Hình thức tự sự trong truyện ngắn phạm duy tốn

  • 61 trang
  • file .pdf
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
&
NGUYỄN BẠCH ĐAN
MSSV: 6086240
HÌNH THỨC TỰ SỰ TRONG TRUYỆN
NGẮN PHẠM DUY TỐN
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn: HUỲNH THỊ LAN PHƯƠNG
Cần Thơ, năm 2012
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Văn học Việt Nam vào những năm 1900 – 1930 là giai đoạn văn học có tính
chất
giao thời, khi xã hội có sự tồn tại đan xen giữa nền văn học mới và nền văn học cũ. Vào
thời gian này, truyện ngắn Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, với sự xuất hiện của
hàng loạt những cây bút có tên tuổi và để lại những dấu ấn quan trọng như Phạm Duy
Tốn, Nguyễn Bá Học, Hồ Biểu Chánh, Đặng Trần Phất…
Trong số những nhà văn đó, Phạm Duy Tốn là nhà văn tiên phong của nền văn học
mới đầu thế kỉ XX. Ông viết văn không nhiều. Toàn bộ văn nghiệp của ông chỉ để lại có
bốn truyện ngắn, nhưng ông vẫn được đánh giá là một nhà văn có ảnh hưởng quan trọng
với văn học Việt Nam trong thời kì đầu hiện đại hóa. Đối với truyện ngắn của Phạm Duy
Tốn, hình thức tự sự là một trong những yếu tố quan trọng làm nên thành công cho
tác
phẩm. Bởi cùng một câu chuyện nếu được kể với những hình thức khác nhau, rất có thể
hiệu quả nghệ thuật mang lại sẽ khác nhau. Hình thức kể chuyện không chỉ đơn thuần là
cách kể sao cho câu chuyện trở nên đậm đà, ý vị, đó còn là cách thức để nhà văn lý giải
sự vật, hiện tượng một cách sâu sắc, hiệu quả và thuyết phục. Hình thức tự sự được
tạo
nên từ sự kết hợp của các yếu tố như người kể chuyện, điểm nhìn nghệ thuật, ngôn ngữ
kể
chuyện và giọng điệu trần thuật. Chính vì vậy khi nghiên cứu về hình thức tự sự, chúng
ta phải đi vào phân tích từng yếu tố này để rút ra một cái nhìn xác đáng và trọn vẹn. Xét
riêng trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn, cái hay của nhà văn là ở chỗ, ông đã thể hiện
được tài năng sáng tạo trong việc vận dụng và kết hợp các yếu tố tự sự để kiến tạo
nên
nhiều dạng người kể chuyện khác nhau, qua đó xây dựng nên những cấu trúc tự sự mang
tính biểu hiện cao. Vì vậy chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đề “Hình thức tự sự
trong
truyện ngắn Phạm Duy Tốn” để có thể đi sâu khám phá những giá trị tiềm ẩn trong sáng
tác của tác giả và đồng thời muốn khẳng định sự đóng góp của ông với nền văn học nước
nhà giai đoạn 1900 – 1930.
2
II. Lịch sử vấn đề
Truyện ngắn Phạm Duy Tốn gắn liền với quá trình đổi mới truyện ngắn của
văn
học Việt Nam đầu thế kỉ XX, vì vậy tác phẩm của ông đem đến cho người đọc những ấn
tượng mới mẻ về một phong cách nghệ thuật riêng biệt. Tùy vào cảm hứng tiếp cận, mục
đích và phạm vi khai thác vấn đề, các nhà nghiên cứu đã đề cập tới một số khía cạnh nổi
bật về nghệ thuật trong truyện ngắn của ông với mức độ đậm nhạt, nhiều ít khác nhau.
Một trong những nét nổi trội trong lối tự sự của Phạm Duy Tốn được các nhà nghiên cứu
quan tâm, đề cập tới là lối hành văn mới lạ và sự cách tân, tìm tòi cái mới trong cách thức
trần thuật. Trong quá trình nghiên cứu về Phạm Duy Tốn, chúng tôi tìm thấy những
bài
nhận xét, bình phẩm về tác giả và tác phẩm của ông như sau:
Tài liệu giúp chúng tôi đọc được truyện ngắn Phạm Duy Tốn là cuốn sách
Truyện
ngắn hay đầu thế kỷ do Phạm Hồng Toàn sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Ở phần lời
giới thiệu của quyển sách, người viết có đề cập đến Phạm Duy Tốn và cung cấp một số
thông tin quan trọng về sự nghiệp sáng tác và tác phẩm của ông cùng một số tác giả khác.
Nhưng bài viết chỉ đi sâu vào hai truyện ngắn Bực mình và Sống chết mặc bay, còn
truyện
Con người sở khanh và Nước đời lắm nỗi chỉ được lướt qua. Tuy nhiên cuốn sách cũng
đã
cung cấp cho người nghiên cứu nhiều thông tin bổ ích về tác giả. Ngoài quyển sách trên
thì trong Từ điển tác gia văn học thế kỷ XX cũng viết đôi nét về Phạm Duy Tốn. Phần
nói
về tác giả bao gồm tiểu sử, cùng những lời bình phẩm, đánh giá truyện ngắn Sống chết
mặc bay.
Nhận xét về Phạm Duy Tốn trong bài viết Phạm Duy Tốn nhìn bởi Dương
Quảng
Hàm, Nguyễn Văn Cổn, Vũ Ngọc Phan, Thanh Lãng, Thiên Tướng… thì Vũ Ngọc Phan
đã viết như sau: “Phạm Duy Tốn có một lối văn linh hoạt hơn hẳn Nguyễn Bá Học, đem
so văn với những nhà văn bây giờ, không kém xa mấy tý. Vài ba truyện ngắn của
ông
đăng trong tạp chí Nam Phong, như ''Sống chết mặc bay” (N.P. số 18, Décembre 1918)
và ''Con người sở khanh” (N.P. số 20, Février 1919) mà ngày nay nhiều người vẫn còn
nhớ đến, đã được coi trong một thời là những truyện tả chân tuyệt khéo.” [13; tr.135

138]. Bên cạnh đó ta còn thấy được tài năng của tác giả qua cảm nhận của Thanh Lãng:
3“Ta đã có lần gọi ông Nguyễn Bá Học là ông tổ của phong trào tiểu thuyết, nhưng thực
ra chính Phạm Duy Tốn mới quả là người khai mở đầu tiên cho lịch sử tiểu thuyết
tại
Việt Nam. Ðang khi Nguyễn Bá Học muốn là người của thế hệ, giữ vai trò trung gian,
điều hòa hai lớp người mới, cũ, liên kết hai quan niệm nghệ thuật mới và cũ, Ðông và
Tây, thì Phạm Duy Tốn muốn phá vỡ để tiến. Mà thực Phạm Duy Tốn đã mới hoàn toàn
trong công cuộc xây dựng các truyện của ông. Cùng chung với thế hệ của ông, Phạm Duy
Tốn có lẽ chỉ còn giữ lại có cái chủ trương luân lý răn đời, còn ngoài ra ông đã có một
nghệ thuật mới hoàn toàn, mới và đẹp hơn nhiều truyện của Nguyễn Trường Tam xuất
bản sau đấy mười mấy năm trong tập Người quay tơ của ông.” [33; tr.493 – 496]. Đánh
giá về những nét mới lạ trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn, các nhà nghiên cứu đã chú ý
đến nhiều phương diện khác nhau của nghệ thuật: “Trong học giới báo ta, chắc ai cũng
đã biết tên ông Phạm Duy Tốn. Ông là một người rất nhiệt thành với văn quốc ngữ và đã
biệt lập ra một lối văn riêng, lấy sự tả chân làm cốt. Mỗi bài văn của ông như một tấm
ảnh phản chiếu cái chân tướng như hệt.
Ông tin rằng văn chương đã tả được hết cái cảnh thực là khắc có cái sức cảm động vô
cùng, không cần phải nghị luận xã hội.
Văn chương ta xưa nay thường lấy sự mập mờ, phảng phất làm hay, càng phiêu diêu bao
nhiêu, càng huyền diệu bấy nhiêu, nên ít dùng lối tả thực, coi là tầm thường. Nay xét văn
học ta, họa học của Thái Tây, phần nhiều lại trọng lối tả thực rồi tất mỗi ngày một thịnh
hành. Như bài văn của ông Phạm Duy Tốn sau này cũng khá gọi là một bài tả thực tuyệt
khéo: đối hai cái cảnh trái ngược nhau, như bày hai bức tranh trước mắt người ta mà tự
khắc nảy ra một cái cảm giác, một cái tư tưởng tự người đọc biết, không cần phải diễn
giải ra, là cái cảm giác tức giận, cái tư tưởng thống mạ kẻ “chễm chệ” này không biết
thương lũ “lấm láp” kia. Văn tả thực mà được như vậy cũng đã khéo thay.”. Đó là lời
khen của Phạm Quỳnh dành cho Phạm Duy Tốn trong bài viết Một lối văn mới
Phạm Duy con trai của Phạm Duy Tốn cũng có một bài viết về bố của mình với
nhan
đề Viết về bố (trích báo Văn số 169). Bên cạnh việc cung cấp thông tin về cuộc đời và sự
nghiệp sáng tác của Phạm Duy Tốn, bài viết còn thể hiện tình cảm yêu thương đối với
4bố của Phạm Duy: “Gần năm mươi năm sau, bây giờ tôi mới có dịp ngồi nhớ về bố. Tôi
thương bố tôi quá. Cụ chết sớm quá. Phải chi cụ còn sống thêm nhiều năm nữa, chắc cụ
sẽ còn cho ta đọc nhiều truyện “Sống chết mặc bay” tân thời và nhiều truyện “Tiếu lâm”
kinh khủng hơn…”.
Nói chuyện với Phạm Duy về Phạm Duy Tốn là bài viết của Vũ Bằng, trích
báo
VĂN số 169 ra ngày 1-1-71- Sài gòn. Bài viết cung cấp cho độc giả biết Thọ An là ai?,
đó là Phạm Duy Tốn là người Việt đi Pháp đầu tiên, đồng thời Vũ Bằng còn phát hiện
một bức thư chưa hề đăng báo bao giờ của Phạm Duy Tốn, qua đó đưa ra lời nhận xét là
“Chữ tài liền với chữ tai”: “Kiểm điểm và suy nghĩ những tài liệu Phạm Duy trao cho
tôi, tôi thấy rằng Phạm Duy Tốn có nhiều chất “làm báo” hơn là “văn sĩ”. Những bài
như “Sống chết mặc bay”, “May cho ta”, “Ở bể” và ngay cả những truyện viết trong ba
tập “Tiếu lâm Quảng ký”, đều là những bài có tính cách báo hơn văn. Một bức thư viết
tại Hà Nội, ngày 23 tháng 3 d.l.1906, của một người bạn Pháp tòng sự tại Ngân hàng
Đông Dương tên Guiton gửi cho cụ Nguyễn Văn Vĩnh chứng tỏ sự kiện trên, đồng
thời,
cho ta thấy đời Phạm Duy Tốn không sung sướng về nghề báo (cũng như nghề
văn)”.
Bên cạnh đó Vũ Bằng cũng có bài viết Phạm Duy Tốn, bậc đàn anh trong lối văn hài
hước trích báo VĂN số 169 ra ngày 1-1-71- Sài gòn. Bài báo là lời ca ngợi của Vũ Bằng
về Phạm Duy Tốn, người đã biết lấy tiếng cười để sửa đổi phong hóa, người “đã sớm biết
giá trị của tiếng cười và đem tiếng cười ra làm vui thiên hạ”. Đồng thời bài viết còn cung
cấp những cây cười cùng lớp với Phạm Duy Tốn như hài Đàm của Hi Đình Nguyễn Văn
Tôi, Cuồng - Sỹ Tạ Mạnh Khải, Tú - Mỡ Hồ Trọng Hiếu, Đồ - Phồn Bùi Huy Phồn…
Bên cạnh những bài nêu trên chúng tôi còn tìm thấy rất nhiều bài viết về Phạm Duy
Tốn in trên các tờ báo như bài: Phạm Duy Tốn nhìn bởi Dương Quảng Hàm, Nguyễn
Văn Cổn, Vũ Ngọc Phan, Thanh Lãng, Thiên Tướng… trích báo VĂN số 169 ra ngày
1-1-71- Sài Gòn, hay bài Phạm Duy Tốn, Journalist, Short Story Writer, Collector
of
Humorous Stories do John Schafer viết, đăng trên VIETNAM FORUM số 14,
1994,
Phạm Duy Tốn, Người phu xe kéo cỗ xe văn xuôi quốc ngữ lên dốc bài viết của Trung
Phương đăng trên báo VĂN số 58, tháng 8-1996, Một văn tài - Một nhân cách của Bạch
5Lê Quang đăng trên báo THANH NIÊN số 31, 23-2-2000, Việc du nhập thoại kịch trích
Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên Quyển 3 do Phạm Thế Ngữ viết, Viết về bố
trích hồi ký I – Thời thơ ấu – Vào đời của Phạm Duy… Phần lớn những bài viết trên là
những lời ngợi khen dành cho Phạm Duy Tốn, người đã có công đầu trong việc cách tân
nghệ thuật truyện ngắn.
Sinh thời Phạm Duy Tốn chưa có tác phẩm được in thành sách, các bài văn
biền
ngẫu của ông (Mưa dầm vui cho ai, buồn cho ai) và các truyện ngắn có giọng văn hiện
đại
như Sống chết mặc bay đều được in trên Nam Phong. Sau khi Phạm Duy Tốn qua đời, đã
có nhiều bài báo được viết ra để thể hiện niềm nuối tiếc và xót thương cho một con người
tài hoa, đã có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà. Tiêu biểu là bài Chân dung
Phạm Duy Tốn, bài viết đã tập hợp nhiều bài báo xưa được viết sau khi Phạm Duy Tốn
vừa tạ thế, với mục đích cung cấp cho bạn đọc, nhất là các nhà khảo về văn học thêm một
ít tài liệu tham khảo. Chân dung Phạm Duy Tốn đã đăng lại bài báo trên THỰC NGHIỆP
DÂN BÁO, KHAI HÓA NHẬT BÁO, TRUNG BẮC TÂN VĂN viết về cái chết nhà
báo, nhà văn Phạm Duy Tốn…trích báo VĂN số 169 ra ngày 1-1-71- Sài Gòn.
Trên báo thanh niên số 31 (1654) Bạch Lê Quang có bài viết về Phạm Duy Tốn với
nhan đề 76 năm ngày mất của Phạm Duy Tốn [25.2.1924-25.2.2000] Một văn tài- một
nhân cách. Bài viết đã khẳng định những đóng gớp lớn lao của Phạm Duy Tốn
trong
sáng tạo nghệ thuật: “Ở Phạm Duy Tốn, lúc này ta bắt gặp thật hiếm lạ, một văn phong
gọn gàng, thông thoáng. So với một câu văn kéo dài đến 143 chữ số mới chấm câu như
Nguyễn Trọng Thuật, ta mới thấy hết được công lao của Phạm Duy Tốn đương
thời…Quả
thật với văn đàn và lòng người, Phạm Duy Tốn vẫn là một trong những viên gạch đầu
tiên gia cố vững chắc cho tòa nhà truyện ngắn Việt Nam, một trí thức biết dày vò nỗi đau
dân nước.”.
Ngày nay, vấn đề lý thuyết tự sự càng được quan tâm nhiều hơn. Từ chủ nghĩa hình
thức Nga, ngôn ngữ học Sausure, trường phái Praha, trường phái Tân Aristote, triết học
phân tích kí hiệu học, hậu cấu trúc chủ nghĩa… không trường phái nào là không quan tâm
tới vấn đề trần thuật. Tự sự trở thành một sản phẩm thực dụng, cụ thể của làn sóng
lớn
6trong lý thuyết văn hóa về văn học. Nghiên cứu về hình thức tự sự trong truyện ngắn
của
Phạm Duy Tốn là một đề tài còn mới. Trên cơ sở tiếp thu những bài viết có liên quan đến
sáng tác của Phạm Duy Tốn, chúng tôi muốn đi sâu vào tìm hiểu hình thức tự sự
trong
truyện ngắn của tác giả. Từ đó có thể góp một tiếng nói vào sự khẳng định tài năng nghệ
thuật của Phạm Duy Tốn trong nền văn học nước nhà.
III. Mục đính và yêu cầu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khi chọn đề tài nghiên cứu “Hình thức tự sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn”
chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào công việc nghiên cứu văn học giai
đoạn giao thời, một giai đoạn có nhiều vấn đề mới nảy sinh với những lề lối mới cũ đan
xen lẫn lộn, không ngừng đấu tranh để giành phần thắng về mình. Phạm Duy Tốn là một
tác giả đương thời mà hiện nay ít người còn biết đến, một nhà văn để lại tuy không nhiều
tác phẩm nhưng chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ để lay động lòng người. Tác phẩm của ông
phản ánh cho người đọc thấy rõ bộ mặt xã hội lúc bấy giờ như thế nào, nghệ thuật viết
truyện ngắn giai đoạn giao thời có gì đổi mới…. Thông qua việc tìm hiểu về hình thức
tự sự nhằm phát hiện ra những giá trị nghệ thuật trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn, đây
là một yếu tố nghệ thuật quan trọng của thể loại tự sự. Trên cơ sở đó khẳng định sự đóng
góp lớn lao của tác giả trên văn đàn văn học Việt Nam trong thời kì đổi mới.
3.2. Yêu cầu
Luận văn sẽ làm sáng tỏ hình thức tự sự thông qua việc phân tích người kể chuyện,
cách kể từ đó nhận diện được thuộc tính của hình thức tự sự thể hiện qua truyện ngắn
Phạm Duy Tốn.
IV. Phạm vi nghiên cứu
Khi tiến hành nghiên cứu đề tài trên, chúng tôi chỉ tìm hiểu hình thức biểu đạt
trong
tự sự như người kể, cách kể… thông qua việc khảo sát và phân tích bốn tác phẩm: Sống
chết mặc bay, Con người sở khanh, Nước đời lắm nỗi, Bực mình hay Câu chuyện thương
tâm.
7
V. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này chúng tôi vận dụng nhiều phương pháp để tiến hành nghiên cứu như:
tổng hợp, phương pháp lịch sử, phân tích, chứng minh, so sánh…
Chúng tôi bắt đầu công việc bằng cách tổng hợp những tài liệu có liên quan,
cần
xem, cần nghiên cứu và hệ thống chúng lại, lựa chọn ra những tư liệu cần thiết phục
vụ
cho đề tài. Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu bối cảnh xã hội, thời đại, cuộc
đời cũng như những yếu tố chi phối sáng tác của nhà văn, từ đó hiểu thêm về nội dung
tác
phẩm. Do tư liệu về tác giả không nhiều nên chúng tôi đi vào tiếp cận văn bản tác phẩm,
phân tích và tìm ra những hình thức tự sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn, đưa ra
những
dẫn chứng thuyết phục; kết hợp với những ý kiến đánh giá của các nhà phê bình văn học.
Bên cạnh đó, chúng tôi so sánh đối chiếu sáng tác của Phạm Duy Tốn với các nhà văn
khác để làm sáng tỏ những nét mới, sáng tạo cũng như những nét khác biệt trong truyện
ngắn của ông.
8
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Những vấn đề lý luận văn học
1.1.1. Khái niệm về tự sự
Nói về sự xuất hiện của tự sự, Roland Bathes cho rằng khi lịch sử được ý thức thì
ta đã có tự sự. Tuy nhiên trong khoảng thập niên những năm 60 thế kỉ trước nghiên cứu
tự sự mới thực sự trở thành một khoa độc lập dưới ảnh hưởng trực tiếp của trường
phái
Cấu trúc luận Pháp. Do vậy, có cách gọi Tự sự học cấu trúc luận. Và phải đến năm 1969,
Tezvetan Todorov nhà nghiên cứu Pháp gốc Bungari một trong những đại biểu lớn của
Cấu trúc luận Pháp mới chính thức khai sinh danh xưng Tự sự học khi xuất bản công
trình Ngữ pháp “Câu chuyện mười ngày”. Tự sự học kinh điển thường được hiểu là tự
sự học giai đoạn những năm 60 kéo dài đến khoảng những năm 80 của thế kỉ trước. Tuy
thực sự đã trở thành một trào lưu nghiên cứu có tính quốc tế, nhưng vai trò tiên
phong
vẫn thuộc về các học giả Pháp. Rất nhiều khái niệm nền tảng cũng như một số mô thức lý
thuyết của Tự sự học kinh điển bắt nguồn từ Cấu trúc luận Pháp.
Ngay từ đầu giới thiệu và dịch thuật Tự sự học (Narratology) ở Việt Nam, việc xác
định thuật ngữ, chọn dùng khái niệm tương đương đòi hỏi phải có sự cố gắng. Trong tình
hình mà một số thuật ngữ quan trọng như tự sự, rồi tự sự học cũng như trần thuật,
văn
bản, diễn ngôn, thoại ngữ... mà hiện nay ta dùng đều là những từ Hán Việt thì việc tham
khảo các học giả Trung Quốc có lẽ cũng là một việc có ích. Giáo sư Trần Đình Sử có nói:
“Chúng ta cần xây dựng cho mình một hệ thống thuật ngữ tiếng Việt về tự sự học” [44;
tr.21]. Liên hệ đến Trung Quốc ông nói thêm: “Ngay thuật ngữ Narratology người Trung
Quốc hiện nay vẫn có hai cách dịch. Tự sự học và Tự thuật học (tự = kể, thuật = kể).
Khái niệm “tự thuật học” dùng tương đồng với “tự sự học”, nhưng trọng tâm có lúc có
9phần khác nhau. “Tự thuật học” nghiêng về nghiên cứu phương diện hành vi kể, lời kể,
còn “tự sự học” nghiên cứu cả hai mặt: hành vi lời kể và cấu trúc sự kiện” [44; tr.21].
Một số tác giả khác đề nghị gọi “tự thuật học”của Trung Quốc là “trần thuật học” bởi
thuật ngữ tự thuật trong tiếng Trung, đặc biệt là trong ngữ cảnh nhất định của lý luận văn
học có nội dung hàm nghĩa tương đương với thuật ngữ trần thuật trong tiếng Việt.
Theo Trần Đình Sử thì ông chọn tên gọi lĩnh vực nghiên cứu Narratology là “tự sự
học” chứ không phải “trần thuật học” như một số tác giả đề nghị vì một số lý do sau:
“Một là, trần thuật vốn là thuật ngữ của cú pháp học, các nhà lí luận cấu trúc chủ nghĩa
đem mô hình trần thuật của ngôn ngữ học vận vào tác phẩm của văn học tự sự, xem các
văn bản đó như một loại câu, cho nên họ có xu hướng gọi đó là “trần thuật học”. Khuynh
hướng ngữ học hóa ấy tạo một cách hiểu hẹp không nên có…. Thứ hai, “trần thuật học”
trong ý thức một số nhà nghiên cứu chỉ nghiên cứu phần diễn ngôn, lời kể với
những
người kể, điểm nhìn, thời thức v.v. Trong khi đó, tự sự học bao gồm cả hệ thống sự kiện,
cách tổ chức sự kiện đó… những vấn đề rộng lớn hơn trần thuật rất nhiều. Thứ ba, khái
niệm tự sự xưa nay không bao giờ chỉ chỉ riêng loại hình nghệ thuật tự sự, phân biệt với
trữ tình và kịch…tự sự còn chỉ một phương thức biểu đạt mà báo chí, thông tấn, lịch sử
đều sử dụng...” [44; tr.8]. Với những lý do này chúng tôi thống nhất với cách gọi
của
Trần Đình Sử, gọi “tự sự học” nói lên được thực chất và sự bao quát của một môn nghiên
cứu liên ngành.
Đi sâu vào tìm hiểu đặc điểm của tự sự ta sẽ thấy tự sự, trữ tình và kịch là ba phương
thức dùng để tái hiện đời sống, nhưng tự sự gắn liền với các yếu tố quan trọng như: tính
khách quan, cốt truyện, nhân vật, trần thuật (kể).
Với loại hình trữ tình, nguyên tắc chủ quan là yếu tố và cơ bản trong việc chiếm
lĩnh hiện thực, là nhân tố quan trọng quy định những đặc điểm cốt yếu của tác phẩm. Tác
phẩm trữ tình thể hiện tâm trạng, do đó nó thường không có cốt truyện, hoặc cốt
truyện
đơn giản. Bên cạnh đó cái tôi luôn giữ một vị trí đặc biệt quan trọng để thể hiện những
tình cảm cá nhân. Trong khi tác phẩm tự sự lại tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách
quan của nó. Theo Từ điển văn học: “Tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực qua bức tranh
10mở rộng của đời sống trong không gian, thời gian, qua các sự kiện, biến cố xảy ra
trong
cuộc đời con người. Trong tác phẩm tự sự nhà văn cũng thể hiện tư tưởng và tình cảm
của mình. Nhưng ở đây, tư tưởng và tình cảm của nhà văn thân nhập sâu sắc vào sự kiện
và hành động bên ngoài của con người tới mức giữa chúng dường như không có sự phân
biệt nào cả. Nhà văn kể lại, tả lại những gì xảy ra bên ngoài mình, khiến cho người đọc
có cảm giác rằng hiện thực được phản ánh trong tác phẩm tự sự là một thế giới tạo hình
xác định đang tự phát triển, tồn tại bên ngoài nhà văn, không phụ thuộc vào tình cảm, ý
muốn của nhà văn.
Phương thức phản ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành vi con người làm cho
tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó hay về một cái gì đó. Cho nên tác phẩm
tự sự bao giờ cũng có cốt truyện, gắn liền với cốt truyện là một hệ thống nhân vật được
khắc họa đầy đủ, nhiều mặt hơn hẳn nhân vật trữ tình và kịch. Trong tác phẩm tự sự, cốt
truyện được khắc họa nhờ một hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú, đa dạng, bao gồm
chi tiết sự kiện, xung đột, chi tiết nội tâm, ngoại hình của nhân vật, chi tiết tính cách, chi
tiết nội thất, ngoại cảnh, phong tục, đời sống, văn hóa, lịch sử; lại còn có cả những chi
tiết liên tưởng, tưởng tượng, hoang đường mà không nghệ thuật nào tái hiện được”.
Ðể có cái nhìn khách quan, tác phẩm tự sự tập trung phản ánh đời sống qua các
sự
kiện, hệ thống sự kiện. Vì vậy, nhiều nhà lý luận khẳng định tính sự kiện có một ý nghĩa
đặc biệt quan trọng và là đặc điểm hàng đầu của tác phẩm tự sự. Các biến cố, sự kiện này
có thể là những biến cố, sự kiện bên ngoài, như là việc làm, hành động của các nhân vật
có thể thấy được, cũng có thể là những biến cố, sự kiện bên trong bao gồm tâm trạng,
cảm
xúc, ý nghĩ... nhưng những biến cố, sự kiện này không được biểu hiện trực tiếp mà được
xem như một đối tượng để đem ra phân tích, nhận biết. Như vậy, tác phẩm tự sự tái hiện
toàn bộ thế giới bao gồm những sự kiện bên ngoài và bên trong của con người.
Tác phẩm tự sự có khả năng phản ánh hiện thực một cách rộng lớn, bao quát. Vì tự
sự
miêu tả cuộc sống qua các sự kiện, hệ thống sự kiện mà sự kiện là sản phẩm của mối
quan
hệ giữa con người với con người, con người và môi trường xung quanh. Do đó, tác phẩm
tự sự mở ra một phạm vi hết sức rộng lớn trong việc miêu tả hiện thực khách quan, được
thể hiện trong nhiều mối quan hệ.
11 Trong tác phẩm tự sự, không gian và thời gian không bị hạn chế. Nhà văn có thể
thể
hiện những vùng đất khác nhau, có thể lùi về dĩ vãng hay đắm mình trong hiện tại, có thể
lướt qua hoặc tập trung miêu tả một mặt nào đó mà mình cho là quan trọng. Nó có thể kể
về một khoảnh khắc hoặc một sự kiện dài 10, 20, 50 năm trong một không gian nhất định
hoặc ở nhiều vùng đất khác nhau. Từ những đặc điểm trên, nhân vật tự sự cũng được
khắc
họa đầy đặn, nhiều mặt nhất; có thể được triển khai sâu rộng trong nhiều mối quan hệ đa
dạng và phong phú. Nhân vật thường có số phận, con đường đi và quá trình phát triển qua
nhiều giai đoạn khác nhau so với các loại nhân vật khác, nhân vật trong tác phẩm tự sự
được khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình đến nội tâm, cả quá khứ, hiện tại và trong xu thế phát
triển.... Tóm lại, nhân vật tự sự được miêu tả nhiều mặt, toàn diện và sinh động, nhiều
màu sắc thẩm mỹ. Do tính chất phản ánh rộng lớn và bao quát, hệ thống chi tiết
trong
tác phẩm tự sự cũng phong phú và đa dạng. Ở đây, có thể bắt gặp những chi tiết về chân
dung, ngoại hình, tâm sinh lý, phong tục, tập quán, đồ vật, đời sống lao động sản xuất,
tôn
giáo, chính trị...bao gồm những chi tiết có thực, tưởng tượng, hoang đường... hơn tất
cả
mọi loại tác phẩm khác. Lời văn trong tác phẩm tự sự chủ yếu là lời văn kể chuyện, miêu
tả. Nó có thể được viết bằng văn vần hoặc văn xuôi nhưng bao giờ cũng hướng người đọc
đến đối tượng mà nó miêu tả. Lời nói của nhân vật trong tác phẩm tự sự là một bộ phận
của văn tự sự, do đó nó thường được giải thích, cắt nghĩa trước khi nhân vật phát biểu.
Ðiều này khác với tác phẩm kịch và tác phẩm trữ tình.
Với những đặc điểm nói trên thì tự sự đã trở thành một loại văn học có khả
năng
quan trọng trong đời sống tinh thần của con người hiện đại.
1.1.2. Khái niệm về người kể chuyện
Trong một khoảng thời gian dài khi nghiên cứu tác phẩm tự sự, phần lớn
các lý thuyết văn học chỉ chú trọng đến việc khảo sát thế giới nghệ thuật được nhà văn
xây dựng bên trong đó. Các phương diện khác có liên quan đến cuộc sống của tác phẩm
văn học như tác giả, người đọc thì ít được chú ý và xem trọng. Đến đầu thế kỉ XX vấn đề
người kể chuyện đã được các nhà hình thức chủ nghĩa Nga và nhóm các nhà nghiên cứu
Bắc Âu đặc biệt quan tâm đến. Tuy nhiên, mãi đến các công trình nghiên cứu thế hệ sau
mới đưa ra được quan điểm tương đối rõ ràng về người kể chuyện. Trong số các yếu tố
12trong cấu trúc văn bản tự sự, người kể chuyện là yếu tố giữ vai trò trung tâm. Mọi
nghiên
cứu về nghệ thuật tự sự ít nhiều phải nói đến phương diện này. Thêm vào đó, các khái
niệm cơ bản nhất của tự sự học như: điểm nhìn, tiêu điểm, người tiêu điểm hóa, lời văn
nghệ thuật, tình tiết tự sự… đều được phản ánh thông qua người kể chuyện
trong tác
phẩm. Tương đương với thuật ngữ người kể chuyện, người đứng ra kể trong tác phẩm tự
sự còn được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác như: người trần thuật, người thuật chuyện, kẻ
mang thông điệp, chủ thể trần thuật, chủ thể kể chuyện… Và hiện nay vẫn chưa có cách
gọi thống nhất về nhân vật này. Ví dụ như Trần Đình Sử trong sách Lí Luận Văn Học,
ông gọi chủ thể của lời kể là người kể chuyện: “Trần thuật đòi hỏi phải có
người kể,
người thổ lộ. Chủ thể của lời kể trong thơ trữ tình là nhân vật trữ tình, người kể
trong
truyện là người kể chuyện. Trần thuật phải xử lí mối quan hệ giữa chuỗi lời kể với chuỗi
sự kiện và nhân vật. Như vậy có hai nhân tố quy định trần thuật: người kể và chuỗi ngôn
từ. Từ người kể chuyện ta có ngôi trần thuật, lời trần thuật, điểm nhìn trần thuật”
[45;
tr.101]. Bên cạnh đó, Trần Đình Sử lại sử dụng tên gọi là người trần thuật trong Tự
Sự
Học như: “Người trần thuật trong văn bản văn học là một hiện tượng nghệ thuật phức
tạp nhất, mà ngôi kể chỉ là hình thức biểu hiện ước lệ. Người trần thuật vốn không có gì
là ngôi kể, mà chỉ là chủ thể kể. Sự khác biệt của “ngôi thứ nhất”, “ngôi thứ ba” chỉ là
khác nhau về mức độ bộc lộ và ẩn dấu của người trần thuật mà thôi” [44; tr.17]. Dù được
gọi với nhiều tên khác nhau nhưng nhìn chung nhân vật này vẫn là “chủ thể của lời kể
chuyện, người đứng ra kể trong tác phẩm văn học” [56; tr.153]. Trong luận văn, chúng
tôi thống nhất chọn dùng tên gọi người kể chuyện.
Tz.Todorov cho rằng: “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế
giới tưởng tượng…không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện. Người kể chuyện
không
nói như các nhân vật tham thoại khác mà kể chuyện. Như vậy, kết hợp đồng thời trong
mình cả nhân vật và người kể, nhân vật mà nhân danh nó cuốn sách được kể có một vị
thế
hoàn toàn đặc biệt…” [36; tr.116].
Bên cạnh đó Từ điển thuật ngữ văn học cũng đưa ra một định nghĩa về người
kể
chuyện như sau: “người trần thuật là một nhân vật hư cấu hoặc có thật, mà văn bản tự sự
là do hành vi ngôn ngữ của anh ta tạo thành (…) nó bị trừu tượng hóa đi, trở thành một
13nhân vật hoặc ẩn hoặc hiện trong tác phẩm tự sự” [14; tr.211-212]. Như vậy, người
kể
chuyện là yếu tố thuộc thế giới miêu tả. Đó là người do nhà văn sáng tạo ra để thay mình
thực hiện hành vi trần thuật. Vì vậy văn bản tự sự chính là sản phẩm ngôn từ do hoạt
động
ngôn ngữ nhân vật này xây dựng nên.
Lê Bá Hán thì cho rằng: “Người kể chuyện là hình tượng ước lệ về người trần thuật
trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ
thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình tượng của chính tác giả, dĩ nhiên không nên đồng
nhất với tác giả ngoài đời, có thể là một nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra, có
thể là một người biết câu chuyện nào đó. Một tác phẩm có thể có một hoặc nhiều người
kể chuyện” [14; tr.221]. Như vậy trong bất kì tác phẩm văn học nào cũng có người
kể
chuyện. Anh ta có mặt khắp mọi nơi trong tác phẩm, để quan sát nhân vật. Điểm nhìn
là nơi anh ta có thể đứng để quan sát nhân vật với nhiều góc độ khác nhau. Khi người
kể chuyện đứng bên ngoài để trần thuật, miêu tả sự vật thì đó là điểm nhìn hướng ngoại,
khi thâm nhập vào nội tâm nhân vật là điểm nhìn hướng nội, để sau đó rút ra ý nghĩa
nhân sinh cho câu chuyện. GS. Lê Ngọc Trà nhấn mạnh: “Người kể chuyện và tác
giả
không phải là một. Không nên đồng nhất người kể chuyện với tác giả, ngay cả khi tác giả
xưng “tôi” đứng ra trần thuật câu chuyện và hoàn toàn đứng ngoài sự vận động của các
sự kiện, các tình tiết” [56; tr.153]. Vì vậy chúng ta không nên đồng nhất người kể chuyện
và tác giả, chỉ đơn giản người kể chuyện chỉ là sản phẩm sáng tạo của nhà văn.
Mỗi định nghĩa khai thác khái niệm người kể chuyện ở một phương diện khác nhau.
Nhưng nhìn chung người kể chuyện là một người do tác giả sáng tạo nên, là người đại
diện phát ngôn cho tác giả trong tác phẩm tự sự. Trong phạm vi tác phẩm,
người kể
chuyện là chủ thể của lời kể, là người đứng ra kể chuyện và là nhân tố trung tâm chi phối
việc tổ chức, kết cấu cấu trúc của văn bản tự sự. Cho nên người kể chuyện giữ vai trò
trung giới giữa tác giả, tác phẩm và người đọc.
Như vậy người kể chuyện là hiện thân của một hình tượng đặc biệt, gắn liền
với
tư tưởng, thái độ của tác giả về hiện thực, về thế giới và con người. Tuy nhiên, tác giả
và hình tượng người kể chuyện là hai thực thể độc lập. Tác giả không bao giờ hiện diện
trong truyện kể như một người kể, người phát ngôn mà chỉ xuất hiện như một tác giả hàm
14ẩn, một cái tôi thứ hai của nhà văn. Tác giả xuất hiện chỉ như người ghi chép hay
nghe
trộm người kể. Người kể chuyện là kẻ được sáng tạo ra để mang lời kể. Và sản phẩm của
hành vi trần thuật đó là văn bản tự sự. Vì vậy một bên là chủ thể sáng tạo, một bên là
hình
tượng nghệ thuật. Người kể chuyện mang trong mình cả nhân vật và người kể. Tóm lại,
người kể chuyện có vai trò rất lớn trong việc tổ chức kết cấu tác phẩm. Chính
Timofiev
cũng khẳng định: “Hình tượng này có tầm quan trọng hết sức to lớn trong việc xây dựng
tác phẩm bởi các quan niệm, các biến cố xảy ra, cách đánh giá các nhân vật và các biến
cố đều xuất phát từ cá nhân người kể chuyện” [61; tr.44].
1.1.3. Các hình thức tự sự
“Hình thức văn học không bao giờ là hình thức bề ngoài dùng để trang trí cho một
nội dung có sẵn đã biết, mà là hình thức dùng để biểu hiện nội dung lần đầu tiên được
phát hiện ra nhờ hình thức ấy” [46; tr.180- 181]. Chính vì vậy, nghiên cứu hình thức tự
sự trong tác phẩm chính là nghiên cứu bản thân sự sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.
Trong
tác phẩm tự sự có ba hình thức như sau: tự sự theo điểm nhìn bên trên, tự sự theo
điểm
nhìn bên trong và tự sự theo điểm nhìn bên ngoài.
Tự sự theo điểm nhìn bên ngoài là lối kể chuyện khách quan, tái hiện trực tiếp thế
giới hình tượng trong tác phẩm thông qua việc miêu tả các hoạt động bên ngoài của
chúng
(lời nói, hành động, ngoại hình, quan hệ…). Người kể trần thuật, miêu tả sự vật từ phía
bên ngoài, kể những điều nhân vật không biết. Trong tác phẩm không xuất hiện những
chi
tiết miêu tả nội tâm của nhân vật, không có sự lượt thuật hay hồi cố về nhân vật. Người
kể chuyện tỏ ra biết ít hơn bất cứ nhân vật nào trong truyện, không can thiệp vào suy nghĩ
của nhân vật, không đưa ra những phán đoán, suy xét chủ quan. Sự khách quan
trong
lời kể của anh ta gần như là tuyệt đối. Anh ta mang vào câu chuyện của mình rất nhiều
chi tiết, tình huống, xây dựng một thế giới nhiều nhân vật hoạt động nhưng chỉ thể hiện
mình thông qua những lời chỉ dẫn, thông báo ngắn gọn, khách quan. Người kể chuyện
luôn giữ một khoảng cách nhất định đối với câu chuyện, luôn cố giữ lại cho truyện
kể
những bí mật, nhường lại phần kết luận cho độc giả. Với hình thức kể chuyện này thì câu
15chuyện được kể sẽ trở nên khách quan hơn. Muốn thực hiện được những điều đó,
người
kể chuyện phải tỏ ra là người có năng lực quan sát và thẩm định tinh tế đối với hiện thực.
Anh ta phải biết lựa chọn những chi tiết đắt giá, phải thể hiện được những sự kiện đặc sắc
có khả năng bộc lộ được tính cách, suy nghĩ của nhân vật mà không cần đến sự miêu tả
nội tâm hay những bình luận ngoại đề. Nói cách khác, anh ta phải biết cách để nhân vật
tự thể hiện mình ở mức độ cao nhất. Người đọc khi tìm hiểu các tác phẩm loại này, vì thế
cũng phải phát huy nhiều hơn khả năng cảm thụ văn chương, vốn tri thức hiểu biết của
mình để có thể khám phá chiều sâu bên trong đó.
Ngược lại, tự sự theo điểm nhìn bên trong là người kể xuyên qua cảm nhận của
nhân
vật, lấy thế giới nội tâm của nhân vật làm chỗ đứng để kể chuyện, người kể chuyện nhìn
các sự vật hiện tượng bằng con mắt của nhân vật. Dòng suy nghĩ, ý thức của nhân vật trở
thành nguồn mạch xuyên suốt dẫn dắt câu chuyện. Khi câu chuyện được kể từ điểm nhìn
cố định của một nhân vật trong tác phẩm thì đó chính là hình thức tự sự theo điểm nhìn
tập trung bên trong. Nhân vật mang điểm nhìn thường là nhân vật chính trong
truyện.
Người kể chuyện dựa vào cảm nhận, suy nghĩ, phạm vi ý thức của nhân vật về thế giới
xung quanh để kể chuyện. Khoảng cách giữa người kể chuyện với nhân vật này rất gần,
anh ta hiểu biết nhân vật như chính nhân vật hiểu biết về nó. Chính vì vậy mà điểm nhìn
và góc quan sát của người kể chuyện cũng hạn chế theo điểm nhìn, vị trí của nhân vật
trong câu chuyện, ít có sự di động. Kể chuyện theo hình thức tự sự này, người kể chuyện
trở thành một chủ thể đồng thời mang hai ý thức, ý thức của chính mình và ý thức của
nhân vật. Câu chuyện được khai thác chủ yếu theo chiều sâu tâm tưởng, do đó sẽ mang
lại những cảm nhận tâm lý sâu sắc cho người đọc. Với hình thức kể chuyện này thì câu
chuyện được kể mang tính chủ quan.
Tự sự theo điểm nhìn bên trên là người kể chuyện biết hết, nghe hết và thấy
hết.
Nếu như trong hình thức truyện kể theo điểm nhìn bên ngoài, người kể chuyện đứng ở vị
trí hoàn toàn khách quan và cách biệt với nhân vật thì ở đây, người kể chuyện trở thành
một phần của thế giới nhân vật. Anh ta có thể trần thuật bằng điểm nhìn của mình, có thể
nương theo nhân vật để kể chuyện hoặc thậm chí hòa nhập vào trong nhận thức của nhân
vật. Vai trò của người kể chuyện trở nên bình đẳng với nhân vật. Còn trong truyện kể
theo
16điểm nhìn tập trung bên trong, câu chuyện được tổ chức xoay quanh điểm nhìn của
một
nhân vật. Mức độ bao quát hiện thực của tác phẩm cũng chỉ được thể hiện hạn chế thông
qua điểm nhìn, cách suy nghĩ của nhân vật ấy mà thôi. Điều gây ấn tượng hơn cả đối với
người đọc là thế giới nội tâm, những bi kịch cá nhân của nhân vật chứ không không phải
là một hiện thực rộng lớn. Nhưng đối với truyện kể theo điểm nhìn bên trên, tính bao quát
và đa dạng của hiện thực đời sống được gia tăng đáng kể, nhờ người kể là người biết hết
tất cả sự việc đang diễn ra. Do đó người đọc có điều kiện nhận thức bản chất đời sống và
nhân sinh một cách toàn diện hơn. Tuy nhiên hình thức kể chuyện này có hạn chế vì nó
tạo ra tâm lý nhàm chán cho độc giả, không cho người đọc sự hứng thú khám phá, một
thái độ biết hoài nghi, phủ nhận. Cho nên dạng người kể chuyện này hiện nay không
được
nhiều nhà văn sử dụng.
1.2. Vài nét về tác giả Phạm Duy Tốn
1.2.1 Cuộc đời
Phạm Duy Tốn sinh năm 1883 và mất vào ngày 25 tháng 2 năm 1924 tại Hà Nội.
Nguyên quán của ông là làng Phượng Vũ, xã Phượng Dực huyện Thường Tín, tỉnh Hà
Đông (nay là huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội). Cha Phạm Duy Tốn là ông Phạm
Duy Đạt và mẹ là bà Nguyễn Thị Huệ. Vợ Phạm Duy Tốn, bà Nguyễn Thị Hòa, theo lời
Phạm Duy, là con gái một ông đồ ở phố Hàng Gai. Chị của bà Nguyễn Thị Hòa lấy ông
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, một nhà nghiên cứu văn hóa dân gian nổi tiếng. Bà Nguyễn
Thị Hòa và ông Phạm Duy Tốn có với nhau năm người con, ba trai, hai gái:
• Phạm Duy Khiêm (1908 - 1974), nhà giáo, nhà văn, chính trị gia, từng giữ chức vụ
đại sứ Việt Nam cộng hòa tại Pháp, được trao giải Văn chương Đông Dương (Prix
Littéraire D'Indochine) lần đầu tiên và giải thưởng Louis Barthou của Viện hàn
lâm Pháp
• Phạm Duy Nhượng (1919 - 1967), nhà giáo, nhạc sĩ
• Phạm Thị Thuận
17• Phạm Thị Chinh
• Phạm Duy Cẩn (1921 -), tức nhạc sĩ nổi tiếng Phạm Duy
Trong bài Nói chuyện với Phạm Duy về Phạm Duy Tốn (báo Văn số 169), nhà văn,
nhà báo Vũ Bằng dẫn lời Phạm Duy cho biết ông Phạm Duy Đạt là một ông chánh tổng,
còn bà Nguyễn Thị Huệ là “một người ả đầu cũ kỹ nổi tiếng hát hay một thời”. Sau khi
lấy nhau, bà Huệ bỏ nghề hát về bán dầu. Cũng theo lời Phạm Duy, nhờ nghề buôn bán
của gia đình ông nội nên “chắc bố tôi cũng được lớn lên trong một hoàn cảnh dễ chịu,
không bị thôi thúc vì đồng tiền” [10]. Thuở nhỏ Phạm Duy Tốn học chữ Nho. Sau ông
cùng với các ông Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim học trường Thông
ngôn Hà Nội ở Yên Phụ và tốt nghiệp năm 1901. Ông vào làm việc tại tòa Thống Sứ Bắc
Kì, rồi đổi sang làm ở Ngân hàng Đông Dương, từng là nghị viện tư vấn Bắc Kì. Lúc ấy
ông nổi tiếng là một thông ngôn có bản sắc riêng. Tuy nhiên, ông nhanh chóng bỏ công
việc đúng theo sở học của mình mà không rõ lý do. Mặc dù có tài liệu nói ông bỏ việc vì
chống đối người Pháp, nhưng theo lời Phạm Duy, có thể lý do là ở máu phiêu lưu và sự
hiếu động của ông. Phạm Duy viết trong bài Viết về bố:
“Theo lời mẹ tôi nói trong lúc răn dạy tôi khi còn bé thì bố tôi là một người rất đam mê,
nhưng chóng chán. Làm đủ mọi việc nhưng không bao giờ làm hết một việc. Tính tình đó
đã cắt nghĩa được sự hành nghề lung tung của bố tôi trong một quãng đời ngắn ngủi”
[10].
Sau khi bỏ việc thông ngôn, Phạm Duy Tốn đi dạy học ở trường Trí Tri, phố Hàng
Quạt, Hà Nội. Là một trong số những người Việt Nam đầu tiên húi tóc ngắn và
mặc
trang phục châu Âu, Phạm Duy Tốn cùng Nguyễn Văn Vĩnh là hai trong số những người
sáng lập phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội năm 1907. Tiểu luận Phạm Duy
Tốn, Journalist, Short Story Writer, Collector of Humorous Stories (Phạm Duy Tốn, nhà
báo, tác giả truyện ngắn, nhà sưu tập truyện cười) của giáo sư John C. Schafer, đại học
Huboldt State cho biết thêm Phạm Duy Tốn cùng Nguyễn Văn Vĩnh là hai người đã đệ
đơn lên chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương xin thành lập trường Đông Kinh
Nghĩa Thục. Tuy nhiên, trường này bị nhà chức trách đóng cửa vào năm 1908 vì là nơi
18tập hợp các trí thức yêu nước, có khuynh hướng độc lập dân tộc và chống thực dân
Pháp.
Từ khi thôi dạy học, ông làm đủ các nghề khác nhau. Đầu tiên là mở một tiệm cao
lâu ở phố Cầu Gỗ, Hà Nội. Theo Phạm Duy, nghề mở tiệm ăn lúc đó nằm trong tay Hoa
kiều, tiệm cao lâu của ông Phạm Duy Tốn là tiệm đầu tiên của người Việt Nam.
Tuy
nhiên, tiệm không cạnh tranh được và phải đóng cửa. Ông lại vay tiền để mở một tiệm
vàng tên là Nam Bảo. Chính vì việc vay mượn này mà sau khi Phạm Duy Tốn mất, vợ
ông, bà Nguyễn Thị Hòa, đã phải làm lụng suốt đời để trả món nợ cũ của chồng. Tiệm
vàng thất bại, Phạm Duy Tốn lại cùng một số bạn bè đi tìm mỏ ở Quảng Yên, nhưng theo
lời Phạm Duy, “việc tìm mỏ chắc không đem lại cho bố tôi những thích thú về tiền
bạc
hay tinh thần” [10].
Sau những lần thất bại liên tục trên đường tìm sinh kế, Phạm Duy Tốn được
một
người bạn Pháp giúp đỡ bằng cách giới thiệu vào làm việc cho chi nhánh của Ngân hàng
Đông Dương (Banque d'Indochine) ở Mông Tự, Trung Quốc. Ông ở Trung Quốc không
lâu, lại bỏ việc trở về và quyết định theo đuổi nghề mà xưa nay ông vẫn cho là nghề phụ:
viết văn, làm báo.
Trong tiểu luận của Schafer, ông cho rằng khi Phạm Duy Tốn tìm đến nghề báo và
bắt đầu viết lách cũng là lúc “ tìm thấy tiếng gọi của ông”, tìm thấy sự nghiệp lý tưởng
của mình. Và Phạm Duy Tốn đã theo đuổi sự nghiệp này đến cuối đời. Schafer dẫn một
bài trong báo Văn năm 1971 có tựa là Tưởng niệm Phạm Duy Tốn cho biết Phạm Duy
Tốn đã viết cho tất cả 11 tờ báo khác nhau. Hầu hết các tờ báo đó, như Đông Dương tạp
chí hay Nam phong có trụ sở tại Hà Nội, nhưng ông cũng có vào Nam Kì để viết giúp
các tờ báo của miền Nam như Lục tỉnh tân văn hay Nông cổ mín đàm. Giáo sư Schafer
viết khó xác định chính xác Phạm Duy Tốn đóng vai trò cụ thể gì trong nhiều tờ báo khác
nhau, nhưng những tài liệu từ báo Văn cho thấy Phạm Duy Tốn đã làm biên tập và trợ lý
biên tập cho một số tờ báo, ông cũng viết xã luận và truyện ngắn. Ông còn làm thư ký tòa
soạn cho tờ Học báo trước khi nghỉ hưu vì sức khỏe.
Phạm Duy Tốn từng tham gia hoạt động trong lĩnh vực chính trị. Năm 1919,
ông
được bầu vào Hội đồng dân biểu thành phố Hà Nội. Từ năm 1920 đến 1923, ông là nghị
19viên Viện Dân biểu Bắc kì, đại biểu của khu vực ba Hà Nội. Năm 1922, ông cùng một
số
trí thức và quan chức của chính quyền thuộc địa như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh,
Vũ Huy Quang tham dự Hội chợ triển lãm quốc tế (tức Đấu xảo) ở Marseilles, Pháp.
Thời
gian này sức khỏe ông đã kém đi nhiều và theo Phạm Duy, chuyến đi khiến ông càng yếu
hơn. Phạm Duy Tốn bắt đầu hút thuốc phiện khi biết ông mắc bệnh lao và sẽ không còn
sống được bao lâu. Lúc những bạn bè ở tờ Thực nghiệp dân báo đến thăm ông bên
giường
bệnh, Phạm Duy Tốn nói: “Người ta chỉ chết một lần. Tôi đã biết mình sẽ chết vài năm
trước. Bệnh này không chữa được. Với tôi chết thì chẳng đáng hy vọng gì, nhưng cũng
chẳng đáng sợ gì”.
Theo lời Phạm Duy thì bố ông “người gầy gầy, cao, mặt hơi rỗ, tính tình vui
vẻ,
hay nói đùa, hút thuốc lá nặng, không biết nhạc, không nghe nhạc...”, “một người rất
đam mê, nhưng chóng chán. Làm đủ mọi việc nhưng không bao giờ làm hết một việc”.
Việc thay đổi nghề nghiệp liên tục cũng phản ánh tính tình của Phạm Duy Tốn. Công
việc
mở hiệu cao lâu, hiệu cao lâu đầu tiên của người Việt Nam, theo lời Phạm Duy nghe một
người anh họ kể lại, là do tính “háo thắng”, “nóng nảy” của ông. Về quan hệ xã hội của
ông, Phạm Duy viết trong bài Viết về bố: “Qua những bài báo, những truyện ngắn, nhất
là qua tập tuyển Tiếu lâm quảng ký (bút hiệu Thọ An), tôi thấy bố tôi quả là một người có
đầu óc phê bình xã hội, một người sống trong một cái xã hội mà mình không chấp nhận
hoặc không nhập thế được. Ðời sống làm ăn của cụ đã chứng minh điều đó: cụ không thể
nào thành công trong một cái xã hội mà cụ thực tâm khước từ. Cuối cùng cũng chỉ biết
dùng cây viết để nói vào cái xã hội mà mình đang sống”.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Hồi ký của Phạm Duy cho biết, năm 1913, giai đoạn Phạm Duy Tốn còn làm việc
cho Ngân hàng Đông Dương ở Mông Tự, Trung Quốc, ông có viết bài gửi về cho tờ
Đông
Dương tạp chí. Có thể ước đoán Phạm Duy Tốn bắt đầu viết báo từ trước đó không lâu.
Các tài liệu khác nhau cho thấy Phạm Duy Tốn từng viết cho các tờ Đông Dương tạp chí
(bút hiệu Ưu Thời Mẫn), Trung Bắc tân văn, Công thị báo, Nam phong, Lục tỉnh tân văn,
Nông cổ mín đàm (bút hiệu Đông Phương Sóc), Thực nghiệp dân báo, Đăng cổ tùng báo,
20Đông Pháp thời báo...
Trong tiểu luận Phạm Duy Tốn, Journalist, Short Story Writer, Collector
of
Humorous Stories, Schafer nói rằng việc ông tìm hiểu các thành tựu làm báo của
Phạm
Duy Tốn là một việc khó khăn, vì khó tập hợp được hết các tài liệu tất cả những tờ
báo
mà ông đã viết. May mắn là tại đại học Cornell còn lưu giữ một số bản tờ tuần báo Lục
tỉnh tân văn mà Phạm Duy Tốn làm biên tập và viết bài vào giai đoạn 1915. Báo Lục tỉnh
tân văn do một người Pháp là ông Francoise Henri Schneider làm chủ nhiệm và
nhận
kinh phí từ chính quyền thuộc địa Đông Dương. Các bài báo Phạm Duy Tốn viết cho tờ
này, theo Schafer hầu hết đều thuộc loại xã luận với nhiều đề tài khác nhau: quan hệ Pháp
- Việt, giải thích tại sao Hoa kiều lại thành công hơn người Việt Nam trong việc
kinh
doanh, chỉ trích những người Ấn Độ cho vay nặng lãi ở Nam Kì...
Bài báo thành công nhất của ông có lẽ là bài Hoạn nạn tương cứu viết về trận lũ lụt
ở Bắc Kì vào các tháng 7 và 8 năm 1915 làm 60.000 người thiệt mạng vì chết đuối hoặc
bệnh dịch sau đó. Bài báo mô tả hậu quả của trận lũ và gây xúc động mạnh trong dân
chúng ở Nam Kì dẫn đến việc thành lập một hội từ thiện gây quỹ gửi cho người dân gặp
nạn ở miền Bắc.
Ngày 4 tháng 11 năm 1915, trong bài xã luận Văn minh giả đăng trên Lục tỉnh tân
văn, Phạm Duy Tốn chỉ trích những kẻ học làm sang theo lối Tây nhưng nghèo nàn trong
văn hóa. Bài báo khiến nhiều người miền Nam nổi giận vì coi đó là lời ám chỉ họ và một
cuộc bút chiến nổ ra giữa Phạm Duy Tốn ở Lục tỉnh tân văn với biên tập của tờ Nông cổ
mín đàm Nguyễn Kim Đính và các cây bút Lê Hoàng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt. Cùng với
tâm lý vùng miền, cuộc bút chiến do Phạm Duy Tốn đi đầu nhanh chóng trở nên gay gắt
và lan rộng. Một số học giả miền Nam buộc tội trí thức Bắc Kì như Đặng Thai Mai,
Phạm
Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Duy Tốn là tay sai của người Pháp và báo chí của họ
là công cụ tuyên truyền để chống lại quan điểm yêu nước và cách mạng. Tuy những lời
cáo buộc đó không phải là hoàn toàn vô lý, nhưng trong thời kì sau cuộc Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất, nhiều học giả như Phạm Duy Tốn thật sự tin tưởng ở việc duy trì
mối
quan hệ tốt đẹp với mẫu quốc Pháp để học hỏi và khai phá văn minh.
21 Giải thích cho quan điểm làm báo của mình, Phạm Duy Tốn viết bài Trách nhiệm
người làm báo đăng trên Lục tỉnh tân văn trong đó ông so sánh nước Việt Nam như một
con thuyền và người làm báo là những người chèo thuyền có trách nhiệm đưa nó đến bến
bờ văn minh. Bài báo đề cập rộng đến các vấn đề vai trò và trách nhiệm của báo chí trong
xã hội, cách lựa chọn và đặt đề tài của nhà báo... Sau này, tác giả Hoàng Sơn Công nhận
định: “Trách nhiệm người làm báo là một trong những bài viết đầu tiên ở Việt Nam bàn
về vai trò, trách nhiệm và đạo đức của người viết báo, được thể hiện dưới dạng nghị luận
với văn phong rất đặc trưng của Phạm Duy Tốn: khôi hài nhưng nghiêm túc, trang trọng
mà thiết tha”.
Trong sự nghiệp sáng tác văn chương của mình Phạm Duy Tốn để lại những
tác
phẩm chính như: Bực mình (truyện ngắn, 1914), Sống chết mặc bay (truyện ngắn, 918),
Con người sở khanh (truyện ngắn, 1919), Nước đời lắm nỗi (truyện ngắn, 1919). Ngoài ra
ông còn biên soạn Tiếu lâm quảng ký gồm ba tập với bút hiệu Thọ An - quyển sách được
tái bản nhiều lần trong những năm 20 của thế kỉ XX.
1.3. Vài nét về truyện ngắn Phạm Duy Tốn
1.3.1. Nội dung nổi bật của truyện ngắn Phạm Duy Tốn
Nhận định về tác phẩm của Phạm Duy Tốn, Lê Chí Dũng đã viết: “Phạm Duy
Tốn là một người “Tây học” ông chịu ảnh hưởng ít nhiều của xu hướng đạo đức, nhưng
truyện ngắn của ông nghiên hẳn về phản ánh xã hội hơn là “treo gương” giáo huấn. Ông
không ca ngợi, khẳng định một nhân vật nào trong tác phẩm của mình, ông tố cáo một
số cảnh bất nhân độc ác dưới chế độ thuộc địa nữa phong kiến, ở thành thị, chủ nghĩa
cá nhân tư sản và đồng tiền phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ra lối sống bừa bãi, lường
đảo, phá phách, ở nông thôn, cuộc sống của người dân rất khốn khổ, bấp bênh vì lụt lội,
đói kém vì bọn quan lại tàn nhẫn, coi khinh tính mạng của họ...” [53; tr.816]. Tiêu biểu
nhất cho tinh thần tố cáo xã hội là truyện ngắn Sống chết mặc bay (1918).
Phạm Duy Tốn có con mắt tinh đời và dũng khí của người làm báo nên ông đã
nhanh chóng nhìn ra các vấn đề xã hội cần quan tâm, để phanh phui nó, mổ xẻ nó, điển
22hình hóa để nó trở thành đề tài cho truyện ngắn của ông. Vì thế truyện ngắn Phạm
Duy
Tốn có sức hấp dẫn mới, hấp dẫn ngay chính cái xã hội đang tù túng, ngột ngạt vì sự phản
động về chính trị, nghèo đói về vật chất, cũ mòn về văn chương lúc bấy giờ.
Bực mình là truyện đầu tiên viết về đề tài này. Một ông già nghèo khổ con trai chết
trong một nạn lụt, để lại cho ông một đàn cháu thơ mọn. Ông lão ngoài sáu mươi phải
gánh vác tất cả những khó khăn trong gia đình. Ông phải lên Hà Nội kéo xe kiếm tiền.
Có lần ông đuối sức vì phải kéo cái xe “chồng chất hai bồ nghe chừng đã nặng, lại còn
một mụ vắt vẻo ngự ở trong xe. Người kéo đã chẳng nổi, mà mụ thì mỉa mai, nặng lời xỉ
vả” [59; tr.13]. Tình cảnh ấy thật đáng thương tâm, thật đáng bực mình. Truyện ngắn này
được viết 1914 và đăng lần đầu trên Đông Dương tạp chí số 55 dưới cái tên Một chuyện
thương tâm. Nhưng Bực mình chưa được dư luận chú ý, chưa làm tác giả nổi tiếng. Bốn
năm sau, năm 1918, Phạm Duy Tốn cho in truyện ngắn thứ hai Sống chết mặc bay in trên
tạp chí Nam Phong số 18. Giữa lúc đang bế tắc, Sống chết mặc bay đã được đón nhận
như
một luồng gió mới đầy sinh khí. Đó là tác dụng của lối văn “tả chân” như cách gọi lúc
bấy giờ. Chính việc tác giả lấy đề tài từ cuộc sống hiện thực, với cách viết mới, được kể
ra bằng lời văn tự nhiên, rõ ràng, cùng với kỉ thuật thể hiện chủ đề tinh tế đã làm cho tác
phẩm mang một giá trị đặc biệt: “Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì
khắp
mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa

ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng
bơ vơ, tình cảm thảm sầu, kể sao cho xiết” [59; tr.43]. Cảnh được đưa vào miêu tả đối
chọi, làm tương phản hình ảnh những người nông dân lầm than, khốn khổ với con đê sắp
vỡ và những viên quan hách dịch, ung dung hưởng lạc. Động tác linh hoạt khi dồn dập,
khi khoan thai. Đối thoại nhanh, gọn, sắc. Với Sống chết mặc bay Phạm Duy Tốn đã mở
ra một lối văn mới cho làng tiểu thuyết.
Bên cạnh Sống chết mặc bay Phạm Duy Tốn còn hai truyện nữa là Con người sở
khanh và Nước đời lắm nỗi. Tuy hai truyện này không nổi tiếng như Sống chết mặc bay
nhưng nó cũng góp phần bổ sung cho giá trị tố cáo xã hội của cây bút truyện ngắn nước
ta đầu thế kỉ. Phạm Duy Tốn là người Tây học cho nên chịu ảnh hưởng ít nhiều đến xu
hướng viết văn. Nhìn chung truyện ngắn của ông phản ánh cuộc sống theo hướng
hiện
23thực chủ nghĩa, sáng tác của ông tố cáo một số cảnh bất công độc ác dưới chế độ thực
dân
nữa phong kiến: ở thành thị là đồng tiền và lối sống cá nhân tư sản phá hoại hạnh phúc
gia
đình gây ra lối sống bừa bãi, lừa đảo, còn ở nông thôn là cuộc sống của người nông dân
khốn khổ, bấp bênh vì lụt lội đói kém vì nạn tham quan coi rẻ mạng người. Tiêu biểu cho
tinh thần tố cáo xã hội là bốn truyện ngắn của ông. Phạm Duy Tốn là người có công đầu
phát triển thể loại truyện ngắn và nền văn xuôi hiện đại nước ta.
1.3.2. Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Phạm Duy Tốn
Phạm Duy Tốn là nhà văn được xếp vào nhóm “Các nhà văn đi tiên phong” và
được đánh giá cao: “Ông có lối văn linh hoạt hơn hẳn Nguyễn Bá Học, đem so những nhà
văn bấy giờ, không kém xa mấy tí. Và truyện ngắn của ông đăng trong Nam phong tạp
chí
như Sống chết mặc bay (1918), Con người sở khanh (1919) mà ngày nay nhiều người vẫn
còn nhớ đến, đã được coi trong một thời, là những truyện tả chân thật khéo” [12].
Sống chết mặc bay là truyện ngắn đầu tay và nổi tiếng nhất của Phạm Duy
Tốn,
cũng là truyện ngắn đầu tiên của nền văn học mới Việt Nam, in trên báo Nam
Phong
tháng 12 năm 1918. Tác phẩm được giới thiệu một cách ấn tượng với người đọc: Dưới
tiêu đề chữ to MỘT LỐI VĂN MỚI và lời giới thiệu đặc biệt của Phạm Quỳnh,
câu
chuyện trải dài suốt ba cột báo. Sống chết mặc bay là tác phẩm thể hiện rõ nét về sự đổi
mới trong sáng tác của Phạm Duy Tốn vì vậy tìm hểu về tác phẩm sẽ giúp ta hiểu rõ hơn
đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn của tác giả.
Sự cách tân của tác phẩm Sống chết mặc bay không chỉ ở nội dung và các chi tiết
miêu tả rất đắt, mà còn ở hình thức thể hiện mới mẻ. Thay vì bắt đầu bằng lời giới thiệu
chính thức như các tác phẩm văn xuôi cổ điển, Sống chết mặc bay mở đầu với đoạn miêu
tả trực tiếp những gì đang diễn ra, như một lát cắt vào giữa câu chuyện, điển hình cho
“một lối văn mới”.
Trong tác phẩm của mình, Phạm Duy Tốn đặc biệt thành công trong việc miêu tả
hai hình ảnh tương phản đối lập gay gắt: những người nông dân vất vả, hoảng hốt và
hoàn
toàn tuyệt vọng trước thiên tai; còn viên quan sở tại an nhàn, hưởng thụ, mặc kệ số phận
dân đen: “Than ôi! Cứ như cách quan ngồi ung dung như vậy, mà hai bên tả hữu, nha
lại nghiêm trang, lính hầu rầm rập thì đố ai bảo rằng: gần đó có sự nguy hiểm to, sắp
24sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thảm, trừ những kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ
đến
mà chẳng động tâm, thương xót đồng bào huyết mạch...” [59; tr.41]. Một bên là người
dân vật lộn, chống chọi với mưa gió hết sức căng thẳng, vất vả. Bên kia là viên quan đi
hộ đê ngồi trong chỗ an toàn, nhàn nhã, mải mê bài bạc, không cho phép ai quấy rầy ván
bài của mình, coi việc đánh bài là trên hết. Những người dân hộ đê họ làm việc liên tục từ
chiều đến gần một giờ đêm. Họ bì bõm dưới bùn lầy, ướt như chuột lột, ai ai cũng mệt lử
cả rồi; trong khi mưa tầm tã trút xuống, nước sông cuồn cuộn bốc lên. Tác giả nhận xét:
“Tình cảnh trông thật là thảm”. Tác giả dựng lên hai cảnh tương phản nhằm mục đích
so sánh, làm nổi bật sự đối lập. Người có trách nhiệm thì vô trách nhiệm, chỉ ham mê bài
bạc. Những người dân thì phải dầm mưa gội gió, nhọc nhằn, chống chọi với thiên nhiên
một cách tuyệt vọng. Cuối cùng, sự vô trách nhiệm của viên quan đã dẫn đến cảnh đê vỡ.
Quan thì sung sướng vì nước bài cao, dân thì khổ vì lũ lụt.
Bên cạnh đó nghệ thuật tăng cấp cũng góp phần làm nên thành công cho tác phẩm
của Phạm Duy Tốn. Điều đó thể hiện rất rõ trong nhiều chi tiết. Thứ nhất, đó là chi tiết
nhà văn miêu tả tình cảnh nguy ngập của khúc đê. Mưa mỗi lúc một tầm tã. Nước
sông
càng dâng cao. Dân chúng thì đuối sức, mệt lử cả rồi. Thứ hai, đó là chi tiết nhà văn miêu
tả thái độ vô trách nhiệm, của viên quan. Viên quan hộ đê không cùng dân chống đỡ mà
ngồi trong đình vững chãi, an toàn. Bao kẻ phải hầu hạ quan. Không phải là vì công việc
mà chỉ vì quan còn mải chơi bài. Quan chơi bài nhàn nhã, ung dung. Quan quát to, đòi bỏ
tù khi người báo đê vỡ. Quan sung sướng vì ván bài ù. Mức độ vô trách nhiệm và cáu gắt
vô lý của quan càng lúc càng thể hiện rõ nét.
Trong số những tác phẩm của Phạm Duy Tốn, một trong số ít nhà văn có được
thành tựu đầu tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại Việt Nam, thì Sống chết mặc bay trở
thành tác phẩm thành công nhất, đồng thời nó cũng là tác phẩm được ra đời đầu tiên của
truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Sống chết mặc bay là một nhan đề hay, không những thế
nó còn là một nhan đề mới mẻ, độc đáo. Tại sao lại là Sống chết mặc bay mà không là bất
cứ một nhan đề nào khác? Nhan đề bắt nguồn từ một câu tục ngữ nổi tiếng và rất quen
thuộc của dân gian ta “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Câu tục ngữ như một lời phê
phán, lên án trước thái độ của những kẻ chỉ biết vun vén, lo cho lợi riêng mình trong khi
25đó lại thản nhiên, lãnh đạm, thờ ơ thậm chí vô lương tâm trước tính mạng của những
con
người mà mình phải có trách nhiệm. Nhưng tại sao tác giả lại chỉ chọn phần đầu của câu
tục ngữ mà không chọn cả câu? Có lẽ một phần là bởi vì nó gây lên sự hấp dẫn, kích
thích
người đọc và gây ấn tượng. Cũng một phần là bởi vì chỉ có phần đầu mới phù hợp với nội
dung, cốt truyện. Tuy câu tục ngữ có ý nghĩa hợp với nội dung truyện nhưng không phải
hoàn toàn đúng, hoàn toàn thích hợp, nhất là phần sau “tiền thầy bỏ túi”. Phạm Duy Tốn
không có ý định xây dựng hình ảnh một viên quan tham. Trong truyện, nhân vật trung
tâm là lão quan phụ mẫu vô trách nhiệm, thờ ơ trước sinh mạng hàng trăm, hàng
ngàn
người dân lành vô tội, lão chỉ quan tâm đến sự hưởng thụ của bản thân mình mà thôi.
Sự lựa chọn, cách đặt nhan đề của nhà văn Phạm Duy Tốn rất độc đáo và chính xác,
nó tạo nên sự thú vị, hấp dẫn kích thích trí tò mò người đọc, người nghe. Nó còn nâng
cao
thêm giá trị tác phẩm, không những thế, từ nhan đề ấy người đọc có thể khái quát
được
những đặc điểm nổi bật tiêu biểu của nhân vật trung tâm – tên quan phụ mẫu mà không
làm mất đi tính lôi cuốn của nhan đề. Tác phẩm Sống chết mặc bay đã được đánh giá rất
cao về nghệ thuật cũng như về nội dung. Bằng cách xây dựng nhân vật qua nhiều hình
thức ngôn ngữ như tả, kể và đặc biệt là đối thoại, tác giả đã đưa ta đến với cuộc sống vinh
hoa phú quý của bọn cầm quyền độc ác mà cụ thể là cuộc sống của tên quan phụ mẫu có
trách nhiệm hộ đê trong truyện: “một mình quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay
trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi.
Một tên lính lệ đứng bên cầm quạt lông chốc chốc sẽ phẩy. Tên nữa đứng khoanh tay trực
hầu điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn” [59; tr.39] tráp đồi
mồi, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng và những vật dụng quý phái sang
trọng
khác. Cuộc sống ấy hoàn toàn trái ngược với cuộc sống lầm than, cơ cực của nhân dân.
Sung sướng vậy thì việc gì phải quan tâm ai! Sống chết mặc bay cần gì lo nghĩ, cần gì
bận
tâm cứ hưởng lạc là được rồi. Nhan đề truyện ngắn đã tích cực góp phần khắc họa chủ đề
và làm nổi bật tính cách nhân vật.
Bùi Xuân Bào cho rằng Phạm Duy Tốn đã nhái lại truyện Le partie de billard của
Alphonse Daudet xuất bản năm 1873. Tác phẩm này tả lại cảnh viên tướng chỉ huy chơi
bi-a trong khi binh lính dầm mưa dãi gió ngoài mặt trận. Tuy nhiên, giáo sư
Schafer
26khẳng định nhiều khả năng Sống chết mặc bay được lấy cảm hứng từ chính những
trải
nghiệm của Phạm Duy Tốn với trận lũ lịch sử ở Bắc Kì mà ông từng miêu tả trong bài
báo nổi tiếng Hoạn nạn tương cứu, chứ không phải là sự sao chép từ văn chương Pháp.
Trong truyện Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn đã vận dụng khá thành công nghệ
thuật của truyện ngắn hiện đại, kết hợp kể và tả, ví như mở đầu tác phẩm: "Gần một giờ
đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá, khúc đê làng, thuộc phủ, xem chừng
núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất” [59; tr.38]. Đặc biệt,
truyện được đẩy lên nhờ đối thoại và tình huống đối nghịch rất điển hình, vạch rõ mâu
thuẫn giữa kẻ xấu (quan lại) và người tốt (nông dân). Chính nghệ thuật miêu tả chân thực
của nhà văn đã làm cho người đọc xúc động. Lê Chí Dũng cũng có nhận xét về Phạm
Duy
Tốn như sau: “Trong “Sống chết mặc bay” (đăng trong tạp chí Nam Phong số 18 tháng
12 năm 1918)... Phạm Duy Tốn không phản ánh những vấn đề lớn của dân tộc và thời
đại..., nhưng truyện ngắn của ông phác vẽ cho ta thấy hiện thực xấu xa, đen tối của xã hội
thuộc địa nữa phong kiến...”.
Có thể nói nhà văn Phạm Duy Tốn là một trong số rất ít người đi tiên phong
trong
bước chuyển mình của thể loại truyện ngắn ở nước ta trong những năm 30 của thế kỉ XX
để đi tới hiện đại và cũng nhờ đó ông nổi tiếng trong văn giới nước ta. Nhận xét về truyện
Sống chết mặc bay Hoài Anh có viết: “Phạm Duy Tốn viết Sống chết mặc bay xuất phát
từ sự căm ghét bọn quan lại tham nhũng, vô trách nhiệm, vô lương tâm lại có sự am hiểu
và vốn sống phong phú về bọn này nên mới “tả chân” được như thế...” [53; tr.818]. Còn
về lối văn của ông thì: “Ngôn ngữ đã có sự phối hợp giữa ngôn ngữ tả cảnh, ngôn ngữ tả
việc, ngôn ngữ của các nhân vật, loại người nào ra loại người ấy, còn có cả ngôn ngữ tự
bạch trữ tình của bản thân người viết trong khi trước đó hầu như chỉ có một thứ ngôn ngữ
kể chuyện của tác giả ngay cả lời nhân vật nói cũng mang tính chất giả định ước lệ . Có
người trách sao Phạm Duy Tốn không viết theo lối buông lửng, kể sự việc và nhân vật tự
nó nói lên mà đôi khi còn chen vào giải thích, nêu ra bài học luân lý của câu chuyện...”
[53; tr.818]. Về vấn đề này Hoài Anh cũng đã giả thích “chúng ta cũng cần phải thông
cảm, với trình độ dân trí lúc bấy giờ, viết cho người đọc tự phán xét lấy có khi nguy
hiểm,
vì họ có thể hiểu lầm ý tác giả. Huống chi truyền thống “văn dĩ tải đạo” đã thắm sâu vào
27lòng mỗi người Việt Nam, viết nhằm mục đích sữa chữa phong hóa, thì việc Phạm
Duy
Tốn hi sinh một chút nghệ thuật để đạt mục đích răn đời, hoàn toàn có thể hiểu được.
Ngoài ra cũng phải xem xét thị hiếu thẩm mỹ người đọc đương thời vẫn còn thích những
truyện mang tính chất đạo lý...” [53; tr.818].
Về nghệ thuật viết truyện của Phạm Duy Tốn Vũ Ngọc Phan cũng có vài lời
đóng
góp như sau: “Truyện ngắn của Phạm Duy Tốn chỉ mới là những truyện thoát ly
hẳn
được cái khuôn sáo của truyện Tàu, chưa thể coi là những đoản thiên tiểu thuyết tả chân
được.
Sau ông hơn mười năm, tiểu thuyết tả chân mới bắt đầu nẩy nở ở nước ta; những truyện
ngắn của ông tuy có cao hơn những truyện ngắn của Nguyễn Bá Học một bậc, nhưng
cũng chỉ là hạng đoản thiên tiểu thuyết tâm lý, cách kết cấu còn lắm điều khuyết
điểm
làm cho nhiều khi đọc đoạn trên người ta đã đoán được đoạn dưới. Nhưng người ta cũng
không thể quên ông là người đã viết truyện ngắn theo lối Âu Tây trước nhất. Như
vậy,
người ta cũng có thể nói : Phạm Duy Tốn là một nhà tiểu thuyết đi vào đường mới trước
nhất và những truyện ngắn của ông là thứ văn chương đã đánh dấu một quãng đường văn
học của nước nhà.” [13; tr.135-138]. Với đặc điểm này Thanh Lãng đã viết: “Phạm Duy
Tốn nghệ thuật hơn Nguyễn Bá Học ở chỗ ông giấu giếm chủ trương luân lý một cách
kín
đáo: thái độ của Nguyễn Bá Học là thái độ trịnh trọng của một nhà giáo, ngồi từ sập cao
để mà phán dạy, còn tác phong của Phạm Duy Tốn là của một nhà nghệ sĩ lấy cái cười