Hoàn thiện công tác soạn lập kế hoạch tại công ty cổ phẩn cửa sổ nhựa châu âu eurowindow
- 72 trang
- file .pdf
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
DANH MỤC CÁC CHỮ, THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
TT Ký hiệu Giải thích ý nghĩa
1 SXKD Sản xuất kinh doanh
2 CBCNV Cán bộ công nhân viên
3 HĐQT Hội đồng quản trị
4 BHXH Bảo hiểm xã hội
5 LNST Lợi nhuận sau thuế
6 DT Doanh thu
7 VCSH Vốn chủ sở hữu
8 TS Tài sản
9 LĐ - TL Lao động - tiền lương
10 KH Kế hoạch
11 NVKD Nhân Viên Kinh Doanh
12 NVSR Nhân Viên Showroom
13 HCKD Hành chính kinh doanh
14 PKT Phòng kế toán
15 BLDKD Ban lãnh đạo kinh doanh
16 BPLĐ Bộ phận lắp đặt
17 GSLĐ Giám sát lắp đặt
18 BH Bảo hành
19 ĐNSX Đề nghị sản xuất
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
BẢNG DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU:
TT Tên bảng biểu Trang
Bảng 1 Kết quả thực hiện chỉ tiêu sản xuất kinh doanh năm
2008-2009
Bảng 2 Tình hình thực hiện kế hoạch của các showroom và
đại lý năm 2009
Bảng 3 Kế hoạch kinh doanh năm 2010
Bảng 4 Chỉ tiêu kế hoạch bán hàng của các showroom trong
năm 2010
Bảng5 Kế hoạch sản xuất sản phẩm chủ yếu giai đoạn 2009-
2010
Bảng 6 Kế hoạch tài chính giai đoạn 2009-2010
Kế hoạch nhân sự năm 2009- 2010
Bảng 7
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
BẢNG DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ:
TT Tên hình vẽ Trang
Hình 1 Quy trình kế hoạch hóa PDCA
Hình 2 Các bước soạn lập kế hoạch
Hình 3 Mối quan hệ ràng buộc giữa các
kế hoạch chức năng trong doanh
nghiệp
Hình 4 Lưu đồ quá trình kinh doanh
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Phần I: MỞ ĐẦU.
Từ hơn hai thập kỷ đổi mới sang cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của
Nhà Nước, nền kinh tế Việt Nam đã và đang dần chuyển mình để đuổi kịp và trở
thành “con hổ” kinh tế trong khu vực. Sự thay đổi này đem lại cho Việt Nam những
thành quả thật sự đáng kể trong cả kinh tế và xã hội. Chúng ta có thể quan sát thấy
sự thay da đổi thịt hàng ngày của nền kinh tế, nhất là sự trỗi dậy của nền kinh tế tư
nhân và sự cải thiện đáng kể hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
nhà nước.
Sự thay đổi cơ chế kinh tế cũng đã dẫn đến sự thay đổi sâu sắc trong cơ chế
quản lý các doanh nghiệp và đặc biệt là các công cụ quản lý. Trong số đó, chúng ta
có thể dễ dàng quan sát thấy một xu hướng rõ nét trong quan niệm rõ nét của các
nhà quản lý là từ bỏ các công cụ cũ - được đánh giá là nguyên nhân của sự kém hiệu
quả trong hoạt động kinh tế dưới cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây. Thực tế
đã chứng minh rằng: Kế hoạch kinh doanh không thể thiếu được trong việc ra quyết
định, cả những quyết định mang tính chiến lược và tác nghiệp. Tất cả các đơn vị sản
xuất kinh doanh ngoài việc quản lý và tổ chức các hoạt động bằng chiến lược kinh
doanh vẫn tất yếu phải xây dựng kế hoạch kinh doanh và tổ chức quản lý sản xuất
kinh doanh bằng kế hoạch. Nó là sự cụ thể hóa của chiến lược, mang tính chi tiết,
định hướng và tác nghiệp cao. Do đó, nâng cao khả năng thực hiện kế hoạch kinh
doanh ở các doanh nghiệp là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với doanh
nghiệp.
Đối với Công Ty cửa sổ nhựa châu Âu_ Eurowindow nói riêng, việc xây
dựng một kế hoạch kinh doanh cụ thể, chặt chẽ là hết sức quan trọng, đóng góp
phần lớn vào sự thành công trong hoạt động kinh doanh của Công ty. Ban lãnh đạo
công ty cùng các cán bộ phận Kinh doanh luôn quan tâm và có nhiều biện pháp để
thực hiện tốt công tác kế hoạch kinh doanh. Tuy nhiên, công tác kế hoạch hóa của
Công ty vẫn còn cứng nhắc và thiếu linh hoạt. Đó là một trong số những nguyên
nhân làm giảm hiệu quả kinh doanh của công ty.
Với những lý do đó, tôi đã quyết định chọn đề tài “ Hoàn thiện công tác
soạn lập kế hoạch tại công ty cổ phẩn cửa sổ nhựa Châu Âu_Eurowindow” để
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
có thể quản lý nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Kết cấu của chuyên đề
gồm 3 chương:
Chƣơng I: Kế hoạch trong một hoạt động của một doanh nghiệp
Chƣơng II: Đánh giá công tác lập kế hoạch tại công ty cổ phần cửa sổ nhựa
Châu Âu_ Eurowindow
Chƣơng III:Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch trong giai
đoạn 2009-2010 của Công Ty cổ phần cửa sổ nhựa Châu ÂU_ Eurowindow
Mục đích nghiên cứu: Dựa trên khảo sát thực tế tại Công ty cổ phần cửa sổ
nhựa Châu ÂU và tham khảo ý kiến các nhà quản lý để tìm ra những tồn tại trong
quá trình lập kế hoạch kinh doanh của Công ty nhằm đề xuất những giải pháp để
hoàn thiện công tác lập kế hoạch kinh doanh của Công ty.
Phạm vi nghiên cứu: Trong chuyên đề này, các số liệu được lấy ở Công ty cổ
phần cửa sổ nhựa Châu Âu và đề cập đến công tác lập kế hoạch kinh doanh của
công ty cổ phần cửa sổ nhựa Châu Âu từ năm 2009-2010.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học kết
hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, giữa phân tích và tổng hợp xuất phát từ thực
trạng hoạt động của công ty.
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Phần II: NỘI DUNG.
Chƣơng I
KẾ HOẠCH KINH DOANH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
MỘT DOANH NGHIỆP
I. TỔNG QUAN VỀ KẾ HOẠCH TRONG MỘT DOANH NGHIỆP
1. Hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp
Hoạt động kinh doanh, theo luật định, là việc thực hiện một, một số hoặc tất
cả các công đoạn của quá trình đầu tư, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Như vậy, hoạt động kinh doanh không chỉ bao gồm các hoạt động thương
mại (theo cách hiểu truyền thống) mà còn có các nội dung rất rộng, bao gồm: đầu
tư, sản xuất, chế biến, các hoạt động thương mại thuần túy và các hoạt động cung
cấp dịch vụ.
Hoạt động kinh doanh có thể tiếp cận theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn:
Theo tính chất hoạt động của chúng ta, có hoạt động sản xuất (sản phẩm
hoặc dịch vụ) và hoạt động thương mại.
Theo bản chất kinh tế, chúng ta có thể có các doanh nghiệp công nghiệp,
thương nghiệp, nông nghiệp, tài chính, v…vv
2. Kế hoạch và vai trò của kế hoạch trong hoạt động của doanh nghiệp
2.1 Khái niệm chung
Kế hoạch hóa từ lâu đã được coi như một công cụ để thiết lập cũng như thực
hiện các quyết định chiến lược. Tuy nhiên vai trò này không phải lúc nào cũng được
thừa nhận một cách nhất quán, nó có thể là công cụ quản lý không thể thiếu được
đối với đối tượng này, nhưng lại là thủ phạm của sự cứng nhắc đối tượng khác. Kế
hoạch hóa có nhiều nghĩa khác nhau và đã từng là chủ đề của nhiều ý kiến trái
ngược, cho dù nó liên quan đến doanh nghiệp hay là nền kinh tế quốc dân.
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Hiểu một cách tổng quát nhất, kế hoạch hóa là một phương thức quản lý theo
mục tiêu, nó “ Là hoạt động của con người trên cơ sở nhận thức và vận dụng các
quy luật xã hội và tự nhiên, đặc biệt là các quy luật kinh tế để tổ chức quản lý các
đơn vị kinh tế- kỹ thuật, các ngành, các lĩnh vực hoặc toàn bộ nền sản xuất xã hội
theo những mục tiêu thống nhất”.
Theo cách hiểu trên, kế hoạch hóa thực hiện ở nhiều quy mô và phạm vi
khác nhau như: kế hoạch hóa kinh tế quốc dân, kế hoạch hóa theo vùng, địa
phương, kế hoạch hóa theo ngành, lĩnh vực, kế hoạch hóa doanh nghiệp. Kế hoạch
hóa hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (gọi tắt là kế hoạch hóa doanh
nghiệp) được xác định là một phương thức quản lý doanh nghiệp theo mục tiêu, nó
bao gồm toàn bộ các hành vi can thiệp một cách có chủ định của các nhà lãnh đạo
và quản lý doanh nghiệp vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của đơn vị mình
nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra. Hay nói cách khác “kế hoạch hóa doanh
nghiệp là một quy trình ra quyết định cho phép xây dựng một hình ảnh mong muốn
về trạng thái tương lai của doanh nghiệp và quá trình tổ chức triển khai thực hiện
mong muốn đó”
Như vậy, kế hoạch hóa doanh nghiệp là thể hiện kỹ năng tiên đoán mục tiêu
phát triển và tổ chức quá trình thực hiện mục tiêu đề ra. Công tác này bao gồm các
hoạt động:
Lập kế hoạch: đây là khâu giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong công tác kế
hoạch hóa doanh nghiệp, nó là quá trình xác định các mục tiêu, chỉ tiêu kế
hoạch và đề xuất chính sách giải pháp áp dụng. Kết quả của việc soạn lập kế
hoạch là một bản kế hoạch của doanh nghiệp được hình thành và nó chính là
cơ sở cho việc thực hiện các công tác sau kế hoạch hóa. Bản kế hoạch doanh
nghiệp là hệ thống phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu và các chỉ tiêu nguồn
lực vật chất, nguồn lực tài chính cần thiết cho việc thực hiện mục tiêu phát
triển doanh nghiệp đặt ra trong thời kỳ kế hoạch nhất định. Kế hoạch hóa
doanh nghiệp chính là thể hiện ý đồ phát triển của các nhà lãnh đạo và quản
lý đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các giải pháp
tức thì.
Mặc dù định hướng tương lai, nhưng quá trình soạn lập kế hoạch khác với dự
báo thường nhằm mục đích trả lời câu hỏi cái gì sẽ xảy ra thông qua con
đường ngoại suy, nó cũng khác với cái mà chúng ta gọi là triển vọng cũng
nhằm mục đích trả lời câu hỏi đã nêu bằng cách nội suy. Trong khi quá trình
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
soạn lập kế hoạch xác định cách thức trả lời câu hỏi chúng ta sẽ làm gì. Bản
kế hoạch cũng khác với chương trình, thường tồn tại trong ý nghĩa như là
một cơ học về doanh nghiệp trong môi trường của nó với ý niệm rằng tương
lai là hoàn toàn có thể dự đoán được.
Như vậy có thể hiểu bản kế hoạch doanh nghiệp được hình thành thông qua
những câu hỏi mang tính bản chất của nó như sau: (1) trạng thái của doanh nghiệp
hiện tại, kết quả và những điều kiện hoạt động kinh doanh? (2) Doanh nghiệp muốn
được phát triển như thế nào (hướng phát triển của doanh nghiệp)? Làm thể nào để
sử dụng có hiệu quả nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu đề ra?
Tổ chức thực hiện kế hoạch, kiểm tra, điều chỉnh và đánh giá kế hoạch là
những hoạt động tiếp sau của công tác kế hoạch hóa nhằm đưa kế hoạch vào
thực tế hoạt động của doanh nghiệp. Đây là quá trình tổ chức, phối hợp hoạt
động của các bộ phận, các yếu tố nguồn lực của doanh nghiệp, triển khai các
hoạt động khác nhau theo kế hoạch đặt ra. Quá trình triển khai kế hoạch
không chỉ đơn giản là xét những hoạt động cần thiết của doanh nghiệp mà nó
còn thể hiện khả năng dự kiến, phát hiện những điều bất ngờ có thể xuất hiện
trong quá trình hoạt động và khả năng ứng phó những điều bất ngờ đó. Quá
trình kiểm tra, theo dõi, điều chỉnh kế hoạch giúp doanh nghiệp không chỉ
xác định được tất cả những rủi ro trong hoạt động của mình mà còn có khả
năng quản lý rủi ro với sự hỗ trợ của việc tiên đoán có hiệu quả và xử lý
những rủi ro đó trong quá trình thực hiện mục tiêu đặt ra. Công tác đánh giá
kế hoạch sẽ là cơ sở giúp cho doanh nghiệp xây dưng được những phương án
kế hoạch tiếp sau một cách chính xác và sát thực hơn.
2.2 Vai trò của kế hoạch trong doanh nghiệp.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung
Kế hoạch hóa tập trung là mô hình kế hoạch truyền thống của Liên xô được
xây dựng từ những năm 1920 và sử dụng ở Việt Nam đến thập niên 1980. Điều kiện
tiền đề của sự tồn tại cơ chế này là nền kinh tế dựa trên cơ sở chế độ công hữu xã
hội chũ nghĩa về tư liệu sản xuất và sự thống trị của nhà nước chuyên chính vô sản.
Kế hoạch hóa được thể hiện là những quyết định mang tính chất mệnh lệnh phát ra
từ trung ương. Sự vận dụng mô hình này đòi hỏi phải thiết lập khu vực công nghiệp
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Nhà nước vận hành theo một hệ thống phân phối mệnh lệnh hành chính các đầu vào
và đầu ra, các chỉ tiêu kế hoạch hiện vật ở cấp xí nghiệp vùng tồn tại với một hệ
thống bảng cân đối.
Hình thức chuyển giao điển hình giữa các chủ thể kinh tế không phải đặt trên
cơ sở những tính toán của chính các chủ thể về những lợi thế tương đối của các
phương án thay thế mà họ sẽ phải lựa chọn, trái lại, giao dịch có ý nghĩa là việc giao
và nhận các sản phẩm nhằm thực hiện các chỉ tiêu nghĩa vụ có tính pháp lệnh của
những nhà lập kế hoạch. Các chỉ tiêu kế hoạch của doanh nghiệp chính là các chỉ
tiêu pháp lệnh mang tính toàn diện, chi tiết mà cơ quan quản lý cấp trên giao xuống
trên cơ sở cân đối chung toàn nghành và tổng thế nền kinh tế quốc dân. Theo hệ
thống chỉ tiêu mục tiêu pháp lệnh, các chỉ tiêu về lao động, vốn vật tư, thiết bị, tiêu
thụ sản phẩm, phân phối thu nhập được doanh nghiệp xây dựng theo các con số
kiểm tra của cơ quan chủ quản, đề nghị cấp trên xét duyệt và cung cấp theo các
nguyên tắc cấp phát- giao nộp. Các kế hoạch tiến độ, điều độ sản xuất của doanh
nghiệp đều là cụ thể hóa các chỉ tiêu pháp lệnh được cấp trên giao xuống và nó chi
phối toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.
Như vậy, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch hóa
tập trung, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh là cơ sở điều tiết mọi hoạt động tổ
chức và quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vai trog lớn nhất của cơ
chế này là: có năng lực tạo ra các tỷ lệ tiết kiệm và khả năng tích lũy rất cao, thực
hiện được những cân đối cần thiết trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, nền kinh tế
có thể đạt được mức cung ứng cần thiết để tạo ra mức tăng trưởng nhanh. Đặc biệt,
nhờ có cơ chế kế hoạch hóa tập trung mà nhà nước có thể hướng các nguồn lực cần
thiết để thực hiện các mục tiêu và các lĩnh vực cần ưu tiên trong những thời kỳ nhất
định. Các đơn vị kinh tế xem như là những tế bào trong tổng thể nền kinh tế, thực
hiện nhiệm vụ kế hoạch theo những mục tiêu thống nhất từ trên xuống.
Có thể nói cơ chế kế hoạch hóa tập trung áp dụng ở nước ta trong một thời
kỳ dài, nó đem lại những kết quả đáng kể, nhất là trong thời kỳ Việt Nam thực hiện
cuộc kháng chiến chống Mỹ. Với cơ chế này, nhiều doanh nghiệp sản xuất và dịch
vụ ở nước ta đã ra đời và cung cấp một khối lượng của cải vật chất đáng kể, đảm
đương được những nhiệm vụ nặng nề trong công cuộc phục vụ kháng chiến và quốc
kế dân sinh.
Tuy vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường, cơ chế kế hoạch hóa theo mô
hình tập trung mệnh lệnh trở nên không còn phù hợp, bản thân những đặc trưng của
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
cơ chế này đã tạo ra những rào cản hạn chế sự phát triển của chính các doanh
nghiệp cũng như toàn thể nền kinh tế quốc dân, cụ thể là:
Hạn chế tính năng động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp
trong việc thích nghi với những điều kiện thị trường.
Nền kinh tế bị mất động lực phát triển, các doanh nghiệp không có khả năng
cạnh tranh, nhất là trong lo-gic của kinh tế cầu.
Hạn chế tính năng động về công nghệ, áp dụng kỹ thuật mới vì công việc cho
ra đời các sản phẩm mới không được gắn chặt với cơ chế khuyến khích.
Hiệu quả kinh tế rất thấp do vừa không có những chỉ số về chi phí kinh tế
tương đối, vừa không có những cơ chế đãi ngộ xứng đáng cho tính hiệu quả
và trừng phạt đối với sự phi hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thường xuyên phải đối mặt
với các quy luật thị trường, vì vậy những dấu hiệu thị trường là cơ sở để các doanh
nghiệp thực hiện các hành vi sản xuất kinh doanh của mình. Tuy vậy, kế hoạch hóa
vẫn là cơ chế quản lý cần thiết, hữu hiệu của các doanh nghiệp. Lập luận về sự tồn
tại của phát triển của kế hoạch hóa doanh nghiệp tỏng nền kinh tế thị trường xuất
phát từ chính vai trò của nó trong quản lý doanh nghiệp. Những vai trò chính được
thể hiện như sau:
Tập trung sự chú ý của các hoạt động trong doanh nghiệp vào các mục tiêu.
Kế hoạch hóa là nhằm đạt được các mục tiêu doanh nghiệp, cho nên chính
các hoạt động của công tác kế hoạch hóa là tập trung vào các mục tiêu này.
Lập kế hoạch- khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong quy trình kế hoạch hóa
là công việc duy nhất có liên quan tới việc thiết lập các mục tiêu cần thiết
cho sự phấn đấu của tập thể. Thị trường bản thân nó rất linh hoạt và thường
xuyên biến động, kế hoạch và quản lý bằng kế hoạch giúp các doanh nghiệp
dự kiến được những cơ hội và thách thức có thể xảy ra để quyết định nên làm
cái gì, làm như thế nào, khi nào làm và ai làm trong một thời kỳ nhất định.
Mặc dù chúng ta ít khi tiên đoán được tương lai và mặc dù các yếu tố nằm
ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp có thể phá vỡ những kế hoạch tốt nhất
đã có, những nếu không có kế hoạch và tổ chức quá trình hoạt động thông
qua các mục tiêu định lập trước thì có nghĩa là chúng ta đã để cho các sự
kiện có liên quan đến sinh mệnh sống của doanh nghiệp mình diễn ra một
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
cách ngẫu nhiện và tính rủi ro trong hoạt động của doanh nghiệp cũng sẽ
tăng lên.
Công tác kế hoạch hóa với việc ứng phó những bất định và đổi thay của thị
trường. Lập kế hoạch là dự kiến những vấn đề của tương lai, mà tương lai rất
ít khi chắc chắn, tương lai càng dài thì kết quả của các quyết định càng kém
chắc chắn. Thậm chí ngay cả khi tương lai có độ chắc chắn cao thì các nhà
quản lý vẫn cần phải tìm cách tốt nhất để đạt được mục tiêu đặt ra, phân
công, phối hợp hoạt động của các bộ phận trong hệ thống tổ chức quá trình
thực hiện mục tiêu kế hoạch và tháo gỡ, ứng phó với những bất ổn trong sản
xuất kinh doanh. Như vây, giống như một nhà hàng hải không thể chỉ lập ra
hành trình rồi quên nó, một nhà kinh doanh không thể lập kế hoạch và dừng
lại đó. Sự bất định và đổi thay của môi trường đòi hỏi họ, ngoài việc soạn lập
kế hoạch, phải tiến hành các nội dung khác của công tác kế hoạch hóa là
triển khai thực hiện, kiểm tra công việc của các cấp tổ chức, điều chỉnh các
hoạt động cần thiết để đảm bảo thực thi các mục tiêu kế hoạch đặt ra.
Công tác kế hoạch hóa với việc tạo ra khả năng tác nghiệp kinh tế trong
doanh nghiệp. Công tác kế hoạch thường hướng tới cực tiểu hóa chi phí vì nó
chú trọng vào các hoạt động hiệu quả và bảo tính phù hợp. Kế hoạch thay thế
sự hoạt động manh mún, không được phối hợp bằng sự nỗ lực định hướng
chung, thay thế luồng hoạt động thất thường bởi một hoạt động đều đặn, và
thay thế những phán xét vội vàng bằng những quyết định có cân nhắc kỹ
lưỡng. Ở phạm vi doanh nghiệp tác dụng của kế hoạch hóa với các tác
nghiệp kinh tế càng rõ ràng hơn. Không một ai đã từng ngắm từng bộ phận
lắp ráp ô tô trong một nhà máy lớn mà lại không có ấn tượng về cách thức và
các dây chuyền phụ ghép nối với nhau. Từ hệ thống băng tải chính hình
thành thân xe và các bộ phận khác nhau được hình thành từ các dây chuyền
khác. Động cơ, bộ truyền động và các bộ phận được đặt vào chỗ một cách
chính xác vào đúng thời điểm xác định. Ví dụ trên cho thấy quá trình sản
xuất dịch vụ thường được chia thành nhiều công đoạn, nhiều chi tiết có liên
quan chặt chẽ, mang tính dây chuyền với nhau. Quá trình đó cần được cân
nhắc chia thành các ngành tác nghiệp kinh tế, kỹ thuật chi tiết theo thời gian
và không gian. Công tác kế hoạch hóa doanh nghiệp tạo cơ sở cho việc nhìn
nhận logic các nội dung hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau trong quá
trình tiến tới mục tiêu sản xuất sản phẩm và dịch vụ cuối cùng. Trên nền tảng
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
đó, các nhà quản lý thực hành các phân công, điều độ, tổ chức các hành động
cụ thể, chi tiết theo đúng trình tự, đảm bảo cho sản xuất sẽ không bị rối loạn
và ít tốn kém.
3. Hệ thống kế hoạch trong doanh nghiệp
Đứng trên mỗi góc độ khác nhau, hệ thống kế hoạch hóa của doanh nghiệp
được chia thành những bộ phận khác nhau
3.1 Theo góc độ thời gian
Đây là thể hiện việc phân đoạn kế hoạch theo thời gian cần thiết để thực hiện
chỉ tiêu đặt ra. Theo góc độ này, kế hoạch doanh nghiệp bao gồm ba bộ phận cấu
thành:
Kế hoạch dài hạn bao trùm lên khoảng thời gian dài khoảng 10 năm. Quá
trình soạn lập kế hoạch dài hạn đặc trưng bởi
Môi trường liên quan được hạn chế bởi thị trường mà doanh nghiệp có mặt;
Dự báo trên cơ sở ngoại suy từ quá khứ, bao gồm xu hướng dự tính nhu cầu,
giá cả và hành vi cạnh tranh;
Chủ yếu nhấn mạnh đến các ràng buộc về tài chính;
Sử dụng rộng rãi các phương pháp kinh tế lượng để dự báo
Cần lưu ý rằng kế hoạch dài hạn không đồng nghĩa với kế hoạch chiến lược vì
kế hoạch chiến lược bao trùm nội dung khác không phải chỉ đứng trên góc độ thời
gian.
Kế hoạch trung hạn cụ thể hóa những định hướng củ kế hoạch dài hạn ra các
khoảng ngắn hạn hơn, thường là 3 đến 5 năm
Kế hoạch ngắn hạn thường là các kế hoạch hàng năm và các kế hoạch tiến độ,
hành động có thời hạn dưới một năm như: kế hoạch quý, tháng, v.v.v… Kế hoạch
ngắn hạn bao gồm các phương pháp cụ thể sử dụng nguồn lực của các doanh nghiệp
cần thiết để đạt được mục tiêu trong kế hoạch trung và ngắn hạn
Tuy nhiên, việc phân chia thời hạn của các kế hoạch chỉ mang tính tương đối,
nhất là đối với những điều kiện thị trường hiện nay thay đổi với tốc độ nhanh hơn
nhiều so với cách đây vài thập kỷ. Do vậy, trong những lĩnh vực mà điều kiện thị
trường biến động nhiều (chu kỳ thay đổi công nghệ càng ngày càng nhanh, vòng đời
sản phẩm càng ngày càng ngắn, v.v..) thì những kế hoạch chi từ 3 đến 5 năm có thể
coi là rất dài hạn.
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Ba loại kế hoạch ngắn, trung và dài hạn cần phải liên kết chặt chẽ với nhau và
không được phủ nhận lẫn nhau. Cần thiết phải nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
việc giải quyết mối quan hệ giữa các loại kế hoạch theo thời gian vì trên thực tế, đã
nảy sinh nhiều lãng phí từ các quyết định theo những tình huống trước mắt mà
không đánh giá được ảnh hưởng của các quyết định này đối với các mục tiêu dài
hạn hơn. Nhiều kế hoạch ngắn hạn đã không đóng góp gì cho một kế hoạch dài hạn
mà còn gây nhiều trở ngại, hay có những đòi hỏi nhiều đối với các kế hoạch dài
hạn. Ví dụ như nếu một doanh nghiệp nhỏ nhận một đơn đặt hàng lớn mà không
tính tới ảnh hưởng của đơn đặt hàng tới khả năng sản xuất hay cung cấp tiền mặt
của doanh nghiệp thì điều đó có thể cản trở tới khả năng tương lai để trang trải tài
chính cho mở rộng một các hệ thống, đủ để tạo ra những thay đổi trong chương
trình dài hạn của một doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp quyết đinh sa thải một
số công nhận không có lý do chính đáng có thể cản trở mục tiêu dài hạn của công ty
trong việc phát triển một chương trình nhận sự đúng đắn và có hiện quả.
Để thực hiện được mối quan hệ giữa kế hoạch dài, trung và ngắn hạn, các nhà
lãnh đạo chủ chối các doanh nghiệp nên thường xuyên xem xét và sửa đổi các quyết
định trước mắt xem chúng có phục vụ các chương trình dài hạn hay không và các
nhà quản lý cấp dưới nên được thông báo một cách thường xuyên về kế hoạch dài
hạn của doanh nghiệp sao cho các quyết định của họ phù hợp với các mục tiêu dài
hạn của doanh nghiệp
3.2 Đứng trên góc độ nội dung, tính chất hay cấp độ của kế hoạch.
Chúng ta có thể chia hệ thống kế hoạch doanh nghiệp làm hai bộ phận: kế
hoạch chiến lược và kế hoạch chiến thuật (tác nghiệp)
Kế hoạch chiến lược
Khái niệm chiến lược xuất phát từ tiếng Hy Lạp và xuất hiện đầu tiên trong lĩnh
vực quân sự. Chiến lược có nghĩa là “nghệ thuật của tướng lĩnh” để tìm ra con
đường đúng đắn nhất giành chiến thắng. Lập kế hoạch chiến lược cho doanh nghiệp
phổ biến vào những năm 1960 đối với các doanh nghiệp lớn khi mà hoạt động của
chúng trở nên phức tạp hơn, đồng thời cạnh tranh gay gắt hơn, đa dạng hơn trong
khi các tiến bộ về khoa học công nghệ trở nên tăng tốc hơn khiến cho các doanh
nghiệp khó khăn trong việc lựa chọn mục tiêu phát triển công nghệ và sản phẩm
mới, thâm nhập thị trường, lựa chọn các phương thức phát triển v.v….
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Kế hoạch chiến lược áp dụng trong các doanh nghiệp là định hướng lớn cho
phép doanh nghiệp thay đổi, cải thiện, củng cố vị thế cạnh tranh của mình và những
phương pháp cơ bản để đạt được mục tiêu đó. Soạn lập kế hoạch chiến lược không
phải từ những kỳ vọng mà doanh nghiệp muốn đạt tời mà là xuất phát từ khả năng
thực tế của doanh nghiệp và như vậy nó là thể hiện sự phản ứng của doanh nghiệp
đối với hoàn cảnh khách quan bên trong và bên ngoài của hoạt động doanh nghiệp.
Thường thì kế hoạch chiến lược được soạn thảo cho thời gian dài, tuy vậy nó
không đồng nghĩa với kế hoạch dài hạn. Nhiều doanh nghiệp đã dựa vào những kế
hoạch chiến lược ngắn hạn. Nói đến kế hoạch chiến lược không phải là nói đến góc
độ thời gian của chiến lược mà nói đến tính chất định hướng của kế hoạch và bao
gồm toàn bộ mục tiêu tổng thể phát triển doanh nghiệp. Trách nhiệm soạn thảo kế
hoạch chiến lược trước hế là lãnh đạo doanh nghiệp, vì kế hoạch chiến lược đòi hỏi
có trách nhiệm rất cao, quy mô hoạt động rộng lớn của các nhà quản lý
Kế hoạch chiến thuật.
Là công cụ chuyển các định hướng chiến lược thành các chương trình áp dụng
cho các bộ phận của doanh nghiệp trong khuôn khổ các hoạt động của doanh
nghiệp, nhằm thực hiện được các mục tiêu của kế hoạch chiến lược. Kế hoạch tác
nghiệp được thể hiện cụ thể ở những bộ phận kế hoạch riêng biệt trong tổng thể
hoạt động kinh doanh như: kế hoạch sản xuất, kế hoạch maketing, kế hoạch tài
chính, kế hoạch nhân sự của doanh nghiệp.
Kế hoạch chiến lược tập trung vào các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến các
tương lai của doanh nghiệp, trong khi đó kế hoạch tác nghiệp liên quan đến tất cả
lĩnh vực và tất cả các bộ phận của doanh nghiệp, quy trình kế hoạch hóa chiến lược
đòi hỏi chủ yếu là sự tham gia của các nhà lãnh đạo tỏng khi kế hoạch tác nghiệp
huy động tất cả cán bộ phụ trách bộ phận.
II. CÁC BƢỚC TRONG SOẠN LẬP KẾ HOẠCH CỦA MỘT
DOANH NGHIỆP VÀ NỘI DUNG CỦA MỘT BẢN KẾ HOẠCH
1. Các bước soạn lập kế hoạch.
Soạn lập kế hoạch là giai đoạn đầu tiên của một quy trình kế hoạch hóa
PDCA. Có nhiều cách tiếp cận về quy trình kế hoạch hóa doanh nghiệp, và một
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
trong những quy trình được áo dụng rộng rãi tại các doanh nghiệp ở nước kinh tế thị
trường phát triển, và đặc biệt được ưu chuộng tại Nhật Bản là quy trình PDCA
(plan, do, chech, act). Các hoạt động liên quan đến kế hoạch hóa doanh nghiệp (theo
quy trình này) được chia làm một số giai đoạn cơ bản thể hiện qua sơ đồ sau:
Điều chỉnh (act) Lập kế hoạch (plan)
Thực hiện các điều Xác định mục tiêu và
chỉnh cần thiết quy trình cần thiết để
thực hiện mục tiêu
Đánh giá và phân tích Tổ chức thực hiện quy
quá trình thực hiện trình đã dự định
Kiểm tra (check) Thực hiện (do)
Hình 1: Quy trình kế hoạch hóa PDCA
Theo sơ đồ này, quy trình kế hoạch hóa trong doanh nghiệp bao gồm các bước sau:
- Soạn lập kế hoạch.
Đậy là giai đoạn đầu tiên trong quy trình kế hoạch hóa với nội dung chủ yếu là xác
định các nhiệm vụ, mục tiêu chiến lược, các chương trình và chỉ tiêu kế hoạch tác
nghiệp, soạn lập ngân quỹ cũng như các chính sách, biện pháp áp dụng trong thời
kỳ kế hoạch của doanh nghiệp để thực hiện các mục tiêu đặt ra. Trong điều kiện
kinh tế thị trường, soạn lập kế hoạch thường phải là quá trình xây dựng nhiều
phương án khác nhau, trên cơ sở đó, đưa ra các lựa chọn chiến lược và các chương
trình hành động, nhằm mục đích đảm bảo sự thực hiện các lựa chọn này. Kế hoạch
sẽ chỉ có nghĩa khi chúng ta tính đến tổng thể gồm nhiều vấn đề ràng buộc với nhau
- Các hoạt động triển khai thực hiện kế hoạch:
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Kết quả hoạt động của quá trình này được thể hiện bằng những chỉ tiêu thực tế của
hoạt động doanh nghiệp. Đây là khâu mang tính quyết định đến việc thực hiện
những chỉ tiêu đặt ra trong các kế hoạch. Nội dung của quá trình này bao gồm việc
thiết lập và tổ chức các yếu tố nguồn lực cần thiết, sử dụng các chính sách, các biện
pháp cũng như các đòn bẩy quan trọng tác động trực tiếp đến các cấp thực hiện
nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm đảm bảo các yêu cầu tiến
độ đặt ra trong các kế hoạch tác nghiệp cụ thể kể cả về thời gian, quy mô và chất
lượng công việc.
- Tổ chức công tác theo dõi, giám sát thực hiện kế hoạch:
Nhiệm vụ của quá trình này là thúc đẩy thực hiện các mục tiêu đặt ra và theo dõi,
phát hiện những phát sinh không phù hợp với mục tiêu. Khi phát hiện những phát
sinh không phù hợp đó, điều quan trọng là phải tìm ra nguyên nhân. Những nguyên
nhân này có thể thuộc các cấp thực hiện kế hoạch, ý thức chủ quan của các nhà lãnh
đạo, quản lý hay là những phát sinh đột xuất nảy sinh trong quá trình triển khai kế
hoạch.
- Điều chỉnh thực hiện kế hoạch:
Từ những phân tích về hiện tượng không phù hợp mục tiêu, các nhà kế hoạch đưa ra
các quyết định cần thiết và kịp thời. Các quyết định đó có thể là thay đổi nội dung
của hệ thống tổ chức, hoặc thay đổi các bộ phận trong hệ thống mục tiêu ban đầu,
hoặc là chuyển hướng kinh doanh.
Quy trình kế hoạch hóa nêu trên không phải là một trình tự tác nghiệp đơn giản
mang tính chất tuần tự mà nó được thực hiện đan xen lẫn nhau, tác động hỗ trợ.
Soạn lập kế hoạch là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong quy trình kế
hoạch hóa. Lập kế hoạch là một quá trình đòi hỏi có tri thức. Nó đòi hỏi chúng ta
phải xác định các mục tiêu một cách có ý thức có căn cứ và đưa ra các quyết định
trên cơ sở mục tiêu, sự hiểu biết những đánh giá thận trọng. Lập kế hoạch phải tuân
thủ theo một quy trình với các bước đi cụ thể:
Phân
tích
môi
trường Kế giá và
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
hoạch hiệu
Kế Chươg
tác chỉnh
hoạch trình,
nghiệp các
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Nhiệm
vụ và
mục
tiêu
Hình 2: Các bƣớc soạn lập kế hoạch
Bước 1: Nhận thức cơ hội trên cơ sở xem xét đánh giá môi trường bên trong
và bên ngoài doanh nghiệp, xác định thành phần cơ bản của môi trường tổ chức, đua
ra các thành phần có ý nghĩa thực tế đối với doanh nghiệp, thu thập và phân tích
thông tin về thành phần này; Tìm hiểu các cơ hội có thể có trong tương lai và xem
xét một cách toàn diện, rõ ràng, biết được ta đang đứng ở đâu trên cơ sở điểm mạnh
và điểm yếu của mình. Hiểu rõ tại sao chúng ta phải giải quyết những điều không
chắc chắn và biết chũng ta hy vọng thu được gì. Việc đưa ra các mục tiêu thực hiện
của doanh nghiệp trong thời kỳ kế hoạch phụ thuộc vào những phân tích này.
Bước 2: Thiết lập nhiệm vụ, mục tiêu cho toàn doanh nghiệp và cho các đơn
vị cấp dưới. Các mục tiêu sẽ xác đinh kết quả cần thu được và chỉ ra các điểm kết
thúc trong các việc cần làm, nơi nào cần phải được chú trọng ưu tiên và cái gì cần
hoành thành bằng một hệ thống chiến lược, các chính sách, các thủ tục, các ngân
quỹ, các chương trình
Bước 3: Lập kế hoạch chiến lược. Doanh nghiệp so sánh các nhiệm vụ, mục
tiêu (yếu tố mong muốn) với kết quả nghiên cứu về môi trường bên trong và bên
ngoài (yếu rối giới hạn mục tiêu mong muốn). Xác định sự cách biệt giữa chúng và
bằng việc sử dụng những phương pháp phân tích chiến lược đưa ra các phương án
kế hoạch chiến lược khác nhau. Lập kế hoạch chiến lược phác thảo hình ảnh tương
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
lai của doanh nghiệp trong các lĩnh vực kinh doanh khác nhau và các năng lực có
thể khai thác. Kế hoạch chiến lược xác định các mục tiêu dài hạn, chính sách để
thực hiện được mục tiêu như:
Xác định các phương án kế hoạch chiến lược: xác định các phương án hợp
lý, tìm ra các phương án có nhiều triển vọng nhất.
Đánh giá các phương án lựa chọn: sau khi tìm được các phương án có triển
vọng nhất cần tiến hành đánh giá và xem xét điểm mạnh, điểm yếu cả từng
phương án dưa trên cơ sở định lượng các chỉ tiêu của từng phương án; có
phương án mang lại lợi nhuận cao song lại cần vốn đầu tư lớn và thời gian
thu hồi vốn chậm; Có phương án lợi nhuận ít hơn những cũng rủi ro ít hơn;
Một phương án khác lại có thể thích hợp với các mục tiêu dài hạn của doanh
nghiệp v.v..
Lựa chọn phương án chi kế hoạch chiến lược. Đây là khâu mang tính quyết
định đến việc cho ra đời bản kế hoạch chiến lược. Việc quyết định một trong
số các phương án kế hoạch chiến lược phụ thuộc vào những ưu tin về mục
tiêu cần thực hiện trong thời kỳ kế hoạch. Trong quá trình lựa chọn phương
án cũng cần phải lưu ý đến những phương án dự phòng và những phương án
phụ để sử dụng trong những trường hợp cần thiết.
Bước 4: Xác định các chương trình dự án. Đây là các phân hệ của kế hoạch
chiến lược. Các chương trình thường xác định xựu phát triển của một trong các mặt
hoạt động quan trọng của đơn vị kinh tế như: chương trình hoàn thiện công nghệ,
chương trình kiểm tra chất lượng sản phẩm, chương trình tính toán dự trữ v.v….
còn các dự án thướng định hướng đến một mặt hoạt động cụ thể hơn như dự án phát
triển thị trường, đổi mới sản phẩm. Thông thường một chương trình ít khi đứng
riêng ra một mình, nó thường là bộ phận của hệ thống phức tạp các chương trình,
phụ thuộc vào một số chương tình và ảnh hưởng đến một số chương trình khác. Dù
là chương trình lớn hay chương trình bộ phận thì nội dung của việc xây dựng các
chương trình đêu bao gồm: xác định các mục tiêu, nhiệm vụ; các bước tiến hành;
các nguồn lực cần sử dụng và các yếu tố khác cần thiết để tiến hành chương trình
hoạt động cho trước; những yêu cầu về ngân sách cần thiết. Các dự án thường được
xác định một cách chi tiêt hơn chương trình, nó bao gồm các thông số vè tài chính
và kỹ thuật, các tiến độ thực hiện, tổ chức huy động và sử dụng nguồn lực, hiệu quả
kinh tế tài chính.
Bước 5: Soạn lập hệ thống các kế hoạch chức năng (tác nghiệp) và ngân sách.
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Mục tiêu của các kế hoạch kinh doanh thường hướng tới là: đáp ứng đòi hỏi của thị
trường; nâng cao hiệu quả của hoạt đông kinh doanh, quản lý một cách có hiện quả
hơn các nguồn lực; đảm bảo thực hiện chiến lược kinh doanh đã chọn, cụ thể là:
thực hiện các mục tiêu chiến lược, kiểm soát quá trình triển khai chiến lược. Để
thực hiện được những mục tiêu nói trên, kế hoạch chiến lược cần phải được cụ thể
hóa bằng hệ thống các kế hoạch chức năng, xem đó là các kế hoạch tác nghiệp để
chỉ đạo và điều hành sản xuất kinh doanh. Hệ thống các kế hoạch chức năng bao
gồm: kế hoạch sản xuất sản phẩm, phát triển sản phẩm mới; kế hoạch mua sắm thiết
bị, nguyên nhiên vật liêu; kế hoạch nhân sự, kế hoạch tài chính, kế hoạch maketing.
Sau khi các kế hoạch tác nghiệp được xây dựng xong cần lượng hóa chúng
dưới dạng tiền tệ và các dự toàn về mua sắm yếu tố phục vụ sản xuất, phục vụ bán
hàng, nhu cầu vốn v.v… gọi là soạn lập ngân sách. Ngân sách chung của doanh
nghiệp biểu thị tổng toàn bộ thu nhập và chi phí, lợi nhuận hay số dư tổng hợp và
các khoản mục cân đối chính như chi tiêu tiền mặt hay chi phí đầu tư. Ngoài ngân
sách chũng mỗi bộ phận hay chương trình của doanh nghiệp cũng cần soạn lập ngân
sách riêng của mình.
Các kế hoạch chức năng và ngân sách thực tế có mối quan hệ mật thiết với
nhau và cần phải thống nhất trong quá trình xây dưng nhằm đảm bảo sự phối hợp
đồng bộ và có hiện quả giữa các chức năng trong doanh nghiệp.
Bước 6: Đánh giá, hiệu chỉnh các pha của kế hoạch. Đâu có thể coi là bước
thẩm định cuối cùng trước khi cho ra một văn bản kế hoạch. Các nhà lãnh đạo
doanh nghiệp cùng với các nhà chuyên môn kế hoạch cũng như các chức năng khác,
có thể sử dụng thêm đội ngũ chuyên gia, tư vấn kiểm tra lại các mục tiêu, chỉ tiêu,
các kế hoạch chức năng, ngân sách, các chính sách v.v… phân định kế hoạch theo
các pha có liên quan đến các tổ chức thực hiện kế hoạch, trên cơ sở đó tiến hành các
phê chuẩn cần thiết để chuẩn bị chuyên giao nội dung kế hoạch cho các cấp thực
hiện.
2. Nội dung của một bản kế hoạch của một doanh nghiệp.
2.1 Kế hoạch bộ phận.
2.1.1 Kế hoạch marketing:
Kế hoạch marketing xuất phát từ sự phân tích môi trường và thị trường, trong
đó người ta đề ra các chiến lược lớn cùng với những mục tiêu trung hạn và ngắn hạn
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
cho cả công ty, hoặc cho một nhóm sản phẩm cụ thể, sau đó người ta xác định các
phương tiện cần thiết để thực hiện những mục tiêu trên, và những hành động cần
thực hiện, đồng thời tín toán những khoản thu nhập và chi phí giúp cho việc thiết
lập một ngân sách cho phép thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch.
2.1.2 Kế hoạch sản xuất và dự trữ.
Kế hoạch sản xuất nhằm tối ưu hóa việc sử dụng các yếu tố sản xuất sẵn có
để sản xuất một hoặc nhiều sản phẩm đã định. Kế hoạch sản xuất bao gồm việc xác
định các nội dung sau: khối lượng sản xuất cho mỗi loại sản phẩm; các sản phẩm
khác nhau được sản xuất tại mỗi đơn vị sản xuất; lượng dự trữ cần thiết đối với
thành phẩm và bán thành phẩm; sử dụng các yếu tố sản xuất; cung ứng nguyên vật
liệu và bán thành phẩm; các kế hoạch thuê ngoài. Kế hoạch dự trữ trong doanh
nghiệp sản xuất liên quan đến hai đối tượng chủ yếu đó là dự trữ sản phẩm và dự trữ
nguyên vật liệu, ngoài ra doanh nghiệp còn phải dự trữ bán thành phẩm. Dự trữ
nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của khách hàng (nếu như bị cháy kho thì có thể dẫn
đến những thiệt hại không thể lường trước về mặt thương mại như uy tín, mất khách
hàng...).
2.1.3 Kế hoạch nhân sự.
Kế hoạch nhân sự là quá trình phân tích liên tục yêu cầu nhân sự của doanh
nghiệp nhằm mục đích đáp ứng các mục tiêu của doanh nghiệp. Công tác tuyển
dụng nhân viên chính là để đáp ứng các nhu cầu mà lực lượng hiện tại không thể
đáp ứng được.
2.1.4 Kế hoạch tài chính.
Kế hoạch tài chính là quá trình soạn thảo các kế hoạch và các chỉ tiêu quan
trọng, các định mức tài chính nhằm đảm bảo các nguồn lực tài chính cần thiết cho
sự phát triển của doanh nghiệp.
2.2 Mối liên hệ giữa các kế hoạch bộ phận.
Các kế hoạch bộ phận của kế hoạch trong doanh nghiệp có mối quan hệ mật
thiết và thống nhất trong quá trình xây dựng nhằm đảm bảo sự phối hợp đồng bộ và
có hiệu quả giữa các chức năng trong doanh nghiệp.
Kế hoạch marketing sẽ là trung tâm và cơ sở của mọi kế hoạch tác nghiệp
khác. Kế hoạch marketing sẽ dự báo được nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của thị trường.
Sau đó, doanh nghiệp sẽ sử dụng các phương pháp dự báo theo các cách tiếp cận
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
DANH MỤC CÁC CHỮ, THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
TT Ký hiệu Giải thích ý nghĩa
1 SXKD Sản xuất kinh doanh
2 CBCNV Cán bộ công nhân viên
3 HĐQT Hội đồng quản trị
4 BHXH Bảo hiểm xã hội
5 LNST Lợi nhuận sau thuế
6 DT Doanh thu
7 VCSH Vốn chủ sở hữu
8 TS Tài sản
9 LĐ - TL Lao động - tiền lương
10 KH Kế hoạch
11 NVKD Nhân Viên Kinh Doanh
12 NVSR Nhân Viên Showroom
13 HCKD Hành chính kinh doanh
14 PKT Phòng kế toán
15 BLDKD Ban lãnh đạo kinh doanh
16 BPLĐ Bộ phận lắp đặt
17 GSLĐ Giám sát lắp đặt
18 BH Bảo hành
19 ĐNSX Đề nghị sản xuất
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
BẢNG DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU:
TT Tên bảng biểu Trang
Bảng 1 Kết quả thực hiện chỉ tiêu sản xuất kinh doanh năm
2008-2009
Bảng 2 Tình hình thực hiện kế hoạch của các showroom và
đại lý năm 2009
Bảng 3 Kế hoạch kinh doanh năm 2010
Bảng 4 Chỉ tiêu kế hoạch bán hàng của các showroom trong
năm 2010
Bảng5 Kế hoạch sản xuất sản phẩm chủ yếu giai đoạn 2009-
2010
Bảng 6 Kế hoạch tài chính giai đoạn 2009-2010
Kế hoạch nhân sự năm 2009- 2010
Bảng 7
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
BẢNG DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ:
TT Tên hình vẽ Trang
Hình 1 Quy trình kế hoạch hóa PDCA
Hình 2 Các bước soạn lập kế hoạch
Hình 3 Mối quan hệ ràng buộc giữa các
kế hoạch chức năng trong doanh
nghiệp
Hình 4 Lưu đồ quá trình kinh doanh
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Phần I: MỞ ĐẦU.
Từ hơn hai thập kỷ đổi mới sang cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của
Nhà Nước, nền kinh tế Việt Nam đã và đang dần chuyển mình để đuổi kịp và trở
thành “con hổ” kinh tế trong khu vực. Sự thay đổi này đem lại cho Việt Nam những
thành quả thật sự đáng kể trong cả kinh tế và xã hội. Chúng ta có thể quan sát thấy
sự thay da đổi thịt hàng ngày của nền kinh tế, nhất là sự trỗi dậy của nền kinh tế tư
nhân và sự cải thiện đáng kể hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
nhà nước.
Sự thay đổi cơ chế kinh tế cũng đã dẫn đến sự thay đổi sâu sắc trong cơ chế
quản lý các doanh nghiệp và đặc biệt là các công cụ quản lý. Trong số đó, chúng ta
có thể dễ dàng quan sát thấy một xu hướng rõ nét trong quan niệm rõ nét của các
nhà quản lý là từ bỏ các công cụ cũ - được đánh giá là nguyên nhân của sự kém hiệu
quả trong hoạt động kinh tế dưới cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây. Thực tế
đã chứng minh rằng: Kế hoạch kinh doanh không thể thiếu được trong việc ra quyết
định, cả những quyết định mang tính chiến lược và tác nghiệp. Tất cả các đơn vị sản
xuất kinh doanh ngoài việc quản lý và tổ chức các hoạt động bằng chiến lược kinh
doanh vẫn tất yếu phải xây dựng kế hoạch kinh doanh và tổ chức quản lý sản xuất
kinh doanh bằng kế hoạch. Nó là sự cụ thể hóa của chiến lược, mang tính chi tiết,
định hướng và tác nghiệp cao. Do đó, nâng cao khả năng thực hiện kế hoạch kinh
doanh ở các doanh nghiệp là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với doanh
nghiệp.
Đối với Công Ty cửa sổ nhựa châu Âu_ Eurowindow nói riêng, việc xây
dựng một kế hoạch kinh doanh cụ thể, chặt chẽ là hết sức quan trọng, đóng góp
phần lớn vào sự thành công trong hoạt động kinh doanh của Công ty. Ban lãnh đạo
công ty cùng các cán bộ phận Kinh doanh luôn quan tâm và có nhiều biện pháp để
thực hiện tốt công tác kế hoạch kinh doanh. Tuy nhiên, công tác kế hoạch hóa của
Công ty vẫn còn cứng nhắc và thiếu linh hoạt. Đó là một trong số những nguyên
nhân làm giảm hiệu quả kinh doanh của công ty.
Với những lý do đó, tôi đã quyết định chọn đề tài “ Hoàn thiện công tác
soạn lập kế hoạch tại công ty cổ phẩn cửa sổ nhựa Châu Âu_Eurowindow” để
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
có thể quản lý nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Kết cấu của chuyên đề
gồm 3 chương:
Chƣơng I: Kế hoạch trong một hoạt động của một doanh nghiệp
Chƣơng II: Đánh giá công tác lập kế hoạch tại công ty cổ phần cửa sổ nhựa
Châu Âu_ Eurowindow
Chƣơng III:Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch trong giai
đoạn 2009-2010 của Công Ty cổ phần cửa sổ nhựa Châu ÂU_ Eurowindow
Mục đích nghiên cứu: Dựa trên khảo sát thực tế tại Công ty cổ phần cửa sổ
nhựa Châu ÂU và tham khảo ý kiến các nhà quản lý để tìm ra những tồn tại trong
quá trình lập kế hoạch kinh doanh của Công ty nhằm đề xuất những giải pháp để
hoàn thiện công tác lập kế hoạch kinh doanh của Công ty.
Phạm vi nghiên cứu: Trong chuyên đề này, các số liệu được lấy ở Công ty cổ
phần cửa sổ nhựa Châu Âu và đề cập đến công tác lập kế hoạch kinh doanh của
công ty cổ phần cửa sổ nhựa Châu Âu từ năm 2009-2010.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học kết
hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, giữa phân tích và tổng hợp xuất phát từ thực
trạng hoạt động của công ty.
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Phần II: NỘI DUNG.
Chƣơng I
KẾ HOẠCH KINH DOANH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
MỘT DOANH NGHIỆP
I. TỔNG QUAN VỀ KẾ HOẠCH TRONG MỘT DOANH NGHIỆP
1. Hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp
Hoạt động kinh doanh, theo luật định, là việc thực hiện một, một số hoặc tất
cả các công đoạn của quá trình đầu tư, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Như vậy, hoạt động kinh doanh không chỉ bao gồm các hoạt động thương
mại (theo cách hiểu truyền thống) mà còn có các nội dung rất rộng, bao gồm: đầu
tư, sản xuất, chế biến, các hoạt động thương mại thuần túy và các hoạt động cung
cấp dịch vụ.
Hoạt động kinh doanh có thể tiếp cận theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn:
Theo tính chất hoạt động của chúng ta, có hoạt động sản xuất (sản phẩm
hoặc dịch vụ) và hoạt động thương mại.
Theo bản chất kinh tế, chúng ta có thể có các doanh nghiệp công nghiệp,
thương nghiệp, nông nghiệp, tài chính, v…vv
2. Kế hoạch và vai trò của kế hoạch trong hoạt động của doanh nghiệp
2.1 Khái niệm chung
Kế hoạch hóa từ lâu đã được coi như một công cụ để thiết lập cũng như thực
hiện các quyết định chiến lược. Tuy nhiên vai trò này không phải lúc nào cũng được
thừa nhận một cách nhất quán, nó có thể là công cụ quản lý không thể thiếu được
đối với đối tượng này, nhưng lại là thủ phạm của sự cứng nhắc đối tượng khác. Kế
hoạch hóa có nhiều nghĩa khác nhau và đã từng là chủ đề của nhiều ý kiến trái
ngược, cho dù nó liên quan đến doanh nghiệp hay là nền kinh tế quốc dân.
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Hiểu một cách tổng quát nhất, kế hoạch hóa là một phương thức quản lý theo
mục tiêu, nó “ Là hoạt động của con người trên cơ sở nhận thức và vận dụng các
quy luật xã hội và tự nhiên, đặc biệt là các quy luật kinh tế để tổ chức quản lý các
đơn vị kinh tế- kỹ thuật, các ngành, các lĩnh vực hoặc toàn bộ nền sản xuất xã hội
theo những mục tiêu thống nhất”.
Theo cách hiểu trên, kế hoạch hóa thực hiện ở nhiều quy mô và phạm vi
khác nhau như: kế hoạch hóa kinh tế quốc dân, kế hoạch hóa theo vùng, địa
phương, kế hoạch hóa theo ngành, lĩnh vực, kế hoạch hóa doanh nghiệp. Kế hoạch
hóa hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (gọi tắt là kế hoạch hóa doanh
nghiệp) được xác định là một phương thức quản lý doanh nghiệp theo mục tiêu, nó
bao gồm toàn bộ các hành vi can thiệp một cách có chủ định của các nhà lãnh đạo
và quản lý doanh nghiệp vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của đơn vị mình
nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra. Hay nói cách khác “kế hoạch hóa doanh
nghiệp là một quy trình ra quyết định cho phép xây dựng một hình ảnh mong muốn
về trạng thái tương lai của doanh nghiệp và quá trình tổ chức triển khai thực hiện
mong muốn đó”
Như vậy, kế hoạch hóa doanh nghiệp là thể hiện kỹ năng tiên đoán mục tiêu
phát triển và tổ chức quá trình thực hiện mục tiêu đề ra. Công tác này bao gồm các
hoạt động:
Lập kế hoạch: đây là khâu giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong công tác kế
hoạch hóa doanh nghiệp, nó là quá trình xác định các mục tiêu, chỉ tiêu kế
hoạch và đề xuất chính sách giải pháp áp dụng. Kết quả của việc soạn lập kế
hoạch là một bản kế hoạch của doanh nghiệp được hình thành và nó chính là
cơ sở cho việc thực hiện các công tác sau kế hoạch hóa. Bản kế hoạch doanh
nghiệp là hệ thống phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu và các chỉ tiêu nguồn
lực vật chất, nguồn lực tài chính cần thiết cho việc thực hiện mục tiêu phát
triển doanh nghiệp đặt ra trong thời kỳ kế hoạch nhất định. Kế hoạch hóa
doanh nghiệp chính là thể hiện ý đồ phát triển của các nhà lãnh đạo và quản
lý đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các giải pháp
tức thì.
Mặc dù định hướng tương lai, nhưng quá trình soạn lập kế hoạch khác với dự
báo thường nhằm mục đích trả lời câu hỏi cái gì sẽ xảy ra thông qua con
đường ngoại suy, nó cũng khác với cái mà chúng ta gọi là triển vọng cũng
nhằm mục đích trả lời câu hỏi đã nêu bằng cách nội suy. Trong khi quá trình
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
soạn lập kế hoạch xác định cách thức trả lời câu hỏi chúng ta sẽ làm gì. Bản
kế hoạch cũng khác với chương trình, thường tồn tại trong ý nghĩa như là
một cơ học về doanh nghiệp trong môi trường của nó với ý niệm rằng tương
lai là hoàn toàn có thể dự đoán được.
Như vậy có thể hiểu bản kế hoạch doanh nghiệp được hình thành thông qua
những câu hỏi mang tính bản chất của nó như sau: (1) trạng thái của doanh nghiệp
hiện tại, kết quả và những điều kiện hoạt động kinh doanh? (2) Doanh nghiệp muốn
được phát triển như thế nào (hướng phát triển của doanh nghiệp)? Làm thể nào để
sử dụng có hiệu quả nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu đề ra?
Tổ chức thực hiện kế hoạch, kiểm tra, điều chỉnh và đánh giá kế hoạch là
những hoạt động tiếp sau của công tác kế hoạch hóa nhằm đưa kế hoạch vào
thực tế hoạt động của doanh nghiệp. Đây là quá trình tổ chức, phối hợp hoạt
động của các bộ phận, các yếu tố nguồn lực của doanh nghiệp, triển khai các
hoạt động khác nhau theo kế hoạch đặt ra. Quá trình triển khai kế hoạch
không chỉ đơn giản là xét những hoạt động cần thiết của doanh nghiệp mà nó
còn thể hiện khả năng dự kiến, phát hiện những điều bất ngờ có thể xuất hiện
trong quá trình hoạt động và khả năng ứng phó những điều bất ngờ đó. Quá
trình kiểm tra, theo dõi, điều chỉnh kế hoạch giúp doanh nghiệp không chỉ
xác định được tất cả những rủi ro trong hoạt động của mình mà còn có khả
năng quản lý rủi ro với sự hỗ trợ của việc tiên đoán có hiệu quả và xử lý
những rủi ro đó trong quá trình thực hiện mục tiêu đặt ra. Công tác đánh giá
kế hoạch sẽ là cơ sở giúp cho doanh nghiệp xây dưng được những phương án
kế hoạch tiếp sau một cách chính xác và sát thực hơn.
2.2 Vai trò của kế hoạch trong doanh nghiệp.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung
Kế hoạch hóa tập trung là mô hình kế hoạch truyền thống của Liên xô được
xây dựng từ những năm 1920 và sử dụng ở Việt Nam đến thập niên 1980. Điều kiện
tiền đề của sự tồn tại cơ chế này là nền kinh tế dựa trên cơ sở chế độ công hữu xã
hội chũ nghĩa về tư liệu sản xuất và sự thống trị của nhà nước chuyên chính vô sản.
Kế hoạch hóa được thể hiện là những quyết định mang tính chất mệnh lệnh phát ra
từ trung ương. Sự vận dụng mô hình này đòi hỏi phải thiết lập khu vực công nghiệp
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Nhà nước vận hành theo một hệ thống phân phối mệnh lệnh hành chính các đầu vào
và đầu ra, các chỉ tiêu kế hoạch hiện vật ở cấp xí nghiệp vùng tồn tại với một hệ
thống bảng cân đối.
Hình thức chuyển giao điển hình giữa các chủ thể kinh tế không phải đặt trên
cơ sở những tính toán của chính các chủ thể về những lợi thế tương đối của các
phương án thay thế mà họ sẽ phải lựa chọn, trái lại, giao dịch có ý nghĩa là việc giao
và nhận các sản phẩm nhằm thực hiện các chỉ tiêu nghĩa vụ có tính pháp lệnh của
những nhà lập kế hoạch. Các chỉ tiêu kế hoạch của doanh nghiệp chính là các chỉ
tiêu pháp lệnh mang tính toàn diện, chi tiết mà cơ quan quản lý cấp trên giao xuống
trên cơ sở cân đối chung toàn nghành và tổng thế nền kinh tế quốc dân. Theo hệ
thống chỉ tiêu mục tiêu pháp lệnh, các chỉ tiêu về lao động, vốn vật tư, thiết bị, tiêu
thụ sản phẩm, phân phối thu nhập được doanh nghiệp xây dựng theo các con số
kiểm tra của cơ quan chủ quản, đề nghị cấp trên xét duyệt và cung cấp theo các
nguyên tắc cấp phát- giao nộp. Các kế hoạch tiến độ, điều độ sản xuất của doanh
nghiệp đều là cụ thể hóa các chỉ tiêu pháp lệnh được cấp trên giao xuống và nó chi
phối toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.
Như vậy, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch hóa
tập trung, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh là cơ sở điều tiết mọi hoạt động tổ
chức và quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vai trog lớn nhất của cơ
chế này là: có năng lực tạo ra các tỷ lệ tiết kiệm và khả năng tích lũy rất cao, thực
hiện được những cân đối cần thiết trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, nền kinh tế
có thể đạt được mức cung ứng cần thiết để tạo ra mức tăng trưởng nhanh. Đặc biệt,
nhờ có cơ chế kế hoạch hóa tập trung mà nhà nước có thể hướng các nguồn lực cần
thiết để thực hiện các mục tiêu và các lĩnh vực cần ưu tiên trong những thời kỳ nhất
định. Các đơn vị kinh tế xem như là những tế bào trong tổng thể nền kinh tế, thực
hiện nhiệm vụ kế hoạch theo những mục tiêu thống nhất từ trên xuống.
Có thể nói cơ chế kế hoạch hóa tập trung áp dụng ở nước ta trong một thời
kỳ dài, nó đem lại những kết quả đáng kể, nhất là trong thời kỳ Việt Nam thực hiện
cuộc kháng chiến chống Mỹ. Với cơ chế này, nhiều doanh nghiệp sản xuất và dịch
vụ ở nước ta đã ra đời và cung cấp một khối lượng của cải vật chất đáng kể, đảm
đương được những nhiệm vụ nặng nề trong công cuộc phục vụ kháng chiến và quốc
kế dân sinh.
Tuy vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường, cơ chế kế hoạch hóa theo mô
hình tập trung mệnh lệnh trở nên không còn phù hợp, bản thân những đặc trưng của
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
cơ chế này đã tạo ra những rào cản hạn chế sự phát triển của chính các doanh
nghiệp cũng như toàn thể nền kinh tế quốc dân, cụ thể là:
Hạn chế tính năng động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp
trong việc thích nghi với những điều kiện thị trường.
Nền kinh tế bị mất động lực phát triển, các doanh nghiệp không có khả năng
cạnh tranh, nhất là trong lo-gic của kinh tế cầu.
Hạn chế tính năng động về công nghệ, áp dụng kỹ thuật mới vì công việc cho
ra đời các sản phẩm mới không được gắn chặt với cơ chế khuyến khích.
Hiệu quả kinh tế rất thấp do vừa không có những chỉ số về chi phí kinh tế
tương đối, vừa không có những cơ chế đãi ngộ xứng đáng cho tính hiệu quả
và trừng phạt đối với sự phi hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thường xuyên phải đối mặt
với các quy luật thị trường, vì vậy những dấu hiệu thị trường là cơ sở để các doanh
nghiệp thực hiện các hành vi sản xuất kinh doanh của mình. Tuy vậy, kế hoạch hóa
vẫn là cơ chế quản lý cần thiết, hữu hiệu của các doanh nghiệp. Lập luận về sự tồn
tại của phát triển của kế hoạch hóa doanh nghiệp tỏng nền kinh tế thị trường xuất
phát từ chính vai trò của nó trong quản lý doanh nghiệp. Những vai trò chính được
thể hiện như sau:
Tập trung sự chú ý của các hoạt động trong doanh nghiệp vào các mục tiêu.
Kế hoạch hóa là nhằm đạt được các mục tiêu doanh nghiệp, cho nên chính
các hoạt động của công tác kế hoạch hóa là tập trung vào các mục tiêu này.
Lập kế hoạch- khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong quy trình kế hoạch hóa
là công việc duy nhất có liên quan tới việc thiết lập các mục tiêu cần thiết
cho sự phấn đấu của tập thể. Thị trường bản thân nó rất linh hoạt và thường
xuyên biến động, kế hoạch và quản lý bằng kế hoạch giúp các doanh nghiệp
dự kiến được những cơ hội và thách thức có thể xảy ra để quyết định nên làm
cái gì, làm như thế nào, khi nào làm và ai làm trong một thời kỳ nhất định.
Mặc dù chúng ta ít khi tiên đoán được tương lai và mặc dù các yếu tố nằm
ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp có thể phá vỡ những kế hoạch tốt nhất
đã có, những nếu không có kế hoạch và tổ chức quá trình hoạt động thông
qua các mục tiêu định lập trước thì có nghĩa là chúng ta đã để cho các sự
kiện có liên quan đến sinh mệnh sống của doanh nghiệp mình diễn ra một
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
cách ngẫu nhiện và tính rủi ro trong hoạt động của doanh nghiệp cũng sẽ
tăng lên.
Công tác kế hoạch hóa với việc ứng phó những bất định và đổi thay của thị
trường. Lập kế hoạch là dự kiến những vấn đề của tương lai, mà tương lai rất
ít khi chắc chắn, tương lai càng dài thì kết quả của các quyết định càng kém
chắc chắn. Thậm chí ngay cả khi tương lai có độ chắc chắn cao thì các nhà
quản lý vẫn cần phải tìm cách tốt nhất để đạt được mục tiêu đặt ra, phân
công, phối hợp hoạt động của các bộ phận trong hệ thống tổ chức quá trình
thực hiện mục tiêu kế hoạch và tháo gỡ, ứng phó với những bất ổn trong sản
xuất kinh doanh. Như vây, giống như một nhà hàng hải không thể chỉ lập ra
hành trình rồi quên nó, một nhà kinh doanh không thể lập kế hoạch và dừng
lại đó. Sự bất định và đổi thay của môi trường đòi hỏi họ, ngoài việc soạn lập
kế hoạch, phải tiến hành các nội dung khác của công tác kế hoạch hóa là
triển khai thực hiện, kiểm tra công việc của các cấp tổ chức, điều chỉnh các
hoạt động cần thiết để đảm bảo thực thi các mục tiêu kế hoạch đặt ra.
Công tác kế hoạch hóa với việc tạo ra khả năng tác nghiệp kinh tế trong
doanh nghiệp. Công tác kế hoạch thường hướng tới cực tiểu hóa chi phí vì nó
chú trọng vào các hoạt động hiệu quả và bảo tính phù hợp. Kế hoạch thay thế
sự hoạt động manh mún, không được phối hợp bằng sự nỗ lực định hướng
chung, thay thế luồng hoạt động thất thường bởi một hoạt động đều đặn, và
thay thế những phán xét vội vàng bằng những quyết định có cân nhắc kỹ
lưỡng. Ở phạm vi doanh nghiệp tác dụng của kế hoạch hóa với các tác
nghiệp kinh tế càng rõ ràng hơn. Không một ai đã từng ngắm từng bộ phận
lắp ráp ô tô trong một nhà máy lớn mà lại không có ấn tượng về cách thức và
các dây chuyền phụ ghép nối với nhau. Từ hệ thống băng tải chính hình
thành thân xe và các bộ phận khác nhau được hình thành từ các dây chuyền
khác. Động cơ, bộ truyền động và các bộ phận được đặt vào chỗ một cách
chính xác vào đúng thời điểm xác định. Ví dụ trên cho thấy quá trình sản
xuất dịch vụ thường được chia thành nhiều công đoạn, nhiều chi tiết có liên
quan chặt chẽ, mang tính dây chuyền với nhau. Quá trình đó cần được cân
nhắc chia thành các ngành tác nghiệp kinh tế, kỹ thuật chi tiết theo thời gian
và không gian. Công tác kế hoạch hóa doanh nghiệp tạo cơ sở cho việc nhìn
nhận logic các nội dung hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau trong quá
trình tiến tới mục tiêu sản xuất sản phẩm và dịch vụ cuối cùng. Trên nền tảng
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
đó, các nhà quản lý thực hành các phân công, điều độ, tổ chức các hành động
cụ thể, chi tiết theo đúng trình tự, đảm bảo cho sản xuất sẽ không bị rối loạn
và ít tốn kém.
3. Hệ thống kế hoạch trong doanh nghiệp
Đứng trên mỗi góc độ khác nhau, hệ thống kế hoạch hóa của doanh nghiệp
được chia thành những bộ phận khác nhau
3.1 Theo góc độ thời gian
Đây là thể hiện việc phân đoạn kế hoạch theo thời gian cần thiết để thực hiện
chỉ tiêu đặt ra. Theo góc độ này, kế hoạch doanh nghiệp bao gồm ba bộ phận cấu
thành:
Kế hoạch dài hạn bao trùm lên khoảng thời gian dài khoảng 10 năm. Quá
trình soạn lập kế hoạch dài hạn đặc trưng bởi
Môi trường liên quan được hạn chế bởi thị trường mà doanh nghiệp có mặt;
Dự báo trên cơ sở ngoại suy từ quá khứ, bao gồm xu hướng dự tính nhu cầu,
giá cả và hành vi cạnh tranh;
Chủ yếu nhấn mạnh đến các ràng buộc về tài chính;
Sử dụng rộng rãi các phương pháp kinh tế lượng để dự báo
Cần lưu ý rằng kế hoạch dài hạn không đồng nghĩa với kế hoạch chiến lược vì
kế hoạch chiến lược bao trùm nội dung khác không phải chỉ đứng trên góc độ thời
gian.
Kế hoạch trung hạn cụ thể hóa những định hướng củ kế hoạch dài hạn ra các
khoảng ngắn hạn hơn, thường là 3 đến 5 năm
Kế hoạch ngắn hạn thường là các kế hoạch hàng năm và các kế hoạch tiến độ,
hành động có thời hạn dưới một năm như: kế hoạch quý, tháng, v.v.v… Kế hoạch
ngắn hạn bao gồm các phương pháp cụ thể sử dụng nguồn lực của các doanh nghiệp
cần thiết để đạt được mục tiêu trong kế hoạch trung và ngắn hạn
Tuy nhiên, việc phân chia thời hạn của các kế hoạch chỉ mang tính tương đối,
nhất là đối với những điều kiện thị trường hiện nay thay đổi với tốc độ nhanh hơn
nhiều so với cách đây vài thập kỷ. Do vậy, trong những lĩnh vực mà điều kiện thị
trường biến động nhiều (chu kỳ thay đổi công nghệ càng ngày càng nhanh, vòng đời
sản phẩm càng ngày càng ngắn, v.v..) thì những kế hoạch chi từ 3 đến 5 năm có thể
coi là rất dài hạn.
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Ba loại kế hoạch ngắn, trung và dài hạn cần phải liên kết chặt chẽ với nhau và
không được phủ nhận lẫn nhau. Cần thiết phải nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
việc giải quyết mối quan hệ giữa các loại kế hoạch theo thời gian vì trên thực tế, đã
nảy sinh nhiều lãng phí từ các quyết định theo những tình huống trước mắt mà
không đánh giá được ảnh hưởng của các quyết định này đối với các mục tiêu dài
hạn hơn. Nhiều kế hoạch ngắn hạn đã không đóng góp gì cho một kế hoạch dài hạn
mà còn gây nhiều trở ngại, hay có những đòi hỏi nhiều đối với các kế hoạch dài
hạn. Ví dụ như nếu một doanh nghiệp nhỏ nhận một đơn đặt hàng lớn mà không
tính tới ảnh hưởng của đơn đặt hàng tới khả năng sản xuất hay cung cấp tiền mặt
của doanh nghiệp thì điều đó có thể cản trở tới khả năng tương lai để trang trải tài
chính cho mở rộng một các hệ thống, đủ để tạo ra những thay đổi trong chương
trình dài hạn của một doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp quyết đinh sa thải một
số công nhận không có lý do chính đáng có thể cản trở mục tiêu dài hạn của công ty
trong việc phát triển một chương trình nhận sự đúng đắn và có hiện quả.
Để thực hiện được mối quan hệ giữa kế hoạch dài, trung và ngắn hạn, các nhà
lãnh đạo chủ chối các doanh nghiệp nên thường xuyên xem xét và sửa đổi các quyết
định trước mắt xem chúng có phục vụ các chương trình dài hạn hay không và các
nhà quản lý cấp dưới nên được thông báo một cách thường xuyên về kế hoạch dài
hạn của doanh nghiệp sao cho các quyết định của họ phù hợp với các mục tiêu dài
hạn của doanh nghiệp
3.2 Đứng trên góc độ nội dung, tính chất hay cấp độ của kế hoạch.
Chúng ta có thể chia hệ thống kế hoạch doanh nghiệp làm hai bộ phận: kế
hoạch chiến lược và kế hoạch chiến thuật (tác nghiệp)
Kế hoạch chiến lược
Khái niệm chiến lược xuất phát từ tiếng Hy Lạp và xuất hiện đầu tiên trong lĩnh
vực quân sự. Chiến lược có nghĩa là “nghệ thuật của tướng lĩnh” để tìm ra con
đường đúng đắn nhất giành chiến thắng. Lập kế hoạch chiến lược cho doanh nghiệp
phổ biến vào những năm 1960 đối với các doanh nghiệp lớn khi mà hoạt động của
chúng trở nên phức tạp hơn, đồng thời cạnh tranh gay gắt hơn, đa dạng hơn trong
khi các tiến bộ về khoa học công nghệ trở nên tăng tốc hơn khiến cho các doanh
nghiệp khó khăn trong việc lựa chọn mục tiêu phát triển công nghệ và sản phẩm
mới, thâm nhập thị trường, lựa chọn các phương thức phát triển v.v….
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Kế hoạch chiến lược áp dụng trong các doanh nghiệp là định hướng lớn cho
phép doanh nghiệp thay đổi, cải thiện, củng cố vị thế cạnh tranh của mình và những
phương pháp cơ bản để đạt được mục tiêu đó. Soạn lập kế hoạch chiến lược không
phải từ những kỳ vọng mà doanh nghiệp muốn đạt tời mà là xuất phát từ khả năng
thực tế của doanh nghiệp và như vậy nó là thể hiện sự phản ứng của doanh nghiệp
đối với hoàn cảnh khách quan bên trong và bên ngoài của hoạt động doanh nghiệp.
Thường thì kế hoạch chiến lược được soạn thảo cho thời gian dài, tuy vậy nó
không đồng nghĩa với kế hoạch dài hạn. Nhiều doanh nghiệp đã dựa vào những kế
hoạch chiến lược ngắn hạn. Nói đến kế hoạch chiến lược không phải là nói đến góc
độ thời gian của chiến lược mà nói đến tính chất định hướng của kế hoạch và bao
gồm toàn bộ mục tiêu tổng thể phát triển doanh nghiệp. Trách nhiệm soạn thảo kế
hoạch chiến lược trước hế là lãnh đạo doanh nghiệp, vì kế hoạch chiến lược đòi hỏi
có trách nhiệm rất cao, quy mô hoạt động rộng lớn của các nhà quản lý
Kế hoạch chiến thuật.
Là công cụ chuyển các định hướng chiến lược thành các chương trình áp dụng
cho các bộ phận của doanh nghiệp trong khuôn khổ các hoạt động của doanh
nghiệp, nhằm thực hiện được các mục tiêu của kế hoạch chiến lược. Kế hoạch tác
nghiệp được thể hiện cụ thể ở những bộ phận kế hoạch riêng biệt trong tổng thể
hoạt động kinh doanh như: kế hoạch sản xuất, kế hoạch maketing, kế hoạch tài
chính, kế hoạch nhân sự của doanh nghiệp.
Kế hoạch chiến lược tập trung vào các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến các
tương lai của doanh nghiệp, trong khi đó kế hoạch tác nghiệp liên quan đến tất cả
lĩnh vực và tất cả các bộ phận của doanh nghiệp, quy trình kế hoạch hóa chiến lược
đòi hỏi chủ yếu là sự tham gia của các nhà lãnh đạo tỏng khi kế hoạch tác nghiệp
huy động tất cả cán bộ phụ trách bộ phận.
II. CÁC BƢỚC TRONG SOẠN LẬP KẾ HOẠCH CỦA MỘT
DOANH NGHIỆP VÀ NỘI DUNG CỦA MỘT BẢN KẾ HOẠCH
1. Các bước soạn lập kế hoạch.
Soạn lập kế hoạch là giai đoạn đầu tiên của một quy trình kế hoạch hóa
PDCA. Có nhiều cách tiếp cận về quy trình kế hoạch hóa doanh nghiệp, và một
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
trong những quy trình được áo dụng rộng rãi tại các doanh nghiệp ở nước kinh tế thị
trường phát triển, và đặc biệt được ưu chuộng tại Nhật Bản là quy trình PDCA
(plan, do, chech, act). Các hoạt động liên quan đến kế hoạch hóa doanh nghiệp (theo
quy trình này) được chia làm một số giai đoạn cơ bản thể hiện qua sơ đồ sau:
Điều chỉnh (act) Lập kế hoạch (plan)
Thực hiện các điều Xác định mục tiêu và
chỉnh cần thiết quy trình cần thiết để
thực hiện mục tiêu
Đánh giá và phân tích Tổ chức thực hiện quy
quá trình thực hiện trình đã dự định
Kiểm tra (check) Thực hiện (do)
Hình 1: Quy trình kế hoạch hóa PDCA
Theo sơ đồ này, quy trình kế hoạch hóa trong doanh nghiệp bao gồm các bước sau:
- Soạn lập kế hoạch.
Đậy là giai đoạn đầu tiên trong quy trình kế hoạch hóa với nội dung chủ yếu là xác
định các nhiệm vụ, mục tiêu chiến lược, các chương trình và chỉ tiêu kế hoạch tác
nghiệp, soạn lập ngân quỹ cũng như các chính sách, biện pháp áp dụng trong thời
kỳ kế hoạch của doanh nghiệp để thực hiện các mục tiêu đặt ra. Trong điều kiện
kinh tế thị trường, soạn lập kế hoạch thường phải là quá trình xây dựng nhiều
phương án khác nhau, trên cơ sở đó, đưa ra các lựa chọn chiến lược và các chương
trình hành động, nhằm mục đích đảm bảo sự thực hiện các lựa chọn này. Kế hoạch
sẽ chỉ có nghĩa khi chúng ta tính đến tổng thể gồm nhiều vấn đề ràng buộc với nhau
- Các hoạt động triển khai thực hiện kế hoạch:
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Kết quả hoạt động của quá trình này được thể hiện bằng những chỉ tiêu thực tế của
hoạt động doanh nghiệp. Đây là khâu mang tính quyết định đến việc thực hiện
những chỉ tiêu đặt ra trong các kế hoạch. Nội dung của quá trình này bao gồm việc
thiết lập và tổ chức các yếu tố nguồn lực cần thiết, sử dụng các chính sách, các biện
pháp cũng như các đòn bẩy quan trọng tác động trực tiếp đến các cấp thực hiện
nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm đảm bảo các yêu cầu tiến
độ đặt ra trong các kế hoạch tác nghiệp cụ thể kể cả về thời gian, quy mô và chất
lượng công việc.
- Tổ chức công tác theo dõi, giám sát thực hiện kế hoạch:
Nhiệm vụ của quá trình này là thúc đẩy thực hiện các mục tiêu đặt ra và theo dõi,
phát hiện những phát sinh không phù hợp với mục tiêu. Khi phát hiện những phát
sinh không phù hợp đó, điều quan trọng là phải tìm ra nguyên nhân. Những nguyên
nhân này có thể thuộc các cấp thực hiện kế hoạch, ý thức chủ quan của các nhà lãnh
đạo, quản lý hay là những phát sinh đột xuất nảy sinh trong quá trình triển khai kế
hoạch.
- Điều chỉnh thực hiện kế hoạch:
Từ những phân tích về hiện tượng không phù hợp mục tiêu, các nhà kế hoạch đưa ra
các quyết định cần thiết và kịp thời. Các quyết định đó có thể là thay đổi nội dung
của hệ thống tổ chức, hoặc thay đổi các bộ phận trong hệ thống mục tiêu ban đầu,
hoặc là chuyển hướng kinh doanh.
Quy trình kế hoạch hóa nêu trên không phải là một trình tự tác nghiệp đơn giản
mang tính chất tuần tự mà nó được thực hiện đan xen lẫn nhau, tác động hỗ trợ.
Soạn lập kế hoạch là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong quy trình kế
hoạch hóa. Lập kế hoạch là một quá trình đòi hỏi có tri thức. Nó đòi hỏi chúng ta
phải xác định các mục tiêu một cách có ý thức có căn cứ và đưa ra các quyết định
trên cơ sở mục tiêu, sự hiểu biết những đánh giá thận trọng. Lập kế hoạch phải tuân
thủ theo một quy trình với các bước đi cụ thể:
Phân
tích
môi
trường Kế giá và
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
hoạch hiệu
Kế Chươg
tác chỉnh
hoạch trình,
nghiệp các
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Nhiệm
vụ và
mục
tiêu
Hình 2: Các bƣớc soạn lập kế hoạch
Bước 1: Nhận thức cơ hội trên cơ sở xem xét đánh giá môi trường bên trong
và bên ngoài doanh nghiệp, xác định thành phần cơ bản của môi trường tổ chức, đua
ra các thành phần có ý nghĩa thực tế đối với doanh nghiệp, thu thập và phân tích
thông tin về thành phần này; Tìm hiểu các cơ hội có thể có trong tương lai và xem
xét một cách toàn diện, rõ ràng, biết được ta đang đứng ở đâu trên cơ sở điểm mạnh
và điểm yếu của mình. Hiểu rõ tại sao chúng ta phải giải quyết những điều không
chắc chắn và biết chũng ta hy vọng thu được gì. Việc đưa ra các mục tiêu thực hiện
của doanh nghiệp trong thời kỳ kế hoạch phụ thuộc vào những phân tích này.
Bước 2: Thiết lập nhiệm vụ, mục tiêu cho toàn doanh nghiệp và cho các đơn
vị cấp dưới. Các mục tiêu sẽ xác đinh kết quả cần thu được và chỉ ra các điểm kết
thúc trong các việc cần làm, nơi nào cần phải được chú trọng ưu tiên và cái gì cần
hoành thành bằng một hệ thống chiến lược, các chính sách, các thủ tục, các ngân
quỹ, các chương trình
Bước 3: Lập kế hoạch chiến lược. Doanh nghiệp so sánh các nhiệm vụ, mục
tiêu (yếu tố mong muốn) với kết quả nghiên cứu về môi trường bên trong và bên
ngoài (yếu rối giới hạn mục tiêu mong muốn). Xác định sự cách biệt giữa chúng và
bằng việc sử dụng những phương pháp phân tích chiến lược đưa ra các phương án
kế hoạch chiến lược khác nhau. Lập kế hoạch chiến lược phác thảo hình ảnh tương
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
lai của doanh nghiệp trong các lĩnh vực kinh doanh khác nhau và các năng lực có
thể khai thác. Kế hoạch chiến lược xác định các mục tiêu dài hạn, chính sách để
thực hiện được mục tiêu như:
Xác định các phương án kế hoạch chiến lược: xác định các phương án hợp
lý, tìm ra các phương án có nhiều triển vọng nhất.
Đánh giá các phương án lựa chọn: sau khi tìm được các phương án có triển
vọng nhất cần tiến hành đánh giá và xem xét điểm mạnh, điểm yếu cả từng
phương án dưa trên cơ sở định lượng các chỉ tiêu của từng phương án; có
phương án mang lại lợi nhuận cao song lại cần vốn đầu tư lớn và thời gian
thu hồi vốn chậm; Có phương án lợi nhuận ít hơn những cũng rủi ro ít hơn;
Một phương án khác lại có thể thích hợp với các mục tiêu dài hạn của doanh
nghiệp v.v..
Lựa chọn phương án chi kế hoạch chiến lược. Đây là khâu mang tính quyết
định đến việc cho ra đời bản kế hoạch chiến lược. Việc quyết định một trong
số các phương án kế hoạch chiến lược phụ thuộc vào những ưu tin về mục
tiêu cần thực hiện trong thời kỳ kế hoạch. Trong quá trình lựa chọn phương
án cũng cần phải lưu ý đến những phương án dự phòng và những phương án
phụ để sử dụng trong những trường hợp cần thiết.
Bước 4: Xác định các chương trình dự án. Đây là các phân hệ của kế hoạch
chiến lược. Các chương trình thường xác định xựu phát triển của một trong các mặt
hoạt động quan trọng của đơn vị kinh tế như: chương trình hoàn thiện công nghệ,
chương trình kiểm tra chất lượng sản phẩm, chương trình tính toán dự trữ v.v….
còn các dự án thướng định hướng đến một mặt hoạt động cụ thể hơn như dự án phát
triển thị trường, đổi mới sản phẩm. Thông thường một chương trình ít khi đứng
riêng ra một mình, nó thường là bộ phận của hệ thống phức tạp các chương trình,
phụ thuộc vào một số chương tình và ảnh hưởng đến một số chương trình khác. Dù
là chương trình lớn hay chương trình bộ phận thì nội dung của việc xây dựng các
chương trình đêu bao gồm: xác định các mục tiêu, nhiệm vụ; các bước tiến hành;
các nguồn lực cần sử dụng và các yếu tố khác cần thiết để tiến hành chương trình
hoạt động cho trước; những yêu cầu về ngân sách cần thiết. Các dự án thường được
xác định một cách chi tiêt hơn chương trình, nó bao gồm các thông số vè tài chính
và kỹ thuật, các tiến độ thực hiện, tổ chức huy động và sử dụng nguồn lực, hiệu quả
kinh tế tài chính.
Bước 5: Soạn lập hệ thống các kế hoạch chức năng (tác nghiệp) và ngân sách.
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Mục tiêu của các kế hoạch kinh doanh thường hướng tới là: đáp ứng đòi hỏi của thị
trường; nâng cao hiệu quả của hoạt đông kinh doanh, quản lý một cách có hiện quả
hơn các nguồn lực; đảm bảo thực hiện chiến lược kinh doanh đã chọn, cụ thể là:
thực hiện các mục tiêu chiến lược, kiểm soát quá trình triển khai chiến lược. Để
thực hiện được những mục tiêu nói trên, kế hoạch chiến lược cần phải được cụ thể
hóa bằng hệ thống các kế hoạch chức năng, xem đó là các kế hoạch tác nghiệp để
chỉ đạo và điều hành sản xuất kinh doanh. Hệ thống các kế hoạch chức năng bao
gồm: kế hoạch sản xuất sản phẩm, phát triển sản phẩm mới; kế hoạch mua sắm thiết
bị, nguyên nhiên vật liêu; kế hoạch nhân sự, kế hoạch tài chính, kế hoạch maketing.
Sau khi các kế hoạch tác nghiệp được xây dựng xong cần lượng hóa chúng
dưới dạng tiền tệ và các dự toàn về mua sắm yếu tố phục vụ sản xuất, phục vụ bán
hàng, nhu cầu vốn v.v… gọi là soạn lập ngân sách. Ngân sách chung của doanh
nghiệp biểu thị tổng toàn bộ thu nhập và chi phí, lợi nhuận hay số dư tổng hợp và
các khoản mục cân đối chính như chi tiêu tiền mặt hay chi phí đầu tư. Ngoài ngân
sách chũng mỗi bộ phận hay chương trình của doanh nghiệp cũng cần soạn lập ngân
sách riêng của mình.
Các kế hoạch chức năng và ngân sách thực tế có mối quan hệ mật thiết với
nhau và cần phải thống nhất trong quá trình xây dưng nhằm đảm bảo sự phối hợp
đồng bộ và có hiện quả giữa các chức năng trong doanh nghiệp.
Bước 6: Đánh giá, hiệu chỉnh các pha của kế hoạch. Đâu có thể coi là bước
thẩm định cuối cùng trước khi cho ra một văn bản kế hoạch. Các nhà lãnh đạo
doanh nghiệp cùng với các nhà chuyên môn kế hoạch cũng như các chức năng khác,
có thể sử dụng thêm đội ngũ chuyên gia, tư vấn kiểm tra lại các mục tiêu, chỉ tiêu,
các kế hoạch chức năng, ngân sách, các chính sách v.v… phân định kế hoạch theo
các pha có liên quan đến các tổ chức thực hiện kế hoạch, trên cơ sở đó tiến hành các
phê chuẩn cần thiết để chuẩn bị chuyên giao nội dung kế hoạch cho các cấp thực
hiện.
2. Nội dung của một bản kế hoạch của một doanh nghiệp.
2.1 Kế hoạch bộ phận.
2.1.1 Kế hoạch marketing:
Kế hoạch marketing xuất phát từ sự phân tích môi trường và thị trường, trong
đó người ta đề ra các chiến lược lớn cùng với những mục tiêu trung hạn và ngắn hạn
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
cho cả công ty, hoặc cho một nhóm sản phẩm cụ thể, sau đó người ta xác định các
phương tiện cần thiết để thực hiện những mục tiêu trên, và những hành động cần
thực hiện, đồng thời tín toán những khoản thu nhập và chi phí giúp cho việc thiết
lập một ngân sách cho phép thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch.
2.1.2 Kế hoạch sản xuất và dự trữ.
Kế hoạch sản xuất nhằm tối ưu hóa việc sử dụng các yếu tố sản xuất sẵn có
để sản xuất một hoặc nhiều sản phẩm đã định. Kế hoạch sản xuất bao gồm việc xác
định các nội dung sau: khối lượng sản xuất cho mỗi loại sản phẩm; các sản phẩm
khác nhau được sản xuất tại mỗi đơn vị sản xuất; lượng dự trữ cần thiết đối với
thành phẩm và bán thành phẩm; sử dụng các yếu tố sản xuất; cung ứng nguyên vật
liệu và bán thành phẩm; các kế hoạch thuê ngoài. Kế hoạch dự trữ trong doanh
nghiệp sản xuất liên quan đến hai đối tượng chủ yếu đó là dự trữ sản phẩm và dự trữ
nguyên vật liệu, ngoài ra doanh nghiệp còn phải dự trữ bán thành phẩm. Dự trữ
nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của khách hàng (nếu như bị cháy kho thì có thể dẫn
đến những thiệt hại không thể lường trước về mặt thương mại như uy tín, mất khách
hàng...).
2.1.3 Kế hoạch nhân sự.
Kế hoạch nhân sự là quá trình phân tích liên tục yêu cầu nhân sự của doanh
nghiệp nhằm mục đích đáp ứng các mục tiêu của doanh nghiệp. Công tác tuyển
dụng nhân viên chính là để đáp ứng các nhu cầu mà lực lượng hiện tại không thể
đáp ứng được.
2.1.4 Kế hoạch tài chính.
Kế hoạch tài chính là quá trình soạn thảo các kế hoạch và các chỉ tiêu quan
trọng, các định mức tài chính nhằm đảm bảo các nguồn lực tài chính cần thiết cho
sự phát triển của doanh nghiệp.
2.2 Mối liên hệ giữa các kế hoạch bộ phận.
Các kế hoạch bộ phận của kế hoạch trong doanh nghiệp có mối quan hệ mật
thiết và thống nhất trong quá trình xây dựng nhằm đảm bảo sự phối hợp đồng bộ và
có hiệu quả giữa các chức năng trong doanh nghiệp.
Kế hoạch marketing sẽ là trung tâm và cơ sở của mọi kế hoạch tác nghiệp
khác. Kế hoạch marketing sẽ dự báo được nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của thị trường.
Sau đó, doanh nghiệp sẽ sử dụng các phương pháp dự báo theo các cách tiếp cận
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368