thống thanh toán bán lẻ này ngày càng trở nên
thông dụng đối với các doanh nghiệp khi họ chi trả tiền công, tiền lương cho
nhân viên. Các hộ gia đình có có thể chi trả hóa đơn điện thoại, các dịch vụ
công cộng, đóng bảo hiểm,… thông qua ACH.
Sự phát triển của hệ thống thanh toán cùng với vai trò của các ngân hàng
cho phép sử dụng các phương tiền thanh toán không phải là tiền mặt để phục
vụ cho nhu cầu trao đổi, luân chuyển hàng hóa. Các phương tiện đó là Séc, uỷ
nhiệm thu (UNT), uỷ nhiệm chi (UNC), thẻ,… Việc sử dụng các phương tiện
thanh toán này cho phép có thể thực hiện được các giao dịch mà không cần
xuất hiện tiền mặt. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ điện tử và tin học
cùng sự ứng dụng của chúng trong ngành ngân hàng đang hứa hẹn một hệ
thống thanh toán hiệu quả và ít tốn kém, trong đó việc sử dụng các phương
tiện thanh toán có ứng dụng tin học, điện tử trở nên phổ biến. Điều này cho
phép tiết giảm tối đa việc sử dụng tiền mặt trong lưu thông và ngày hoàn thiện
hơn các phương tiện thanh toán qua ngân hàng.
1.2 THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
1.2.1 Khái niệm, vai trò và đặc điểm
a) Khái niệm
- 10-
Trong nền kinh tế hàng hoá, sự hình thành và phát triển các chu chuyển
tiền tệ là một tất yếu khách quan. Sự tồn tại của tiền tệ và lưu thông tiền tệ là
nhân tố đặc biệt quan trọng để quá trình sản xuất và thay đổi hàng hoá được tiến
hành đồng thời có tác động lớn đến hiệu quả của các quá trình này. Cùng với sự
phát triển của xã hội là sự xuất hiện và phát triển của các hình thái tiền tệ và cũng
đồng nghĩa với sự xuất hiện và phát triển ngành ngân hàng và dịch vụ ngân hàng
trong đó là hàng đầu là dịch vụ thanh toán tiền tệ.
Dịch vụ thanh toán của NHTM được thực hiện dưới 2 hình thức: dịch vụ
thanh toán bằng tiền mặt và dịch vụ thanh toán KDTM.
Dịch vụ thanh toán bằng tiền mặt được thực hiện bằng công vụ tiền giấy
và tiền kim loại, chủ yếu phục vụ cho các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước,
các xí nghiệp, tổ chức kinh tế với nhân dân lao động được thực hiện bằng hai
hình thức dịch vụ: dịch vụ thanh toán bằng tiền mặt tự phát trong khu vực dân
cư ngoài phạm vi ngân hàng và dịch vụ tiền mặt qua ngân hàng. Ngược lại,
dịch vụ thanh toán KDTM một loại hình gần như tuyệt đối do ngân hàng thực
hiện dựa trên công cụ thanh toán là tiền ghi sổ, chỉ tồn tại trên tài khoản của
ngân hàng.
Đối tượng làm công cụ tổ chức dịch vụ tiền mặt và thanh toán KDTM
có sự khác nhau rất lớn. Trong khi tiền mặt có thể tiếp xúc vật thể, vật chất, là
công cụ để thực hiện chức năng cất trữ giá trị thì tiền ghi sổ còn gọi tiền tài
khoản lại có đặc điểm trừu tượng, chỉ tồn tại bằng dạng số dư, tiền gửi tài
khoản ngân hàng, chủ yếu thực hiện chức năng làm phương tiện thanh toán, ít
khi thực hiện chức năng cất trữ giá trị như tiền mặt trong tay người sở hữu.
Tuy nhiên, về điều kiện sử dụng và ý nghĩa kinh tế thì cả 2 loại hình dịch vụ
thanh toán tiền mặt và phi tiền mặt đều dựa trên các cơ sở khác nhau đã có
hiệu quả rất khác nhau. Trong đó dịch vụ thanh toán KDTM của NHTM là sản
phẩm của khoa học tổ chức lưu thông tiền tệ, luôn phát triển với các dạng thức
hiện đại và là biểu tượng của loại hình sử dụng tiền tệ có hiệu quả vô cùng lớn.
Nhìn chung, dịch vụ thanh toán KDTM là tổng thể tất cả các quan hệ thanh
toán tiền tệ phi tiền mặt giữa các chủ thể tham gia, được thực hiện thông qua
- 11-
bằng cách trích chuyển tiền từng món trên tài khoản, hoặc chênh lệch sau khi
bù trừ lẫn nhau hoặc thông qua ngân hàng.
b) Đặc điểm của thanh toán KDTM
Thanh toán KDTM là phương thức thanh toán không đòi hỏi sự hiện diện
của một khối lượng tiền mặt tương ứng, mà chỉ có sự chuyển nhượng giá trị
được ghi nhận giữa người trả tiền và người nhận tiền thông qua một tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán (thường là NHTM). Giá trị chuyển nhượng qua
các bút toán trên sổ sách tại tổ chức làm dịch vụ thanh toán được gọi là tiền
ghi sổ. Thanh toán KDTM ngày nay sử dụng các phương tiện như Séc, thẻ,
lệnh chi (hay uỷ nhiệm chi), nhờ thu (hay uỷ nhiệm thu) và cả những phương
tiện thanh toán khác thay thế cho cả tiền mặt và tiền ghi sổ như chứng chỉ nợ,
hối phiếu, thư tín dụng,...
Dịch vụ thanh toán KDTM được thực hiện và được tiến hành bằng cách
ngân hàng trích chuyển tiền từ tài khoản khách hàng này sang tài khoản khách
hàng khác hoặc từ kết quả bù trừ lẫn nhau. Dịch vụ thanh toán KDTM được
thực hiện theo uỷ nhiệm của khách hàng bằng hợp đồng thoả thuận với ngân
hàng – uỷ nhiệm dịch vụ thanh toán dài hạn, định kỳ hoặc từng lần bằng pháp
luật và giấy tờ chuyên dùng có tính chuyên nghiệp và phổ cập. Dịch vụ thanh
toán KDTM có những đặc diểm cơ bản sau:
- Thứ nhất, dịch vụ thanh toán KDTM độc lập so với sự vận động của vật
tư hàng hoá cả về thời gian và không gian, thông thường sự vận động của tiền
trong thanh toán và sự vận động của vật tư hàng hoá là không có sự ăn khớp
với nhau. Đây là đặc điểm lớn nhất, nổi bật nhất trong thanh toán KDTM cần
phải được nhận thức một cách đúng đắn.
Ở đây, khác với thanh toán bằng tiền mặt do khách hàng tự thực hiện,
dịch vụ thanh toán phi tiền mặt qua ngân hàng không phải được tiến hành một
cách trực tiếp theo kiểu “giao hàng, nhận tiền”, mà là việc giao hàng được tiến
hành ở nơi này, trong thời gian này, nhưng việc thanh toán có thể được thực
hiện ở nơi khác, trong thời gian khác. Đặc điểm cơ bản này cho phép dịch vụ
- 12-
thanh toán KDTM có thể thực hiện với khối lượng giá trị không hạn chế,
thường là với giá trị lớn mà dịch vụ tiền mặt do khách hàng tự phục vụ không
thể làm được. Tài khoản ngân hàng là cơ sở để thực hiện dịch vụ thanh toán
KDTM.
- Thứ hai, dịch vụ thanh toán KDTM vật môi giới (tiền mặt) không xuất
hiện như trong thanh toán bằng tiền mặt (H-T-H) mà nó chỉ xuất hiện dưới
hình thức tiền tệ kế toán (tiền ghi sổ) và được ghi chép trên các chứng từ, sổ
sách kế toán (gọi là tiền chuyển khoản).
Với đặc điểm này thì mỗi bên tham gia thanh toán (mà chủ yếu là người
mua) nhất định phải mở tài khoản tại ngân hàng và hơn nữa phải có tiền trên
tài khoản đó. Bởi vì, nếu không như vậy thì việc thanh toán sẽ không thể tiến
hành.
Ngoài ra do phải mở tài khoản tại ngân hàng, nên vấn đề kiểm soát của
ngân hàng trong việc tổ chức thanh toán là cần thiết để đảm bảo đặc điểm kỹ
thuật và tính chuyên nghiệp của dịch vụ này
- Thứ ba, trong tổ chức dịch vụ thanh toán KDTM, ngân hàng đóng vai
trò rất quan trọng, là người tổ chức và hoàn thành thực hiện các khoản thanh
toán của khách hàng uỷ nhịêm.
Ngoài hai hoặc nhiều đơn vị mua bán tham gia trong thanh toán, thì
ngân hàng là người “thứ ba” môi giới kinh doanh chịu trách nhiệm tổ chức
thực hiện kết thúc quá trình mua bán và trả tiền các đối tác. Bởi vì chỉ có ngân
hàng - người quản lý tài khoản tiền gửi của các đơn vị, mới được phép trích
chuyển tài khoản của các đơn vị coi như một loại nghiệp vụ đặc biệt của ngân
hàng. Với nghiệp vụ đặc biệt như vậy, ngân hàng trở thành một “Trung tâm
môi giới thanh toán” cho xã hội - trong trường hợp đó, có thể nói toàn bộ quá
trình thanh toán được thực hiện thuận lợi trôi chảy hay không được quyết định
bởi người thực hiện, mà trong đó ngân hàng là người đóng vai trò “kết thúc”
quá trình thanh toán.
- 13-
- Thứ tư, dịch vụ thanh toán KDTM có đặc điểm phổ biến như các dịch
vụ khác của nền kinh tế: trừu tượng, không thể dự trữ, chỉ xuất hiện khi có uỷ
nhiệm của khách hàng đưa tới ngân hàng. Do vậy, dịch vụ thanh toán có tính
thời vụ (chẳng hạn dịp kết thúc niên gián hoạt động của doanh nghiệp,…) và
vào thời điểm cao, chẳng hạn khách hàng chỉ giao nộp uỷ nhiệm thanh toán
cho ngân hàng vào những giờ "cao điểm" và giờ thanh toán bù trừ (chỉ vài giờ
trong ngày).
c) Ưu, nhược điểm của thanh toán KDTM so với thanh toán bằng
tiền mặt
So với thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán KDTM có những ưu thế vượt
trội, cụ thể:
- Giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm chi phí in ấn, vận
chuyển, sử dụng tiền mặt;
Với phương tiện thanh toán KDTM, các khoản thanh toán có thể tiến
hành với khối lượng lớn, giá trị cao, đồng thời tránh được những chi phí kiểm
đếm, vận chuyển như đối với thanh toán tiền mặt.
- An toàn trong giao dịch thanh toán, tránh rủi ro trong việc lưu hành và
cất trữ tiền mặt; nạn làm giả tiền mặt đang ngày càng phổ biến về quy mô và
tinh vi về chất lượng đã và đang gây thiệt hại lớn về an ninh kinh tế - xã hội
cho các nước trên thế giới.
Việc cất trữ quá nhiều tiền mặt đôi khi có thể gây ra những tổn thất không
lường trước được. Hoả hoạn, thiên tai,… có thể làm cho tiền giấy bị huỷ hoại
hoàn toàn. Với các phương tiện thanh toán điện tử, người sử dụng không còn
phải quá lo lắng về những rủi ro trên. Điều quan trọng nhất mà họ phải quan
tâm đó là ghi nhớ những thông tin mật của mình và không được làm lộ thông
tin cho những người không đáng tin cậy.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong nền kinh tế;
Việc sử dụng các phương tiện thanh toán KDTM, hỗ trợ cho khả năng
huy động vốn chi phí thấp từ nguồn tiền gửi không kỳ hạn của các NHTM,
- 14-